Chương 4.
Thuật Tác Động Thẳng
I. CHỈ THẲNG TÂM NGƯỜI
Trong nhà Thiền có một bài kệ
nổi tiếng, được xem như kim chỉ nam để giáo huấn môn đệ, tương truyền là của Tổ
Bồ-đề Đạt-Ma:
Bất lập
văn tự
Giáo ngoại biệt truyền
Trực chỉ nhân tâm
Kiến tánh thành Phật.
Dịch:
Không lập văn chữ
Ngoài giáo riêng truyền
Chỉ thẳng tâm người
Thấy tánh thành Phật.
Hai câu đầu trong bài kệ đã gây
nhiều ngộ nhận nơi các nhà học Phật. Có người còn chỉ trích Thiền tông là quái
thai của Phật giáo, vì cho rằng nhà Thiền chủ trương bài bác kinh điển. Lời chỉ
trích này có đúng không? Đức Phật từng bảo: “Lời
ta nói như ngón tay chỉ mặt trăng; đừng lầm ngón tay với mặt trăng”. Những
điều Phật dạy ghi trong Kinh giáo là phương tiện để chúng ta nương đó mà thấy
được chân lý, chứ văn tự ngữ ngôn không phải là chân lý đích thực. Con người
thường bị vướng mắc trên chữ nghĩa nên không hiểu những ẩn ý ngoài lời, cũng
như mãi chấp vào ngón tay nên không bao giờ nhìn thấy mặt trăng trên cao. Nhà
Thiền không lập văn tự cốt để sử dụng văn tự đúng với vai trò và tính chất của
nó, chứ không phải chủ trương dẹp bỏ Kinh giáo. Tổ Đạt-Ma khi truyền y bát cho
Tổ Huệ Khả, đâu không dạy phải dùng bốn quyển kinh Lăng-Già làm chỗ ấn tâm? Lục
Tổ Huệ Năng chẳng phải trực nhận tự tánh thanh tịnh nhờ nghe Ngũ Tổ giảng kinh
Kim-Cang? Và những ngữ lục của các vị Tổ sư Thiền, có phải đến giờ vẫn còn rất
nhiều so với các tông phái khác?
Như vậy, để khai thị cho môn đệ
và cho những người hữu duyên đến tham vấn, các vị Thiền sư đã sử dụng phương
pháp giáo dục nào?
Các Ngài có cách chỉ tâm người
một cách mạnh mẽ, chớp nhoáng và trực tiếp; cách chỉ không tìm thấy ở bất cứ
quyển kinh nào, vì thế gọi là chỉ thẳng tâm người và truyền riêng ngoài giáo
lý. Thuật tác động thẳng này là phương pháp sinh động và đầy sáng tạo của những
Thiền sư đã chứng ngộ, bắt môn đệ phải tiếp cận ngay thực tế sinh động để trực
nhận chân lý. Quả thật nó rất kỳ đặc và khó hiểu đối với người công phu yếu
kém, nhưng vô cùng lợi ích cho người có căn cơ bén nhạy.
Vì sao các Ngài thích dùng thuật
tác động thẳng để khai tâm? - Thật ra, người thầy có thể sử dụng nhiều phương
cách đối với học trò: hoặc dựa vào sách vở, hoặc dùng ngay kinh nghiệm bản
thân. Thầy cũng có thể đưa trò đến tận nơi, trực tiếp cho thấy, cho nghe, cho
tiếp xúc với chính đối tượng cần nghiên cứu, để tự người học trò nhận định và
thấu suốt vấn đề. Lối dạy và học bằng trực quan sinh động tỏ ra có nhiều kết
quả tốt, nên đã được xem là phương pháp giáo dục chủ yếu ngay từ các lớp Trung
học Phổ thông.
Một ví dụ về người chưa từng ra
khỏi xóm làng của mình. Khi nghe kể về đất nước và con người Ấn Độ, người ấy
cũng chỉ có một khái niệm mơ hồ. Hình ảnh Ấn Độ trong tưởng tượng của người ấy
đôi khi khác xa, thậm chí trái ngược với thực tế. Đối với một đất nước cụ thể
như thế mà còn khó cảm nhận, huống chi với những gì trừu tượng vô hình, thì
càng khó diễn đạt và thấu hiểu đến đâu? Đặc biệt hơn cả, đó là bản tánh thường
hằng của mọi loài chúng sanh, vốn là cái “vô
nhất vật” không thấy được bằng mắt thường, không thể trình bày bằng
ngôn ngữ, không thể hiểu bằng ý thức phân tích tư duy, thì ngay cả Bậc Thầy của
Trời người, suốt 49 năm thuyết giảng cũng chưa nói được lời nào dính dáng. Như
vậy, với tâm lão bà tha thiết, Đức Phật và chư vị Tổ sư phải làm thế nào để môn
đệ mình nhận ra gia tài vô giá sẵn có?
Kinh A-hàm có đoạn kể, một hôm Đức Phật đưa nắm lá vàng trong
tay ra và hỏi chư Tỳ-kheo: “Lá trong tay
ta nhiều hay lá trong rừng nhiều?”. Các Tỳ-kheo bạch rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Lá trong rừng nhiều vô số, còn
lá trong tay Thế Tôn thì chẳng bao nhiêu”. Đức Phật bảo: “Những điều ta nói với các ông chỉ như nắm lá trong
bàn tay, còn những gì ta biết như lá trong rừng”. Vì sao Đức Phật
từ bi lại giấu giếm chúng ta nhiều điều như thế? Cho đến các vị Tổ sư sau này,
khi được hỏi về đại ý Phật pháp, cũng chỉ trả lời bằng tiếng hét, bằng gậy đánh
hoặc bằng những câu vô nghĩa. Như vậy, các Ngài có thật tâm giáo hóa môn đệ đến
giác ngộ giải thoát? - Những cách chỉ dạy này mới nghe qua tưởng như đùa chơi,
nhưng thật sự các Ngài đã phơi bày tận xương tủy. Con người thường thích suy
luận phân tích đối với mọi sự vật hiện tượng, nên chỉ có khái niệm mơ hồ chung
quanh vấn đề, chứ hiếm khi hiểu thấu đáo về bản chất của chúng. Đã vậy, họ lại
thỏa mãn với vốn hiểu biết nôâng cạn ấy, chấp chặt đó là đúng đắn, là chân lý,
nên không thể thẩm thấu sự thật tuyệt đối. Mà sự thật tuyệt đối là cảnh giới
tâm chứng, không có văn tự ngữ ngôn nào diễn tả một cách thấu thể, càng nói
càng xa, càng tưởng tượng càng sai. Các Ngài biết rằng thế trí biện thông đôi
khi làø chướng ngại cho sự phát sinh trực giác, nên bằng một thủ thuật mạnh
bạo, chỉ một đường gươm là chặt đứt ngang dòng tư tưởng lan man dằng dặc của ý
thức. Bặt hết đường suy nghĩ, tâm trở nên rỗng không, mới có cơ hội tiếp thu
chân lý Thiền!
Một ví dụ khác, có người muốn
tìm kho báu tổ tiên, nhưng không biết đường đi nên phải nhờ người hướng dẫn.
Nếu người hướng dẫn có bản đồ kho báu, vị ấy sẽ chỉ cho anh ta từng chặng đường
theo bản đồ, để anh ta lần hồi đi đến đích. Nhưng nếu vị ấy đã từng đến đó, đã
mở cửa kho báu và đã tận mắt thấy vàng bạc châu ngọc đầy dẫy, vị ấy sẽ làm thếâ
nào? Nhất là đối với kẻ đã đứng trước cửa kho tàng mà còn ngơ ngác không thấy
lối vào, người hướng dẫn có cần dùng bản đồ hay dùng nhiều lời chỉ dẫn quanh co
nữa không? - Vị ấy chỉ cần đẩy mạnh anh ta đến thẳng nơi vàng bạc châu báu, tự
anh ta sẽ nhận ra. Các vị Thiện tri thức thuộc phái Thiền Đốn ngộ cũng làm như
thế. Các Ngài đã nhận ra và đã sống bằng thể tánh bất sanh, nên khi gặp người
nào có thể lãnh hội, các Ngài liền dùng thủ thuật chỉ thẳng bản tâm. Đây là lối
dạy để cho người THẤY chứ không phải để HIỂU, nghĩa là giúp người nhận chân sự
thật bằng trực giác chứ không qua ý thức phân biệt nhị nguyên. Lối dạy này
không dựa vào văn tự kinh điển, không theo phương pháp giáo dục từ chương, nên
không lập trên chữ nghĩa và ngoài giáo riêng truyền. Có thể nói, đây là những
phương tiện quyền xảo của những Thiền sư đã thấy Đạo, nên rất linh hoạt, muôn
màu muôn vẻ, thay đổi tùy trường hợp, và chỉ thích ứng với đương cơ. Điều này
giải thích tại sao trong đại chúng đông đảo mà thường chỉ có một người khế hội.
Trong các kinh điển Đại thừa, dù
Đức Phật giảng dạy dưới nhiều hình thức, khi rõ ràng khi ẩn dụ, lúc chỉ thẳng
lúc dùng những hình ảnh huyền diệu khó tin, nhưng tựu trung có một điểm nhất
quán: Khởi đầu, Đức Phật thường chỉ thẳng cho những bậc thượng trí trực nhận tánh
giác bản lai; sau đó, Ngài mới vì hàng trung - hạ căn mà diễn bày cách tu hành
tiệm thứ. Như trong kinh Lăng Nghiêm, mở đầu Phật dạy về Chân tâm thường trụ, kế đến mới nói về
chánh nhân và trợ nhân tu hành. Kinh Viên Giác, hai chương Văn Thù và Phổ Hiền
dành cho hàng căn cơ bậc thượng, những chương sau mới dạy về thứ lớp tu tập.
Như vậy, bản ý của Ngài là luôn muốn người nghe lãnh hội ý nghĩa uyên áo của
Đạo bằng lối đi trực tiếp từ tâm qua tâm. Đây là cách truyền đạt theo đường tâm pháp nội tu hay ngoại giáo tâm truyền, khiến đương cơ
có thể thẩm thấu chân lý một cách nhanh chóng và hiệu quả nhất. Nhưng rất tiếc
là ít người có đủ phước duyên lãnh hội, nên Ngài phải đưa ra những pháp tu theo
thứ lớp, gọi là nội giáo công truyền,
để mọi người đều tìm được pháp tu thích hợp cho mình. Về sau, các vị Thiền sư
cũng tùy căn cơ trình độ của môn đệ mà dùng nhiều cách khai tâm khác nhau. Đọc
Thiền sử, chúng ta thấy lạ lùng vì lối dạy của Tổ Hoàng-Bá: Đối với Ngài
Lâm-Tế, Tổ chỉ dùng gậy đánh khi được hỏi về đại ý Phật pháp; nhưng khi Tướng
quốc Bùi Hưu hỏi “Thế nào là Phật ?”,
Tổ lại giảng rõ ràng: “Tức tâm là Phật,
vô tâm là Đạo”. Đó là vì người mà chỉ dạy tận tình, không chút gì
giấu giếm. Tướng quốc là cư sĩ, bận trăm công ngàn việc, đâu có thì giờ ôm ấp
trăn trở về một vấn đề, cũng không thể đi tham vấn nhiều nơi, nên Tổ phải dùng
nhiều lời để trình bày về điều không thể
trình bày. Còn đối với Ngài Lâm Tế, Tổ biết là một bậc pháp khí,
nên bắt Ngài ngày đêm không yên với mối nghi
ngày càng lớn “Vì sao hỏi một câu chí lý
như vậy mà bị đánh? Hỏi câu ấy có lỗi hay không lỗi?”. Nhờ Ngài Đại
Ngu điểm nhẹ một cái, khối nghi bùng vỡ, thế là đại ngộ, và dòng Thiền Lâm Tế
vẫn còn luân lưu tươi nhuận mãi đến ngày nay.
Trong hành trạng của các Thiền
sư, đôi lúc chúng ta thấy việc đại ngộ của các Ngài sao quá đễ dàng, chỉ cần vị
Thầy nói một câu hay làm một động tác là trò lãnh hội yếu chỉ. Thật ra, vị ấy
đã bao năm ôm mối nghi, bao lần quảy gói đi hành khước, chúng ta làm sao biết
được? Chỉ ở thời điểm cuối cùng, đủ duyên gặp thiện tri thức, thì như trái cây
đã chín, chỉ một làn gió nhẹ cũng làm rơi rụng, nhờ Thầy dùng thủ thuật thích
hợp, vị ấy chợt nhận ra bản tâm hằng hữu xưa nay. Thủ thuật ấy chỉ đặc biệt phù
hợp với đương cơ, chỉ ích lợi cho riêng đương cơ mà thôi, chứ không phải áp
dụng được cho tất cả mọi người.
II. THẤY TÁNH THÀNH PHẬT
Lục Tổ chủ trương “Chỉ luận kiến tánh”. Nhà Thiền đề cao,
kiến tánh là điều kiện tiên quyết để vào Đạo. Có thể nói, sinh mạng của Thiền
là khai ngộ, vì nếu chưa một lần mở mắt trí tuệ thì trong đời tu, có thể gặp
nhiều chướng duyên phiền não khó lòng vượt qua nổi. Trong tứ quả Thanh Văn, địa
vị thấp nhất là Tu-đà-hoàn, cũng phải kiến đạo mới bước vào dòng Thánh, chỉ còn
bảy lần sinh tử rồi không còn trở lui cảnh giới lục đạo. Theo Giáo môn, Bồ tát
Sơ địa là quả vị đạt chân tâm thường trụ, không bao giờ thối chuyển. Nhà Thiền
cũng tương tự, hành giả đã kiến tánh tức đủ chánh nhân thành Phật. Đối với các
vị, “ngộ” là con đường trực
tiếp để đưa các vị đến cảnh giới vút cao của tâm linh, là một cuộc cách mạng từ
đời sống nội tâm. Giác ngộ tột cùng là cuộc cách mạng toàn triệt, vị ấy sẽ tự
biết tạo sinh kế cho riêng mình, không ai ảnh hưởng khuynh loát được họ. Họ
biết sống và làm việc thế nào để tự lợi và lợi tha. Họ hướng dẫn người khác
bằng kinh nghiệm tự thân, nên không theo một khuôn mẫu nào cố định. Người con
lúc trưởng thành không còn nhờ vã cha mẹ mà tự lo lấy cuộc sống cho mình, người
học trò giỏi cũng như vậy. Họ không rập khuôn theo thầy mà biết đưa con đường
thầy vạch ra đến mục tiêu xa hơn. Tự họ sẽ vươn lên và vượt qua mọi khó khăn
trở ngại. Tự họ sẽ mở ra những cuộc phiêu lưu thầm lặng, và đó chính là điều
kiện giúp họ luôn sống trong thế giới sáng tạo của riêng mình. Phát minh sáng
tạo là sức sống và đặc chất của Thiền. Một Thiền giả có óc sáng tạo không bao
giờ đi theo lối mòn của truyền thống. Họ có khả năng tư duy độc lập, và bằng
kinh nghiệm kiến chiếu và tiềm năng thiên tư, họ làm phong phú thêm truyền
thống ấy.
Hermann Hesse trong Câu chuyện dòng sông đã đưa hình tượng
một Tất Đạt Đa có thể biểu trưng cho loại người phiêu lưu sáng tạo này. Chàng
đã đến với Cồ Đàm, Bậc giác ngộ, nhưng không dừng lại ở đó để tìm chân lý, vì
chàng biết rằng: “Không ai tìm được giải
thoát qua những lời chỉ giáo. Lời chỉ giáo của Đấng Giác ngộ bao hàm rất nhiều
điều, nhưng có một điều mà giáo lý sáng sủa và giá trị ấy không chứa đựng. Đó
là những gì huyền bí mà Đấng Giác ngộ đã chứng nghiệm”. Vì không
tìm được giải thoát qua lời dạy, nên Tất Đạt phải lao vào cuộc đời, học tất cả
những lạc thú và khổ đau trần thế, trải qua bao nhiêu bài học về sự điên rồ của
một cuộc đời vô vị trống rỗng. Cuối cùng, trong tiếng OM
của dòng sông, chàng đi vào chiều sâu thăm thẳm của chính tâm hồn mình để trực
nhận con người hằng hữu. Từ đó, chàng nhận ra, trong từng tảng đá, từng đóa hoa
dại..., nơi nào cũng hiển hiện pháp thân thường trụ. Đây là ý nghĩa của hoa sen
mọc từ vũng bùn rồi nở hoa giữa hư không, của Niết-bàn trong trần gian khổ ải.
Nhưng có khi nào chúng ta thắc
mắc: “Tánh là gì? Vì sao kiến tánh được
xem là mục tiêu tối hậu của đời tu?”. Đức Phật trải qua ba
a-tăng-kỳ kiếp tu Bồ-tát hạnh hành Bồ-tát đạo, đến khi tự giác - giác tha -
giác hạnh viên mãn mới thành Phật. Nay nhà Thiền lại nói: “Kiến tánh thành Phật” thì quả là khó
tin khó nghĩ. Chúng ta phải hiểu những vấn đề này như thế nào?
Nếu có người hỏi: “Nước là gì?”, ta phải trả lời sao cho
đúng? Nước là biển hay là sông, là ly nước ta đang cầm hay cái hồ trước mặt?
Nếu cho nước một hình tướng của sông của biển, ta đã giới hạn một pháp không
thể giới hạn. Mặt khác, dòng sông đang trôi chảy, ta không thể xác định điểm
nào là sông, cũng không nên chận đứng dòng sông để tìm bản chất của nước. Tánh
cũng như thế, không có hình thức nên không bị sinh diệt, nhưng không thể tìm
tánh ở ngoài sự lưu nhuận sinh diệt.
Một ví dụ khác, một bó hoa có
nhiều bông hoa, mỗi bông hoa có hình dạng và màu sắc khác nhau. Nhưng chúng có
một điểm chung nhất: Tất cả đều do các duyên tụ hợp. Chúng do duyên hợp nên
bình đẳng ở thể tánh không. Tuy thể tánh không nhưng tùy duyên mà có dạng sắc
khác nhau. Tánh là bình đẳng, không phức tạp đa thù, nhưng rời cái đa thù phức
tạp thì không thể thấy tánh. Đối với các pháp, chúng ta hay phân tâm trên nó,
do ý thức phát sinh nhiều vọng tưởng điên đảo, nên không thấy được Bình đẳng tánh của chúng. Lại nữa, nếu
chúng ta quán chiếu các pháp mong thấy được tự thể không, đó là ta đã đặt tâm năng quán trên cảnh sở quán, không thể nhận chân được
sự thật. Tâm năng quán và cảnh sở quán đều thuộc về tánh, nhưng nếu phân ranh
cái này với cái kia, dùng năng quán sở, thì đã xa tánh muôn trùng! Khi tâm ta
hoàn toàn thanh tịnh rỗng rang, không có một niệm khởi mà vẫn biết rõ ràng các
pháp, tự nhiên tánh hiện bày, chưa từng thiếu vắng.
Như vậy, tánh là bình đẳng nhất
như, là năng lực sống lặng lẽ mà hằng tri, là suối nguồn linh động trôi chảy
trong vạn pháp. Toàn bộ vũ trụ đều không ngoài tánh. Ứùng dụng vào thế gian
sinh diệt là diệu dụng, là phần nổi của tánh, cũng như những đợt sóng trên mặt
đại dương. Nhưng ngay trong tự thân của biển, dù có những khi biển động, vẫn là
sự bình ổn, vẫn là trật tự nhất định, cũng như thể tánh vốn thanh tịnh như như.
Chúng sanh lăn lộn trong sáu đường, lúc mang hình thức này, khi có bộ mặt khác,
nhưng tựu trung đều là thể tánh thanh tịnh này.
Thấu triệt rằng, tất cả các pháp
dù biến chuyển cách mấy cũng không ra khỏi cội nguồn nguyên thủy bất di dịch,
nên Thiền tông chủ trương ngay nơi động mà khai tâm. Chủ động khai tâm là diệu
thuật được Đức Phật sử dụng lần đầu nơi hội Linh Sơn. Hoa lưu động khẩu ưng trường tại. Một
cành sen đưa lên, cả hội chúng ngơ ngác, chỉ riêng Ngài Ca Diếp mỉm cười ! Nụ
cười biểu hiện một thực tại vĩnh hằng - không có gì đã là, không có gì sẽ là,
muôn pháp đều thực tại, hiện hữu nơi đương xứ. Tâm Phật và tâm Ngài tương ứng,
nên Phật truyền trao tâm ấn.
Tâm truyền tâm không phải là có một cái tâm của thầy truyền qua tâm trò, mà có
nghĩa là truyền riêng ngoài giáo, thầy dùng diệu thuật ngoài kinh điển chữ
nghĩa chỉ thẳng cho trò nhận ra tự tánh hằng tri hằng giác của mình. Khi trò có
trình độ tâm linh tương ứng với thầy, cái thấy của thầy và trò không khác, thầy
liền ấn chứng. Đây là ý nghĩa của từ “truyền
tâm ấn” trong nhà Thiền.
Tóm lại, như tất cả đợt sóng
trên biển đều là nước, Thánh hay phàm cũng cùng một mảnh đất tâm mà lưu xuất.
Quên bản tâm chạy theo vọng tưởng, mải mê tạo nghiệp là chúng sinh; nhớ lại bản
tâm và hằng sống với nó là giải thoát, là Phật Bồ tát. Nói khác đi, mê tự tánh
là chúng sinh, thấy tánh là Phật. Như vậy, Thánh và Phàm, Phật và chúng sinh
cách nhau bao xa? - Chỉ khác nhau ở chỗ nhớ hay quên tự tánh. Do đó, thấy bản
tánh hằng hữu là chánh nhân thành Phật; hành giả nỗ lực gột sạch tập khí, bào
mòn bản ngã, dứt khoát thành tựu Phật quả không nghi. Câu kệ “Thấy tánh thành Phật” quả thật không
có gì quá đáng, chỉ vì hiểu sai ý của người xưa nên có sự tranh luận phản bác
mà thôi.
Một điều chúng ta cần hiểu rõ,
đó là điểm khác nhau cơ bản trong hai pháp Thiền: Pháp thứ nhất chủ trương chận đứng mọi hoạt động tâm lý,
quét sạch mọi vọng niệm, tìm sự thanh tịnh lặng lẽ và an thân lập mạng ở đó.
Phương pháp này thích hợp với nhiều người, nhất là trong thời đại công nghiệp
hiện đại tiến đến nền kinh tế hậu công nghiệp, trong đó tiềm lực trí tuệ đóng
vai trò một thứ hàng hóa. Con người mãi quay cuồng và bị lôi kéo theo đà phát
triển vật chất, từ đó gặp nhiều phiền não và bất như ý trong cuộc sống. Vì thế,
họ muốn dẹp trừ vọng tưởng để có sự bình ổn nội tâm, cuối cùng đạt đến mức vắng
lặng an nhiên. Lối tu này giúp con người trở nên thánh thiện, nhưng là trạng
thái si định, ít có trí tuệ nên dễ đưa đến thiên chấp cực đoan. Pháp Thiền thứ hai tức Thiền Đốn ngộ,
xem Thiền như một phương tiện giúp hành giả nhận ra bản tâm. Lúc đầu do còn đa
niệm, hành giả phải buông bỏ vọng tưởng, nhưng xem sự ức chế này như một cách
để thấy được lẽ thật. Sau khi thấy lẽ thật rồi thì không đặt vấn đề vọng hay
chơn nữa, vì cả hai đều cùng một thể tánh, luân phiên đắp đổi cho nhau. Cũng
như một kẻ tội đồ, không phải đang tiến hóa trên đường trở thành Phật, mà Đức
Phật tiềm năng đã sẵn có trong anh ta từ thuở nào. Thế giới này không phải bất
toàn và đang từ từ chuyển đổi để đạt đến toàn thiện, mà trong từng phút giây nó
đã hoàn hảo. Thiền giả khi có cái nhìn thấu thể vào tận cùng uyên nguyên của
cuộc sống, sẽ thấy trong các pháp vô thường đã có sẵn cái chân thường, trong sinh
diệt đã có sự sống vĩnh cửu. Đây là nét độc đáo của Thiền Đốn-ngộ mà ít người
chấp nhận được. Nhưng nếu ai có thể thưởng ngoạn nét đẹp này, sẽ tiến rất nhanh
trên đường đạo. Vì vậy có thể nói, Thiền Đốn-ngộ là đường thẳng tắp chim bay,
là tinh ba của Đạo, là đóa kỳ hoa cuối cùng trên cây Phật giáo.
III. MỘT SỐ THỦ THUẬT KHAI TÂM
Những chuyện kể ra sau đây,
trích từ hành trạng của các Thiền sư, có tính cách gợi ý để chúng ta tự mình
khám phá. Do mỗi người có cách nhận định khác nhau, nên sự trình bày trong phần
này không nhất thiết giống hoàn toàn với ý người đọc. Một điểm đặc biệt, những
vị đã triệt ngộ thì toàn thân đều là Đạo, nên mỗi cử chỉ lời nói của các Ngài
đều có thể là thủ thuật khai tâm. Vì thế, các môn đệ phải luôn chú ý từng cách
biểu hiện của Thầy để nắm bắt kịp thời những gì Thầy muốn truyền đạt. Khi nhận
được lời nói trong vô ngôn thì
pháp giới hiển lộ chân tánh, còn giấu giếm điều gì?
Trong kinh diễn tả khi Đức Phật
thuyết pháp, đại địa chấn động sáu cách. “Đại địa” là thân tâm người nghe, “chấn
động sáu cách” là sự biến chuyển kỳ diệu nơi sáu căn. Đây là trạng thái đột
biến của người bắt đầu nhập Đạo. Do sáu căn là nguồn gốc sinh tử nếu mải mê
đuổi theo sáu trần, nhưng cũng là nguồn gốc giải thoát nếu biết phản tỉnh nhận
ra tự tánh, nên các Thiền sư thường nhắm vào sáu căn để khai tâm. Vì tự tánh
vốn rỗng rang không hình tướng, lại biểu hiện sức sống ở sáu căn, nên muốn nhận
ra cái không hình tướng, phải khéo nhờ phương tiện sáu căn (Nhà Thiền thường
gọi là sáu cửa) này.
Nhắc lại tích Niêm hoa vi tiếu nơi hội Linh Sơn. Vì
sao Ngài Ca Diếp mỉm cười khi Đức Phật đưa cành hoa sen lên? Vì sao ngay đó Đức
Phật bảo: “Ta có chánh pháp nhãn tạng,
Niết-bàn diệu tâm, thật tướng vô tướng, nay trao phó cho Ca Diếp”? Câu
chuyện này diễn giải đầy đủ ý nghĩa của cụm từø “Kiến sắc minh tâm”. Ngài Ca Diếp nhìn hoa sen (sắc), nhận
ra Tánh thấy là diệu dụng của
bản tâm. Tâm Thầy và tâm trò không hai không khác, nên Thầy ấn chứng cho trò.
Sau này, chư Tổ thường áp dụng nhiều thủ thuật tương tự để đương cơ trực nhận
bản tâm: Câu Chi giơ ngón tay, Cảnh Thanh dựng phất tử, Bá Trượng đưa than lửa
cho Qui Sơn... Từ nhãn căn nhận ra Tánh thấy gọi là cửa Văn Thù, một trong hai
cửa thường được sử dụng (cửa kia là nhĩ căn, cửa Quan Âm), vì đây là hai căn
tiếp xúc nhiều nhất với trần cảnh, dễ bị lôi cuốn nhưng cũng dễ xoay lại chính
mình.
Đến Ngài A-Nan, lại ngộ bằng Tánh nghe. Một hôm Ngài hỏi Tổ Ca
Diếp:
- Khi Thế Tôn phó chúc và truyền y kim lan cho sư huynh, còn truyền pháp
riêng gì nữa chăng?
Tổ Ca Diếp liền gọi:
- A-Nan !
Ngài ứng thinh:
- Dạ.
Tổ bảo:
- Cây phướn trước chùa ngã lật
ngược.
Ngài A-Nan nhân đây tỏ ngộ.
Thủ thuật gọi, hay dùng tiếng để
đương cơ trực nhận Tánh nghe cũng được nhiều vị Thiền sư áp dụng: Tổ Lâm Tế
hét, Ngài Qui Tông gõ đỉnh diễn tả sức diệu trí Quan-Âm. Ngài Linh Mặc tham vấn
Thiền sư Thạch Đầu, tự hẹn nếu một câu khế hợp thì ở lại, không khế hợp thì ra
đi. Khi hỏi đáp thấy mù mịt không hiểu, Ngài từ giã. Sư chờ lúc Ngài ra cửa,
gọi lớn: “Xà-lê!”. Ngài quay
nhìn lại, Sư bảo: “Từ sanh đến tử chỉ là
cái ấy, xoay đầu chuyển não làm gì?”. Ngài Linh Mặc đại ngộ. Trước
khi gọi, ai đang đi? Ai nghe gọi? Ai xoay đầu? Trước sau cũng chỉ là “cái ấy”!
Khai thị qua thân căn, chúng ta nghe chuyện Ngài Văn
Môn xin yết kiến Thiền sư Mục Châu. Sư mở cửa, nắm đứng lại và bảo: “Nói! Nói!”. Vân Môn suy nghĩ liền bị xô
ra, một chân còn trong ngạch cửa. Mục Châu đóng ập cửa lại, nghiền dập bàn chân
Vân Môn. Vân Môn đau quá la to, bỗng nhiên đại ngộ. Biết đau đó là người nào?
Ngài Bá Trượng lúc còn là môn đệ
của Mã Tổ, một hôm theo hầu Tổ dạo vườn. Thấy bầy vịt trời bay qua, Tổ hỏi: “Cái gì vậy?”. Ngài trả lời: “Bầy vịt trời”. Lát sau Tổ hỏi: “Đi đâu rồi?”. Ngài thưa: “Bay qua rồi”. Nếu ngay đây nhận ra
Tánh thấy thì Ngài đâu bị Tổ
nắm mũi vặn một cái đau thấu trời xanh. Khi Bá Trượng đau quá la lên, Tổ bảo: “Sao không nói bay qua đi?”. Nhân cái
đau, Ngài liền tỏ ngộ. Cái gì biết có bầy vịt trời, cái gì biết đau, cái đó đâu
từng mất?
Nhờ hương trần nhận ra tự tánh, có câu chuyện nhà nho Hoàng
Sơn Cốc, học đạo với Thiền sư Hối-Đường Tổ-Tâm. Sư bảo: “Bên Nho gia nói: Mọi việc rõ ràng, đâu có giấu giếm
gì?”. Hoàng mở miệng định nói, Sư ngăn lại. Như vậy nhiều lần. Cuối
cùng, Sư dẫn Hoàng lên núi, thấy hoa quế nở rộ, thơm ngát cả một vùng. Sư hỏi: “Ông có nghe mùi hương hoa quế không ?”. Hoàng
gật đầu. Sư nói: “Đâu có giấu giếm gì ?”.
Hoàng chợt ngộ, đảnh lễ tạ ơn.
Ngài Huệ Hải đến tham vấn Mã Tổ.
Tổ hỏi: “Ông đến đây cầu việc gì?”. Ngài
thưa: “Con đến cầu Phật pháp”. Tổ
nạt: “Kho báu nhà mình chẳng đoái hoài,
bỏ nhà chạy tìm cái gì? Ta trong ấy không có một vật, cầu Phật pháp cái gì?”. Ngài
đảnh lễ thưa: “Cái gì là kho báu trong
nhà của Huệ Hải?. Tổ bảo: “Cái
ông hỏi Ta đó!”. Ngay đó, Ngài Huệ Hải chợt nhận ra bản tâm. Nếu
không có kho báu trọn quyền sử dụng, làm sao biết thưa hỏi nói năng? Đây há
chẳng phải nhờ động lưỡi mà
nhớ lại tánh giác hằng hữu đó sao?
Khai thị nhờ ý căn là những câu chuyện thường truyền
tụng trong nhà Thiền. Tổ Bồ-đềø Đạt-Ma bảo Ngài Thần Quang: “Đem tâm ra ta an cho!”. Khi Ngài Thần
Quang thưa: “Con tìm tâm không được”. Tổ
bảo: “Ta đã an tâm cho ngươi rồi!”.
Hoặc lời dạy đơn giản của Lục Tổ lúc Ngài Huệ Minh đuổi theo giành y bát: “Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, cái gì là bản lai
diện mục của Thượng tọa Minh ?”. Khi không còn suy nghĩ lăng xăng
phân biệt, tâm lúc đó lặng yên; lặng yên nhưng hằng rõ biết mọi việc xung
quanh. Cái biết đó là gì?
Chúng ta thấy, những lối khai
tâm như thế này nhằm khơi nguồn trí tuệ sắc bén phát sinh từ tự thân hành giả.
Muốn đương cơ đến được chỗ bản nhiên tĩnh lặng mà thường biết, không có con
đường nào ngắn hơn đường truyền từ tâm qua tâm. Đây là lối đi riêng, truyền
thừa ngoài giáo điển, đòi hỏi người trò phải có trực giác bén nhạy và căn cơ
đặc biệt, người Thầy đã liễu ngộ lý Thiền, biết khế cơ, khế thời để giúp trò khám
phá những điều kỳ diệu trong mảnh đất tâm. Khi trò đã vén mở bí mật ngàn đời
sẵn có ấy, trò có cách trình lên Thầy chỗ sở đắc của mình, và Thầy cũng có cách
riêng công nhận cái thấy của hai Thầy trò không khác. Nhà Thiền gọi là ấn chứng, truyền tâm ấn hoặc tâm ấn tâm. Chúng ta hãy nghe những
đoạn đối đáp tiêu biểu:
Một ngày nọ, Ngài Huệ Khả thưa
cùng Tổ Đạt-Ma: “Tâm con đã bặt hết các
duyên”. Tổ bảo: “Coi chừng
rơi vào không”. Ngài đáp: “Rõ
ràng thường biết, nói không thể đến”. Tổ ấn chứng bằng câu: “Ôâng như thế, ta như thế, chư Phật cũng như thế!”.
Ngài Huệ Năng, dù vẫn còn là cư
sĩ, đã được Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn bí mật gọi vào thất giảng kinh Kim Cang, đến
đoạn: “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”,
Ngài hoát nhiên đại ngộ, kêu lên: “Đâu
ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh! Đâu ngờ tự tánh vốn không sanh diệt! Đâu ngờ tự
tánh vốn tự đầy đủ! Đâu ngờ tự tánh vốn không dao động! Đâu ngờ tự tánh hay
sanh muôn pháp!”. Ngũ Tổ biết Ngài đã kiến tánh, bảo rằng: “Chẳng biết bản tâm, học pháp vô ích. Nếu biết được
bản tâm mình, thấy bản tánh mình, tức gọi là Trượng phu, là Thầy của Trời
người, là Phật”. Cư sĩ Huệ Năng được truyền y bát, trở thành Thiền
Tổ Huệ Năng - Tổ thứ sáu Thiền tông Trung-Hoa.
Trường hợp Ngài Lâm Tế lại càng
kỳ đặc. Người khai tâm là Tổ Hoàng Bá, nhưng phải nhờ Thiền sư Đại Ngu điểm
nhãn mới đại ngộ, nên trình kiến giải với Thiền sư Đại Ngu bằng một cách không
ai dám làm: Sau ba lần hỏi về đại ý Phật pháp đều bị Tổ cho ăn gậy, Ngài Lâm Tế
khóc từ giã Tổ ra đi, vì cho là mình không có duyên ở trong pháp hội của Tổ. Tổ
chỉ cho Ngài lên nương nhờ Thiền sư Đại Ngu. Được Sư hỏi, Ngài thưa: “Con ba lần thưa hỏi Hòa thượng Hoàng Bá về đại ý
Phật pháp, ba lần đều bị đánh. Không biết con có lỗi hay không lỗi?”.
Sư bảo ngay: “Hoàng Bá thật là tâm lão bà
tha thiết, vì ngươi chỉ chỗ tột cùng. Ngươi còn ở đây nói có lỗi không lỗi!”.
Ngài Lâm Tế ngay đây đại ngộ, thốt lên: “Vậy
thì Phật pháp của Hoàng Bá rất ít!”. Sư nắm lại bảo: “Vừa rồi nói có lỗi - không lỗi, giờ lại nói Phật
pháp của Hoàng Bá rất ít. Ngươi thấy đạo lý gì, nói mau !”. Ngài
Lâm Tế lặng thinh, thoi vào hông Sư ba cái. Sư xô ra, cười rằng: “Thầy của ngươi là Hoàng Bá, không can dự gì đến
ta!”. Thấy được chỗ tột cùng, Ngài Lâm Tế còn có cách gì diễn đạt,
ngoài việc thoi vào hông người đã giúp đỡ mình? Và Thiền sư Đại Ngu, bằng cử
chỉ và lời nói tưởng không dính dáng gì đến lý Thiền, đã ngầm chỉ ba điều quan
trọng: Thứ nhất, “có lỗi -
không lỗi” là hai bên, không kẹt hai bên là thấy Đại ý Phật pháp. Thứ hai, ấn chứng cho Ngài Lâm Tế; và Thứ ba, chứng tỏ đạo đức của một vị
Thiền sư - Thầy của ngươi là Hoàng Bá chứ
không phải ta; muốn báo đáp ân Thầy, nên trở về Hoàng Bá. Câu
chuyện như một vở kịch đầy chất đạo và chất thơ, trong đó có sự gắn bó chặt chẽ
giữa các nhân vật: Tổ Hoàng Bá - Ngài Tri sự Trần Tôn Túc - Thiền sư Đại Ngu -
Ngài Lâm Tế. Ngài Trần Tôn Túc là đạo diễn, thúc đẩy tốc độ vở kịch lên đến cao
trào (bắt đầu là xúi Ngài Lâm Tế lên hỏi Tổ ba lần, sau cùng xúi Ngài từ giã Tổ
trước khi ra đi). Thiền sư Đại Ngu quả thật là tri kỷ của Tổ, nhờ Sư nên thâm ý
của Tổ mới được tỏ sáng. Nhưng khi Ngài Lâm Tế bừng ngộ, Sư không lưu lại để
giúp mình mà bảo Ngài về trả ơn Tổ.
Chúng ta thấy, những cách khai
tâm và ấn chứng như thế này thật độc đáo. Thầy nhằm khơi nguồn trực giác phát
sinh tri kiến như thật cho trò; và trò, đến khi ngộ rồi, không bao giờ quên
nữa. Thời nay, chúng ta được nghe lý giải nhiều, nên có kiến thức khá về Thiền.
Nhưng càng có kiến thức, càng chấp vào kiến thức thì càng khó khai ngộ; hoặc có
giải ngộ cũng chỉ lờ mờ hoặc lóe sáng rồi tắt như ánh chớp trong đêm đen. Tuy
nhiên, trong thời đại khoa học, mọi việc đều phải được phân tích, chứng minh cụ
thể. Nếu các Thiền sư đời nay dùng những ngôn từ quanh co khó hiểu hoặc những
hành động kỳ quặc lạ đời, thì không thuyết phục được ai mà càng làm môn đệ hiểu
lầm, sanh chướng ngại trên đường tu. Do đó, trong tinh thần tùy duyên mà bất
biến, bất biến nhưng tùy duyên, các Ngài phải sử dụng nhiều phương tiện thích
hợp để nhiếp phục người, giúp người tiến đạo nghiêm thân. Thiền tông nhờ thế,
dù trải qua mấy ngàn năm lịch sử vẫn luôn hiện sinh, luôn sống động trong ý
nghĩa khế lý, khế cơ và khế thời.
Một điều rất quan trọng mà chúng
ta cần lưu ý: Những gì chúng ta đã tiếp thu được, dù là những vấn đề cốt lõi
của Thiền tông, đều chỉ được truyền trao từ người khác chứ chưa phải của báu
trong nhà. Muốn hoàn toàn thể nhập tâm Thiền và từ tâm ấy lưu xuất nhiêu ích
quần sanh, chúng ta phải tự mình dấn thân, tự mình khai phá vào cõi miền sâu
thẳm của tâm thức. Ngay khi chúng ta đã hòa mình trọn vẹn vào hoàn cảnh của các
vị được Thiện tri thức chỉ dạy, đã kể trong những câu chuyện trên, và tâm chúng
ta đã có cuộc tao phùng kỳ thú với tâm của các Ngài, chúng ta cũng phải nhớ kỹ
rằng: Nhận ra tánh nghe, Tánh thấy hay
Tánh biết vọng, đó mới chỉ là mặt trăng thứ hai!
Vậy mặt trăng thật ở đâu?
Chúng
ta hãy cùng tĩnh tâm, lắng lòng xem thử. Nếu chưa nhận ra mặt trăng thật, thôi
thì nên tiếp tục đọc chương cuối cùng của quyển sách này, chương “Tâm Thiền”.