I CHÚNG ĐẲNG OAN GIA TRÁI CHỦ:
Phật nói: Đời người ở thế gian, nhỏ
là gia đình, quyến thuộc, lớn là quốc gia, dân tộc, đều không ngoài "báo
ân, báo oán, đòi nợ, trả nợ". Do bốn thứ duyên này mà tương hợp. Hà huống
tập khí và nghiệp chướng của chúng sanh sâu nặng, sống thiếu ân nghĩa, bố thí
đức huệ thì ít, kết oán thì nhiều, do đó mà luân hồi trong lục đạo từ vô lượng
kiếp đến nay để oan oan tương báo, khổ không kể xiết.
- Chúng ta nhờ nhiều đời vun trồng
thiện căn, nên nay gặp được chánh pháp cho nên phải một lòng quy y Tam Bảo,
nghe lời Phật dạy, đoạn ác tu thiện. Phật nói: Đời người ở thế gian, nhỏ là gia
đình, quyến thuộc, lớn là quốc gia, dân tộc, đều không ngoài "báo ân, báo
oán, đòi nợ, trả nợ". Do bốn thứ duyên này mà tương hợp. Hà huống tập khí
và nghiệp chướng của chúng sanh sâu nặng, sống thiếu ân nghĩa, bố thí đức huệ
thì ít, kết oán thì nhiều, do đó mà luân hồi trong lục đạo từ vô lượng kiếp đến
nay để oan oan tương báo, khổ không kể xiết.
- Chúng ta nhờ nhiều đời vun trồng
thiện căn, nên nay gặp được chánh pháp cho nên phải một lòng quy y Tam Bảo,
nghe lời Phật dạy, đoạn ác tu thiện.
Phật dạy: "Tất cả các pháp là
vô sở hữu, tất kính không, bất khả đắc". Cho nên phải trừ hết tất cả những
oán kết của những gì đã qua, nhất là đối với những kẻ oán thù của ta, khi họ bị
suy yếu bệnh khổ. Chúng ta có thể xả bỏ thù xưa, giữ tâm ý tốt hộ trì giúp đỡ
họ, lấy ân báo oán, biến oán thành thân dù sống trong biển nghịch mênh mông,
chúng ta đã bước lên con đường quang minh rộng lớn để lìa khổ được vui.
- Nguyện thường nghe kinh, niệm
Phật, không cho gián đoạn, nhất tâm cầu sanh Tịnh Độ, tất sẽ được chư Phật hộ
niệm, viên mãn vô thượng Bồ Đề. Duy nguyện chư nhân giả y giáo phụng hành, hãy
luôn nghĩ như vậy.
II. ĐỊA CHỦ VÀ TẤT CẢ CHƯ QUỶ THẦN CHÚNG:
Phật nói: "Nhất thiết chúng
sanh bổn lai thành Phật" nhưng chỉ vì vọng tưởng, chấp trước mà không được
chứng đắc. Chúng ta ngày nay gặp được chánh pháp nên chí thành quy y Tam Bảo,
tuân theo giáo pháp của Phật, sám trừ nghiệp tội, nỗ lực tu hành, nếu như tùy
thuận tuân theo tham, sân, phiền não, tạo ác quấy phá thì thật là đáng tiếc.
Đối với những người bệnh khổ suy yếu của nhân gian, cần phải từ bi hộ niệm, chớ
nên quấy phá khiến họ bất an.
- Nên nhớ, nếu như chúng sanh không
có Phật pháp, biển nghiệp mênh mông thì không thể thoát ly; thiện ác báo ứng
như hình với bóng, luân hồi do nghiệp lực dẫn dắt, hôm nay chư vị tuy là đọa ác
đạo nhưng vẫn có thể nắm bắt cơ duyên, nghe kinh, niệm Phật, đoạn ác tu thiện,
tích công lũy đức, lấy tâm yêu thương chân thành, hóa giải vô lượng oán thù, hộ
trì chánh pháp, nhất tâm cầu sanh A Di Đà Tịnh Độ.
- Đây là nhân duyên trăm ngàn muôn
kiếp khó gặp được, duy nguyện nhân giả luôn hiểu biết điều này để y giáo phụng
hành.
III. ĐỆ TỬ.............. (tên người
đọc)
- Kính thưa oan gia trái chủ từ vô
thỉ kiếp!
- Mười phương chư Phật thì A Di Đà
đệ nhất, cửu phẩm độ sanh, oai đức vô cùng cực, nguyện cùng quy y, sám hối tội
chướng, phàm được bao nhiêu phước thiện, chí tâm hồi hướng, nguyện cùng niệm
Phật, cảm ứng tùy hiện, kiến văn tinh tấn, đồng sanh cực lạc, kiến Phật ngộ
đạo, chuyển ác thành thiện, chuyển mê thành ngộ, chuyển oán thành thân, cùng
làm pháp lữ, để cùng nhau chuyển biển nghiệp thành biển Liên Trì, chư Phật độ
sanh duy nguyện ngã thỉ kiếp. Oan gia trái chủ nghe pháp mầu này tín thọ phụng
hành.
* Đệ tử Tam
Bảo..........................Đảnh Lễ
HT. Tịnh Không
Chứng minh.
Lợi Ích Của Sự Niệm Phật
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại
Tịnh Tông Học Hội, Úc Châu 23-06-2003
Kính thưa chư vị đồng học,
Hôm qua chúng tôi từ ‘Tuyết Lê’ (New South Wales) về đây
và đã nghỉ ngơi hết suốt ngày hôm nay. Tối nay, chúng ta và các bạn đồng học
hãy cùng nhau thảo luận một số vấn đề trong sự tu học Phật pháp. Hơn một nửa
những vấn đề này đều thuộc về vấn đề của những người mới học Phật, nhưng ngay
cả những người tu học lâu rồi cũng ít để ý tới, đây là điều mà người ta nói là
‘tập nhi bất sát’ (“thực hành nhưng không suy xét”). Ðợi đến lúc có người hỏi,
có rất nhiều người trong chúng ta không biết trả lời như thế nào. Học viện của
chúng ta có tên là ‘Tịnh Tông Học Viện’, từ cái tên có thể hiểu được ý nghĩa
của nó; chúng ta [ở học viện này] chuyên tu Tịnh Ðộ, Tịnh Ðộ còn được kêu bằng
Tịnh Nghiệp, chuyên tu Tịnh Nghiệp. Nếu có người hỏi bạn rằng: “Chư Phật trong
thập phương quá nhiều quá nhiều, tại sao quý vị lại niệm A Di Ðà Phật? Tại sao
lại chuyên niệm A Di Ðà Phật mà không niệm đức Phật khác?”
Tôi hỏi các bạn, người nào trong
quý vị có thể trả lời câu hỏi này: Chư Phật trong thập phương quá nhiều quá
nhiều, tại sao quý vị lại chuyên niệm A Di Ðà Phật? Tại sao quý vị lại không
niệm thập phương chư Phật? Có ai trả lời được không?
Câu trả lời đơn giản nhất là y
chiếu theo kinh điển, trong kinh Di Ðà có nói rằng đức Phật Thích Ca đã bốn lần
khuyên chúng ta nên niệm Phật A Di Ðà, kinh Di Ðà có thể chứng minh cho lời nói
này. Ðức Phật dạy chúng ta niệm A Di Ðà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của
đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Ðộ. Ðây là câu trả
lời dễ hiểu và đơn giản nhất. Nhưng [nói như vậy] không làm thoả mãn sự thắc
mắc của người hỏi; ‘Tại sao đức Phật Thích Ca lại khuyên chúng ta niệm A Di Ðà
Phật?’. Không những là đức Phật Thích Ca, mà như trong kinh Vô Lượng Thọ và
kinh A Di Ðà có nói rằng tất cả chư Phật Như Lai đều khuyên người niệm A Di Ðà
Phật, như vậy nghĩa là thế nào?
Nếu bạn hiểu rõ chân tướng của vũ
trụ (vũ trụ là danh từ mà xã hội đại chúng thường dùng, trong Phật pháp dùng
danh từ ‘pháp giới’) và nhân sanh, thì bạn sẽ hiểu tại sao tất cả chư Phật đều
khuyên chúng ta niệm A Di Ðà Phật. Cho nên câu hỏi này là một câu hỏi rất quan
trọng, không phải là một vấn đề nhỏ! Chư vị có
đọc qua trong kinh điển Ðại thừa, hình như là ở trong bài ‘Khóa tụng sáng tối’,
trong 88 vị Phật có ‘Pháp Giới Tạng Thân A Di Ðà Phật’. Như thế thì ý nghĩa này
đã rõ ràng, A Di Ðà Phật là bổn danh (tên chung, tên gốc) của tất cả pháp giới
chư Phật! Danh hiệu của [từng vị trong] tất cả pháp giới chư Phật là biệt hiệu
của họ, A Di Ðà Phật là bổn danh của họ, cho nên gọi là ‘Pháp Giới Tạng Thân’. Tại
sao lại nói ‘A Di Ðà Phật là tên chung của tất cả chư Phật’?
Danh hiệu này là từ tiếng Phạn dịch
âm mà ra, dịch nghĩa là ‘Vô Lượng’. Chữ ‘A’ dịch là ‘Vô’, chữ Di Ðà dịch là
‘Lượng’, chữ Phật dịch là ‘Trí’ hay ‘Giác’. Quý vị thử nghĩ xem có đức Phật nào
mà không là ‘Vô Lượng Trí’ và ‘Vô Lượng Giác’? Ðây là bổn danh (tên chung) của
Phật, rất tương tợ với tên của đức Phật ‘Tỳ Lô Giá Na’ nhưng không giống nhau. Tỳ
Lô Giá Na cũng là bổn danh (tên chung) của tất cả chư Phật; ý nghĩa của tên này
là Biến Nhất Thiết Xứ (Biến Khắp Mọi Nơi); A Di Ðà là dùng vô lượng trí biến
khắp mọi nơi, vô lượng giác biến khắp mọi nơi; quý vị đem hai ý nghĩa này hợp
lại thì vô cùng rõ ràng. Chúng ta phải hiểu rõ hàm ý chân chánh của danh hiệu
Phật; vì thế cho nên tất cả chư Phật đều khuyên chúng ta niệm A Di Ðà Phật.
A Di Ðà Phật cũng là tên chung của tự tánh chúng ta. Trong kinh điển Ðại thừa
đức Phật thường nói rằng tất cả hữu tình chúng sanh đều có Phật tánh, tất cả vô
tình chúng sanh đều có Pháp tánh (chữ ‘vô tình’ là chỉ thực vật và khoáng vật).
Phật tánh và Pháp tánh là chỉ chung một tánh chứ không phải hai thứ tánh, đây
đều là tên chung của ‘tánh đức’. Trong hội giảng kinh Hoa Nghiêm đức Thế Tôn
nói với chúng ta “Tất cả chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng của Như Lai’;
tất cả chúng sanh bao gồm chúng ta. Chúng ta vốn là Phật, mỗi người vốn là
Phật, vốn là A Di Ðà, vốn là Tỳ Lô Giá Na. Nói cho quý vị biết bây giờ vẫn là
(A Di Ðà Phật)! Không phải trong kinh quý vị thường thấy đến chữ ‘Tự tánh Di
Ðà’ hay sao, như vậy mỗi người trong chúng ta đều có ‘Tự tánh Di Ðà’! Tại sao
vậy? Chúng ta mỗi người vốn có vô lượng trí, vốn có vô lượng giác. Trí giác này
vốn là ‘biến khắp mọi nơi'.
Cho nên trong kinh Hoa Nghiêm và
kinh Viên Giác có nói ‘Tất cả chúng sanh vốn thành Phật’. Nhưng đức Phật không
thường nói điều này; tại sao vậy? Tại vì sợ người nghe không hiểu và còn có thể
sanh ra sự hiểu lầm. Ðức Phật rất ít nói như vậy, nhưng đó là sự thật. Hiện giờ
tại sao lại biến thành phàm phu? Tại vì đã bạn mê. Mê rồi thì thế nào? Mê rồi
thì bạn biến thành ngu si, bạn không có trí huệ, không còn giác nữa. Tự tánh mê
rồi, tự tánh A Di Ðà mê rồi, tự tánh Tỳ Lô Giá Na mê rồi, sự việc là như thế
đó. Mê rồi thì làm phàm phu. Cảnh giới giác ngộ là cảnh giới của Phật, cảnh
giới của giác ngộ là Cực Lạc thế giới, là Hoa Tạng thế giới. Mê rồi đem Cực Lạc
thế giới và Hoa Tạng thế giới biến thành thế gian ngũ trược ác khổ của chúng ta
hiện nay; sự việc là như thế đó.
Bây giờ đức Thế tôn dạy chúng ta
niệm A Di Ðà Phật, tất cả chư Phật dạy chúng ta niệm A Di Ðà Phật, đây là ý
nghĩa gì? Là dạy cho chúng ta dùng phương pháp này để khôi phục lại tự tánh! Cũng
như chúng ta đang ngủ, đang mê hoặc điên đảo, câu A Di Ðà Phật này đánh thức
chúng ta tỉnh dậy. Sau khi tỉnh dậy mới biết mình vốn là A Di Ðà, mình vốn là
Tỳ Lô Giá Na. Nhưng chúng ta đã mê quá lâu, mê quá sâu đậm rồi, mỗi ngày đều
niệm nhưng kêu hoài không tỉnh. Phải làm sao đây? Chư Phật Như Lai đã giác ngộ
và thức tỉnh rồi sẽ giúp đỡ chúng ta. Pháp Tạng tỳ kheo ở Tây phương Cực Lạc
thế giới đã thành A Di Ðà Phật, ngài phát tâm giúp đỡ chúng ta. Ngài nói chỉ
cần chúng ta có đầy đủ chân tín và thiết nguyện (niềm tin chân thật và lời
nguyện thiết tha). Chân tín và thiết nguyện tức là ‘Bồ Ðề Tâm’, cộng thêm ‘nhất
hướng chuyên niệm’ tức là một phương hướng nhất định, một mục tiêu duy nhất là
chuyên niệm A Di Ðà Phật, thì sự giúp đỡ này [của A Di Ðà Phật] sẽ thành công
ngay. Cho nên câu Phật hiệu này từ tâm chúng ta sanh ra rồi từ miệng niệm ra
tiếng. Dùng danh từ của khoa học ngày nay thì gọi là ‘ba động’ (làn sóng).
Quý vị xem, viện nghiên cứu của
tiến sĩ Giang Bổn Thắng ở Nhật Bản là viện nghiên cứu về các làn sóng. Tâm
chúng ta khởi lên một niệm, đây là làn sóng của tâm. Làn sóng của tâm này có
vận tốc nhanh nhất so với tất cả mọi vật khác. Tâm vừa mới khởi lên một niệm
thì làn sóng này tức khắc truyền ra khắp hư không pháp giới, lập tức lan khắp,
còn nhanh hơn vận tốc ánh sáng. Vận tốc ánh sáng là 300.000 km trong một giây
đồng hồ. Ánh sáng từ trái đất đi đến mặt trời phải mất hơn 8 phút; khoảng cách
này [như vậy cũng] không xa lắm. Nhưng khi tâm niệm của chúng ta vừa khởi lên,
làn sóng này liền tức khắc lan rộng ra khắp hư không pháp giới, không gì có vận
tốc này nhanh hơn vận tốc này. Chư Phật dạy rằng khi chúng ta khởi tâm để niệm
A Di Ðà Phật, đức Phật A Di Ðà ở Tây phương Cực Lạc thế giới lập tức liền nhận
được làn sóng này; chúng ta có thể ‘liên lạc và nói chuyện’ với đức Phật nhanh
như vậy!
Khi đức Phật A Di Ðà nhận được làn
sóng này, ngài cũng có hồi âm nhưng chúng ta không nhận biết được. Tại sao
chúng ta không biết được? Bộ máy của chúng ta hiện nay quá cũ, quá tệ, không
còn linh hoạt và mẫn tiệp như ngài nữa; làn sóng cực kỳ nhỏ ngài cũng có thể
thâu nhận được. Bộ máy của chúng ta tại sao không còn linh hoạt được nữa? Phật
nói tại vì chúng ta có vọng tưởng, có phân biệt, có chấp trước. Vọng tưởng,
phân biệt, và chấp trước làm cho căn tánh của chúng ta bị chướng ngại mất, căn
tánh của lục căn có ba thứ chướng ngại to lớn này, vì thế cho nên chúng ta
không thể nhận được hồi âm của chư Phật.
Ðến khi nào thì chúng ta mới có thể
thâu nhận được? Phải tu định. Khi bạn có định công (khả năng định tâm) thâm
sâu. Ðịnh công ở đây nghĩa là bạn có thể buông xả tất cả vọng tưởng, phân biệt,
và chấp trước. Khi vọng tưởng, phân biệt, và chấp trước giảm đi thì tác dụng
của sáu căn sẽ dần dần linh hoạt trở lại. Khi đó bạn sẽ nhận được hồi âm của A
Di Ðà Phật, bạn có thể thấy Phật, bạn có thể nghe thấy tiếng Phật thuyết pháp,
bạn có thể ngửi được hương thơm của Cực Lạc thế giới, bạn có thể cảm được gió
mát hoà nhã của Cực Lạc thế giới. Cực Lạc thế giới cách chúng ta rất xa.
Quý vị đã nghe qua báo cáo của cư
sĩ Chung Mậu Sâm về khám phá của khoa học cận đại. Ông Chung tường thuật cho
chúng ta 3 sự việc.
Sự việc thứ nhất: thời gian và
không gian là không thật có. Ðiều này Phật nói trong kinh rất rõ ràng, thời
gian và không gian là ‘bất tương ưng hành pháp’, nghĩa của chữ này là khái niệm
trừu tượng, không phải thật. Nhà khoa học hiện nay chứng minh rằng trong một
điều kiện nào đó không gian không còn tồn tại nữa; không gian không còn tồn tại
nữa thì không có xa gần, không còn xa gần thì A Di Ðà Phật ở tại nơi nào? Tức
là A Di Ðà Phật đang đối diện với chúng ta! Do không có khoảng cách xa gần cho
nên chúng ta nhìn thấy rất rõ ràng; lúc ngài nói chuyện chúng ta có thể nghe
được rất tường tận. Chúng ta có thể ngửi được hương thơm ở Cực Lạc thế giới rất
rõ ràng. Vì không có xa gần nên tất cả đều rất tường tận.
Không những không có không gian xa
gần, thời gian cũng là giả. Trong một điều kiện nào đó thời gian không còn tồn
tại nữa, như vậy có nghĩa là không có quá khứ và tương lai. Con người chúng ta
có thể đi về quá khứ và cũng có đi đến tương lai. Ðây là điều thứ nhất mà khoa
học ngày nay có thể chứng minh được, hoàn toàn phù hợp với những điều đức Phật
nói trong kinh điển. Cho nên thời gian và không gian đều là ảo tưởng sanh ra từ
vọng tưởng, phân biệt, và chấp trước. Ảo tưởng này tạo thành chướng ngại rất
lớn.
Sự việc thứ nhì liên quan đến chữ
‘có’ (hữu); tất cả vạn vật từ đâu có? Từ ‘không’ sanh ra ‘có’. Khoa học gia
ngày nay phát hiện rằng: ‘hữu’ là từ ‘không’ sanh ra. Từ ‘không’ sanh ra rồi
lại trở về ‘không’, ‘có’ lại trở về ‘không’. Thực ra sự khám phá này còn chưa
nói được rõ ràng. Trong kinh Lăng Nghiêm đức Phật nói rất rõ: ‘Ðương xứ xuất
sanh, tùy xứ diệt tận’ (Vừa mới ở đó sanh ra thì cũng ở đó diệt mất). Chữ xứ là
‘không’, không có vật gì hết, từ ‘không’ sanh ra ‘có’; tuy là sanh ra ‘có’ lập
tức lại trở về ‘không’; kinh Lăng Nghiêm nói rõ ràng như vậy. Khi họ đem bài
tường thuật về sự nghiên cứu này đến đây thì chúng ta lập tức hiểu liền, không
có ngạc nhiên gì hết.
Sự việc thứ ba nói về ‘nguyên khởi
của vũ trụ, hư không, thế giới, tinh cầu, sanh mạng, vạn vật từ đâu đến?’ Nói
thật ra thì là từ ‘không’ sanh ra ‘có’. Những bài báo cáo của khoa học hiện nay
hoặc trước đây đều nói về ‘một sự bùng nổ to lớn’, sự bùng nổ to lớn này từ cái
gì nổ ra? Hiện nay họ tìm ra cái điểm khởi đầu của sự bùng nổ này. Ðây cũng vẫn
còn từ lý luận mà suy diễn ra nhưng trên thực tế thì không có phương cách gì có
thể tìm ra. Họ nói cái ‘điểm khởi đầu’ của sự bùng nổ này bao lớn? Quý vị nghe
báo cáo của tiến sĩ Chung đều biết, ông nói cái ‘điểm’ này rất là nhỏ, nhỏ đến
chúng ta không thể nào tưởng tượng nổi.
Ông đề ra một thí dụ, thí dụ này là
do một khoa học gia đề ra. Cắt ngang sợi tóc của chúng ta ra rồi nhìn thẳng vào
mặt cắt ngang của sợi tóc (thiết diện) thì chúng ta thấy một hình tròn. Có thể
đem điểm bắt đầu của sự bùng nổ này (điểm khởi nguyên của vũ trụ) xếp dọc theo
đường kính của hình tròn này, có thể xếp được bao nhiêu điểm? Một triệu ức ức
ức (106 x 108 x 108 x 108 = 1030 ), có ba chữ ức sau chữ triệu. Sắp một triệu
ức ức ức cái điểm bắt đầu này dọc theo đường kính của mặt cắt ngang (của sợi
tóc). Cái điểm này nổ ra thì thành vũ trụ. Chuyện này chúng ta trong kinh Hoa
Nghiêm nói qua không biết bao nhiêu lần rồi! Kinh Hoa Nghiêm cũng nói giống như
vậy.
Kinh Hoa Nghiêm nói trong vi trần
(hạt bụi) có chứa thế giới, thế giới không lớn, hạt bụi không nhỏ. Hạt bụi nói
trong kinh Hoa Nghiêm có thể là ‘điểm bắt đầu’ mà khoa học gia diễn tả ở trên. Dọc
theo đường kính của mặt cắt ngang (của sợi tóc) có thể xếp một triệu ức ức ức
cái điểm bắt đầu này, trong nhà Phật được gọi là vi trần. Ai có thể đi vào thế
giới của vi trần? Ðó là Phổ Hiền Bồ Tát. Trong kinh Hoa Nghiêm, chúng ta thấy
Phổ Hiền Bồ Tát có thể đi vào. Phổ Hiền Bồ Tát là hạng Bồ Tát gì? Là Ðẳng Giác
Bồ Tát. Ðó là nói cho bạn biết, khi bạn chứng được Ðẳng Giác Bồ Tát, bạn có thể
đi vào điểm bắt đầu của vũ trụ. ‘Ðương xứ xuất sanh, tuỳ xứ diệt tận’, cho nên
nói vũ trụ hiện nay là từ điểm bắt đầu này bùng nổ tạo thành; hiện nay vũ trụ
còn đang nở rộng ra. Tất cả sanh mạng cũng đều đến như vậy cả. Ngày hôm đó tôi
hỏi tiến sĩ Chung: ‘Khi nào bùng nổ?’ Khi nào vũ trụ chúng ta bùng nổ? Ông ta
đáp không được. Tôi nói rằng tôi biết.
Thiệt ra chuyện này tôi đã nói qua
rất nhiều lần; nếu bạn nghe hiểu được thì khi người ta hỏi những câu về khoa
học như vậy, bạn liền lập tức có thể trả lời ngay. Lúc nãy tôi có nói qua,
trong kinh Lăng Nghiêm nói đến ‘Ðương xứ xuất sanh, tùy xứ diệt tận’. Kinh Nhân
Vương có nói cho chúng ta biết một khảy móng tay có 60 sát na, một sát na có
900 lần sanh diệt, cái sanh này tức là ‘hiện’, diệt tức là ‘quay về’. Hiện
tượng chúng ta thấy ngày hôm nay là hiện tượng gì? Tướng tương tục? Cho nên
kinh Kim Cang có nói: ‘Tất cả các pháp hữu vi, như mộng ảo và bóng của bọt
nước, như sương cũng như điện, phải nên quán sát như vậy’. Tất cả hiện tượng
trong vũ trụ này không phải chân thật, ‘phàm những gì có tướng đều là hư vọng’.
Nó bùng nổ, nổ quá nhanh, lập tức liền tiêu diệt mất. Cái thứ nhì lại bùng nổ
tiếp tục. Ðiểm khởi đầu đó nhiều vô số, không biết là nhiều đến mức nào.
Ðiểm khởi đầu này là gì? Các nhà
khoa học trả lời không được, đức Phật cũng không nói đến. Tuy là đức Phật không
có nói, không có nói đến điểm bắt đầu của vũ trụ nhưng chúng ta biết được. Ðiểm
đó là gì? Ðó chính là hạt giống trong A lại gia thức. Ðức Phật nói hạt giống
trong A lại gia thức không có hình tướng; nếu nó có hình tướng thì tận hư không
khắp pháp giới cũng chứa không hết. Hiện nay họ suy đoán về điểm khởi đầu rất
nhỏ này, vì quá nhỏ cho nên cũng có thể xem như là không. Bạn xem có thể xếp
một triệu ức ức ức cái điểm bắt đầu này dọc theo đường kính của mặt cắt ngang
của sợi tóc, cho dù dụng cụ khoa học tối tân nhất hiện nay cũng không thể nào
quan sát được. Tại sao vậy? Nếu bạn đem phóng đại cái điểm khởi đầu này gấp một
triệu ức ức ức lần thì cũng vẫn chưa thấy được. Phải phóng đại thêm một lần nữa
thì bạn mới có thể xem cái điểm khởi đầu này và [khi đó] thấy nó cũng chỉ giống
như một chấm nhỏ bằng sợi tóc mà thôi. Ðúng là không thể tưởng tượng nổi! Ðây
là cảnh giới không thể nghĩ bàn.
Ðây là chân tướng của vũ trụ mà đức
Phật nói trong kinh; hiện nay khoa học gia dùng toán học để suy luận ra, nhưng
vẫn không có biện pháp để nhìn xem được. Tại vì không có cách nào để đem một
sợi tóc phóng đại lên gấp đôi triệu ức ức ức lần. [Cho dù có thể làm được thì]
bạn cũng chỉ có thể nhìn thấy được một chấm nhỏ xíu, chỉ giống như một chấm,
lớn bằng chiều ngang của một sợi tóc. Chúng ta biết tiến sĩ Giang Bổn Thắng
dùng kính hiển vi chỉ phóng đại lên 250 lần để quan sát sự kết tinh của nước. Nếu
bạn muốn quan sát vi trần (trong kinh điển gọi là vi trần, khoa học gia gọi là
điểm khởi đầu của vũ trụ) thì phải dùng kính hiển vi có độ phóng đại bao lớn? Bình
phương của một triệu ức ức ức lần thì bạn mới có thể thấy được. Hiện nay thế
giới của chúng ta chưa có kỹ thuật cao đến mức này. Cho nên đây là thật tướng
của chư pháp.
Ðẳng Giác Bồ Tát rất là tự tại, có
khả năng để đi vào điểm khởi đầu này. Nói cho chúng ta biết rằng không có lớn
nhỏ, đều là do tự tánh biến hiện ra; không có lớn nhỏ, điểm khởi đầu này không
nhỏ, vũ trụ không lớn; không có xa gần, không có trước sau. Không có xa gần
nghĩa là không có khoảng cách; không có trước sau nghĩa là không có quá khứ,
hiện tại, và vị lai. Ngày nay chúng ta nói đến không gian, thời gian, khi đó
[khi vào cảnh giới này] thì đều bằng không (những quan niệm này không tồn tại
nữa). Ðây là thật tướng! [Mục đích] chúng ta học Phật không gì khác hơn là để
hiểu rõ cái chân tướng này. Chúng ta phải sanh hoạt trong cái chân tướng này,
đó là cảnh giới của Phật.
Cảnh giới này tức là Cực Lạc thế
giới, là Hoa Tạng thế giới mà kinh điển Ðại thừa nói đến. Chúng ta nếu muốn tự
mình tu hành để chứng được cảnh giới này thì quá khó! Quá khó! Tại sao vậy? Bạn
phải đem tập khí phiền não của bạn đoạn dứt sạch hết; đoạn sạch hết kiến tư
phiền não, trần sa phiền não, vô minh phiền não, không phải là một chuyện dễ! Vì
thế cho nên đức Phật A Di Ðà, vị Phật hiện nay đang ở tại thế giới Cực Lạc,
ngài vô cùng từ bi, giúp đỡ cho chúng ta rất nhiều. Chúng ta không phải đoạn
phiền não, chúng ta chỉ cần niệm danh hiệu của đức Phật, danh hiệu này cũng
giống như làn sóng điện từ vậy, chúng ta có thể dùng phương pháp trì danh này
để ‘liên lạc với Phật’. Ðến lúc chúng ta mạng chung có đầy đủ Tín Nguyện Trì
danh; quý vị phải biết Tín Nguyện là ‘phát Bồ Ðề tâm’ nói trong kinh Vô Lượng
Thọ (Cách nói rằng Tín Nguyện là Bồ Ðề tâm không phải của tôi mà là cách nói
của Ngẫu Ích đại sư trong ‘Yếu Giải’). Nhất hướng chuyên niệm nghĩa là trì
danh. Chúng ta thường dùng cách này để liên lạc [với Phật], khi đến giờ ngài sẽ
giúp đỡ chúng ta, tiếp dẫn chúng ta về Cực Lạc thế giới.
Ðến Cực Lạc thế giới để làm gì? Ðến
đó là để tu hành. Cực Lạc thế giới rất tốt! Tốt ở chỗ nào? Ðây là điều các vị
đại đức và tổ sư ngày xưa thường nói đến, Ðiểm lợi ích thứ nhất của việc vãng
sanh về Cực Lạc thế giới (ngày xưa các ngài không gọi là điều lợi ích mà gọi là
đệ nhất ‘đức’, chữ đức trong chữ đạo đức. Ngày nay chúng ta gọi là ‘sự lợi
ích’, còn nói đệ nhất đức thì không ai hiểu hết, phải gọi là sự lợi ích) là gì?
Ðó là ‘vô lượng thọ’! Bạn có vô lượng thọ mạng. Nếu bạn có vô lượng thọ mạng
thì trong một đời này đương nhiên sẽ thành công, bạn sẽ chứng được cảnh giới
của Phật, đây là sự lợi ích thứ nhất.
Thọ mạng của chúng ta trong thế
giới này quá ngắn, học cái gì cũng không thành. Thật tình mà nói, chỉ học một
bộ kinh cũng học không xong. Quý vị thử nghĩ xem có thể học bộ kinh Hoa Nghiêm
trong đời này không? Hiện nay chúng ta giảng từ đầu đến đuôi, không phải là
giảng kỹ chỉ là giảng sơ lược thôi. Chúng tôi dự tính giảng một lần như vậy
phải hết một vạn giờ! Chúng ta hiện nay giảng đến quyển 12, quyển 12 cũng chưa
hết thì đã dùng trên hai ngàn giờ, bộ kinh này tổng cộng là 99 quyển. Cho nên
cả đời chỉ học một bộ kinh thôi thì cũng là rất khó khăn, thọ mạng không đủ,
thời gian không đủ. Ðức Phật A Di Ðà giúp cho chúng ta một chuyện rất lớn, giúp
cho chúng ta đến Cực Lạc thế giới, đổi một thân thể khác.
Trước hết chúng ta phải hiểu rõ cái
‘tánh’ này, Phật tánh, Pháp tánh là không sanh không diệt. Chúng ta phải hiểu
rõ đạo lý này. Tánh không sanh không diệt; nếu ‘tánh’ mê rồi thì biến thành
‘thức’. Chúng ta thường kêu bằng linh hồn. Linh hồn là gì? Ðó là tự tánh mê rồi
thì biến thành ra hình trạng này, biến ra linh hồn; linh hồn đi đầu thai trong
lục đạo. Không kể là đầu thai bằng phương cách nào thì nó cũng không sanh không
diệt. Ðến khi nào giác ngộ rồi thì thành Bồ Tát, thành Phật. Giác ngộ thì được
đại tự tại, không giác ngộ thì bị nghiệp lực chuyển. Thí dụ như lúc còn sống
[chúng sanh] tạo thiện nghiệp, tâm thiện, niệm thiện, hành động thiện, hoàn
cảnh sanh sống của họ là cõi người hay là cõi trời (cõi trời có 28 tầng). Nếu
như tâm của họ không thiện, tư tưởng không thiện, hành vi không thiện, tương
lai họ sẽ sanh vào cõi ngạ quỷ, súc sanh, hoặc là địa ngục.
Cho nên thần thức, chúng ta gọi là
linh hồn, đi đầu thai chứ không bị mất đi; nó sẽ chuyển biến chứ không tiêu
diệt. Nếu nó giác ngộ thì sẽ chuyển thành Phật tánh, nếu mê thì chuyển thành
thần thức; Nó sẽ chuyển biến tuỳ theo mê hay ngộ và vĩnh viễn không tiêu diệt. Cho
nên nếu bạn hiểu thật rõ cái chân tướng sự thật này, bạn sẽ không sợ chết nữa. Tại
sao vậy? Vốn là không có sanh tử. Sanh tử là cái gì? Chỉ là thay đổi thân thể,
thay đổi hoàn cảnh sinh sống thôi. Cũng giống như chúng ta di dân, hiện nay nói
‘di dân’ mọi người đều dễ hiểu. Chúng ta từ Trung quốc di dân đến Mỹ quốc, đây
là thay đổi thân thể và thay đổi thân phận; chúng ta không dùng quốc tịch Trung
quốc nữa mà đổi thành quốc tịch Mỹ. Cũng như bạn thay đổi một cái thân thể và
thay đổi hoàn cảnh sinh hoạt mà thôi. Gần đây chúng ta lại từ Mỹ di dân đến Úc
châu, và lại biến thành công dân Úc, lại đổi thân phận nữa. Người thì không
chết, chỉ thay đổi thân phận ba lần, thay đổi hoàn cảnh sinh sống ba lần. Sự
việc là như thế đó, cho nên bạn phải hiểu như vậy.
Hiện nay chúng ta ở trong thế gian
này vẫn thường liên lạc với bà con và bạn đồng tu ở Trung quốc, Mỹ quốc. Nếu
bạn sanh lên cõi trời hoặc là sanh lên cõi Cực Lạc, đạo lý cũng giống như vậy,
bạn cũng sẽ giữ liên lạc với những bà con bạn bè ở trái đất này; bạn sẽ thường
thường giúp đỡ và thăm viếng họ. Nhưng cảnh giới không giống nhau, không gian
duy thứ không đồng (duy có nghĩa là chiều, là phương vị). Họ đến đây để thăm
viếng chúng ta, họ thấy rất rõ ràng, nhưng chúng ta không thấy họ, đây là vì
không gian duy thứ không giống nhau. Tuy là chúng ta không thấy họ nhưng chúng
ta thường thường kỷ niệm họ. Thí dụ như lúc chúng ta tụng kinh lạy Phật đem
công đức hồi hướng [cho họ], đó là kỷ niệm họ. Họ cũng thường lại thăm viếng
chúng ta, âm thầm giúp đỡ và vẫn duy trì liên lạc với chúng ta.
Khi chúng ta tu hành có đầy đủ công
phu và trình độ, đủ trình độ nghĩa là sao? Nghĩa là đủ định công (khả năng định
tâm). Có đủ định công thì có thể giảm bớt vọng tưởng, phân biệt, và chấp trước
của chúng ta; giảm đến một mức nào đó thì cái cảm ứng này sẽ trở nên hiện thực
(rất rõ ràng). Họ đến thăm chúng ta hoặc là chúng ta đi thăm họ; cho nên đây là
cảnh giới trong [trạng thái] định, không gian và thời gian đều không còn tồn
tại nữa, là trong khi nhập định không tồn tại. Cho nên trong định có thể qua
lại, liên lạc, có thể đi về quá khứ và có thể đi đến tương lai. Hiện nay nhà
khoa học biết được rằng không gian thực sự có nhiều duy thứ tồn tại, nhưng
không biết dùng phương pháp gì để đột phá nó (vượt qua ranh giới giữa những duy
thứ này).
Giống như những khoa học gia nói
đến, trên lý luận họ dùng ‘gia tốc độ’. Nếu tốc độ này nhanh hơn vận tốc ánh
sáng trên lý luận thì có thể đi ngược về quá khứ, có thể đột phá không gian. Cho
nên trong khi nhập định những người học Phật chúng ta biết được. Trong nhà Phật
nói ‘pháp giới’ là danh từ mà khoa học gia gọi là ‘không gian duy thứ’. Tại sao
có nhiều pháp giới như vậy? Từ đâu đến? Ðều là từ vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước biến hiện ra. Nếu vọng tưởng, phân biệt, chấp trước của bạn đã dứt hết,
thì không gian duy thứ sẽ không còn nữa, hoàn toàn phá tan. Cho nên không cần
biết người thân bạn bè của chúng ta ở trong không gian duy thứ nào chúng ta đều
có thể nhìn thấy được, chúng ta đều có thể trực tiếp liên lạc.
Người có thể tiếp xúc với những không
gian duy thứ khác sớm nhất [trong lịch sử nhân loại] là những người theo Bà La
Môn giáo. Bà la môn giáo có khoảng một vạn năm lịch sử, Phật giáo chúng ta chỉ
có khoảng ba ngàn năm lịch sử. Họ cũng là tu ‘định’, từ trong thiền định có thể
phá tan không gian duy thứ, cho nên hiện tượng lục đạo luân hồi họ nhìn thấy
sớm nhất. Tuy là họ nhìn thấy, nhưng họ không hiểu từ đâu mà có lục đạo. Mãi
cho đến lúc đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất thế, ngài mới giải thích rõ ràng sự
việc này. Cũng có thể nói trong quá khứ họ biết được sự việc nhưng không hiểu
rõ nguyên do tạo thành hiện tượng này. Sau khi đức Phật ra đời mới đem nguyên
do của lục đạo luân hồi giải thích rõ cho mọi người biết. Ðó là do vọng tưởng,
phân biệt, và chấp trước biến hiện làm thành; khi xa lìa vọng tưởng, phân biệt,
và chấp trước thì pháp giới này sẽ biến thành ‘nhất chân’ [pháp giới], thập
pháp giới sẽ không còn nữa? Nói một cách khác, không gian duy thứ là không thật
có và chỉ là một ảo tướng, không phải chân tướng sự thật.
Chúng ta vãng sanh đến Tây phương
Cực Lạc thế giới đều toàn nhờ vào một câu Phật hiệu này. Nhưng chúng ta nên
biết, chỉ niệm câu Phật hiệu này mà không phát Bồ Ðề tâm thì không thể vãng
sanh. Ngẫu Ích đại sư nói cho chúng ta biết một cách đơn giản nhất và rõ ràng
nhất là: chân tín và thiết nguyện (tin chân thành và phát nguyện thiết tha). Bạn
thật tin, một chút cũng không hoài nghi. Bạn thật là muốn đến Cực Lạc thế giới,
thật là muốn thân cận đức Phật A Di Ðà để tu học. Lòng tin và ý nguyện này là
Bồ Ðề tâm. Sau đó chỉ cần bạn ‘nhất hướng chuyên niệm’; bạn có đầy đủ ba điều
kiện này thì bạn có thể vãng sanh. Vãng sanh là một sự việc trọng đại, là
một sự việc rất hy hữu (hiếm hoi ít có). Tất cả mọi thứ trên thế gian này đều
là giả hết, chuyện gì trên thế gian này nếu có đầy đủ nhân duyên thì làm, nếu
không có duyên thì tuyệt đối đừng khởi tâm động niệm. Nếu bạn lãng phí tinh
thần và thời gian trên những sự việc thế gian này, để cho nhân duyên của việc
trọng đại (vãng sanh) trong đời người trôi qua, đến đời nào kiếp nào bạn mới có
thể gặp lại được! Phải nên cẩn thận, nhất định phải thận trọng!
Cho nên chúng ta là những người học
Phật, tất cả mọi sự việc trên thế gian này đều phải tùy duyên. Những chuyện tốt
đối với chúng sanh nếu có duyên thì mình làm; nếu không có duyên thì đừng phan
duyên, điều này là quan trọng nhất. Chúng ta phải hiểu rõ và bắt chước làm theo
những sự thị hiện của đức Phật Thích Ca, chư vị đại đức tổ sư, và chư vị Bồ
Tát. Năm xưa đức Phật Thích Ca thị hiện làm gương cho chúng ta noi theo; ngài
thị hiện 30 tuổi thành Phật, đại triệt đại ngộ minh tâm kiến tánh thì gọi là
thành Phật. Thành Phật là thành tựu viên mãn trí huệ, viên mãn giác ngộ. Trí
huệ và giác ngộ viên mãn rồi thì giáo hoá chúng sanh, một đời làm công việc
giáo dục; dạy học cũng là tùy duyên.
Cho nên có câu nói ‘Phật không độ
người không có duyên’. Có cơ hội gặp được thì gọi là có duyên. Không có duyên
thì không gặp được, đức Phật sẽ không đốt đèn đi khắp nơi để tìm, không có đạo
lý này! Ai gặp được thì người đó có duyên. Ðức Phật diệt độ cho đến ngày nay,
tuy là ngài không còn tại thế, kinh điển còn được lưu lại trong thế gian này,
chúng ta có thể gặp được kinh điển thì là có duyên. Không gặp được kinh điển
thì không có duyên. Nếu gặp được kinh điển mà bạn còn có thể đọc tụng, có thể
hiểu rõ, có thể tin tưởng, có thể noi theo đạo lý và phương pháp trong kinh
điển mà tu hành, thì bạn sẽ thành công!
Quan trọng nhất là chúng ta phải
buông xả thân tâm thế giới. Tức là buông xả vọng tưởng, buông xả phân biệt, và
buông xả chấp trước; nếu
được như vậy là chúng ta có thể ‘liên lạc, nói chuyện’ với chư Phật Bồ Tát, có
thể phá bỏ ranh giới [của chúng ta và chư Phật]. Hôm nay chúng ta học Phật
nhưng không thể đột phá được là vì lý do gì? Tại vì bạn vẫn còn chưa buông xả. Cho
nên lỗi lầm này là của chính mình, không phải của Phật, cũng không phải vì kinh
điển, tại vì chính mình. Tự mình tin không thật tình, vẫn còn hoài nghi, hãy
còn chấp trước, thế thì không còn cách nào khác nữa. Cho dù chư Phật Như Lai ở
ngay trước mặt cũng không thể giúp bạn được, điều này là việc của bạn. Cho nên
sự lợi ích của việc vãng sanh về Cực Lạc thế giới là có vô lượng thọ mạng, vô
lượng phước báo.
[Nói người vãng sanh về Cực Lạc có]
Vô lượng trí và vô lượng giác là một cách nói chung. Trong kinh còn nói đến vô
lượng quang và vô lượng thọ, ý nghĩa này rất hay. Vô lượng quang, quang là
quang minh chiếu khắp, tượng trưng cho không gian. Vô lượng thọ, thọ mạng là
tượng trưng cho thời gian. Tất cả sự vô lượng trong vô lượng thời gian và không
gian đều hoàn toàn đầy đủ, một thứ cũng không thiếu. Cho nên mới nói: ‘Phật thị
môn trung hữu cầu tất ứng’. Tại sao có cầu thì liền có [cảm] ứng? Tại vì tất cả
đều là vốn sẵn có trong tự tánh của bạn. Trong tự tánh của bạn vốn sẵn có đầy
đủ vô lượng trí huệ; khi trí huệ hiện ra thì vô lượng tài nghệ đức năng cũng sẽ
hiện ra; sau đó thì vô lượng tướng hảo, tức là vô lượng phước báo cũng sẽ hiện
ra.
Hiện nay những thứ mà người trong
thế gian này mong cầu không ngoài ba thứ: tiền tài, trí huệ, và sức khỏe sống
lâu (hôm qua tôi ở ‘Tuyết Lê’ (New
South Wales) cũng có đề cập đến vấn đề này). Ở Cực
Lạc thế giới ba thứ này đều có đầy đủ. Tây phương Cực Lạc thế giới có vô lượng
tiền tài (tài phú). Bạn hãy xem, trong kinh đức Phật Thích Ca Mâu Ni giới thiệu
cho chúng ta hoàn cảnh tình huống ở Cực Lạc thế giới. Ở bên đó mặt đất không
phải là bằng đất đá mà là lưu ly. Lưu ly là cái gì? Chúng ta ở thế giới này gọi
là cẩm thạch, ngọc màu xanh, phần đông giá trị của cẩm thạch là rất cao. Mặt
đất ở cõi Cực Lạc toàn làm bằng cẩm thạch, cho nên ở bên đó cẩm thạch không
đáng giá chút nào. Tại sao vậy? Thì cũng như đá sỏi của chúng ta vậy. Chúng ta
ở đây đeo một chiếc vòng bằng cẩm thạch thì rất quý, nếu qua bên đó còn đem
‘đất đá’ đeo trên tay thì không phải làm trò cười cho người sao? Chúng ta ở đây
xem vàng rất là quý báu, còn ở cõi Cực Lạc thì vàng được dùng để làm gì? Cũng
giống như xi măng là để lót dưới đất để đắp đường đi. Bạn hãy xem trên mặt đất
lưu ly có đường đi làm bằng vàng, đừng nói đến những thứ khác chỉ nói như vậy
thì bạn biết ở bên đó ‘giàu sang’ đến bực nào! Khi người tỷ phú ở thế gian
chúng ta đến cõi Cực Lạc thì biến thành một kẻ bần cùng nghèo mạt! Không tiền!
Nhà cửa ở cõi Cực Lạc đều làm bằng
bảy thứ báu: vàng bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, không phải như gạch và xi măng
của chúng ta ở đây. Bạn nghĩ coi họ ‘giàu sang’ như thế nào. Quần áo thức ăn
uống đều là tự nhiên có; bạn muốn ăn thứ gì, vừa nghĩ tưởng muốn ăn thì trên
mặt bàn đã hiện đầy ra. Ngày xưa ở Trung Quốc mỗi bữa ăn của những vị vua phải
có đủ 100 món ăn trên bàn, không cần biết là ông vua ăn được mấy món, nhưng mỗi
bữa ăn nhất định phải dọn đủ 100 món ăn. Cho nên vãng sanh đến Tây Phương Cực
Lạc thế giới thì còn sang trọng hơn ông vua thời xưa. Bữa ăn của ông vua chỉ có
100 món ăn, còn bên đó nếu muốn một ngàn món, một vạn món, khi niệm vừa khởi ý
muốn thì tất cả đều hiện ra trước mặt. Ông vua làm sao có thể so sánh với bạn
được! Sau khi ăn xong không muốn ăn nữa thì lập tức biến mất, không cần phải
rửa chén, không cần phải dọn dẹp, tất cả đều biến mất.
Cho nên thế giới bên đó là nơi mà
ngày nay khoa học gia thường nói vật chất có thể biến thành năng lượng [và
ngược lại]. Ngày nay khoa học gia biết được lý luận này nhưng làm không được, ở
Cực Lạc thế giới đã làm được. Khi muốn thì đem năng lượng biến thành vật chất,
tha hồ hưởng thụ. Khi không muốn những vật chất này lại được biến thành năng
lượng trở lại, không còn gì hết, được đại tự tại. Nhà cửa nơi cư trú của bạn
muốn ở trên mặt đất thì căn nhà này liền ở trên mặt đất; muốn ở trên không
trung thì nó sẽ bay lên lơ lửng ở trên không trung. Khi đi đến những thế giới
khác ở tha phương, không cần phải ngồi máy bay, căn nhà của bạn có thể bay, có
thể làm công cụ phi hành của bạn. Tùy tâm mình muốn gì được nấy!
Tướng hảo quang minh không chỉ có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp mà
thôi. Tướng tốt của người ở thế gian chúng ta (quý vị nào xem tướng rồi, tướng
nào là tướng tốt) tướng tốt là như thế nào, ba mươi hai tướng tốt và tám mươi
vẻ đẹp. Ðức Phật trong kinh nói với chúng ta, người ở tây phương Cực Lạc thế
giới có vô lượng tướng, tướng có vô lượng vẻ đẹp. Quý vị xem trong kinh đức
Phật Thích Ca đặt ra thí dụ, không những là người ở thế giới chúng ta không thể
sánh bằng được, cho đến Ðại Phạm Thiên Vương, tướng phú quý của ‘Ma Hê Thủ La
Thiên Vương’ khi so sánh với người vãng sanh hạ hạ phẩm ở Cực Lạc thế giới thì
cũng giống như một người ăn xin, không thể nào bì được! Không có một thứ nào
không xứng tâm vừa ý. Ðó là lợi ích của sự niệm Phật, lợi ích của sự vãng sanh.
Nếu bạn muốn hỏi vãng sanh có thật
không? Thật đó, một tí gì cũng không phải giả. Trong đời tôi thấy tận mắt mười
mấy người đứng vãng sanh, ngồi vãng sanh. Còn những người nghe nói vãng sanh
thì không biết là bao nhiêu mà kể. Gần đây nhất, khoảng hai năm nay, không đến
hai năm, lão cư sĩ Trần Quang Biệt là vị Lâm trưởng nhiệm kỳ trước của Cư Sĩ
Lâm Tân Gia Ba. Bạn hãy xem ông ta vãng sanh, đây là người chúng ta đã nhìn
thấy tận mắt, các bạn đồng học trong chúng ta đều có đi hộ niệm cho ông. Lúc
lão cư sĩ hơn tám mươi tuổi thì thân thể yếu dần rồi sanh bịnh. Nói thật ra,
khi sanh bịnh thì ông mới hết lòng học Phật, khi ông chưa bịnh thì không có học
Phật. Ông là một nhà kinh doanh ngân hàng, ngày ngày đều bận rộn công việc làm
ăn, không có thì giờ đọc kinh và cũng không có thì giờ nghe kinh.
Sau khi mang bịnh thì không có cách
nào khác phải ở nhà dưỡng bịnh, mỗi ngày nằm trên giường nhàn rỗi. Cư sĩ Lý Mộc
Nguyên gởi những băng video giảng kinh của chúng ta đến tận nhà cho ông. Mỗi
ngày ông đều xem, càng xem càng thích thú. Ông mỗi ngày xem tám giờ đồng hồ,
thời giờ còn lại thì niệm A Di Ðà Phật. Trải qua thời gian 2 năm, không dài
lắm, thì ông đã thành công. Một ngày nọ ông nói với cư sĩ Lý Mộc Nguyên rằng
ông sẽ vãng sanh về Cực Lạc. Lý cư sĩ nói với ông rằng lúc bấy giờ ông không
thể vãng sanh được. Lúc bấy giờ công việc ở Cư Sĩ Lâm còn chưa ổn định, chỉ cần
ông còn sống thì sức ảnh hưởng của ông vẫn còn, cho nên hy vọng là ông ở lại để
tiếp tục giúp đỡ. Ông Trần đồng ý và nói vậy thì ông sẽ đợi thêm hai năm nữa.
Hai năm sau đó, trong kỳ họp sau
cùng, Cư Sĩ Lâm tổ chức bầu cử cho [ban chấp hành] nhiệm kỳ mới. Hôm đó ông
ngồi xe lăn đến tham dự, tôi cũng có mặt trong buổi họp. Ðây là lần cuối cùng
ông đến Cư Sĩ Lâm. Sau khi ra về, tôi nghe người nhà của ông kể lại, có một hôm
ông viết ‘mồng bảy tháng tám’ trên khoảng trống viền quanh tờ báo, ông viết hết
mười mấy lần ‘mồng bảy tháng tám’. Người nhà ông không ai dám hỏi, cũng không
ai biết là việc gì; đúng ngay ngày mồng bảy tháng tám hôm đó ông vãng sanh.
Cách ba tháng trước, ba tháng trước ngày ông vãng sanh thì ông đã biết ngày giờ
ra đi rõ rõ ràng ràng. Mồng bảy tháng tám, ba tháng trước đã viết ra hết mười
mấy lần; Ðây là ‘dự tri thời chí’ (biết trước ngày giờ vãng sanh)!
Từ lúc ông sanh bịnh bắt đầu nghe kinh niệm Phật cho đến khi ông vãng sanh là
khoảng bốn năm. Sau khi ông vãng sanh, Cư Sĩ Lâm ở Tân Gia Ba xuất hiện ra một
việc rất kỳ lạ. Sau khi việc này xảy ra có một hôm, cư sĩ Ðỗ Mỹ Tuyền lại Niệm
Phật Ðường kiếm tôi; trước đó tôi không quen biết bà. Việc gì đã xảy ra? Rất
nhiều oan gia chủ nợ của lão cư sĩ Trần Quang Biệt đến Cư Sĩ Lâm. Những người
này không phải người còn sống, đều là quỷ, rất là nhiều. Số oan gia chủ nợ này
trước đó vốn là ở nhà ông Trần, nhưng ông Trần mỗi ngày nghe kinh niệm Phật nên
họ không dám phá khuấy ông. Nghe kinh niệm Phật có thần hộ pháp cho nên tuy là
số oan gia chủ nợ này vây quanh kế bên nhưng không dám làm hại ông. Sau khi
nhìn thấy ông Trần vãng sanh họ đều cảm động.
Cho nên họ đi theo pháp sư, chúng
tôi phái pháp sư mỗi ngày lại trợ niệm cho ông, một nhóm bốn vị pháp sư luân
phiên nhau. Số oan gia chủ nợ này đi theo mấy vị pháp sư này về đến Cư Sĩ Lâm. Họ
nói thần hộ pháp ở Cư Sĩ Lâm không ngăn cản và nói rằng họ đến không có ý phá
rối mà đến để xin quy y. Họ nói sau khi thấy ông Trần vãng sanh họ rất hoan hỷ
nên đến để xin quy y. Lúc đó tôi đang ở Hương Cảng, hình như là thầy Toàn gọi
điện thoại cho tôi và nói nhóm quỷ này xin quy y, tôi nói với thầy mau mau cho
họ quy y.
Sau khi quy y họ muốn nghe kinh. Các
pháp sư ở Cư Sĩ Lâm mới nói với họ rằng lầu bốn là Niệm Phật Ðường, lầu năm là
Giảng đường, mỗi ngày đều có pháp sư ở đó giảng kinh. Họ nói ‘ánh sáng’ ở lầu
năm quá mạnh họ chịu không nổi. Sau khi thương lượng thì chúng tôi mở truyền
hình ở lầu một và lầu hai. Họ yêu cầu nghe kinh Ðịa Tạng, cho nên chúng tôi vặn
máy truyền hình suốt ngày 24 giờ để băng video cho họ nghe. Họ thích nghe kinh
Ðịa Tạng và kinh Thập Thiện Nghiệp Ðạo. Họ thích nghe hai bộ kinh này nhất, sau
khi nghe xong thì họ ra về. Ðây là chuyện kỳ lạ đã xảy ra.
Sau đó mấy ngày, hình như là một
tuần, thì cư sĩ Ðỗ Mỹ Tuyền đến kiếm tôi để thuật lại chuyện quỷ nhập vào thân
bà. Bà nói lúc đó bà mê ngất đi, sau khi hôn mê thì cái gì cũng không biết. Lúc
tỉnh dậy người khác nói lại cho bà biết rằng bà đã bị ‘nhập’ hết hơn một giờ,
một câu bà cũng không biết bà đã nói cái gì. Nhưng người nhà của bà không tin,
nhất là em trai của bà, hắn nói chuyện này không đáng tin tí nào. Sau đó nghe
nói hắn bị tám con quỷ đánh hết một trận, đánh xong còn xô hắn ta vô ống thoát
nước ở bên đường. Hắn bị thương nặng phải nằm xe cứu thương vô bịnh viện cứu
cấp. Hắn báo cảnh sát và nói là hắn bị bảy hoặc là tám người đánh bị thương. Kết
cục khi cảnh sát đến để điều tra, hỏi thăm những người chung quanh, những người
chung quanh này nói không phải, tự mình hắn đi lảo đảo rồi té xuống ống thoát
nước, không có ai đánh hắn hết. Bảy tám con quỷ đánh hắn, kể từ đó hắn mới tin,
cả nhà đều tin hết. Ðỗ Mỹ Tuyền bị quỷ nhập, nhờ đó mà cả nhà được độ. Cho nên
chuyện này là thiệt không phải giả.
Tôi cũng gặp và nghe qua nhiều
chuyện linh quỷ nhập vào người, trong đó phần đông là thiệt, nhưng cũng có giả
nữa, nhưng giả thì rất ít. Những người giả mạo đều có âm mưu hoặc mục đích rõ
ràng, khi nghe qua thì biết liền. Cho nên phải có khả năng phân biệt [chánh tà]
để khỏi bị những người này gạt. Khi chúng ta giao thiệp với quỷ thần nhất định
phải cẩn thận, quyết đừng để bị hại. Bạn để ý lắng nghe họ nói, cái tướng mà họ
hiện ra rất đáng để chúng ta tham khảo.
Khoá lễ ‘Ba Thời Hệ Niệm’ là do Trung Phong Thiền sư lập ra, ngài là người đời
nhà Nguyên. Ngài y theo kinh Di Ðà rồi thiết lập ra nghi thức này để siêu độ
người mất. Chúng ta tu học Tịnh Ðộ dùng nghi thức này thì vô cùng thích hợp. Nếu
bạn xem xét kỹ lưỡng, nghi thức của khoá lễ này có tán Phật, tụng kinh, niệm
chú (chú Vãng sanh), sám hối, phát nguyện, hồi hướng, và quy y. Tất cả có tám
phương pháp tu học, vô cùng đầy đủ. Quý nhất là các bài giảng khai thị, rất
nhiều khai thị vô cùng hấp dẫn, đối với sự tu học của chúng ta có rất nhiều ích
lợi. Cho nên nếu các bạn thường xem và thường đọc những bài khai thị này, tôi
tin là xem lâu thì bạn có thể ngộ nhập vô cảnh giới này, khế nhập vào cảnh giới
thì có ích lợi lớn.
Hiện nay chúng ta lấy nghi thức này
làm công khoá, chúng ta mỗi tuần làm một lần, làm công khóa nhất định thì hai
cõi âm dương đều có lợi ích. Ngày nay trên thế giới này, người ta khổ, quỷ thần
cũng khổ. Loài người chúng ta có tai họa, thế gian này có tai họa, người ta
không biết, nhưng quỷ thần biết; những năm gần đây những dấu hiệu tin tức từ
cõi âm truyền đến đều nói đến những tai họa trên thế gian này, rất là kinh khủng!
Những gì họ nói tôi đều tin, tôi không phải tin những tin tức mà linh quỷ
truyền đến, tôi tin những đạo lý về nhân quả báo ứng mà đức Phật nói trong kinh
điển, tất cả tai họa đều do ác nghiệp chiêu cảm! Bạn xem thử những người trong
thế gian này suy nghĩ những gì? Họ niệm cái gì? Họ nói cái gì? Họ làm cái gì? Bạn
quan sát kỹ lưỡng thì bạn sẽ biết liền.
Người xưa nói: ‘Tích thiện chi gia,
tất hữu dư khánh, tích bất thiện chi gia, tất hữu dư ương’ (Nhà tích thiện nhất
định phải có nhiều niềm vui, nhà tích chuyện không thiện thì nhất định phải có
nhiều ương họa). Trong xã hội hiện nay, tất cả chúng sanh tích lũy những gì? Tâm
niệm ác, tư tưởng ác, ngôn ngữ ác, hành vi ác, thì làm sao không có tai họa! Ngày
xưa nền giáo dục cổ truyền đã dạy người ta phương thức làm người từ lúc tuổi
còn nhỏ. Sự giáo dục của Trung quốc từ đời Nghiêu Thuấn đều có ghi chép trong
lịch sử. Từ thời Nghiêu Thuấn đến nay có khoảng 4500 năm. Từ xưa đến khoảng
cuối đời nhà Thanh, nền giáo dục ở Trung quốc dạy những gì? Ðó là dạy luân lý
đạo đức. Nền luân lý đạo đức này đã [có công] duy trì đất nước dân tộc Trung
quốc được 5000 năm. Sau thời Dân Quốc cho đến nay mọi người đều coi trọng khoa
học Tây phương, đem luân lý đạo đức cổ truyền vứt bỏ. Sanh hoạt vật chất hình
như được nâng cao, mức sống nâng cao, nhưng luân lý đạo đức mất đi rồi. Xã hội
động loạn, nhân tâm bàng hoàng, thử hỏi có ai trong thế giới hiện nay có cảm
giác an toàn? Kể cả bản thân chúng ta, bạn thử đi nghe ngóng và hỏi người ta
xem, hỏi họ có cảm giác an toàn không? Không ai cảm thấy an toàn! Thật đáng
thương!
Hiện nay những người học Phật thì
có lẽ tốt hơn một chút. Người học Phật chân chánh, thật là có được những lợi
ích từ Phật pháp, tâm họ tương đối thanh tịnh thì có thể có cảm giác an toàn. Tại
sao vậy? Biết được thật tướng của các pháp cũng là biết được chân tướng của vũ
trụ nhân sanh, biết được tất cả chúng sanh không sanh không diệt, chỉ là chuyển
biến mà thôi, cho nên mới kêu là tâm an lý đắc. Hiểu rõ đạo lý này thì tâm sẽ
an; không hiểu rõ đạo lý thì tâm làm sao an được! Trong xã hội ngày nay, nếu
như cầu thân tâm an ổn, thì phải tìm hiểu cho rõ đại đạo lý của vũ trụ nhân
sanh. Sau khi hiểu rõ chân tướng sự thật, tâm của bạn sẽ an và tâm sẽ định. Từ
đó bạn sẽ biết sanh hoạt cách nào, làm việc cách nào, giao tiếp người và sự
việc cách nào. Bài giảng khai thị trong nghi thức ‘Ba thời hệ niệm’ quá hấp dẫn
đi thôi!
Như vậy thì khi người ta qua đời
tại sao lại phải cúng thất? Rất nhiều người hỏi vấn đề này. Nếu người ta niệm
Phật đã vãng sanh được thì thật ra không cần phải cúng thất nữa. Người vãng
sanh và người sanh lên trời (những người khi còn sống làm nhiều chuyện thiện
thì sau khi qua đời có thể sanh lên trời), đều không có thân trung ấm, không
cần phải cúng thất. Nhưng phần đông nghiệp chướng và tập khí của người ta quá
nặng, nếu họ đọa vào tam ác đạo hoặc là sanh làm người, những người này chỉ là
người rất bình thường, không phú quý, tất cả đều có thân trung ấm. Thân trung
ấm phần đông kéo dài 49 ngày, tức là 7 tuần. Thân trung ấm cách 7 ngày lại có
một lần biến dị sanh tử, cũng có nghĩa là mỗi 7 ngày có một lần rất đau khổ.
Ngay lúc này tụng kinh niệm Phật
cho họ, hoặc sám hối rồi hồi hướng cho họ thì có thể giảm bớt sự đau đớn của
họ, trong kinh Ðịa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Kinh có nói đến việc này. Cho nên
việc cúng thất là từ Kinh Ðịa Tạng mà ra, bạn xem kinh này thì sẽ hiểu rõ. Vì
thế tuyệt đối không nên tự tử, tự tử thì rất là đau khổ. Tại sao vậy? Phàm
những người chết vì tự tử, thân trung ấm của họ cứ mỗi 7 ngày lại phải tự sát
một lần. Không phải chỉ chết một lần mà mỗi 7 ngày lại tự sát thêm một lần, rất
là đau khổ. Thí dụ như người treo cổ chết, mỗi 7 ngày hắn phải treo cổ thêm lần
nữa; uống thuốc độc tự tử thì cứ cách 7 ngày lại phải uống thuốc độc để chết
trở lại. Nếu người nhà tu phước dùm họ có thể giảm bớt sự đau đớn này. Nếu
không có gia quyến tu phước cho họ như vậy thì không cách nào tránh khỏi. Ðây
là việc mà đức Phật nói cho chúng ta biết. Nếu như bạn hiểu được thì bảy cái
thất này đều phải cúng; không thể chỉ lựa chọn vài cái, còn những cái còn lại
thì không cần cúng, không thể như vậy được. Tại sao vậy? Cách 7 ngày họ có một
lần biến dị sanh tử thì rất đau đớn. Chúng ta từ kinh điển hiểu được những đạo
lý này. Cho nên lợi ích của sự [đọc kinh] niệm Phật quá nhiều đi thôi.
Trong kinh có nói về việc cúng thất
rất rõ, trong 7 phần công đức người cúng thất hưởng được 6 phần, người mất chỉ
hưởng được một phần. Cho nên lúc cúng thất tốt nhất là nên mời 7 vị pháp sư,
trong 7 phần công đức của 7 vị pháp sư người mất chỉ hưởng được một phần. Nếu
muốn đạt được lợi ích của sự cúng thất, những người cúng thất này không kể là
tại gia hay xuất gia phải dùng tâm chân thành để cúng thì mới có lợi ích chân
thật. Nếu mà chỉ làm theo nghi thức để tụng kinh bái sám, tâm địa không chân
thành thì lợi ích rất nhỏ. Thế nào là tâm không chân thành? Ðó là vừa niệm kinh
vừa khởi vọng tưởng, tâm không tập trung thì không đạt được lợi ích. Nếu người
qua đời này lúc còn sống rất nóng nảy, rất dễ giận mà người cúng thất lại không
thành tâm cúng thất, vong linh người mất sẽ kiếm chuyện phá rối [người cúng
thất]. Quỷ và người giống nhau, nếu bạn có lỗi với họ, họ sẽ kiếm chuyện gây
rắc rối và sẽ trả thù. Nếu người nào tâm địa hòa nhã thì thôi, họ không gây rắc
rối.
Cho nên tất cả mọi chuyện đều có
nhân quả! Nghiệp nhân quả báo tơ hào chẳng sai, đó là chân lý. Trong Phật pháp
có câu: ‘Vạn pháp giai không, nhân quả bất không’ (vạn pháp đều không, nhân quả
không có không). Tại sao nhân quả không có không? Nhân quả có sự ‘chuyển biến
bất không’. Nhân sẽ biến thành quả. Giống như chúng ta trồng một cây ăn trái,
thí dụ này ai cũng biết hết; nếu bạn trồng một cây đào, hột trái đào là hột
giống, hột giống là nhân! Hột trồng xuống đất thì lớn thành cây đào, cây đào sẽ
có trái đào, nhân sẽ biến thành quả; quả đào lại chứa đựng hột đào, đây là ‘chuyển
biến bất không’. Kế đó là ‘tuần hoàn bất không’, nhân quả tuần hoàn xoay chuyển
không có không. Kế đó là ‘tương tục bất không’ (liên tục nối liền không có
không). Cho nên nói tóm lại là có ba hiện tượng: chuyển biến, tương tục, và
tuần hoàn; đây là nói tất cả sự việc trong thế gian và xuất thế gian đều không
vượt ra khỏi nhân quả.
Chúng ta đọc kinh điển Ðại thừa,
bạn xem những thứ [nhân quả] nói trong kinh. Kinh Hoa Nghiêm nói về ‘ngũ châu
nhân quả’, không lìa nhân quả. Kinh Pháp Hoa nói ‘nhất thừa nhân quả’. Phật
pháp xuất thế gian cũng không lìa nhân quả, nhân quả là chân lý trong vũ trụ! Thiện
có quả báo thiện, ác có quả báo ác, người xưa nói rất hay, không phải là không
báo, mà là thời giờ chưa đến. Khi nhân gặp duyên, thì đây là thời giờ đã đến;
nếu nhân chưa gặp duyên thì đây là thời giờ chưa đến; khi gặp duyên thì quả báo
nhất định sẽ hiện ra. Cho nên nếu chúng ta hiểu được đạo lý này, đặc biệt là
trong sự giao thiệp và qua lại giữa người và người với nhau, người xưa nói rất
hay: ‘Oan gia nên giải chớ đừng nên kết’. Hãy ghi nhớ, tuyệt đối đừng bao giờ
kết oán thù với người khác, kết oán thù thì rắc rối rất lớn; oan oan tương báo,
đời đời kiếp kiếp không bao giờ dứt được, cả hai bên đều đau khổ.
Mỗi người chúng ta trong thế giới
này không phải chỉ có một đời này thôi, bạn còn có đời trước. Trong nhiều đời
kiếp trước, bạn đã kết oán thù với bao nhiêu người, cho nên trong đời này sự
sanh hoạt thường ngày không qua được một cách suông sẻ! Khi bạn gặp một người
lạ ngoài đường, từ trước đến giờ chưa gặp qua lần nào, nhưng vừa mới gặp thì
người đó lại ‘kên’ bạn, (nhìn bạn bằng cặp mắt rất hằn học), đó là nghiệp mà
bạn đã tạo trong đời quá khứ. Chúng ta là người học Phật nên chúng ta hiểu
được. Người đó nhìn mình một cách hằn học, A Di Ðà Phật, bạn cũng đừng nhìn họ,
cúi đầu niệm một câu Phật hiệu trả lời cho người đó, như vậy thì hóa giải rồi! Nếu
khi người đó ‘kên’ bạn một cái mà bạn ‘kên’ lại họ thì sẽ có chuyện rắc rối. Cho
nên nếu người đó nhìn bạn gật đầu mỉm cười thì đó là nhờ thiện duyên đời quá
khứ.
Cho nên nghiệp duyên phải hoá giải từ nội tâm, đây là điều mà chúng ta thường
nói đến, nhất định đừng chống đối gây mâu thuẫn với tất cả người và sự việc,
đừng nên đối lập. Phải đem cái tâm niệm chống đối này hóa giải đi, đối xử bình
đẳng và tương thân tương ái với nhau thì mới tốt. Hy vọng mọi người lưu ý điểm
này, nếu chúng ta gặp oan gia chủ nợ, chuyện này rất thường xảy ra, nếu họ vô
tình hay cố ý hủy báng hoặc sỉ nhục chúng ta, thậm chí mưu hại chúng ta, chúng
ta phải hiểu rõ nhất định đừng sanh tâm sân hận, nhất định đừng khởi tâm muốn
trả thù.
Phải học theo Phật! Quý vị có rất
nhiều người niệm kinh Kim Cang, trong kinh có nói đến chuyện Nhẫn Nhục Tiên
Nhân bị vua Ca Lợi cắt thịt trên mình, đây là việc sỉ nhục và làm tổn thương vô
cùng lớn lao. Nhưng Nhẫn Nhục Tiên Nhân có thái độ như thế nào? Không có một
chút tâm niệm sân hận gì hết, nhẫn nhục ba la mật được thành tựu viên mãn. Không
có một chút tâm niệm muốn trả thù nào hết, thì trì giới ba la mật được thành
tựu viên mãn; vả lại ngài còn phát tâm trong tương lai khi thành Phật người đầu
tiên phải độ là vua Ca Lợi thì bố thí ba la mật được thành tựu viên mãn. Chúng
ta phải học những đức tánh này! Phần đông người ta không làm nổi những chuyện
này; phần đông ai cũng sẽ sanh tâm sân hận và báo thù, như vậy thì sẽ có rắc
rối lớn. Chuyện trả thù thì đời đời kiếp kiếp sẽ không bao giờ chấm dứt. Vì vậy
không nên kết oán thù với người, nhất định phải hóa giải, không được kết oán
thù với người.
Tuyệt đối đừng nên thiếu nợ người
khác, phải nên thận trọng. Trong một đời này, nếu gặp người đến để đòi nợ thì
nhất định phải trả! Khi kẻ ăn cướp đến giựt đồ, đến ăn cắp đồ của bạn, bạn bị
tổn hại, tất cả phải nghĩ là mình trả nợ thì sẽ êm chuyện. Họ ăn cắp đồ của
mình thì có lẽ là đời quá khứ mình đã ăn cắp đồ của họ cho nên đời này họ lấy
lại, lấy một trả một, chấm dứt nợ nần một cách vui vẻ. Cũng tuyệt đối đừng có
tâm niệm muốn lợi dụng người khác. Tâm niệm lợi dụng là trộm cắp, tương lai
cũng phải trả lại. Cho nên nếu bạn hiểu rõ sự lý của nhân quả báo ứng thì tâm
bạn sẽ rất an lạc. Mỗi người trong đời này báo ân, báo oán, đòi nợ, trả nợ đều
có nhân lúc trước hết, [hiểu như vậy thì] bạn sẽ rất tự tại. Nếu như có nhiều
oan gia chủ nợ thì bạn cũng rất tự tại. Tại sao vậy? Ðời này từng món nợ, từng
món nợ bạn đều trả sạch trơn, đời sau khi gặp lại đều là bạn bè. Oán thù đã
giải quyết xong, nợ nần cũng trả hết; người khác thiếu mình thì không cần đòi,
đó là bố thí, càng thí thì phước báo càng lớn!
Hôm qua tôi ở ‘Tuyết Lê’ đã nói với
các bạn đồng học rằng người đời nay tham tiền và đều muốn phát tài. Tại vì mấy
hôm trước tôi thấy một quảng cáo ở trên truyền hình đài Phụng Hoàng nói rằng
‘Có trí thì sẽ có tài’. Câu nói này không đúng. Lúc tôi còn trẻ gặp nhiều giáo
sư rất nổi tiếng và rất thông minh tài giỏi nhưng lại rất nghèo! Nghèo đến mức
tiền mua sách cũng không có, họ là giáo sư nghèo. Cho nên lời Phật dạy mới
đúng: ‘Có [bố] thí thì mới có tài’; bố thí tài thì được giàu sang, càng bố thì
thì càng giàu; bố thí pháp thì được thông minh trí huệ; bố thí vô úy (làm cho
không lo sợ) thì được khoẻ mạnh sống lâu. Cho nên giàu sang, thông minh trí
huệ, và khoẻ mạnh sống lâu đều có được nhờ bố thí.
Bố thí là nhân! Bố thí tài vật là
nhân, giàu sang là quả báo; bố thí pháp là nhân, thông minh trí huệ là quả báo;
bố thí vô úy là nhân, khỏe mạnh sống lâu là quả báo. Cho nên một số đồng tu ở
‘Tuyết Lê’, có một số không phải là Phật tử, nhưng họ làm một việc tốt, đó là
tổ chức một đoàn y tế [lưu động] đi Tây Tạng trị bịnh cườm mắt cho dân chúng. Họ
nói bịnh cườm mắt (bạch nội chướng, tức là chứng cataract) ở Tây Tạng rất
nghiêm trọng, người bị bịnh rất nhiều, tại vì người Tây Tạng cư trú ở trên núi
cao, tia tử ngoại tuyến rất mạnh, cho nên người bịnh này rất nhiều, rất phổ
biến, nhiều người bị bịnh đến nỗi bị mù luôn. Họ tổ chức đoàn y tế này và đem
theo máy móc tân tiến, nghe nói có hiệu quả rất cao mà lại tốn ít thời giờ,
chữa trị cho một người đại khái là mười mấy phút thì có thể giải phẫu xong, mà
xác suất thành công cao khoảng 90%.
Thời gian đoàn y tế này đến Tây
Tạng chuẩn bị một tuần, chữa trị một tuần, tất cả gồm có 10 bác sĩ trong đó có
5 người là bác sĩ về mắt và 5 người là bác sĩ tổng quát; ngoài ra còn có nhân
viên y tá, tổng cộng 15 người, chúng tôi có dịp gặp mặt họ. Ðây thuộc về bố thí
vô úy, quả báo của bố thí vô úy là khỏe mạnh sống lâu. Hôm qua đại chúng mời
tôi nói chuyện, nói chuyện xong cũng nhận được không ít tiền cúng dường trong
những phong bao đỏ. Tôi đem hết số tiền này cho đoàn y tế đi Tây Tạng. Thế thì
mọi người đều tu bố thí vô úy, hy vọng là mọi người đều khỏe mạnh sống lâu, như
vậy thì rất viên mãn. Ðược rồi, chúng ta nói chuyện đến đây cũng đã viên mãn.
Trong quá trình chuyển ngữ chắc
không tránh khỏi thiếu sót, xin các bậc thức giả hoan hỷ phủ chính cho.
Xin thành thật cám ơn.
Một nhóm Diệu Âm cư sĩ, 12-2003