Chương 6.
Tâm Thiền
I. TỪ MỘT CÂU CHUYỆN...
Ngày xưa, có một chàng thanh
niên con nhà Nho giáo. Chàng là người thông minh, học rộng biết nhiều, nổi
tiếng khắp vùng với tài biện luận thi phú. Chàng tự hào với vốn kiến thức của
mình, cho rằng không ai qua mặt nổi. Vì thế, khi triều đình ban chiếu mở khoa
thi, chàng hăng hái sửa soạn lên đường, chắc chắn sẽ chiếm giải Trạng nguyên.
Gia đình và làng xóm đưa chàng một đoạn đường, ai nấy đều hy vọng một ngày
không xa, được đón chàng vinh quy bái tổ.
Ngày đi đêm nghỉ, hôm ấy chàng
đến một khúc sông rộng. Cô lái đò đưa chàng qua sông, thấy chàng tướng mạo hơn
người nên hỏi thăm, biết chàng lai kinh ứng thí. Chuyến đò ngang khá đông
khách, cô lái muốn thử tài chàng nên thưa:
- Được biết người là bậc anh
tài, thiếp tôi muốn được học hỏi thêm. Có câu đối này, thiếp tôi xin người đừng
tiếc lời.
Chàng hơi ngạc nhiên nhưng cũng
mỉm cười:
- Tôi không ngờ cô nương đây lại
rành việc văn chương. Nhưng tôi tin cô nương sẽ không làm khó được tôi đâu. Xin
cứ ra câu đối.
Cô lái đò cao giọng đọc:
- “Hỏa tại thạch trung, trầm
tích thủy, thiên niên bất tuyệt” (Lửa ở trong đá, chìm dưới
nước, ngàn năm không tắt).
Chàng sĩ tử sửng người, không
thốt được lời nào. Một phần vì không ngờ cô lái đò quê lại có kiến thức như
thế; nhưng phần lớn, bởi vì... câu đối quá khó so với tưởng tượng của chàng!
Lời văn trau chuốt, ý tứ lại sâu xa, thật làm người ta bái phục. Đối lại từng
chữ thì khả dĩ, nhưng làm sao hiểu được tận cùng ý nghĩa của câu để có trả lời
tương xứng? Chàng cứ ngồi lặng thinh suy nghĩ mãi, không biết đò vẫn trôi,
không biết đã đến bến và khách đã đi hết. Chàng không biết ai đưa mình lên bờ,
để mình ngồi ở đó. Chàng cũng không biết người ta đến với chàng, lay gọi chàng,
đưa thức ăn cho chàng rồi lần lượt bỏ đi khi thấy chàng không có một chút phản
ứng. Thời gian cứ thế trôi qua, và chàng vẫn ngồi đó, bất động.
Thân xác chàng như bị tê liệt,
nhưng trí óc chàng vẫn quay cuồng theo câu đối. Câu đối như một tấm lụa đen dài
bay lượn trước mắt chàng, cuốn hút tâm trí chàng vào trong vũ điệu ma quái của
nó. Tấm lụa đen càng lúc càng trải rộng, tốc độ quay càng lúc càng nhanh; chàng
thấy mình như một mảnh kim loại nhỏ bị khối nam châm đen hút chặt, cả tinh thần
và thể xác đều dập vùi tơi tả theo đà quay tít và xoáy tròn của một cơn gió
lốc. Trời đất bỗng nhiên tối sầm, một cái gì siết chặt lấy đầu chàng. Chàng
càng vùng vẫy, nó càng siết mạnh hơn. Cuối cùng, tất cả vỡ tung, một tiếng nổ
kinh hồn vang lên, một cơn đau khốc liệt xé nát toàn thân chàng. Chàng hét lên
một tiếng, và như bị một lực vô hình hút xuống vực sâu đen ngòm thăm thẳm...
Từ đó, vào những đêm không trăng,
người dân trong làng nghe vang lên từ dòng sông những tiếng kêu kỳ lạ. Tiếng
kêu như than thở, như tiếc nuối, như uất hận, hòa với tiếng nước rạt rào vỗ vào
bờ thành một bản bi ca ghê rợn. Và trong cái hòa thanh bất tận ấy là một giọng
vút cao, đọc lên câu đối của cô lái đò lúc trước. Người làng biết rằng, chàng
sĩ tử vì không tìm được câu đối lại, vừa xấu hổ với cô lái quê, vừa thất vọng
vì sở học của mình chưa đến nơi đến chốn, nên uất ức mà chết. Xác thân được dân
làng mai táng, nhưng hồn chưa siêu thoát vì mối hận lòng còn canh cánh, xuống
Diêm đài vẫn chưa tan. Dân làng nhiều lần rước thầy cầu siêu, lập đàn giải oan,
nhưng không có kết quả.
Rồi một hôm, có một vị tu sĩ đi
qua làng. Thấy người từ xa đến, tuy áo nâu lấm bụi đường nhưng phong cách thoát
tục, dân làng đem lòng ngưỡng mộ. Họ thỉnh vị sư vào nhà làng, ân cần tiếp đãi
và nhờ Người tìm cách trừ mối lo cho họ. Vị sư hỏi chuyện cặn kẽ và đồng ý ở
lại làng đêm đó, nhưng với điều kiện là để Người một mình ở bờ sông, nơi chàng
sĩ tử từng ngồi lúc trước.
Đêm không trăng tối mịt, ngửa
bàn tay không thấy. Gió từ lòng sông thổi lên lạnh buốt. Vị sư ngồi kiết-già
tọa thiền. Dân làng tuân theo lời dặn, không ai dám đến gần bờ sông, nhưng đều
thao thức, hồi hộp đợi chờ. Đêm càng khuya, sương càng rơi nhiều, đẫm ướt vai
áo vị sư. Nhưng người vẫn ngồi đó, an nhiên tự tại, hơi thở như có như không...
Và điều chờ đợi, cuối cùng đã
đến!
Trong cái quánh đặc đen ngòm của
bóng đêm, dàn hợp xướng quái đản bắt đầu cất tiếng, lần này càng có vẻ thê
lương đến ghê rợn, cô đơn đến não nùng. Mọi người đều rợn gai óc, nín thở lắng
nghe...
Khi bản giao hưởng của tiếng
sóng vỗ réo rắt, tiếng gió thổi ù ù, tiếng kêu than nỉ non đã quyện vào nhau,
đưa lên đến thang âm cao nhất, thì một giọng nam vút lên, rền rĩ từng lời của câu
đối ngày nào:
- Hỏa tại thạch trung, trầm tích
thủy, thiên niên bất tuyệt
Tiếng vọng của oan hồn chàng sĩ
tử vừa dứt, bỗng một giọng nói sang sảng trầm hùng của vị tu sĩ vang lên:
- Nguyệt tận không trung, chiếu
thế gian, vạn cổ trường tồn (Trăng ở trên không, chiếu thế
gian, muôn kiếp vẫn còn).
Đột nhiên tất cả đều im ắng. Một
sự bình an kỳ diệu dường như tỏa khắp không gian, khiến bầu không khí đượm vẻ
thanh lương và tâm hồn mọi người trở nên lắng dịu. Trăng hạ huyền xuất hiện.
Đêm qua dần trong yên tĩnh, một vẻ yên tĩnh chưa hề có từ khi chàng sĩ tử đến
đây và ôm mối hận qua đời.
Từ ngày ấy, người ta không còn
nghe giọng chàng sĩ tử cất lên vào những đêm tối trời. Người ta biết chàng đã
được siêu độ. Còn tung tích của vị sư, thì không ai rõ, vì buổi sáng sớm, khi
họ ra đến bờ sông đã không trông thấy Người đâu nữa.
II...ĐẾN Ý NGHĨA TÂM THIỀN
Câu chuyện trên, mới nghe qua có
vẻ hoang đường, nhưng nếu suy gẫm, ta sẽ thấy đượm nhiều thiền vị. Chàng sĩ tử
luôn tự mãn với kiến thức uyên bác của mình, nhưng không hiểu đó chỉ là vay
mượn từ bên ngoài. Sở học thế gian không giúp chàng thấu rõ ý nghĩa thâm sâu
của câu đối. Lời văn tuy rõ ràng, nhưng nội dung của nó thì cần phải đi sâu vào
đạo lý mới có thể quán triệt. Vì có lửa trong đá, nên khi hai viên đá cọ vào
nhau mới có lửa phát ra; dù đá chìm dưới nước ngàn năm, lửa trong đá vẫn không
tắt: đây là nghĩa đen của câu đối. Nhưng nghĩa bóng thì ám chỉ một loại lửa
khác, cháy sáng muôn đời, không thấy bằng mắt thường vì không có hình tướng,
không bao giờ hoại diệt dù đá bị vỡ tan. Lửa đó ở ngay thân tứ đại, ngày đêm
chiếu sáng qua sáu căn.
Hiểu được câu trước, ta hiểu
luôn câu đối lại của vị sư: Mặt trăng chiếu sáng trong hư không, muôn đời còn
mãi với thế gian. Đứng dưới đất nhìn lên, có đêm ta thấy trăng sáng, có đêm
thấy không trăng. Đó là kết quả sự vận hành của hệ thống mặt trời - quả đất -
mặt trăng trong mối liên hệ hỗ tương của chúng. Thật sự, mặt trăng luôn hiện
hữu, vẫn quay chung quanh quả đất theo quỹ đạo và chu kì của riêng nó. Cũng như
vầng trăng miên viễn của chúng ta, dù chúng ta quên hay nhớ, dù chúng ta mang
thân xác nào, thọ nghiệp báo nào trong ba cõi, trăng vẫn chiếu soi, vẫn vạn cổ
trường tồn.
Nhận được ngọn lửa hay mặt trăng
thường hằng bất diệt trong thân ngũ uẩn vô thường sinh diệt, chúng ta thấu hiểu
tâm Thiền. Gọi là “hiểu”,
nhưng không phải hiểu bằng ý thức, nên không liên quan đến kiến văn quảng bác
thế gian, đến khả năng suy tư biện luận. Hiểu ở đây phải bằng trực giác, bằng
kinh nghiệm nội tại từ công phu tu trì nghiêm mật. Một khoảnh khắc nào đó trong
đời, khi khối nghi ôm ấp lâu nay bùng vỡ, ta trực nhận ra tự tánh thanh tịnh
bản lai của chính mình, thì đến chết vẫn không quên. Có thể xem trường hợp của
Thiền sư Hương Nghiêm Trí Nhàn là một ví dụ điển hình:
Sư Hương Nghiêm là một bậc thông
tuệ, tánh thức minh mẫn, nhưng ở dưới hội của Tổ Bá Trượng nhiều năm vẫn chưa
tỏ ngộ lý Thiền. Khi Tổ mất, Ngài Qui Sơn bảo sư:
- Ta nghe ngươi ở chỗ tiên sư
Bá-Trượng hỏi một đáp mười, hỏi mười đáp trăm. Đó là ngươi thông minh lanh lợi,
nhưng ý hiểu thức tưởng là cội gốc sanh tử. Giờ đây thử nói một câu khi cha mẹ
chưa sanh xem!
Sư mờ mịt không đáp được, tìm
tất cả sách vở cũng chẳng thấy có câu trả lời thỏa đáng. Sư than: “Bánh vẽ
chẳng no bụng đói”, rồi đốt hết sách vở, về làm ruộng ở Nam Dương. Một hôm,
đang cuốc cỏ trên núi, sư lượm hòn gạch ném ra ngoài, vô tình hòn gạch trúng
cây tre vang một tiếng “cốc”. Sư chợt tỉnh ngộ phá lên cười. Nhân đó, làm bài
kệ:
Nhất
kích vong sở tri
Cánh bất giả tu trì
Động dung dương cổ lộ
Bất đọa thiểu nhiên ki.
Dịch:
Tiếng vang quên sở tri
Cần chi phải tu trì
Đổi sắc bày đường cũ
Chẳng rơi vào lặng im.
Xem đó, muốn thể nhập chân lý
tuyệt đối, không thể nhờ sách vở bên ngoài. Bằng kiến thức sở hữu qua kinh
sách, ta có thể hiểu thế nào là mê, thế nào là giác, thế nào là con đường đi
đến giác ngộ. Nhưng nếu muốn thực sự có một bước nhảy từ mê qua giác, và một
bước nhảy siêu vượt cả mê lẫn giác, ta phải tự thân thẩm thấu vào tận cùng
nguồn cội của cuộc sống, phải tự thân lặng sâu vào tận cùng cái thăm thẳm của
tâm thức. Có như thế, ta mới tiếp cận với kinh Phật, không chỉ ở tầng hiển
ngôn, mà còn ở tột cùng tầng vô ngôn huyền nhiệm. Lúc ấy, ta mới thấy rõ, trên
đời không có gì quý bằng bản tâm thanh tịnh sẵn đủ của mình; vì khi nhận ra và
hằng sống với nó, ta đã thoát khỏi cái khổ lớn nhất của kiếp chúng sanh, là cái
khổ luân hồi trong tam giới. Ta mới hiểu rõ, vì sao đức Phật và chư Tổ có thể
hy sinh gia đình, công danh, kể cả mạng sống của mình để hoàn thành nghiệp lớn.
Ta cũng thấu triệt ý nghĩa của hai câu “Thiên
thượng thiên hạ, Duy ngã độc tôn” trong bài kệ bảy bước của Thái tử
Sĩ-Đạt-Ta lúc đản sanh, tại vườn Lâm-Tỳ-Ni thuở trước.
Tất cả mọi hàm linh, dù hoàn
cảnh chánh báo và y báo khác nhau, đều bình đẳng ở bản tâm, ở cái Ngaõ này. Bản tâm vốn lặng lẽ mà hằng
tri, như chiếc gương có đặc tính chiếu soi mọi vật đặt trước nó. Gương bị bụi
bám không chiếu soi được, nhưng tính sáng nguyên thủy của nó không bao giờ mất,
nên khi lau sạch bụi, gương trở lại trong sáng như xưa. Chúng ta bị những lớp
bụi phiền não bám khằn vào tâm từ bao đời kiếp, nên không thể tiếp nhận chân lý
Thiền. Khi nhìn một vật, lẽ ra bằng trực giác, mọi người đều biết như nhau;
nhưng do tập khí, nảy sinh thêm vọng niệm khen chê ưa ghét; vọng này chưa dứt,
vọng khác tiếp tục nổi lên. Đầu óc chúng ta vì vậy lúc nào cũng lăng xăng lộn
xộn, tâm ý lúc nào cũng quay cuồng như ngựa mất yên cương. Nếu biết cách miên
mật công phu, gột rửa dần tập khí, một lúc nào đó chân lý sẽ hiển bày. Lúc tâm
hoàn toàn thanh tịnh, cái thấy nghe hiểu biết của ta không bị tạp lẫn với những
ý kiến thức tưởng chủ quan, cái Biết bình
đẳng ấy mới khế hợp với tâm Thiền.
Kinh Viên-Giác, Phật dạy: “Nếu chưa ra khỏi luân hồi mà biện biệt tâm
Viên-Giác, thì tánh Viên-Giác kia cũng đồng với lưu chuyển”. Nếu ta
đem tâm sanh diệt mà biện luận về chỗ vô sanh, thì chỗ vô sanh ấy cũng trở
thành sanh diệt. Mây bay thấy trăng chạy, thuyền đi thấy bờ dời ; thật ra trăng
và bờ đâu có dời chỗ, do cái thấy sai lầm điên đảo của chúng sanh nên sự thật
bị lệch lạc. Chúng ta luôn sống bằng ý thức, nên nhìn sự vật qua lăng kính của
phân biệt, tưởng tượng, suy lường; từ đó không nhận chân được thực tại, không
thấy được bản chất của muôn pháp. Mặt khác, còn ý thức thì bản ngã còn có cơ
hội xen vào trong hành vi ngôn ngữ, kể cả trong công phu tu tập. Nhiều thiền
sinh trải qua một thời gian hành trì, có vài kết quả khả quan, tự cho mình có
căn tánh hơn người. Cũng có thiền sinh, nhờ thông minh lanh lợi, có nhiều kiến
giải về Thiền, hiểu lầm giác ngộ là chuyện dễ dàng, cho mình đã xong việc. Bản
ngã vì thế lại càng tăng trưởng, không chịu hạ mình học hỏi, không tinh cần hạ
thủ công phu. Lần lần có chiều hướng đi xuống, cuối cùng đọa lạc. Đây là điều
rất đáng tiếc. Cho nên cần hiểu, giác ngộ không phải là kết quả của sự mong
cầu, không phải là hành vi của ý thức, càng không phải là chuyện đơn giản đạt
đến trong một sớm một chiều. Phải có đời sống thiền tập miên mật, phải có ý chí
kiên cường, tinh ròng không tạp, phải hội đủ túc duyên, chúng ta mới có cái
nhìn sự vật không qua niệm khởi, không qua tư duy, không chìu uốn theo các pháp
và sanh tâm trên đó. Lúc ấy, ta mới biết giác ngộ là thế nào.
Khi vua Lý Thái Tông đến viếng
Thiền sư Thiền Lão, vua hỏi Ngài:
- Hòa thượng trụ núi này đã được
bao lâu?
Sư đáp:
Đản tri
kim nhật nguyệt
Thùy
thức cựu xuân thu
Dịch:
Chỉ hay
ngày tháng này
Biết chi
xuân thu trước.
Vua lại hỏi:
- Hàng ngày Hòa thượng làm gì?
Sư lại đáp bằng hai câu kệ:
Thúy
trúc hoàng hoa phi ngoại cảnh
Bạch vân
minh nguyệt lộ toàn chân.
Dịch:
Trúc
biếc hoa vàng nào cảnh khác
Mây bay
trăng sáng hiện toàn chân.
Lời đáp của Thiền sư, mới nghe
qua tưởng như không liên hệ gì đến câu hỏi, nhưng thật sự chứa đựng yếu chỉ nhà
Thiền. Người đã sống với bản tâm, nói lời nào cũng khế hợp với đạo lý. Những
năm tháng đã qua, Ngài không cần biết đến; cũng như những gì sẽ tới, Ngài chẳng
cần bận tâm. “Chỉ hay ngày tháng này” là tinh thần Chánh niệm. Quá khứ không còn, tương lai chưa đến, tất cả
đều chỉ là huyễn ảo, như hoa đốm trong hư không. Ngài luôn an trú tâm vào giây
phút hiện tại, vào thời điểm tại-đây và
bây-giờ. Bởi vì, khi thể nhập thánh trí tự giác, mọi thời gian và
mọi không gian đều dung thông trong một sát-na
vĩnh cửu. Đây không phải là cảnh giới do ngôn thuyết hay suy luận
mà biết; đây là sự thực chứng của một bậc đã giác ngộ tâm Thiền. Khi ánh sáng
trực giác bừng lên, mọi vật mọi cảnh đều hiển hiện tự tánh bình đẳng, tuy huyễn
mà vẫn ở trong Như tánh. Cho
nên, trúc biếc hoa vàng hay mây bay trăng sáng nào đâu cảnh khác, tất cả đều
hiển lộ toàn chân.
Như vậy, học Thiền là học vào
giờ phút hiện tại, tu Thiền là tu vào giờ phút hiện tại, chứng Thiền cũng chỉ
là chứng vào giờ phút hiện tại ấy mà thôi. Nhưng cái gì học, tu và chứng?- Đó
là TÂM. Ngoài tâm, không có gì khác. Tâm sẵn đủ ở mọi loài, luôn lặng lẽ mà tỏ
sáng. Khi trực nhận tâm bản lai, ta mới biết “tu, học, chứng” thật ra chỉ là
gượng nói, vì tâm ấy chính là mình, chưa bao giờ thiếu vắng. Thiền muốn chỉ rõ
cái sẵn đủ này ở mọi người, không phân biệt chủng tộc, tôn giáo hay ý thức hệ.
Trọng tâm tu hành của nhà Thiền là phải nhận ra tự tánh, tức hồi phục chức năng
nguyên thủy của chính mình. Có thể nói, kiến
tánh là mục đích tối hậu của thiền giả, chưa kiến tánh thì chưa
phải là Thiền!
Một số thiền sinh thắc mắc: Vì
sao không gọi “Vô tâm Thiền” mà
gọi “Tâm Thiền”? Chúng ta
thường nghe câu kệ trong bài phú Cư trần lạc đạo của Sơ tổ Trúc Lâm:
Đối cảnh vô tâm mạc vấn Thiền.
Khi đối duyên xúc cảnh, nếu
không khởi niệm phân biệt khen chê ưa ghét thì không cần hỏi chi đến Thiền, vì vô tâm đã là Thiền rồi. Cảnh giới vô
tâm này tương đương bức tranh số 8 trong mười bức chăn trâu của Thiền tông.
Hành giả không còn ý niệm đối đãi nên phàm Thánh đều không, chẳng chán Ta-bà
chẳng cầu Tịnh độ. Khi Sa-di Cao đến viếng Ngài Dược Sơn, Ngài hỏi:
- Ta nghe Trường An rất náo
loạn, ngươi biết không?
Sa-di Cao thưa:
- Bạch Hòa thượng, nước con an
ổn.
“Nước an ổn” có phải
đất nước của Sa-di Cao không náo loạn, hay ông muốn ám chỉ điều gì? “Hai đầu không dính, ngàn mắt khó xem”.
Khi tâm không vướng mắc trần cảnh, không kẹt hai bên đối đãi thì mắt Phật cũng
không nhìn thấy!
Nhưng nếu chỉ đạt được trạng
thái lặng lẽ thanh tịnh thì chưa phải là cứu cánh của Thiền tông. Chủ đích của
Thiền là trở về thể tánh chân thật lặng lẽ mà thường biết, cảnh giới của tâm
Thiền. Cho nên:
Mạc vị
vô tâm vân thị đạo
Vô tâm du cách nhất trùng quan.
Dịch:
Chớ bảo vô tâm ấy là đạo
Vô tâm còn cách một lớp rào.
Muốn vượt lớp rào ấy, hành giả
phải qua “một cơn chết lớn” (đại
tử nhất phiên) hay “tuyệt hậu tái tô”.
Buông tay cho chết một lần, thoát xác khỏi cái tôi hư giả, chặt đứt mọi xiềng
xích mối manh vọng tưởng, chừng đó sống lại, chừng đó trở về nguồn. Hành giả
chợt nhận ra “Am trung bất kiến am tiền
vật, Thủy tự mang mang hoa tự hồng”. Trong am chẳng thấy vật gì
khác ngoài cái am, tâm Thiền bao trùm pháp giới, có gì khác ngoài tâm? Mọi vật
đều trở về bản vị của nó, nước tự nó mênh mông, hoa tự nó nở hồng. Đây là cái
thấy như thị, khi hành giả thể nhập tâm Thiền. Từ đó, dù cuộc đời chịu bao gian
truân thử thách, dù thân tứ đại chịu nhiều bệnh tật đọa đày, các Ngài vẫn an
nhiên tự tại, như Thiền sư Từ Minh nói “Sanh
như đắp chăn đông, tử như cởi áo hạ”, hoặc như Ngài Huyền Giác
trong bài ca Chứng đạo:
Hành
diệc thiền, tọa diệc thiền
Ngữ mặc
động tịnh thể an nhiên
Túng ngộ phong đao thường thản thản
Giả
nhiêu độc dược dã nhàn nhàn.
Trúc Thiên dịch:
Đi cũng thiền, ngồi cũng thiền
Nói im động tịnh thảy an nhiên
Phỏng gặp gươm đao thường nhẹ hững
Ví nhằm thuốc độc vẫn bồng tênh.
Khi đã trở về sống với cái tịch
tĩnh vĩnh hằng, với quê nhà muôn thuở, thì bất cứ lời nói cử chỉ nào cũng là
Thiền. Không phong ba bão táp nào, không độc dược gươm đao nào ảnh hưởng được
bản tâm không hình tướng ấy. Nếu còn thấy tâm là đối tượng tức còn khoác cho nó
một tướng trạng, tâm ấy còn trong vòng sinh diệt. Nếu thấu triệt bản thể của
tâm là vô nhất vật, không tướng mạo mà hằng hữu hằng tri, thì không còn chỗ nào
dính bụi. Hiểu được điều này, ta mới thẩm thấu tột cùng ý nghĩa của bài kệ
trong phẩm Phổ Môn - kinh Diệu Pháp Liên Hoa:
Giả sử sanh lòng hại
Xô rớt hầm lửa lớn
Do sức niệm Quan Âm
Hầm lửa biến thành ao
Chúng sanh bị khổ ách
Vô lượng khổ bức thân
Quan Âm sức trí diệu
Hay cứu khổ thế gian.
Hiểu theo sự, khi chúng sanh bị
tai nạn quẩn bách, một lòng cầu nguyện Bồ-tát Quan Âm, Ngài sẽ dùng thần lực
cứu vớt. Nhưng chúng ta không dừng lại ở nghĩa đen bên ngoài, mà cần rõ nghĩa
lý sâu xa Đức Phật muốn dạy: Quan Âm là phản
văn văn tự tánh - trở về nghe lại tánh nghe của chính mình. Sống
với tánh nghe là giác tri, là hiện tướng của tánh giác, của tâm Thiền. Khi đã
thuần thục, không còn phân biệt năng giác - sở giác, chỉ còn tự tánh thanh tịnh
thường tri. Mọi vọng niệm đối đãi dứt bặt là phá được tưởng ấm, tức phá được nhân đau khổ. Do
vậy, tất cả đau khổ hoạn nạn trên đời không còn làm hành giả vướng bận, dù xảy
đến cho bạn bè, người thân hay cho chính bản thân mình.
III. CON ĐƯỜNG THỂ NHẬP TÂM THIỀN:
1/ Kinh Niệm xứ và Thiền Nguyên thủy
Kinh Niệm xứ là một bài kinh phổ
thông, trình bày một cách căn bản về Thiền Minh Sát Tuệ (Vipassana), có tầm
quan trọng đặc biệt trong hệ thống kinh điển Nguyên thủy. Nội dung của kinh là chánh niệm và quán niệm trên bốn lĩnh vực thân -
thọ - tâm - pháp (*). Trong phạm vi chương này, chúng ta không đi
sâu vào chi tiết của các kinh, mà chỉ nhằm làm sáng tỏ tính nhất quán trong
những lời Phật dạy, dù người sau phân chia làm nhiều hệ thống, tông phái. Sự
phân chia ấy thật cần thiết để phù hợp với căn cơ, trình độ của người học Phật,
nhưng tất cả đều nhắm đến một mục tiêu tối hậu, là giác ngộ và giải thoát sinh tử.
Quán niệm trên các pháp, ta thấy
rõ chúng do nhân duyên sinh. Vì do duyên sinh nên tự tánh của chúng là không,
còn sự hiện hữu chỉ là tạm có. Không
ở đây nghĩa là không có tự thể,
chứ không phải ngoan không.
Đó chính là Vô ngã tánh, Bình đẳng tánh,
Không tánh của vạn pháp. Nhận ra Tánh không tức ta có cái nhìn thấu
thể đối với vạn pháp, có sự bình đẳng giữa mình và mọi vật; từ đó, không còn
nhận thức lầm lẫn về tự thân và cuộc đời.
Thực hiện tinh thần Phản quan tự kỷ, Đức Phật dạy chánh
niệm và quán niệm trên thân, thọ và tâm. Về thân, quan trọng nhất là theo dõi và
tuệ tri trên hơi thở. Thở vào - ra, dài - ngắn ta đều biết rõ, biết mà không
can thiệp, không sanh tâm.
Giai đoạn đầu là liên hệ giữa
tâm và hơi thở; sau đó, hơi thở là gạch nối giữa thân và tâm. Cuối cùng là hợp
nhất thân tâm. Khi tuệ tri “có thân đây”,
chúng ta đã trực diện với thân trong giờ phút hiện tại, bằng cái
thấy như thị. Chủ thể nhận
thức là tâm hay biết và đối
tượng nhận thức là thân bị biết
trở thành nhất như. Đây là tri kiến như thật, diệu dụng của bản tâm thanh tịnh
thường nhiên.
Đối với các cảm thọ, phát sinh
từ sự giao thoa giữa căn và trần, Phật dạy chúng ta theo dõi và tuệ tri mà
không phát triển tư duy về chúng. Cảm thọ luôn thay đổi, lúc sinh lúc diệt, còn
cái tuệ tri trên cảm thọ thì không bao giờ đổi thay. Đây là phương tiện để nhận
ra tâm thể thường hằng.
Khi quán niệm trên mười sáu loại
tâm hành, chúng ta thấu rõ hành tung bất định và bản chất hư ảo của chúng. Tuệ
tri tất cả vọng tâm tức ta đã duy trì tự tánh hằng biết, để nắm bắt đương niệm
ngay trong cuộc vận hành, ngay trong dòng sinh diệt của chúng. Tuệ tri ở đây
chính là cái biết thâm nhập, cái biết bằng trực giác không qua ý thức phân biệt
nhị nguyên, cái biết Tri kiến vô kiến, ý
nghĩa của tự tánh hằng tri.
2/ Các kinh điển Đại thừa
Chúng ta đều biết, tất cả những
điều Phật dạy trong suốt 49 năm thuyết pháp đều nhằm giúp chúng sanh thoát khỏi
phiền não và sanh tử. Nhưng tùy căn tánh mà chúng sanh có thể chọn lựa cách tu
hành thích hợp, tựu trung gồm 5 phương tiện chính, như năm loại xe đưa chúng
sanh đến bến bờ tương ứng. Đó là Ngũ thừa
Phật giáo:
1. Nhơn thừa: Tu năm
giới, giúp chúng sanh tiếp tục trở lại làm người, tránh vào bốn cõi Địa ngục,
Ngạ quỷ, Súc sanh, A-tu-la.
2. Thiên thừa: Tu thập
thiện, giúp chúng sanh vượt khỏi tứ châu (Nam-thiệm-bộ châu, Đông-thắng-thần
châu, Tây-ngưu-hóa châu, Bắc-câu-lô châu), sinh lên cõi Trời.
Hai đường tu này vẫn còn trong
vòng luân hồi, chưa phải thật sự giải thoát.
3. Thanh văn thừa: Tu pháp
Tứ đế, giải thoát sanh tử, chứng A-la-hán.
4. Duyên giác thừa: Tu mười
hai nhân duyên, giải thoát sinh tử, thành Bích Chi Phật.
Thanh Văn và Duyên Giác thừa đã
liễu thoát tam giới, nhưng nặng phần tự lợi mà xem nhẹ lợi tha, nên tạm gọi là
Tiểu thừa (cổ xe nhỏ).
5. Bồ-tát thừa: Cầu đạo
vô thượng Bồ-đề, tu Lục độ vạn hạnh, nguyện độ tất cả chúng sanh. Vừa tự lợi
vừa lợi tha nên được gọi là Đại thừa (xe lớn).
Trong kinh Pháp Hoa, Đức Phật
chỉ dạy cặn kẽ: Dù trước đây Phật có nói nhiều pháp khác nhau, nhưng đó chỉ là
những phương tiện dẫn dắt chúng sanh từng bước đến mục đích cuối cùng. Mục đích
này cũng là bản hoài của chư Phật - khai
thị cho chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến. Chỉ có một Phật thừa,
không có thừa nào khác. “Phật tri kiến” sẵn đủ nơi tất cả chúng sanh, không
phân biệt giống loài, giới tính, căn cơ, tuổi tác. Khai và thị (mở ra và chỉ cho thấy) Phật tri kiến là việc
làm của chư Phật Bồ-tát, còn ngộ và nhập (nhận
ra và sống với) tánh giác là vấn đề của chúng sanh, mỗi cá nhân phải tự đảm
đương lấy. Tánh giác ở ngay nơi thân thất đại; muốn nhận ra nó, phải thu nhiếp
mọi vọng tưởng, như muốn thấy Phật Đa Bảo trong tháp bảy báu, phải nhóm tất cả
Phật phân thân ở mười phương về một chỗ.
Kinh Lăng Nghiêm, đức Phật chỉ
rõ hơn. Từ câu hỏi đầu tiên cho tôn giả A Nan: “Vì lý do gì ông xuất gia?” đưa đến bảy chỗ hỏi tâm, Phật
lần lượt phá tất cả các chấp giả, đồng thời chỉ cái chân thật. Từ tánh thấy ví
như mặt trăng thứ hai, Phật dạy về Như Lai Tạng. Đây chính là tâm thể, là mặt
trăng thật. Lối chỉ thẳng này dành cho hàng thượng căn đốn ngộ, có khác gì
“trực chỉ nhân tâm” của nhà Thiền? Khi nhận ra bản tâm tức đã kiến tánh, hành
giả khởi tu bằng phương tiện của Bồ-tát Quán Thế Âm, phương tiện thù thắng và
thích hợp nhất đối với chúng sanh cõi Ta-bà: Hằng sống với tánh nghe mà không
dính mắc với tiếng bị nghe (phương pháp Nhĩ
căn viên thông hay Phản văn
văn tự tánh); khi thuần thục thì năng và sở đều dứt, chỉ còn một
thể thanh tịnh như như - ý nghĩa của tâm Thiền.
Đọc kinh Kim-Cang, chúng ta
thoạt nhớ câu chuyện ngộ đạo của Lục Tổ Huệ Năng ở Trung Hoa và vua Trần Thái
Tông của Việt Nam.
Toàn bộ bản kinh nhằm trả lời hai câu hỏi của tôn giả Tu Bồ Đề: “Khi người nam lành, người nữ lành phát tâm cầu Vô
thượng Chánh đẳng Chánh giác, làm sao an trụ? Làm sao hàng phục tâm ấy?”. Phật
dạy, muốn hàng phục tâm, phải đưa mọi vọng tưởng (chúng sanh tâm) vào chỗ vô
sanh mà không chấp bốn tướng ngã, nhơn,
chúng sanh, thọ giả. Muốn an trụ tâm, phải buông xả hết sáu trần,
ngay nơi không có chỗ dính mắc mà sanh tâm Vô thượng Bồ-đề. Như vậy, người phát
tâm cầu thành Phật, phải thực hành theo tinh thần: “Ngoài không dính mắc các trần, trong không theo vọng tưởng”, ngay
đó liền nhận ra tánh giác bất sanh bất diệt của chính mình. Lục Tổ và vua Trần
nghe đến đoạn này liền nhận được yếu chỉ.
Trong kinh Viên-Giác, ngay
chương đầu đức Phật đã nói thẳng về nhơn địa tu nơi Viên Giác của Như Lai: Chỉ
cần biết tất cả pháp như hoa đốm trong hư không, liền không bị lưu chuyển trong
sanh tử. Tựu trung chỉ có một chữ BIẾT- biết bằng trực giác, biết không qua
trung gian suy luận, không phân ranh người biết và đối tượng biết. Ánh sáng
trực giác thẩm thấu vào muôn pháp, biết chúng đều là huyễn. Biết huyễn thì lìa
huyễn, lìa huyễn liền là giác. Đây là pháp môn đốn siêu phương tiện, dành cho
các bậc thượng căn.
Đối với kinh Lăng-Già, bộ kinh
được dùng làm tâm ấn trong nhà Thiền, tư tưởng chủ đạo thật rõ ràng: “Dĩ tâm vi tông, dĩ vô môn vi pháp môn” (Lấy
tâm làm chủ, lấy cửa không làm cửa pháp). Người tu thấy tất cả các pháp đều như
mộng huyễn, nên tất cả chấp trước đều xa lìa, ngay cả cái chấp vào Phật năng giác và Niết-bàn sở giác. Thấu triệt Bình-Đẳng-Tánh
của muôn pháp, hành giả không dính mắc hai bên; từ đó nhận ra Mâu-ni tịch tĩnh, tức Pháp thân thường
trụ.
Một số bản kinh chúng ta vừa
khảo sát, cho thấy một điều quan yếu: Dù đức Phật dùng phương tiện gì, dùng
cách diễn đạt nào, dùng tên gọi ra sao, cũng chỉ có một chủ đích duy nhất: chỉ
cho thính chúng nhận được bản tâm tịch tĩnh hằng giác của mỗi người. Bản tâm
vốn sẵn đủ, không có hình tướng, trùm khắp pháp giới, tĩnh lặng mà chiếu soi.
Vì không hình tướng nên không chuyển dịch theo không gian và biến đổi theo thời
gian; vì trùm khắp nên không đến không đi; vì tĩnh lặng mà chiếu soi nên không
có gì là chẳng biết. Đức Phật dùng rất nhiều tên để gọi và nhiều lời để diễn
tả, chỉ vì quá từ bi, muốn chúng sanh bước đầu làm quen với một cái không tên và
không diễn tả được bằng lời. Sau này, các vị Thiền sư tùy duyên mà sử dụng mọi
phương tiện khác nhau, cũng chỉ nhằm mục đích giúp môn đệ nhận ra bản tâm ấy.
3. Thiền Đốn ngộ
Đoạn vấn đáp sau đây giữa một
Thiền khách với Quốc sư Huệ Trung có thể tóm lược toàn bộ pháp tu của nhà
Thiền:
Tăng hỏi (H): Làm sao được tương ưng?
Quốc sư đáp (Đ): Chẳng nghĩ thiện ác, tự thấy Phật
tánh.
H: Thế nào là Phật?
Đ: Tức tâm là Phật
H: Tâm có phiền não chăng?
Đ: Tánh phiền não tự lìa.
H: Chẳng rơi vào đoạn diệt sao?
Đ: Đoạn phiền não là Nhị thừa,
phiền não chẳng sanh gọi là Đại Niết-bàn.
H: Ngồi thiền, quán tịnh, việc ấy thế nào?
Đ: Vốn chẳng nhơ sạch, đâu cần
khởi tâm quán tướng tịnh.
H: Tức tâm là Phật, có cần tu muôn hạnh chăng?
Đ: Chư
Phật đều đủ Phước và Trí trang nghiêm, đâu có bác không nhân quả.
“Chẳng nghĩ thiện ác, tự thấy
Phật tánh” là yếu chỉ Thiền Tông, theo tinh thần của Lục Tổ khai thị
cho Thượng Tọa Huệ Minh thuở trước. Thiện-ác là tượng trưng cho tất cả tâm phân
biệt hai bên (phải-trái, tốt-xấu, đúng-sai, hay-dở...). Do phân biệt nên có ưa
ghét, của ta của người... Đây là đầu mối của sanh tử. Tâm thường lặng lẽ, không
dính mắc, luôn tỉnh luôn giác, ấy là Phật tánh tự hiển bày. Tâm ấy tức Phật,
chẳng phải tìm cầu bên ngoài.
Thượng tọa Bằng-Nhan một hôm
tham vấn Thiền-sư Thần Lộc:
- Thế nào là tâm xưa nay?
Sư gọi:
- Bằng Nhan!
Thượng tọa Nhan ứng thinh:
- Dạ.
Sư bảo:
- Cùng lão tăng uống trà đi!
“Tâm xưa nay” ở chỗ lời
gọi tên Bằng-Nhan hay ở chỗ uống trà? Nếu khéo từ cửa Quan Âm thể nhập tự tánh,
thì có thể cùng Thiền sư uống trà Triệu Châu. Nếu mờ mịt chẳng hiểu gì, đã bị
đầu lưỡi Hòa thượng lừa, dẫn đi xa tít.
Vậy thì, tìm giác ngộ ở đâu?
Thiền Đốn Ngộ chủ trương chỉ thẳng tâm người ngay thực tại hiện tiền, tác động
vào sáu căn. Quá khứ là những gì đã qua, tương lai thì chưa đến, đều không thực
có. An trú trong hiện tại, chánh niệm tỉnh giác trong mọi nơi chốn, mọi thời
khắc, mới khế hợp với tâm Thiền.
Thế nào là “Tánh phiền não tự lìa”? Hoàng-Bá-Hy-Vận
trong Uyển Lăng lục đã nói: “Ngay khi ông
biết vọng khởi, biết ấy chính là Phật”. Tâm biết có vọng, biết có
phiền não là tâm hằng hữu tỉnh giác. Phiền não là khách, tự đến tự đi; tâm tỉnh
giác là chủ, chẳng sanh chẳng diệt. Nếu thấy có phiền não để đoạn, Niết-Bàn để
chứng, đó là cái thấy hai bên của Nhị Thừa. Không sanh không diệt, không đến
không đi là Đại Niết-Bàn, là Như Lai không
từ đâu đến, chẳng đi về đâu.
Lời Quốc Sư đáp lại câu hỏi: “Ngồi thiền quán tịnh...” khiến chúng
ta nhớ đến câu chuyện mài gạch không thành gương của Ngài Nam Nhạc, lúc khai
thị cho Mã Tổ Đạo Nhất: “Ông học ngồi thiền hay học ngồi Phật? Nếu học ngồi
thiền, thiền chẳng phải ngồi nằm. Nếu học ngồi Phật, Phật không tướng cố định,
không trụ các pháp, cũng chẳng lấy bỏ. Nếu chấp tướng ngồi, chẳng đạt lý kia”. Nếu
đã sống bằng tâm Thiền, thì mọi giờ phút, mọi oai nghi đều là Thiền, không chỉ
có tướng ngồi. Bản tâm luôn thanh tịnh, không một vật thì không có nhơ sạch,
vốn tự tánh định, tự tánh huệ. Nếu khởi quán tịnh tức có phân chia năng quán sở
quán, ấy đã xa rời tự tánh.
Ở đây, chúng ta cần lưu ý một
điều: Hiểu theo lý, Phật tánh sẵn đủ ở muôn loài, không phải tìm cầu mới thấy.
Chúng sanh do quên tánh giác nên tạo nghiệp và trầm luân; nếu thầm nhớ và sống
với tánh giác thì đồng đẳng với chư Phật. Vậy, mê (quên) là chúng sanh, ngộ
(nhớ) là Phật, thật là đơn giản! Do hiểu quá dễ dàng và đơn giản như thế, chúng
ta cứ ngỡ thành Phật tác Tổ là chuyện một sớm một chiều. Từ đó không tinh cần
công phu, bài bác lý nhân quả, xem thường muôn hạnh. Đây là điều lầm lẫn lớn
lao!
Trong thời đại khoa học kỹ thuật
tiên tiến, trí thông minh của con người cũng phát triển. Chúng ta dễ dàng được
đọc, được nghe rất nhiều kinh lục và lời giảng của các bậc cao tăng. Chúng ta
dễ dàng thấu hiểu những vấn đề uyên áo tế nhị của Thiền gia, mà người xưa đôi
khi mất một thời gian dài mới lãnh hội được. Chúng ta cũng dễ dàng rõ biết mình
có tánh giác bản lai, và biết nhiều phương tiện thể nhập tự tánh. Nhưng đó chỉ
là kết quả của suy luận, phân tích, tư duy nhờ ý thức, nên lúc nhớ lúc quên;
lúc vô sự tưởng mình là Thánh, khi có chuyện bất như ý xảy ra thì mình vẫn là
một chúng sanh với đầy đủ phiền não mê lầm! Ngài Nam-Nhạc Hoài-Nhượng là bậc tu
hành chân chính, đã có chỗ giải ngộ nơi Quốc sư An. Thế mà, để trả lời câu hỏi
của Lục Tổ: “Đem vật gì đến?”, Ngài
phải mất đến 8 năm ôm ấp mối nghi, mới thưa được một lời:
- Nói giống một vật tức chẳng
trúng
Vấn đề cốt lõi ở đây là, tám năm
trời ròng rã, Ngài chỉ chuyên chú với một nghi tình duy nhất cho đến khi bùng
vỡ. Phải có sự trực nhận bằng trực giác mới có chuyển hóa tận gốc rễ, mới hoàn
toàn sống được với bản tâm, mới có thể một bước không lìa. Cho nên, khi Lục Tổ
hỏi câu thứ hai: “Có tu chứng chăng?”,
Ngài trả lời ngay: “Tu chứng chẳng phải
không, nhiễm ô không thể được”. Bản tánh thanh tịnh vốn sẵn đủ, vốn
chẳng thể nhiễm ô, nhưng phải có công phu tu trì miên mật mới mong có kết quả.
Khi đã kiến tánh, tức mới đi
được nửa đoạn đường. Việc tu hành đã nhẹ nhàng, nhưng cũng phải tinh cần bào
mòn tập khí, chuyên tu muôn hạnh. Người xưa có câu “Thật tế lý địa bất thọ nhất trần, Vạn hạnh môn trung bất xả nhất
pháp”. Tuy trong lý chân thật không nhận một mảy trần, nhưng trong
cửa muôn hạnh thì chẳng từ một pháp nào. Đây là ý nghĩa của Phước-Huệ song tu. Phước đức sung mãn,
hành giả chuyển được nghiệp xấu, tránh bớt chướng duyên, tạo điều kiện cho trí
huệ tăng trưởng. Càng có trí huệ, hành giả càng có cơ hội thể nhập lý như thật.
Đức Phật được tôn xưng là Bậc Lưỡng túc
tôn hay Minh Hạnh túc, Vì
Ngài đã thành tựu viên mãn Phước và Trí. Vì thế, những hàng hậu học chúng ta,
nếu tự xét thấy chưa đủ hai điều kiện trên, chớ vội bác không nhân quả, làm
người vô sự!
Và đây là hai câu nói của hai vị
Thiền sư, có thể minh chứng cho cái tri kiến qua từng giai đoạn trong đời tu:
Thiền sư Duy Tín nói: “Trước ba mươi năm,
tôi thấy núi sông là núi sông. Khi gặp Thiện tri thức chỉ dạy, tôi thấy núi
sông không phải là núi sông. Sau ba mươi năm, tôi thấy núi sông vẫn là núi
sông.” Thiền sư Vân Môn đưa cây gậy lên trước chúng, bảo: “Phàm phu gọi nó là thật, Nhị thừa phân tích gọi nó
là không, Duyên giác gọi là huyễn có, Bồ-tát thì đương thể tức không. Thiền gia
thấy cây gậy nói là cây gậy, đi chỉ đi, ngồi chỉ ngồi, không được động đến”.
Phàm phu chưa biết đạo, sống trong mê mờ, nhận cái giả cho là thật nên vướng
kẹt vào các pháp. Vì thế, nhìn núi sông hay cây gậy đều cho là thật có. Đối với
người tu, tùy công phu quán chiếu các pháp mà có cái thấy khác nhau, dù tựu
trung đều biết các pháp không thật. Hàng Thanh Văn thấy các pháp vô thường, nay
còn nhưng mai mất. Duyên Giác quán các pháp do nhân duyên sanh, thấy chúng
không có tự thể, nên là huyễn có. Các bậc Bồ-tát thấu tột lý nhân duyên, nhận
ra tự tánh không của các pháp nên ngay đó biết rõ chúng là không. Cái thấy của
Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ-tát đều thấu rõ bản chất các pháp là vô thường,
duyên sinh, vô ngã; nhưng các Ngài nhìn sự vật theo khái niệm chủ quan của mình
mà chối bỏ sự hiện hữu của các pháp.
Đối với các Thiền sư, các Ngài
nhìn muôn sự muôn vật bằng tâm như như của chính mình. Đây là cái thấy trong
trạng thái vô tâm, không hủy hoại, không sanh tâm trên các pháp, và trả các
pháp về ngay bản vị của chúng. Đây là cái thấy trút sạch khái niệm vọng chấp,
không phân biệt người thấy và vật bị thấy. Đây là cái thấy đúng như thực tại đang là, nên có tên “như thị tri, như thị kiến”. Giai đoạn
này được các Ngài diễn tả bằng vài từ tuy rất nhẹ nhàng nên thơ “thấy cây gậy nói là cây gậy”, hoặc “thấy núi sông vẫn là núi sông”, nhưng
đã bao hàm đầy đủ ý nghĩa tâm chứng của mình!
Thiền là tâm của Phật, kinh là
miệng của Phật. Đức Phật tâm-khẩu tương ưng, nên ý kinh không khác yếu chỉ của
Thiền. Chúng sanh có tám vạn bốn ngàn trần lao phiền não, thì Đức Phật cũng có
tám vạn bốn ngàn phương thuốc điều trị, nên gọi Ngài là Bậc Vô Thượng Y Vương.
Tuy nhiên, những phương thuốc ấy chỉ trị được triệu chứng của bệnh; còn muốn
điều trị tận gốc, tức dứt tuyệt mối manh sinh tử, phải có loại thuốc đặc hiệu,
độc đáo. Sau 49 ngày đêm thiền định, Đức Phật đã tìm ra loại thuốc ấy và đã trị
lành bệnh cho mình. Sau đó, như một người thầy tận tụy, Ngài dạy lại cho chúng
sanh, không giấu giếm điều gì. Rất nhiều môn đệ của Ngài, theo đúng lời Ngài
dạy, cũng đã tự chữa khỏi bệnh, thoát ly sanh tử. Chúng ta ngày nay, có những
cơ sở để tin lời Phật dạy là chân lý, tin con đường Ngài đi có thể đưa đến giác
ngộ giải thoát, thì còn chần chờ gì nữa mà không mau tiến bước theo lộ trình
của Ngài?
*Xin xem Thiền kinh niệm xứ lược giải cùng một
tác giả