Chương 1.
Thiền Là Gì?
I. DẪN NHẬP
Làm thế nào định nghĩa được
Thiền?
Thiền không phải là một quang
cảnh để mô tả, không phải một phương pháp để trình bày; cũng không là một biểu
tượng triết học để hình dung hoặc một nghi thức tôn giáo để tu tập. Ta không
thể dùng ý thức để hiểu, càng không thể dùng ngôn từ để diễn đạt lý Thiền. Cho
nên, càng suy nghĩ, càng tranh luận về Thiền thì người ta càng thêm vọng tưởng,
không cách nào thâm nhập được thực chất của chân lý tuyệt đối này.
Nói như thế, tại sao kinh điển
ngữ lục của Phật - Tổ, cho đến sách báo viết về Thiền lại nhiều đến vậy ? Không
nói được cho thấu đáo mà vẫn cố gắng nói, có phải đây là công việc vô bổ, không
có ý nghĩa gì? - Đó chẳng qua vì lòng từ bi, các Ngài thấy chúng sanh tuy đồng
thể tánh cùng chư Phật, vì vô minh cứ mãi chịu trầm luân, nên phát đại nguyện giáo hóa chúng sanh không
biết mệt mỏi. Không nói được cho thấu đáo, các Ngài phải dùng nhiều lời diễn tả
quanh co, dẫn dắt người từng bước làm quen rồi đến gần với Đạo, cuối cùng tự
thân nỗ lực thể nhập tự tánh.
Người tu chúng ta, do khát vọng
học hiểu và công phu thiền tập, đầu tiên cũng cần có một số khái niệm về Thiền.
Điều cần lưu ý là, những gì được diễn đạt bằng văn tự chỉ là ước-lệ-pháp của
thế gian. Chúng ta dựa vào kiến thức thu nhập được từ văn tự ấy (văn huệ), rồi suy gẫm và đối chiếu với
thực tại đời sống và nội tâm của mình, ấy là trí huệ do tư duy (tư huệ). Văn huệ và tư huệ soi sáng
đường tu. Tu hành có kết quả phát sinh trí huệ, trí huệ ấy mới thật là của báu
trong nhà (tu huệ).
Một cách khái quát, Thiền có thể
hiểu là trạng thái tâm linh vút cao của một hành giả đã chứng ngộ. Với nghĩa
này, Thiền cũng là Đạo, là Phật, là Tâm... Thiền cũng có thể được nhìn dưới một
góc độ gần gũi hơn, là trạng thái của tâm khi thấy nghe hay biết tất cả sự vật
hiện tượng xảy ra xung quanh, mà không có một ý niệm phân biệt so sánh. Người
có Thiền chứng là người không bị dính mắc đối với mọi thăng trầm vinh nhục của
cuộc đời, không động tâm đối với tất cả các pháp thế gian và xuất thế. Có thể
nói, lúc nào và ở đâu tâm ta thanh tịnh mà thường biết, ta sẽ có kinh nghiệm
trực tiếp Thiền là gì ? Như vậy, Thiền nằm trong mọi sinh hoạt thường nhật, rất
đơn giản, rất thực tế và rất gần gũi với cuộc sống - con người.
Những điều tiếp thu được qua
kinh sách, chúng ta nên áp dụng vào thực hành. Lời dạy của Phật - Tổ giúp chúng
ta thăng hoa trên đường đạo; nhưng nếu chỉ nghiên cứu trên lý thuyết mà không
tự mình hành trì thì không bao giờ thấm nhuần được những lời dạy ấy. Hiểu Phật
pháp không phải từ bên ngoài mà phải từ tâm lưu xuất. Phật là Phật tâm, pháp
cũng do tâm khởi; chỉ khi nào tâm an định mà hằng tri, khi ấy mới có Phật pháp;
chỉ khi nào trực tiếp đi sâu vào cảnh giới tâm chứng, ta mới thấu triệt những
bí ẩn ngàn đời của vũ trụ vạn hữu; chỉ khi nào tâm ta tương ưng với tâm Phật -
Tổ, chúng ta mới hiểu một cách thấu thể những điều các Ngài muốn truyền trao.
II. NHỮNG NÉT KHÁI QUÁT VỀ THIỀN
A.- Một tấm gương nếu bị bụi bám
đầy, không soi được các vật đặt trước nó. Bụi là duyên bên ngoài, còn bản chất
của gương là trong và soi sáng. Bản chất gương không bao giờ mất, chỉ vì bụi
che nên tạm ẩn mà thôi. Muốn gương trở lại sáng trong, phải lau sạch bụi. Tự
tánh bản nguyên vốn thanh tịnh và thường biết, do bụi phiền não từ vô lượng
kiếp che khuất nên mãi đắm chìm trong sinh tử. Tu hành cũng như lau bụi trên
gương, khi dẹp sạch phiền não thì tự tánh hiện bày. Đạo Phật không chủ trương
tiêu diệt sự sống, mà chỉ đoạn trừ tham - sân - si để hiển lộ bản tâm. Đây là
khái niệm của người tu trên những bước đầu vào đạo.
Đối với Thiền tông, những khái
niệm phân biệt nhị nguyên đều là sản phẩm của ý thức, là quy ước pháp tương đối
của thế gian. Khi được hỏi: “Thế nào là
đại ý Phật pháp?”, có vị Thiền sư nói: “Cứng như bông, mềm như sắt”. Câu trả lời có vẻ nghịch
thường, nhưng thật sự chứa đựng một ý nghĩa sâu sắc. Bản thân bông và sắt đâu
có ý niệm mềm - cứng, mà do vọng tưởng so sánh đối đãi của con người gán cho
chúng những tính chất khác nhau. Những vị đã có cái nhìn đúng như sự vật đang
là, thấu suốt tột cùng bản chất của các pháp, không theo ước lệ thông thường.
Các Ngài nhận rõ, phiền não và Bồ-đề không phải là hai phạm trù đối lập nhau,
mà là hai mặt của cùng một thực thể. Cũng như biển dậy sóng khi có gió thổi,
khi không có gió thì sóng trở về với nước. Bỏ hết sóng sẽ không còn nước, đoạn
trừ phiền não không
thể thủ chứng Bồ-đề. Điều này thật khó hiểu khó tin, nhưng đó là tinh thần bất
nhị của nhà Thiền, là yếu lý của Đạo.
B.- Người tu thường chán cõi
Ta-bà uế trược nên tinh tấn tu hành, mong có ngày về một nơi an lạc, giải thoát
mọi phiền não và sinh tử. Đây là quan niệm đúng đắn, có đạo lý. Nhưng có khi
nào chúng ta tự hỏi: “Bậc Thánh triết ở
đâu? Tìm giải thoát phương nào?”.
Bước đầu học Phật, ta đã hiểu
hoàn cảnh chánh báo và y báo của mỗi người đều do nghiệp tạo tác. Nghiệp lành
đưa đến thuận lợi trong cuộc sống, thân tâm tươi nhuận, vật chất sung mãn.
Nghiệp ác gây nên quả xấu về vật chất và tinh thần, thậm chí khi phát tâm tu
hành vẫn gặp nhiều chướng duyên trở ngại. Nghiệp do thân - miệng - ý phát sinh,
trong đó ý dẫn đầu. Khi đã biết Đạo, chúng ta không làm điều gì để tâm ý vẩn
đục, luôn giữ gìn cấm giới, mở cõi lòng để hiểu, để thương và để giúp ích mọi
người tùy khả năng của mình. Đó là căn bản đạo đức của người tu.
Đối với nhà Thiền, cả hai nghiệp
thiện và ác đều là đầu mối của luân hồi sinh tử. Đức Phật Thích Ca có 32 tướng
tốt và 80 vẻ đẹp chỉ là Phật ứng hóa
thân, còn sinh diệt, tùy duyên ứng hiện vào các cõi giáo hóa chúng
sanh. Phật báo thân đang ở
thế giới Vô Thắng, như đã đề cập trong Kinh Đại Niết-Bàn(*) vẫn chưa phải là cứu cánh. Chỉ có
Đức Phật pháp thân không bao
giờ sinh diệt mới thật là Đấng Thánh triết đích thực mà mọi người phải nương
về. Nhận ra Phật pháp thân, hành giả mới thật sự giải thoát. Thiền tông không
hứa hẹn giải thoát ở thế giới bên kia, mà kéo thế giới lý tưởng trở về với thực
tại hiện tiền. Không có cái vô hạn ở ngoài hữu hạn, không có cái thường hằng
bất biến ở ngoài sinh diệt vô thường. Thân tâm chúng ta do duyên sinh giả hợp
nên vô thường, nhưng ngay trong thân này có cái chân thường hằng hữu, mà nếu
sống được với nó, ta sẽ đạt được mục đích tối hậu của người tu, là giác ngộ và giải thoát.
Đây là ý nghĩa của hoa sen trong
lò lửa: dù đang ở trong lò, sen vẫn nở hoa thơm ngát, cũng như Pháp thân vẫn
thường trụ, dù đang ở trong thân ngũ uẩn ngày đêm bị thiêu đốt bởi lửa vô
thường.
C.- Chủ đích của Thiền tông là
chỉ cho người nhận ra và sống với bản tâm bất sanh bất diệt của mình.
Trong Bộ Luận nổi tiếng về kinh
Bát-Nhã, Bồ-tát Long Thọ viết: “Giới hạnh là da, Thiền định là thịt, Trí tuệ là
xương, Diệu tâm là tủy”. Giới - Định - Huệ là Tam vô lậu học, con đường đưa đến
Niết-Bàn, chúng ta thường được nghe giảng nói. Giới Luật là rào cản bảo vệ
người tu khỏi sa xuống hố sâu tội lỗi. Đây là bước căn bản rất cần thiết trên
đường đạo. Nhưng nếu chỉ biết giữ giới mà chưa tu tập Thiền định, chưa có trí
tuệ, chưa nhận được tự tánh, thì mới chỉ là người tu đáng kính, nhưng chưa đến
chỗ rốt ráo. Vì thế, Bồ-tát nói người ấy mới được phần da bên ngoài.
Giữa Giới và Định có sự liên hệ
mật thiết. Tu tập Thiền định mà không có giới hạnh, cũng khó đạt kết quả như ý
muốn. Ví như một kẻ sát nhân, dù vô tình hay hữu ý, có phải luôn thấy bất an
không? Do hối hận, do lo sợ người khác phát hiện, do viễn ảnh sẽ bị trừng
phạt..., kẻ ấy làm sao an định dù có siêng năng tọa thiền? Tàng thức như cái
kho chứa vô số điều hay dở thiện ác, bình thường khi mải mê làm việc, ta không
thấy khởi niệm nhiều; nhưng lúc tọa thiền, nhiều khi vọng tưởng nổi lên lừng
lẫy. Đó là tập khí nhiều đời; nếu đời này ta còn huân tập thêm các nghiệp, thì
biết đến bao giờ tàng thức mới được rỗng không ? Tu hành đúng nghĩa là loại bỏ
tất cả, từ phần cực ác đến những ý niệm tột thiện trong tâm ý. Khi mọi tập khí
đều bị loại trừ, tàng thức trở thành Như Lai tạng. Đây là kết quả của Thiền
định, tức được phần thịt của Phật pháp.
Tiến thêm một bước, nhờ giữ giới
và tâm an định, hành giả thấu suốt mọi lẽ thật hư của cuộc đời, phân biệt rõ
ràng mọi điều tốt xấu, chánh tà, thiện ác. Vị ấy hiểu rõ lý vô thường và duyên
sinh của vạn pháp, quán triệt Bình-đẳng-tánh của mọi sự vật. Đó là Trí huệ,
tinh thần hệ Bát Nhã, phần xương của Phật pháp; nhưng chưa phải là cứu cánh của
đời tu.
Thiền sư Suzuki khi luận về “Cốt
tủy của Đạo Phật”, cố ý chỉ rõ bản tâm thanh tịnh của mỗi người là mục đích
cuối cùng mà người tu phải nhắm đến. Đây là phần tủy của Đạo, là bản hoài của
Chư Phật, là sinh mạng của Thiền. Có thể nói, không khai ngộ được Diệu tâm thì
không phải Thiền, nên các Thiền sư luôn tìm mọi cách để đưa môn đồ vào chỗ khai
sáng bản tâm. Khi Tổ Bồ-đề Đạt Ma thấy cơ duyên của mình sắp mãn, Ngài gọi các
môn đồ vào trình bày chỗ sở đắc của từng người. Đến lượt Ngài Huệ Khả, không
thưa trình câu nào, chỉ bước ra đảnh lễ Tổ ba lạy rồi lui. Vậy mà Tổ lại bảo:
“Ngươi được phần tủy của ta!”. Và truyền y bát cho Ngài làm Tổ thứ hai của
Thiền tông Trung Hoa. Vậy phần tủy của Tổ là gì? Là cái lặng yên hay là ba cái
lạy?
Trong hệ thống kinh A Hàm của
Phật giáo nguyên thủy và hệ thống Bát-nhã của Phật giáo phát triển, Đức Phật
đều dạy về lý Vô ngã. Đây là chủ trương độc đáo và đặc thù của Đạo Phật, so với
tất cả các tôn giáo khác. Theo lý Duyên sinh, quán chiếu thân ngũ uẩn đều là
hợp thể bởi các duyên. Tự tánh của chúng là Không, nhờ duyên hợp nên giả có.
Phân tích đến tận cùng, rõ ràng thân này được tạo ra từ những vật không phải
nó, nên nó không có tính đồng nhất; nó luôn luôn biến đổi trong từng giây phút,
nên không bất biến; con người không thể điều khiển nó theo ý mình, nên nó không
có chủ tể. Vì không đồng nhất, không bất biến và không có chủ tể, nên thân này
là Vô ngã. Nhận được lý Vô ngã, hành giả tiến lên phá trừ pháp chấp. Phá ngã
chấp là đoạn trừ Phiền não chướng, phá pháp chấp là đoạn trừ Sở tri chướng,
người tu giải thoát khỏi phiền não và luân hồi.
Đối với các hành giả tu Thiền,
khi nghe giảng về “Chiếu kiến ngũ uẩn giai không”, về những phương tiện phá
chấp, sẽ có những câu hỏi đặt ra: “Nếu tất cả các pháp, kể cả thân tâm ta, đều
là giả, vậy có cái gì thật ? Nếu ta không có thật thì ai được giải thoát, ai
nhập Niết-bàn? Ta cố công tu hành là mong có ngày tìm được an lạc và hạnh phúc
vĩnh cửu, nay Phật dạy tu đến cuối cùng không còn gì cả, hóa ra uổng phí cả
cuộc đời ta ư ?”.
Thật ra, Phật và chư Tổ đều muốn
chúng ta đi đến Bảo sở, không dừng lại ở Hóa thành. Từ lúc thành đạo dưới cội
cây Tất-bát-la sau 49 ngày đêm thiền định, Đức Phật đã thấy tất cả chúng sanh
đều bình đẳng với chư Phật Bồ-tát ở một điểm tối thiết: mọi hàm linh, dù là hạ
đẳng, đều có thể-tánh bản nguyên thanh tịnh hằng giác. Thể tánh ấy không có
hình tướng nên không hề sinh diệt, không thấy được bằng mắt và không thể dùng ý
thức để tư duy. Thể tánh không có tên nhưng lại rất nhiều diệu dụng, do vậy nó
được đặt rất nhiều tên: Phật tánh, Pháp thân, Diệu tâm, Bản lai diện mục...
Cuối cùng, Lục Tổ gọi nôm na bằng từ “Vô nhất vật” trong bốn câu đối lại bài kệ
trình kiến giải của Ngài Thần Tú. Vì không một vật nên không bị khách trần làm
ô nhiễm; chỉ vì chúng sanh quên tánh giác, dong ruổi theo trần cảnh, nên đời
kiếp chịu luân hồi. Tánh giác tuy bị lãng quên nhưng vẫn luôn hiện diện, lung
linh chiếu rọi qua sáu căn. Chúng ta lâu nay để sáu căn dính mắc với sáu trần
phát sinh sáu thức, chỉ nhớ cảnh mà không nhớ bản tâm. Nhà Thiền dạy người phản
quan tự kỷ, soi sáng chính mình để nhận ra Pháp thân hằng hữu và luôn sống với
nó. Nhận được bản tâm, mới quán triệt ngã và pháp đều không thật, tự nhiên được
giải thoát.
Như vậy, tu theo thứ lớp thì
trước dễ sau khó: Trước phải quán triệt tinh thần Vô ngã, phá luôn pháp chấp;
sau đó đủ thời tiết nhân duyên mới thể nhập tự tánh. Thiền Đốn ngộ theo đường
ngược lại, tu từ trong tu ra: Nhận được Pháp thân chân thật, luôn sống với cái
chân thật thì không còn lầm theo bất cứ pháp sinh diệt nào. Phiền não tham sân
si chỉ là những đợt sóng, thân ngũ uẩn chỉ là hoa đốm, tự nhiên ta thấy an
nhiên trước cuộc đời. Pháp tu này trước khó sau dễ, rất nhẹ nhàng mà kết quả
phi thường, như Lục Tổ nói: “Phật dạy tất cả pháp để độ tất cả tâm; Ta không
tất cả tâm, đâu cần tất cả pháp”.
Thiền sư Huyền Giác có bốn câu
rất hay diễn đạt tinh thần này:
Pháp thân
giác liễu vô nhất vật
Bổn nguyên
tự tánh Thiên Chân Phật
Ngũ ấm phù
vân không khứ lai
Tam độc thủy
bào hư xuất một.
Vô-nhất-vật, tức tánh giác thanh
tịnh tự thuở nào, đó là Pháp thân, là Bổn nguyên, là Tự tánh, là Đức Phật chân
thật sẵn có của mỗi người. Nhận ra Đức Phật ấy, thì thân năm ấm chỉ là mây
trắng bay qua lại trong hư không, và ba độc tham-sân-si chỉ huyễn ảo như bọt
nước khi còn khi mất. Vì thế, Thiền sư khi đã liễu ngộ, ngay cả nghiệp chướng
cũng thấy không thật có, nên tự tại trước mọi nhân nghĩa oán cừu. Trong một sát
na, các Ngài rủ sạch nợ của bao A-tăng-kỳ kiếp:
Chứng thực
tướng, vô nhân pháp
Sát-na diệt
khước a-tỳ nghiệp
Có thể nói, đối với nhà Thiền,
vấn đề cốt lõi và mục đích tối hậu của đời tu chỉ có một: Nhận ra và hằng sống
với Phật tâm của chính mình. Chư Phật Bồ-tát thị hiện nơi đời cũng chính vì
muốn tất cả chúng sanh sống và tu theo mục đích ấy, để tất cả đều thành Phật
như các Ngài. Thiền tông được gọi là Phật tâm tông vì chỉ y cứ vào bản tâm để
tu, để ngộ, để chứng và để thành đạo quả. Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn đã dạy trong Luận
Tối Thượng Thừa: “Giữ chân tâm là trên hết”. Thiền sư Minh Chánh cũng thật
thiết tha:
Chẳng hiểu
bản lai vô nhất vật
Công phu
luống uổng một đời ai !
D.- Làm thế nào nhận ra bản tâm?
Trong quá trình tìm hiểu về
Thiền, chúng ta phải vận dụng chất xám để tư duy, để có một kiến giải bằng tri
thức. Nhưng nếu dùng kiến thức và tri thức để mong hiểu thấu đáo được Thiền,
thì đó là sai lầm nghiêm trọng. Chúng ta phải qua công phu thiền tập, phải tự
mình kinh nghiệm vào mảnh đất tâm của mình; khi trực giác phát sinh mới có một
lý giải bằng tâm chứng. Cho nên, Thiền cần sự hiện hữu của ý chí và trực giác.
Dù có ý thức phụng sự tha nhân mà chưa có trực giác và ý chí để khai phá tự
tâm, thì công việc phụng sự ấy vẫn còn nằm trong hữu vi, tương đối.
Nội dung Thiền tập tựu trung là
Chánh niệm. Lâu nay tâm ta như khỉ vượn chuyền cành, hết suy tính việc này lại
lo toan chuyện khác, lăng xăng lộn xộn không lúc nào dừng. Phật dạy Chánh niệm
là luôn đặt tâm vào giờ phút hiện tại, không dong ruổi về quá khứ hay mơ màng
chuyện tương lai. Chánh niệm cũng là phản tỉnh lại thân tâm mình, biết rõ mọi
sự vận động của thân và mọi biến chuyển ở tâm. Tất cả sự việc xảy ra như thế
nào, ta chỉ cần biết như thế
đó; biết mà không thêm một niệm nào để phân biệt chia chẻ, để so sánh suy
lường. Như vậy, Thiền không tùy thuộc vào tư thế của thân, vào giờ giấc và nơi
chốn, vì Thiền chỉ cho trạng thái tâm bản nhiên vốn lặng mà biết. Lặng là
thể-định, biết là dụng-huệ, vốn có sẵn từ vô thủy đến vô chung. Khi ánh bình
minh của trực giác phóng xuất, ta mới thấy từ bao giờ cho đến bây giờ, muôn
pháp vẫn ở trong đương xứ - “đương” là hiện tại, “xứ” là ở đây. Tại đây và bây
giờ chúng luôn biến đổi nhưng vẫn hằng hữu, và Thiền định chính là định tâm vào
thời điểm tại đây và bây giờ này. Nếu rời mảnh đất thực tại, ta sẽ không hiểu
gì về các pháp. Các pháp diễn biếân trong từng sát-na, nhưng trong vô thường
biến dịch có một cái gì vẫn thường hằng bất biến. Đây là thực tại sống động khi
hành giả có thể nắm vô biên từ trong đóa hoa dại, nắm muôn năm trong một niệm.
Đây cũng là phút giây vĩnh cửu mà nhà Phật gọi “sát-na Tam muội”. Chư Phật
Bồ-tát lý hội được cái sát-na bất động này nên các Ngài đã giải thoát, còn
chúng ta mãi để tâm chạy đuổi theo ý niệm thời - không, nên cứ bị lôi cuốn theo
dòng trầm luân bất tận!
Trong kinh A- Hàm, Phật dạy:
“Này các Tỳ-kheo ! Nếu thấy pháp tức là thấy ta, nếu thấy ta tức là thấy pháp;
vì thấy pháp nên thấy ta, thấy ta nên thấy pháp”. Ta và Pháp
ở đây có ý nghĩa gì?
- Thông thường, Pháp (Dharma) có
rất nhiều nghĩa: Là phương cách, mẫu mực, luật lệ; là sự vật, tình trạng; là
lời Phật dạy... Một cách tổng quát, có thể hiểu pháp là “nhậm trì tự tánh” (giữ
gìn tính chất của nó) và “quỹ sanh vật giải” (tính chất đặc thù khiến người ta
có thể dựa vào đó để nhận ra nó). Các pháp theo ý nghĩa này đều có hình tướng,
đều do duyên hợp, nên gọi là Pháp tướng. Ngay cả lời Phật dạy, nếu căn cứ trên
chữ nghĩa cũng là kinh hữu tự, chưa phải yếu chỉ. Thấy pháp này chưa phải là
thấy TA, tức Phật Pháp thân Tỳ-Lô-Giá-Na của chính mình.
Tất cả những gì có hình tướng
đều là giả dối không thật. Ví như mặt trăng soi bóng xuống đáy hồ. Bóng mặt
trăng là có hay không có ? Nếu có, sao ta vớt lên không được; nếu không, sao
mắt ta nhìn thấy? Có - Không là hai bên, dính mắc hai bên là không thấy đúng lẽ
thật. Người hiểu đúng như thật sẽ nói: Bóng mặt trăng dưới hồ bản chất là
không, và chỉ là giả có. Tự tánh của tất cả các pháp là không - đây chính là Pháp tánh của loài
vô tình.
Một ví dụ khác: Một dòng suối
bình thường nước trong vắt; khi có lũ đầu nguồn, nước suối bị ngầu đục. Nước
suối lúc trong lúc đục là do không hoặc có bùn đất đổ vào theo lũ, còn tánh ướt
của nước thì không biến đổi bao giờ. Cũng vậy, tâm ta lúc suy nghĩ lăng xăng là
vọng, khi lặng yên không dấy niệm là chơn; tâm có chơn có vọng, nhưng bản tánh
thanh tịnh thường nhiên, hằng tỉnh sáng. Đây là Phật tánh, là Chánh pháp nhãn
tạng Niết-bàn Diệu tâm Thật tướng vô tướng, cũng là Kinh Vô Tự. Phật và Pháp
không hai - đều là thể tánh bất sanh bất diệt. “Thấy pháp” là nhận ra thể tánh
này, là sống với chơn tâm thường trụ, nên “thấy pháp tức thấy ta, thấy ta tức
thấy pháp”.
Toàn thể vũ trụ pháp giới đều
không ngoài tâm. Nếu tâm ta vô thường thiên biến vạn hóa, ta sẽ thấy các pháp
vô thường thiên hình vạn trạng. Nếu tâm ta an định, rõ biết tất cả mà không
khởi niệm thì Ta-bà trở thành Tịnh độ. Lúc tâm toan tính tư duy, cái thấy biết
của ta hữu hạn vì duyên theo trần cảnh bên ngoài. Khi tâm lặng lẽ, cái thấy
biết trở nên mênh mông bát ngát. Khi vào định sâu, cái biết trở về pháp giới,
mỗi sự vật đều đại diện cho toàn thể vũ trụ, như một giọt nước biển cũng có đủ
tính chất của cả đại dương bao la. Như vậy, lúc tọa thiền, nếu một phút giây
tâm ta lặng lẽ mà hằng tri, thì phút giây ấy ta là Phật; nếu tâm cứ dong ruổi
lăng xăng thì ta mãi làm chúng sanh trong ba cõi. Làm Phật hay làm chúng sanh
đều do mình quyết định, không ai làm thế cho mình và mình cũng không thể làm
thay cho ai.
E.- Kinh Kim Cang có bài kệ:
Nhược dĩ sắc kiến ngã
Dĩ âm thanh cầu ngã
Thị nhơn hành tà đạo
Bất năng kiến Như Lai.
Nghĩa:
Nếu dùng sắc
thấy ta
Dùng âm
thanh cầu ta
Người ấy
hành đạo tà
Không thể
thấy Như Lai.
Bốn câu này có sức công phá mạnh
mẽ những tư tưởng lầm lẫn của con người, kể cả người tu. Lầm lẫn thứ nhất,
chúng ta thờ lạy kính ngưỡng Phật, nhưng chấp tượng gỗ hay xi măng là Phật
thật. Mỗi ngày lau quét tượng, ngày lễ tắm cho tượng và xem đó là tu hành. Có
nơi còn dùng nước rửa tượng làm nước thánh trị bệnh. Niềm tin không có chánh
kiến nên đã trở thành mê tín, biến một bậc trí tuệ giác ngộ thành một vị thần
linh, biến chốn già-lam truyền bá chánh pháp thành nơi cầu danh khấn lộc. Và
như vậy, người tu vô tình biến thành người trung gian giữa một bên là ông thần
ban phước giáng họa, và bên kia là những kẻ cầu xin. Chúng ta thờ lạy, chiêm
ngưỡng tượng Phật phải hiểu đúng ý nghĩa, là kính trọng một Bậc Đạo sư có nhân
cách và nghị lực vĩ đại; là để theo gương từ bi trí huệ của Ngài, nguyện làm
đúng lời Ngài dạy, rồi một ngày nào đó cũng được giác ngộ giải thoát như Ngài.
Chúng ta thờ lạy tượng Phật cũng để xoay lại chính mình, nhớ rằng mình có một
vị Phật luôn luôn hiện hữu, đó là tự tánh Kim Cang bất hoại.
Điều lầm lẫn thứ hai, chúng ta
thường nghĩ Phật là vị Thái tử có 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp, đi tu và thành đạo
tại Ấn Độ cách đây trên 25 thế kỷ. Nếu người ấy là Phật thật, thì Phật bây giờ
ở đâu? Thân xác Ngài đã được thiêu hóa, chỉ còn để lại những viên ngọc xá lợi
cho người sau chiêm bái. Chẳng lẽ Thái tử hy sinh tất cả lạc thú thế gian, gia
công tu hành cần khổ bao năm chỉ để thành Phật trong 49 năm rồi hoại diệt? Nếu
thật vậy, thì sự hy sinh, sự tu hành của Ngài đâu có ý nghĩa siêu tuyệt xuất
thế, là tìm được con đường giải thoát khổ đau và giải thoát khỏi vòng sinh tử?
Nhà Thiền giản trạch vấn đề này rất rõ: Đức Phật có hình tướng ấy chỉ là Phật
ứng hóa thân có sinh có diệt. Còn thể tánh tịch lặng hằng tri hằng giác, là
Phật pháp thân, mới là Phật thật, không bao giờ sinh diệt. Vì thế trong Kinh
Pháp Hoa, Đức Phật bảo Ngài thành Phật đã từ vô lượng vô biên trăm nghìn muôn ức
na-do-tha kiếp. Chúng sanh ai cũng sẵn có vị Phật này, và Thiền tông luôn nhắc
nhở môn đồ thường niệm vị Phật ấy.
Do chủ trương y cứ vào tâm tu
hành, nên Thiền tông không theo thinh sắc quang ảnh mà cầu thấy Phật, vì ngoài
tâm cầu Phật đều là ngoại đạo, dù đang là Phật tử. Đức Phật bảo, những người ấy
hành đạo tà, không thể thấy Như Lai. Như Lai ở đây không có nghĩa là Phật Thích
Ca đang ngồi tòa thuyết pháp. “Như” chỉ thể tánh bất động hằng hữu; “Lai” là từ
thể tánh ấy mà đến, mà khởi ra diệu dụng. Như là bất biến, Lai là tùy duyên;
Như là tâm thể, Lai là tâm dụng. Ta nhìn thấy cái hoa là Lai, thấy mà không
khởi niệm là Như. Mọi người đều có Như Lai, nhưng bị tập khí nhiều đời che phủ,
như mây che khuất mặt trăng. Mây tan thì trăng hiện, nhưng không phải khi tan
mây mới có trăng, mà trăng vẫn sáng tự thuở nào. Nếu ta biết rõ có trăng sáng
đàng sau đám mây, thì không cần đợi mây tan, ta vẫn cảm nhận ánh trăng; như
ngay nơi sóng ta đã nhận ra nước, ngay nơi vọng đã là chơn. Đây là tinh thần
liễu vọng, một tư tưởng vút cao của Tối thượng thừa Thiền.
F.- Thiền không giới hạn trong
một đất nước, một tôn giáo hay một ý thức hệ. Do trí huệ phát sinh tri kiến như
thật, nên Thiền giả có sự hiểu biết đúng đắn về con người và cuộc đời, đặt nặng
lý trí hơn là tình cảm tôn giáo. Tình cảm Phật giáo thể hiện ở mái chùa cong, ở
chánh điện trang nghiêm nhưng thân thương đầm ấm, rất cần cho những người mới
vào đạo. Nhưng nếu ta chỉ chú trọng tình cảm mà không xem trí tuệ là mục đích,
thì chưa thẩm thấu được triết lý thâm sâu của Đạo Phật. Đức Phật khuyên chúng
ta phải hiểu trước khi tin, nên Chánh kiến đi đầu trong Bát Chánh Đạo. Mỗi ngôi
chùa vì thế phải là nơi tuyên dương chánh pháp, cho Phật tử biết cách tu hành,
mới khỏi rơi vào mê tín và tà đạo.
Thiền tông không mang màu sắc
tôn giáo thần quyền, mà đề cao vị trí của con người. Mọi người đều bình đẳng vì
đều có Phật tánh như nhau, nên ai cũng có quyền định đoạt lấy số phận và tương
lai của mình. Đây là điều rất thực tế, chúng ta không cầu giải thoát ở nơi nào
hay với một ai, vì bớt tham sân si đến đâu, ta thấy an lạc đến đó. Cũng như khi
uống vào một ly nước, ta đỡ được cơn khát ngay; và hương vị của ly nước như thế
nào, chỉ một mình ta cảm nhận, không ai có thể biết như ta, và ta cũng không
thể nói cho ai hiểu. Do đó, muốn bước vào nhà Thiền, chúng ta không chỉ dựa vào
lòng tin, mà trước tiên phải có Chánh kiến. Có trí tuệ nhờ nghiên cứu và tư
duy, ta mới có đủ nghị lực tự mình làm chủ vận mạng mình, mới đủ niềm tin kiên
cố để đi đến chỗ cứu cánh.
Mặt khác, vì biết mọi người đều
bình đẳng, nên Thiền tông không phân biệt giữa tứ chúng. Thân tứ đại có hình
tướng nên khác nhau về giới tính, tại gia hay xuất gia; còn Phật tánh thì như
nhau, nên ai cũng có cơ hội giống nhau để tu hành và thành tựu đạo quả. Nhiều
Thiền sư là cư sĩ như Bàng Long Uẩn ở Trung Hoa, Tuệ Trung Thượng Sĩ ở Việt
Nam, đều tự tại trong sinh tử. Người nữ như cô Linh Chiếu, bằng một câu hát
trong bài ca vô sanh tấu cùng cha mẹ, cho thấy trình độ chứng ngộ rất sâu của
mình: “Dã bất dị, dã bất nan, cơ lai khiết phạn khốn lai thùy” (Cũng không dễ
cũng không khó, đói đến thì ăn mệt ngủ khò) ! Trong kinh Pháp Hoa kể chuyện
Long nữ mới 8 tuổi thành Phật, cũng nói lên tinh thần này. Vì thế, Đức Phật dạy
trong Trường A Hàm: “Tất cả hoa sen đều mọc từ bùn nhơ, mầm sen nào cũng có khả
năng nở hoa”.
III. NHỮNG ĐIỀU KIỆN CẦN CHO MỘT HÀNH GIẢ TU THIỀN
Trong đời sống thế tục, muốn
tinh thông một nghề, người ta phải tốn công sức và thời gian học hỏi, thực tập;
sau đó còn phải vừa làm vừa rút kinh nghiệm, để ngày càng thăng tiến trong nghề
nghiệp. Người tu càng hơn thế nữa, muốn thành Phật tác Tổ đâu phải một sớm một
chiều, đâu phải chỉ nghe hiểu đôi điều, công phu một thời gian đã tự cho mình
chứng đắc. Nhất là đối với Thiền Đốn ngộ, có người đọc Thiền sử thấy các Ngài
dễ dàng đại ngộ, cứ tưởng mình cũng “một nhảy vào liền đất Như Lai”. Trong thời
đại văn minh khoa học mà tri thức cũng được xem như một ngành kinh tế, mọi vấn
đề đều phải được phân tích giảng giải rõ ràng, nên yếu chỉ nhàø Thiền cũng được
trình bày cặn kẽ. Chúng ta không mất thời gian và tâm huyết để tìm hiểu một
công án như các thiền khách thuở xưa. Nhưng vì quá dễ dàng hiểu được vấn đề,
nên cái hiểu của chúng ta không sâu sắc, không gây ấn tượng mạnh, do vậy dễ
lãng quên và dễ xem thường. Và cũng vì hiểu dễ nên tưởng tu cũng dễ, mới có một
chút kết quả đã cho là đủ, mặc tình nói năng hành động buông lung, không biết
đó là nhân địa ngục.
Người tu chúng ta, mong thực
hiện sự chuyển hóa tự thân để có sự bình an nội tâm, rồi trang trải sự bình an
ấy cho người khác, với mục đích tối hậu là cả mình và người đều giác ngộ và
giải thoát. Nhưng đường tu lại quá dài, đầy dẫy chông gai thử thách, nếu không
trang bị đầy đủ tư lương thì khó lòng đến được điểm cuối.
Sau đây là những điều kiện cần
cho một hành giả tu Thiền, xem như một số tư lương trong hành trang thiên lý
ấy:
1.) Tâm thiết tha cầu đạo:
Tiền thân Đức Phật Thích Ca, lúc
còn là một vị Đại tiên, vì muốn cầu nghe chánh pháp mà lột da làm giấy, chẻ
xương làm bút, lấy máu làm mực để viết bài kệ mới học được, theo điều kiện của
một vị Bà-la-môn. Một tiền kiếp khác của Ngài là Thái tử Đàm-Ma-La-Kiềm, con
vua Phạm Thiên ở Châu Diêm-Phù-Đề. Đối trước Pháp sư, Ngài đào hố sâu mười
trượng, đốt than nóng rồi nhảy vào hố, mới được Pháp sư nói cho nghe một bài kệ
về hạnh Bồ-tát. Những gương cầu pháp quên thân của Đức Phật, chúng ta khó thể
bắt chước. Gần hơn, trong thiền sử kể rất nhiều câu chuyện các thiền khách quảy
gói du phương, tìm thầy học đạo. Ngày xưa, những bậc đã chứng ngộ thường ở trên
núi cao, đường đi gian nan vất vả, làm gì có phương tiện giao thông thuận lợi
như bây giờ. Vậy mà các thiền khách đâu nề khó nhọc xa xôi, chỉ cốt sáng được
lý đạo, vì biết rõ Phật pháp rất khó gặp, trăm ngàn muôn kiếp chưa chắc đã được
nghe.
Người học đạo chúng ta phải xem
Phật pháp là cao quý bậc nhất, không có gì sánh được. Nếu có duyên được gặp,
phải biết đây là cơ hội hy hữu ngàn năm chỉ một lần. Khổng tử, người được tôn
xưng là “Vạn thế sư biểu” (Bậc thầy của muôn đời) mà còn có tâm cầu đạo thiết
tha như thế này: “Triêu văn đạo, tịch tử khả hỷ” (Sáng được nghe đạo, chiều
chết cũng cam lòng); còn chúng ta là phàm nhân, lòng thành đối với đạo được đến
đâu?
Khi nghe pháp, chúng ta cần có
lòng trân trọng và biết ơn, như tâm trạng của người bị đắm tàu giữa biển, nhờ
pháp như chiếc phao đưa mình vào bờ. Một lần nào đó trong đời, khi nghe giảng
hay đọc một đoạn kinh mà tâm ta chấn động, phải biết hạt giống Phật đã gieo vào
đất tâm của ta. Dù trải qua bao nhiêu lần sanh tử, hạt giống ấy vẫn không bao
giờ mất. Đến lúc gặp thuận duyên, hạt giống sẽ nẩy mầm. Luôn mang mặc cảm mình
nghiệp chướng sâu dày, hoặc ngược lại, tự cao cho mình bình đẳng với chư Phật
rồi không cần học không cần tu, đó là hai cực đoan phải tránh. Người hiểu đạo
lúc nào cũng hạ mình cầu thị, luôn khiêm cung tìm học chánh pháp, sau đó áp
dụng vào công phu.
2.) Ý chí
Thiền tông không chủ trương mong
cầu sự giúp đỡ bên ngoài, dù là của ai. Mỗi người phải tự nỗ lực hành trì để
trực tiếp kinh nghiệm, khi đi sâu vào vùng đất muôn đời bí mật của bản tâm.
Điều này không ai có thể làm thay cho mình, kể cả Đức Phật đại từ đại bi và đầy
đủ thần thông diệu dụng. Vì thế, ý chí là điều kiện tối cần để Thiền giả tiến
bộ trong đạo nghiệp, thăng hoa trong sự tu hành. Ý chí như đôi chân, không có
chân thì không thể đi được.
Tinh thần tự lực của nhà Thiền
trung thành với lời dạy “tự thắp đuốc lên mà đi” của Đức Phật. Khi con còn nhỏ
dại, chưa đủ điều kiện thể chất và trí tuệ, phải nương nhờ cha mẹ nuôi dưỡng.
Đứa con nào có thể tự quyết định cuộc đời nó, tự biết tạo sinh kế cho nó, đứa
con ấy đã trưởng thành và đáng tin cậy. Trong tình Thầy trò, người Thầy cũng
chỉ nâng đỡ dạy dỗ học trò một thời gian thôi, sau đó để tự trò đảm đương và
đối phó với mọi thăng trầm vinh nhục của cuộc đời, người trò ấy mới vươn lên
được.
Đối với những người mới vào đạo,
Đức Phật cũng dùng tha lực như một phương tiện khuyến tu; nhưng giai đoạn sau,
Ngài luôn đề cao tinh thần tự lực. Ví như, phàm phu chúng ta còn vọng tưởng
lăng xăng (đa niệm), nên Ngài dạy chúng ta niệm lục tự Di-Đà để tâm chuyên chú
vào câu niệm Phật. Đây là phương tiện nhiếp tâm, để tâm trở về nhất niệm. Nhưng
sau đó Ngài nhấn mạnh: Khi niệm Phật đến nhất tâm bất loạn, lúc mạng chung sẽ
thấy Phật Di Đà và chư Thánh chúng hiện đến tiếp dẫn. “Nhất tâm bất loạn” của
Tịnh-Độ tông có khác gì “vô tâm vô niệm” của Thiền tông; giai đoạn cuối cùng là
Phật tự tâm hiện bày, cũng chính là Đức Di-Đà tự tánh, có gì khác biệt?
Một số người hiểu lầm câu: “Đới
nghiệp vãng sanh”, cho là phàm phu tuy còn mang nghiệp, nếu biết niệm Phật
Di-Đà thì lúc chết cũng được vãng sanh về Tây phương. Thật ra, các bậc Bồ-tát
Thập địa vẫn còn nghiệp vi tế, chính các bậc ấy mới có thể mang nghiệp vãng
sanh. Kinh Di-Đà có đoạn: “Bất khả dĩ thiểu thiện căn phước đức nhơn duyên, đắc
sanh bỉ quốc”. Nếu chỉ có công phu tu hành đôi chút, không thúc liễm thân tâm,
tự do tạo tội, gieo một ít căn lành như câu niệm Phật mà có thể về Cực-lạc, hóa
ra lý nhân quả không còn là chân lý tuyệt đối nữa sao? Cho nên, dù tu theo pháp
môn nào, tự mình cũng phải nỗ lực tiến tu chứ không thể cầu xin Phật Bồ-tát hoàn
toàn làm thay cho mình. Các Ngài có thể gia bị một phần, khi tâm chúng ta thanh
tịnh, phần nào tương ưng với tâm các Ngài, mới mong lời nguyện cầu của mình có
cảm ứng.
Ý chí của Thiền giả còn phải
được hỗ trợ bằng tâm kiên cố và trường viễn. Tâm kiên cố là giữ lòng mình vững
chắc không đổi thay, không dao động trước mọi chướng ngại thử thách, chỉ một bề
tiến tu theo phương pháp mình đã thực hành có kết quả. Tâm trường viễn là giữ
lập trường từ đầu đến cuối, không do dự, không thối lui. Chúng ta từng nghe bài
kệ của Tổ Hoàng-Bá, thường được truyền tụng trong nhà thiền:
Trần lao
quýnh thoát sự phi thường
Hệ bã thằng
đầu tố nhất trường
Bất thị nhất
phiên hàn triệt cốt
Tranh đắc
mai hoa phốc tỷ hương.
Dịch:
Vượt khỏi
trần lao việc phi thường
Đầu dây nắm
chặt giữ lập trường
Chẳng phải
một phen xương thấm lạnh
Hoa mai há
dễ ngửi mùi hương.
3.) Niềm tin
Niềm tin của một hành giả tu
Thiền có phần đặc biệt: Tin rằng mình có sẵn bản tâm chân thật trong thân ngũ
uẩn hư giả này. Đó là bộ mặt xưa nay không hề thay đổi, mà nếu nhận ra và hằng
sống với nó, người tu sẽ đạt được mục đích tối hậu là giác ngộ và giải thoát,
đồng với chư Phật mười phương. Có niềm tin mãnh liệt, hành giả càng vững mạnh
về ý chí. Ý chíù và niềm tin liên hệ hỗ tương với nhau: Ý chí khiến hành giả
gắng công tu hành, tu có kết quả làm tăng trưởng niềm tin; ngược lại, có niềm
tin chắc chắn mình sẽ đến đích, hành giả như được tiếp thêm sức mạnh, ý chí
càng kiên định.
Niềm tin trong nhà Thiền không
mang tính cách thần quyền mê tín, vì luôn có trạch pháp đi đầu. Phật dạy: “Tin
ta mà không hiểu ta là phỉ báng ta”. Đạo Phật là đạo trí tuệ, nên từ lúc bước
chân vào đạo, chúng ta phải vận dụng chất xám để hiểu rõ lời Phật dạy, sau đó
suy nghiệm xem lời dạy ấy có phải là chân lý không. Cuối cùng, khi phát khởi
niềm tin, chúng ta mới gia công hành trì để một ngày nào đó, Trí vô sư bừng
sáng. Như vậy, tin mình có Phật tánh là Chánh tín, cũng là chánh nhơn tu hành
(Tín nhơn). Có tín nhơn, lập tức có nguồn lực tạo nên quả đức, tức kết quả đời
tu. Khi bí mật của pháp giới được phơi bày trọn vẹn, ta sẽ thấy sự vi diệu thù
thắng của quả đức. Địa vị thấp nhất của Thanh Văn là Tu-Đà-Hoàn, phải kiến đạo
mới khởi tu, cũng như trong Thiền tông, phải kiến tánh mới được xem như bắt đầu
cuộc hành trình; vì như thế, hành giả không sợ sai lầm hay lạc vào ngã rẽ.
4.) Nghi tình
Mới nghe qua, điều kiện này có
vẻ mâu thuẫn với niềm tin: Đã tin sao lại còn nghi? - Đây là nét đặc thù của
nhà Thiền. Theo nghĩa của năm triền cái (tham, sân, trạo cử, hôn trầm, nghi),
sự nghi ngờ làm chướng ngại và ngăn che việc tu hành. Mối nghi ở đây không phải
theo nghĩa ấy, mà là dồn hết tâm tư vào một vấn đề cốt tủy, và sống chết với
nó. Víù dụ hành giả đặt câu hỏi: “Ai cũng có Phật tánh, sao ta nhận không ra
?”. Câu hỏi này theo thời gian đúc kết thành khối (nghi đoàn), làm hành giả
luôn luôn trăn trở khắc khoải (nghi niệm), thôi thúc hành giả nỗ lực giải quyết
cho xong, quên tất cả những chuyện khác. Các Thiền sư thường dùng thủ thuật này
dồn môn đệ vào chỗ bế tắc, nên khi được thưa hỏi, các Ngài chỉ trả lời bằng một
câu không có ý nghĩa gì hết. Lúc khối nghi bùng vỡ, tự người môn đệ nhận ra
toàn bộ lời giải đáp, và suốt đời không bao giờ quên. Những câu trả lời như thế
được gọi là lời nói sinh động (hoạt ngữ); trái với lời giải đáp cặn kẽ rõ ràng,
người học trò lúc ấy có thể hiểu ra, nhưng sau đó lại quên, nên gọi là tử ngữ.
Khai thị bằng nghi tình khác với
khai thị bằng thuật tác động thẳng. Các vị Thiền sư tùy căn cơ và trình độ của
môn đồ mà có những thủ thuật thích hợp. Đối với người có căn cơ đặc biệt, hiểu
Thiền không qua trung gian ý thức suy luận mà bằng trực giác, các Ngài dùng
cách chỉ thẳng để người ấy thấy toàn triệt vấn đề một cách chớp nhoáng. Đây là
tinh thần “trực chỉ nhân tâm” thường được tán dương trong nhà Thiền, nhưng khó
có người lãnh hội. Đối với người ưa suy luận phân tích, các Ngài dồn họ vào con
đường bí cùng, tức khai thị bằng nghi tình. Thiền môn thường chú trọng đến kinh
nghiệm thực chứng hơn là tri thức và nghĩa giải, vì người hiểu Thiền ở lĩnh vực
thực chứng khác xa với người chỉ hiểu qua lý luận ngôn từ. Nhờ ý thức, con
người có thể nhận định tư duy về nhiều vấn đề; nhưng sự hiểu biết này luôn luôn
tương đối, phiến diện, không thể nào có cái nhìn xuyên suốt và thấu thể về bản
chất của muôn pháp.
IV. KẾT LUẬN
Con người luôn bị chi phối nhiễm
ô theo hai phương diện: tình và lý. Nhiễm về tình là bị tham dục thô và tế lôi
kéo, gây phiền não chướng. Nhiễm về lý tức vô minh, nhận định sai lầm về các
pháp: vô thường cho là thường, vô ngã cho là có ngã thật, khổ cho là vui, bất
tịnh cho là thanh tịnh. Không thấy lý như thật của các pháp là sở tri chướng.
Các bậc Bồ-tát ở quả vị Thập-nhất-địa đã cắt đứt sự ô nhiễm về tình, nhưng vẫn
còn ẩn tàng ô nhiễm về lý, đến địa vị Diệu giác (Phật) mới hoàn toàn chấm dứt.
Đức Phật gọi đó là “vi tế sở tri ngu”. Bồ-tát mà còn như vậy, phàm phu chúng ta
thì chướng ngại cỡ nào?
Lại nữa, tâm người thường biến
đổi theo hai chiều: thuận và nghịch. Thấy một vật vừa ý, ta khởi lòng tham muốn
chiếm lấy: đây là chiều thuận. Nếu ý muốn không được thỏa mãn, ta khởi tâm sân
hận: đây là chiều nghịch. Thuận là tham, nghịch là sân. Khi đối duyên xúc cảnh,
ta thấy biết rõ ràng mà không có một niệm phân biệt chia chẻ, đó là tâm bình
thường. Ngài Nam-Tuyền định nghĩa: “Bình thường tâm thị đạo”. Đạo là ngay ở tâm
bình thường, chứ không ở một nơi nào xa xôi. Kinh Duy-Ma-Cật viết: “Trực tâm là
đạo tràng” - Tiếp xúc với các pháp mà không khởi niệm, đó là trực tâm. Người có
trực tâm thì ngay đương xứ là đạo tràng, ngay đó là giải thoát. Như vậy, người
tu chúng ta học đạo ra sao, tu đạo thế nào để được giác ngộ và giải thoát như
Đức Phật và chư vị Tổ sư? Đó là những điều chúng ta cần suy gẫm.
Một điều cần nhấn mạnh đối với
các thiền giả, là chủ trương của nhà Thiền: Thứ nhất, phải nhận ra lẽ thật của
các pháp là vô thường, là duyên sinh, nên chúng vốn là không, vì duyên hợp nên
giả có. Đây là Bình-đẳng-tánh của tất cả các pháp. Thứ hai, phải nhận ra cái
chân thường ngay trong vô thường, cái hằng hữu ngay nơi muôn pháp sinh diệt. Đó
là Phật tánh, là chân tâm, là bản lai diện mục, ở Phật không thêm mà nơi phàm
cũng chẳng bớt. Tu hành là trở về với con người thật xưa nay của chính mình, và
giúp mọi người cùng nhận ra con người ấy; là biết phương cách và thực hành
phương cách ấy để đạt mục đích cuối cùng. Ý nghĩa tu hành cao cả như vậy, nên
Thái tử Sĩ-Đạt-Ta mới bỏ cung vàng điện ngọc, xuất gia tìm đạo thành Phật
Thích-Ca; Hoàng tử thứ ba con vua Hương-Chí ở Nam Ấn đi tu thành Tổ
Bồ-Đề-Đạt-Ma; và vua Trần Nhân Tông hành hạnh đầu đà, trở thành Sơ Tổ Trúc-Lâm
Yên-tử. Các Ngài tu trong tinh thần vô ngã vô vi nên được quả xuất thế. Chúng
ta ngày nay tinh tấn tu hành, chuyên tâm làm nhiều Phật sự, nhưng lại có ý mong
cầu kết quả, còn ý thức chấp ngã chấp pháp, nên chỉ tạo nghiệp lành, tạo phước
đức hữu vi, chứ chưa thể ra khỏi nhà tam giới.
Tóm lại, người tu Thiền nếu chỉ
học trên lý thuyết mà không từng bước Thiền tập, thì không thể nào thẩm thấu
được chất Thiền. Có thiền tập mới là thiền sinh, có thiền chứng mới là Thiền
sư. Thời gian công phu lâu mau tùy căn cơ và sự cố gắng tinh cần của mỗi người.
Sự tham lam và nóng vội muốn chứng ngộ nhanh chóng thường là chỗ sơ hở để ngoại
đạo tà sư lừa gạt. Thời gian tu hành thật ra chỉ có tính cách ước lệ. Đối với
người có thiên chất kỳ đặc, như Tổ Qui-Sơn ngộ đạo năm 23 tuổi, Sa-di Cao chỉ
hơn 10 tuổi đã tỏ ngộ lý Thiền, Lục Tổ không biết chữ nhưng nghe câu kinh Kim
Cang liền thấy được chỗ vào..., đó là những trường hợp ngoại lệ. Còn bao nhiêu
người khổ công tu tập, mấy mươi năm hành khước, được nói đến rất nhiều trong
hành trạng của các Thiền sư, là những gương sáng chúng ta cần rọi soi và suy
nghiệm. Những điều trình bày trong quyển sách này không có ý giúp thêm kiến
giải vốn đã quá dằng dặc miên man ở những người học đạo, càng không có ý làm rõ
thêm những khái niệm về Thiền, mà chỉ mong tất cả chúng ta khéo lãnh hội để áp
dụng vào công phu. Đức Phật có lần quở Ngài A-Nan: “Một người học huệ ngàn ngày
không bằng một ngày học đạo. Người tu không học đạo thì một giọt nước cũng
không tiêu”. “Học huệ” là văn tư, là kiến giải sanh diệt. “Học đạo” là nhận ra
bản tâm thanh tịnh hằng hữu của chính mình. Nếu không nhận được bản tâm, thì
người tu không trả nổi - dù chỉ một giọt nước - của đàn na tín thí. Đa văn bậc
nhất, thông minh bậc nhất trong mười đệ tử lớn của Phật mà còn bị quở trách
nặng nề như thế, thử hỏi chúng ta, nếu chỉ dựa vào một ít kiến thức sách vở đã
cho là đủ, không chịu gia công tu hành, thì liệu có đền trả được nợ áo cơm của
đàn tín hay không?
(*)Kinh Đại Niết Bàn, tập 2
trang 479: “Này Thiện nam tử ! Về phương Tây cách cõi Ta-bà này bốn mươi hai
hằng-hà-sa cõi Phật, có thế giới tên là Vô Thắng, những sự trang nghiêm xinh
đẹp trong cõi đó đều bình đẳng, như cõi Cực Lạc, như cõi Mãn Nguyệt. Hiện tại
Ta xuất hiện trong cõi Vô Thắng đó. Vì hóa độ chúng sanh nên Ta thị hiện chuyển
pháp luân nơi Diêm Phù Đề này”.