Kinh văn, quyển chú giải, trang 56:“Phục thứ Phổ Quảng,
nhược vị lai thế trung, Diêm Phù Đề nội, Sát Lợi Bà la môn, trưởng giả cư sĩ,
nhất thiết nhân đẳng.Cập dị tánh chủng tộc, hữu tân sản giả, hoặc nam hoặc nữ,
thất nhật chi trung, tảo dữ độc tụng, thử bất tư nghì kinh điển. Cánh vi niệm
Bồ Tát danh, khả mãn vạn thiên biến, thị tân sanh tử, hoặc nam hoặc nữ, túc hữu
ương báo, tiện đắc giải thoát. An lạc dị dưỡng, thọ mạng tăng trưởng, nhược thị
thừa phúc sanh giả, chuyển tăng an lạc, cập dữ thọ mạng.”
Nguyên lý thai sanh
Đoạn kinh trên nói về lúc sinh nở, cần phải tu phước như
thế nào? Y học hiện đại phát triển hơn xưa rất nhiều, việc sinh nở cũng an toàn
yên tâm hơn ngày xưa. Thời xưa, đặc biệt ở nông thôn, những khu vực lạc hậu kém
phát triển, việc sinh nở thực sự liên quan đến mạng sống con người, cho nên đức
Phật đặc biệt quan tâm nhắc nhở, dạy chúng ta phải tu học thế nào, làm sao để
đảm bảo bình yên cho cả mẹ lẫn con.
Trong kinh, đức Phật dạy: Quan hệ gia đình vô cùng mật
thiết, chắc chắn phải có nhân duyên sâu sắc. Không phải tụ chung một cách ngẫu
nhiên. Đức Phật đã phân chia nhân duyên phức tạp đó thành bốn loại, đó là: Báo
ân, báo oán, đòi nợ, trả nợ, vì thế mà quy tụ thành người một gia đình. Cha
con, anh chị em, không thể tách rời quan hệ này.
Ngạn ngữ thường nói: “Không phải oan gia không chung
nhà”, câu nói này rất có lý. Tuy nhiên sau khi giác ngộ, người cả nhà liền trở
thành quyến thuộc pháp lữ, thật không gì thù thắng hơn. Còn không giác ngộ, thì
gia đình sẽ liên tiếp xảy ra ân oán xen kẽ báo ứng lẫn nhau. Cả nhà chịu khổ sở
không nói ra được. Dù sao, trả ơn thì hiếm, báo oán thì nhiều; trả nợ thì ít,
đòi nợ thì nhiều. Cho nên cả đời làm người trên thế gian, thường xuyên thấy
không hài lòng như ý.
Quả báo luôn bình đẳng, bất kể sang hèn giàu nghèo.
Kinh đã ví dụ, Sát lợi là hoàng tộc của Ấn Độ xưa; Bà la môn cũng là giai cấp
tôn giáo có địa vị cao trong xã hội bấy giờ; trưởng giả cư sĩ là người có nhiều
phước báu; tiếp theo là tất cả mọi người và các họ tộc khác. Phạm vi bao gồm
rất rộng, trong đó có đầy đủ bốn giai cấp trên.
Người Á đông thường nói “Phú quý bần tiện, bất kể thân
phận thế nào, không luận địa vị ra sao, việc sinh nở cũng không thể tránh
khỏi”. Hơn nữa, đau đớn trong sinh nở là hoàn toàn bình đẳng. Người giàu được
chăm sóc có phần đầy đủ hơn, người nghèo khó được chăm sóc kém hơn. Nói cho
cùng, đau đớn không thể nào tránh được.
Phương pháp dạy bảo thai nhi
Phật giáo hướng dẫn chúng ta phương pháp, trong vòng
bảy ngày, sớm đọc tụng bộ kinh bất khả tư nghì này. Tốt nhất là đọc sớm. Khi
biết có thai liền nên đọc, mỗi ngày đọc tụng một bộ kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện,
hoặc niệm nghìn câu danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng. Cần phải dùng tâm chân thành
cung kính để tụng niệm thì phước báu sẽ vô cùng to lớn.
Cho dù đứa bé trong thai đến gia đình để báo
oán, là oan gia trái chủ, nhưng vì chúng ta chăm sóc đứa bé như thế thì oan kết
cũng sẽ được hóa giải. Do chúng ta có ân với nó thì nó không còn báo oán nữa mà
chuyển thành báo ân.
Chuyển biến phải ngay từ thời gian đầu. Kinh nhấn mạnh,
chậm nhất cũng phải vào bảy ngày trước khi sinh. Đương nhiên càng sớm càng tốt.
Khi chúng ta hiểu được đạo lý này, biết được phương pháp này, tốt nhất đọc tụng
ngay khi biết mình có thai, y theo phương pháp mà tu hành.
Đối với người làm mẹ, cần tâm bình khí hòa, chân thành, cung kính, thanh tịnh,
bình đẳng, vì khởi tâm động niệm sẽ ảnh hưởng đến thai nhi. Điều này, nếu nói
theo lý luận khoa học hiện đại thì càng dễ hiểu hơn. Đây thuộc về hiện tượng
vận động của sóng.
Sơ luận sự vận hành của sóng
Phật pháp nói, cũng như thế giới Tây Phương Cực Lạc, tất
cả pháp đều phát ra ánh sáng, không những con người có thể phóng quang mà vạn
vật cũng phóng quang. Cực Lạc thế giới ánh sáng soi khắp, ánh sáng thế giới
chúng ta cũng phóng quang rọi khắp. Giả sử tất cả mọi người trên thế gian không
có ánh sáng soi khắp, vạn vật không như Cực Lạc Thế Giới được ánh sáng chiếu
khắp như thế, thì “Nhất chân pháp giới” trở thành mâu thuẫn. Làm gì có chuyện
nơi này đặc biệt sáng hơn, còn nơi khác lại không có ánh sáng, như vậy làm sao
giải thích cho thông suốt? “Nhất chân pháp giới” là bao gồm cả pháp giới của
chúng ta, không có đạo lý rời khỏi pháp giới này.
Đọc đoạn kinh, chúng ta phải hiểu rằng, nơi có ánh sáng
soi khắp thì mỗi người đều có thể cảm nhận được. Nơi chúng ta cũng có ánh sáng
soi khắp nhưng chỉ vì chúng ta không có cảm giác mà thôi. Tại sao chúng ta
không có cảm giác? Vì tâm không thanh tịnh, tâm quá loạn, vọng niệm quá nhiều
nên không thể cảm nhận được cảnh giới như thế. Thế gian này cùng Cực Lạc thế
giới và Hoa Tạng thế giới không hề khác biệt. Nói theo vật lý học hiện đại càng
dễ lý giải hơn. Ánh sáng là hiện tượng hoạt động của sóng, chỉ cần có hoạt động
là có sóng. Khoa học hiện tại gọi là sóng, nhà Phật gọi là ánh sáng. Cho nên
ánh sáng chính là sóng, bao gồm tất cả vật chất. Vật chất đã hình thành như thế
nào? Phân tích đến tận cùng, vật chất là nguyên tử proton, neutron. Những hạt
cơ bản như thế đều luôn chuyển động. Đức Phật không cần có những thiết bị khoa
học hiện đại, ngài vẫn nhìn thấy rõ ràng hiện tượng sóng và hạt mà những thiết
bị tiên tiến nhất hiện nay chưa thể quan sát được. Ngài thuyết giảng một cách
uyển chuyển tường tận, nói ra thực tướng của sự vật, nhưng chúng ta phần lớn
không tin, không chấp nhận, dù cách nói của đức Phật rất vi diệu, sâu sắc, gọi
là thiện xảo, là phương tiện khéo léo.
Khi đức Phật nói về hiện tượng vật chất đã nói rõ bốn
nguyên tắc “Đất nước gió lửa”. Đất nước gió lửa là vật chất căn bản, là hạt cơ
bản mà khoa học hiện nay đang nói. Đất là tướng trạng của vật chất, cái con
người có thể nhìn thấy. Đất đại diện cho vật thể. Mắt trần chúng ta không thể
nhìn thấy hạt. Dưới kính hiển vi có độ phân giải cao liền nhìn thấy được tướng
trạng của hạt này. Đức Phật không cần thiết bị gì cả, mắt của ngài “Ngũ nhãn
viên minh”, nhạy bén hơn chúng ta rất nhiều, có thể thấy thứ mà phàm phu chúng
ta không thể nhìn thấy.
Thế thì vật chất cơ bản được cấu thành như
thế nào? Luôn mang nguồn điện, cho nên, lửa, hỏa đại, chính là điện dương;
nước, thủy đại là điện âm, ngôn ngữ chúng ta dùng hiện nay là nhiệt độ và ẩm
độ. Còn gió là trạng thái hoạt động, không đứng yên. Vật chất cơ bản là hết thảy
hiện tượng của tất cả vật chất, bao gồm tổ chức tế bào trong con người. Như vậy
thử nghĩ xem, làm gì có hiện tượng đứng yên. Hạt cơ bản luôn luôn hoạt động,
động sinh ra sóng. Lý thuyết và thực tế đều chứng minh năng lượng của sóng lan
rộng tận hư không biến pháp giới. Trời đất vạn vật, chúng sanh đông như thế,
khởi tâm động niệm, thì sóng đó càng hiển thị rõ ràng, phạm vị ảnh hưởng càng
rộng hơn, trong khi sóng của vật chất còn tương đối nhỏ hẹp. Hiểu được điều
này, chúng ta liền nhận ra trong không gian cuộc sống của chúng ta, sóng hoạt
động phức tạp dường nào.
Kinh Phật dạy, với thiện niệm, thiện tâm, sóng phát ra ổn
định nhẹ nhàng, sau khi tiếp xúc được với sóng này, con người sanh tâm hoan hỷ,
có cảm giác dịu dàng thoải mái. Còn khởi ác niệm, ác tâm, sóng động rất mãnh
liệt, phát ra giao động mạnh, tiếp xúc với sóng này sẽ thấy khó chịu cả người.
Ngày nay, hiện tượng như thế gọi là từ trường. Người luyện khí công ở Trung
Quốc cũng cùng một trạng thái như thế, cho nên gọi là “khí” cũng được. Phật
pháp gọi là ánh sáng, sóng động, từ trường, cùng một trạng thái.
Do đây có thể biết, khi thần thức đến đầu thai, nó có ý
niệm, có sóng, cho nên khởi tâm động niệm và hành động của người mẹ đều ảnh
hưởng đến thai. Ngày xưa, Trung Quốc luôn chú ý đến thai giáo. Thai giáo trong
sách cổ ghi lại một số nguyên lý, nhưng nói không tường tận chi tiết, không
được thấu đáo, đọc xong còn nửa tin nửa ngờ, không thấy được tính nghiêm trọng
của ảnh hưởng này, và cũng khó hiểu.
Hôm nay chúng ta hiểu rõ chân tướng sự thật về sóng, thì
sẽ biết được mỗi khởi tâm động niệm đều ảnh hưởng đến thai nhi rất nhiều. Nên
trong thời gian người mẹ mang thai, nếu khởi tâm động niệm thiện, thanh tịnh
thì thai nhi sẽ nhận được rất nhiều lợi lạc.
Người nào cũng mong muốn con cái mình ngoan giỏi, là
con thảo cháu hiền. Vậy làm thế nào dạy chúng? Ngay trong lúc mang thai, chính
bản thân chúng ta phải thực hành tận hiếu thảo, sóng hiếu thảo đó sẽ ảnh hưởng
đến thai nhi. Chúng ta tu thanh tịnh, tu phước, như vậy mới thật sự gieo cho
thai nhi hạt giống tốt về sau. Đạo lý này có thật, không có gì mê tín cả.
Vì sao đức Phật khuyên chúng ta đọc bộ kinh Địa Tạng Bồ
Tát Bổn Nguyện?
Vì bộ kinh này là hiếu kinh, tinh thần của bộ
kinh có thể tóm lược thành bốn chữ “Hiếu thân tôn sư”. “Hiếu thân tôn sư” là
cương lĩnh dạy học của thế xuất thế gian, cũng là căn bản nền tảng.
Chúng ta tu học Phật pháp Đại thừa bắt đầu từ đâu? Chính
từ Bồ Tát Địa Tạng. Địa là tâm địa, tạng là bảo tàng. Bảo tàng quý
giá trong tâm địa là trí tuệ vô lượng, phước đức vô lượng và khả năng vô lượng.
Bảo tàng hạt châu vốn có trong tự tánh của chúng ta, vì thế mà gọi là Địa Tạng.
Bảo tàng chôn dưới lòng đất, cũng như vàng bạc, khoáng sản, nếu không biết khai
thác thì vẫn nằm sâu dưới đất, tuy có nhưng không thể hưởng dùng.
Chúng ta cần phải biết khai thác bảo tàng trong tự tánh,
bằng cách dùng đến tánh đức, tức là lấy đức tính làm công cụ tương ứng với bảo
tàng thì mới khai thác được. Thù thắng nhất trong tánh đức chính là hiếu và
kính. Cho nên khi tu học Phật pháp Đại thừa, phải bắt đầu từ Bồ tát Địa Tạng.
Học hiếu đạo trước, trong hiếu xây dựng sư đạo. Phật pháp là sư đạo được xây
dựng trên nền tảng hiếu đạo.
Những năm trước đây, tôi gặp một số pháp sư đến hoằng pháp
tại Hoa Kỳ. Khi tiễn họ, tôi đã khuyên họ đến Hoa kỳ đừng xây chùa chiền trước,
mà hãy xây dựng từ đường, xiển dương hiếu đạo. Vì sao? Vì nếu không có hiếu đạo
thì Phật pháp không thể bám rễ, đạo tràng của Phật giáo không thể mạnh được.
Lấy hiếu đạo làm nền tảng giáo dục
Phật pháp là sư đạo, cho nên xây dựng từ đường
tốt hơn. Từ đường để hoằng dương Phật pháp, có hiệu quả lớn hơn xây dựng tự
viện. Nhìn vào hình ảnh chùa chiền, người ta biết ngay là Phật giáo, người
không tin Phật nhất định không vào, duyên này liền bị cắt đứt. Nhưng nếu xây
dựng từ đường, hàng năm cúng giỗ, người Trung Quốc bất kể theo tôn giáo nào vẫn
không thể quên tổ tiên. Khi họ đến tham gia giỗ tổ, chúng ta có thể giảng thêm
về Phật pháp, có thể giảng phương thức dạy học truyền thống Trung Quốc, dần dần
cảm hóa đại chúng đến dự. Cho nên lấy từ đường làm đạo tràng lợi lạc hơn chùa
chiền tự viện rất nhiều.
Rất tiếc các vị pháp sư đó không tiếp nhận kiến nghị của
tôi. Cho nên tại Hoa Kỳ, người Nhật, người Trung Quốc đã xây rất nhiều đạo
tràng, chủ yếu cũng chỉ độ cho người Trung Quốc. Thực tế người nước ngoài tại địa
phương rất ít và hiếm khi vào, nguyên nhân cũng vì họ không tin Phật. Làm như
vậy là chúng ta đã đảo ngược ngọn nguồn. Đến nay, tuy đã trải qua thời gian hơn
một trăm năm, nhưng tại Hoa kỳ, Phật giáo truyền vào cũng chưa bám rễ được,
chưa hoằng pháp thật hiệu quả, rất nhiều người chưa biết đến Phật pháp.
Khi tôi giảng kinh hoằng pháp tại Hoa kỳ, nhắc nhở mọi
người rằng chúng ta chưa đủ phước báu, lực lượng còn mỏng manh, tôi đề nghị
hiện đại hóa và bản địa hóa Phật giáo. Khi xây dựng đạo tràng tại Hoa Kỳ, hình
thức của đạo tràng nhất định phải theo hình thức của Hoa Kỳ. Không nên bưng
nguyên xi hình thức cung điện kiểu Trung Quốc đến, người Mỹ nhìn thấy biết ngay
là hàng ngoại, văn hóa ngoại lai, liền sinh tâm bài xích, và không thích đi
vào. Xây dựng đạo tràng tại Hoa Kỳ, nên xây dựng theo hình thức như tòa Bạch
ốc, hay kiểu Quốc hội..., người Mỹ cảm nhận như cảm nhận văn hóa mình, họ sẽ bị
thu hút vào.
Còn hình tướng Phật Bồ Tát trong đạo tràng thì tạc khắc
theo hình dáng người Mỹ. Như thế mới có thể độ được người nước họ. Hai nghìn
năm trước đây, Phật pháp truyền vào Trung Quốc, những vị cao tăng Ấn Độ đã rất
thông minh khi dựng tượng Phật Bồ Tát theo hình dáng người Trung Quốc, xây đạo
tràng cũng theo hình thức của Trung Quốc.
Người Trung Quốc rất tôn kính hoàng đế và nơi ở của hoàng
đế. Lúc đó các vị cao tăng Ấn Độ đã xây dựng đạo tràng theo hình thức cung
đình, bá tánh nhìn thấy đều rất hoan hỷ. Mấy ai có phước duyên được vào tham
quan hoàng cung một lần trong đời. Thế nên chùa chiền tự viện được xây dựng
cũng không khác hoàng cung bao nhiêu, cho nên dân chúng nhất định vào thăm. Đó
là trang thiết bị phần cứng. Còn nội dung bên trong phải bắt đầu từ “hiếu
kính”.
Phật giáo truyền vào Trung Quốc, tại sao được
triều đình hoan nghênh nồng nhiệt như thế? Chính vì nội dung dạy học.
Phần lý lẽ căn bản nhất hoàn toàn phù hợp với lý lẽ của thánh hiền Trung Quốc
xưa. Cách dạy của nhà Nho cũng xây dựng trên nền tảng hiếu đạo. Phật pháp tương
tự, thậm chí Phật pháp còn nói rõ hơn, chi tiết hơn Nho giáo. Do đó Phật pháp
truyền vào Trung Quốc liền được triều đình hoan nghênh ủng hộ, thành công ngay
thời điểm đó. Đối với xã hội, quốc gia, nhân dân, thực sự đã mang lại lợi ích
và an lạc, tuyệt nhiên không phải là mê tín.
Đối tượng tu học Phật pháp từ lịch sử Trung Quốc đều là
giai cấp sĩ đại phu. Thời kỳ đó, giai cấp sĩ phu tương đương thành phần tri
thức ngày nay. Họ không phải là người bình thường mà là những người thật sự có
học vấn, có đạo đức. Họ tu học, tiếp nhận Phật pháp, tín ngưỡng Phật Pháp rồi y
giáo phụng hành, vì thế đạt hiệu quả trong việc thay đổi phong tục tập quán,
dẫn dắt tầng lớp bình dân học và hành theo tập quán lương thiện.
Còn hiện nay, chùa chiền tự viện đã biến chất, không còn
dạy học. Ngày xưa tự viện là nhà trường, là môi trường dạy học, bây giờ tự viện
trở thành môi trường siêu độ vong linh. Hoàn toàn thay đổi, biến chất quá nặng.
Nhìn nhận về Phật sự cầu siêu trong nhà Phật
Thực ra việc cầu siêu cho vong linh vốn không có trong
Phật giáo. Vậy tại sao diễn biến thành hiện tượng như thế này?
Thời gian khi tôi bắt đầu học Phật, gần gũi pháp sư
Đạo An, lúc đó chúng tôi cùng nhau tổ chức lớp nghiên cứu Phật học cho đại học.
Tôi đã thỉnh giáo pháp sư Đạo An. Ngài từ bi dạy. Ngài nói duyên khởi vấn đề
này có thể bắt đầu từ năm Khai Nguyên nhà Đường, tức thời đại của Đường Minh
Hoàng. Cuối đời, Đường Minh Hoàng vì sủng ái Dương quý phi nên đã bị triều đình
lên án, dẫn đến An Lộc Sơn tạo phản, cơ hồ mất nước. Rất may có tể tướng Quách
Tử Nghi dẹp yên cuộc động loạn, nhưng quân dân chết rất nhiều. Sau khi dẹp yên
cuộc động loạn, triều đình tại mỗi chiến trường đều cho xây dựng một ngôi chùa
gọi là Khai Nguyên tự. Chùa Khai Nguyên xuất hiện như thế. Mục đích để truy
niệm quân dân tử nạn, chùa đã thỉnh mời các pháp sư tụng kinh siêu độ, gọi là
pháp hội truy điệu.
Triều đình quốc gia khởi xướng truy điệu vong hồn người tử
nạn, từ đó dân gian bắt chước, cứ trong dân chúng có người qua đời đều thỉnh
mời pháp sư làm Phật sự cầu siêu. Việc cầu siêu thời đó chỉ là việc phụ thuộc,
còn việc chính yếu trong đạo tràng vẫn là thuyết pháp giảng kinh, hướng dẫn đại
chúng tu hành. Tuy nhiên việc phụ này bây giờ đã biến thành việc chính thức của
chùa chiền, còn việc chính thức thì lại biến mất, không thấy nữa. Nghề tay trái
biến thành nghề chính, đúng là điên đảo. Đó là lý do hình thành xu hướng mê
tín. Sự thực của việc thay đổi diễn biến, chúng ta cần phải hiểu.
Lý luận, phương pháp, nguyên lý và nguyên tắc cầu siêu đều
có viết trên kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện. Người cầu siêu làm sao có thể
chân thật cầu siêu được cho vong linh siêu thoát khỏi các cõi ác, sinh lên cõi
trời, hưởng thụ phước báu. Kinh nói rất rõ ràng. Bản thân người cầu siêu cần
phải chứng quả. Nếu bản thân không nâng cao được cảnh giới của mình, không thể
chứng quả thì lợi lạc vong linh nhận được cũng rất giới hạn.
Bài học hiếu đạo trong kinh Địa Tạng
Kinh đưa ra ví dụ, nữ Quang Mục là một cô gái có hiếu,
biết mẹ mình trong lúc sinh thời tạo nhiều ác nghiệp, cô hiểu Phật pháp, áp
dụng lời Phật dạy. Những nghiệp mẹ cô đã tạo trong đời, nhất định phải đọa địa ngục,
địa ngục dễ vào nhưng thật khó ra. Cô muốn cứu mẹ nên đến cầu Phật. Đức Phật
dạy cô dùng phương pháp niệm Phật. Ngoài ra không còn cách nào khác.
Bà la môn nữ dùng phương pháp niệm Phật, Quang Mục nữ cũng dùng phương pháp
niệm Phật. Ba la môn nữ chỉ là phàm phu nhưng vì muốn cứu mẹ nên trong một ngày
một đêm, tinh tiến niệm Phật rất thành khẩn, đúng pháp, đạt nhất tâm bất loạn,
liền chứng quả. Lúc ở trong thiền định, cô đến địa ngục, quỷ vương trong địa
ngục nhìn thấy liền chấp tay gọi cô là Bồ tát. Chúng ta thấy, từ phàm phu, tu
hành một ngày một đêm đã siêu phàm nhập thánh.
Quỷ vương chào: “Bạch Bồ tát, ngài đến đây có việc gì?”.
Cô hỏi: “Đây là nơi nào?” Quỷ vương trả lời địa ngục. Người vào địa ngục chỉ có
hai đối tượng, một là theo nghiệp lực, đến chịu nghiệp báo; hai là bồ tát đến
theo nguyện lực. Ngoài hai đối tượng này không ai có thể đến được địa ngục. Sau
đó cô hỏi quỷ vương về tung tích mẹ mình. Quỷ vương cho biết, mẹ của cô ba ngày
trước đã sanh về cõi trời Đao Lợi. Không những mẹ cô mà những người chịu tội
chung với mẹ cô cũng đều được sanh về cõi trời Đao Lợi. Họ nghe nói, bà có
người con gái hiếu thảo tu phước cho bà, cúng dường đức Giác Hoa Định Tự Tại
Vương Như Lai. Nhờ phước báu này, bà ta được vãng sanh.
Nếu không phải vì người mẹ tạo tội nghiệp đọa địa
ngục thì nữ Quang Mục cả đời không thể đạt được cảnh giới như thế, vì ngày
thường niệm Phật hay tán loạn, làm sao có thể đạt được nhất tâm. Với mong muốn
cứu mẹ, cô đã cố hết sức trong một ngày đêm thay đổi hẳn cảnh giới của mình. Nữ
Quang Mục có thể chuyển phàm thành thánh do trợ duyên của mẹ. Người mẹ được
vãng sanh cũng vì lý lẽ này. Một mình nữ Quang Mục chỉ cầu siêu qua hình thức
sẽ không có hiệu quả. Chính mình không có phước báu thì người được cầu siêu
cũng không nhận lợi ích gì.
Công phu tu tập trước tiên ở chính mình
Pháp giới ở đường ác, và pháp giới ở cõi
người chúng ta không khác nhau. Cũng như trong một gia đình, đứa con được giáo
dục đàng hoàng, ra xã hội, đều được mọi người kính trọng, làm đến tổng thống,
bộ trưởng, cha mẹ đi đến đâu cũng nhận được sự tôn kính của người khác. Còn bản
thân mình không thành tựu, cha mẹ chúng ta làm sao được quỷ thần cung kính.
Kinh nói vấn đề cầu siêu, bảy phần công đức thì chính mình
được sáu phần. Người được cầu siêu chỉ nhận một phần. Bản thân niệm Phật một
ngày một đêm đạt đến nhất tâm bất loạn, công đức của bản thân là chính, người
mẹ chỉ hưởng một phần, được một ít phước, sanh về cõi trời Đao Lợi. Vì vậy nếu
bản thân không thể thành tựu, người thân sẽ không có được phước báu như thế.
Những lễ cúng bố thí bình thường
chỉ là mời họ đến ăn cơm, như cúng diêm khẩu mông sơn. Một bữa ăn no
chỉ qua được cơn đói nhất thời chứ không thể giúp họ thoát khỏi các đường ác.
Chân thật muốn thoát khỏi đường ác, thì trong Phật sự cầu siêu độ này, những vị
pháp sư làm lễ cầu siêu phải tùy văn nhập quán. Sau khi hoàn tất khóa lễ cầu
siêu, bản thân pháp sư phải thật sự trở thành Bồ tát, cảnh giới của pháp sư
được nâng cao ngay thì hiệu quả cầu siêu sẽ vô cùng lớn, vong linh siêu độ chắc
chắn được sanh cõi trời. Các vị pháp sư phải tụng niệm nghiêm túc, tu trì bằng
tâm thanh tịnh, bình đẳng. Chính pháp sư phải đạt siêu phàm nhập thánh, từ phàm
phu thăng tiến đến Bồ tát. Còn sau khi hoàn tất Phật sự, vẫn còn là phàm phu sẽ
không có thành tựu cho vong linh. Chúng ta cần hiểu thấu vấn đề này.
Do đó khi có Phật sự cầu siêu, hành giả phải nghiêm túc.
Niệm tụng kinh văn, xưng tán những bài kệ, nhất định phải khế nhập vào cảnh
giới đó. Sau khi nhập vào cảnh giới thì không được thối chuyển, có như vậy công
đức mới vô lượng vô biên. Người nhận phước báu sẽ không thể nào đếm được. Không
nên làm qua loa tắc trách cho xong chuyện. Cầu siêu không thể cho giá, nói
thách. Đó là cách làm ăn mua bán, không còn gì gọi là công đức nữa. Chạy theo
hình thức như thế hoàn toàn sai.
Cầu siêu không những siêu độ cho vong hồn mà còn siêu độ
cho cả chính mình. Khi chính mình được siêu thì vong linh cũng theo mình mà
siêu độ. Bản thân chưa có cách siêu độ chính mình thì chắc chắn không thể siêu
độ được vong linh. Đây chính là điều kinh Phật thường nói. Chúng tôi thường
xuyên đọc lại kinh, nữ Quang Mục thật sự độ được bản thân, Bà la môn nữ cũng độ
được bản thân. Sau khi bản thân được độ mới có thể độ được người khác. Những
vong linh nhờ vào phước đức của người siêu độ mà vãng sanh. Nhưng vãng sanh cao
nhất trong trường hợp này cũng chỉ đến cõi trời Đao Lợi. Muốn cao hơn cõi trời
Đao Lợi, nhất định phải nhờ công phu tu hành của chính mình, người khác không
thể giúp được.
Ở Trung Quốc trước đây, lễ cầu siêu quy mô lớn nhất là khi
Lương Vũ Đế siêu độ hoàng hậu của mình. Người chủ trì pháp hội cầu siêu là pháp
sư Bảo Chí, một cao tăng đương thời. Sau này chúng ta biết, pháp sư Bảo Chí là
hóa thân của Bồ tát Quan Thế Âm. Đích thân Bồ tát Quan Thế Âm chủ trì pháp hội
cầu siêu, sau này lưu truyền lại quyển Lương Hoàng Sám.
Như vậy, Bồ Tát Quan Thế Âm chủ trì pháp hội siêu độ hoàng
hậu của Lương Võ Đế nhưng hoàng hậu cũng chỉ sanh đến cõi trời Đao Lợi. Giả sử
chư Phật Như Lai chủ trì cũng như thế thôi. Vong linh dựa vào phước báu tha lực
của người khác chỉ có thể đạt được cảnh giới nhất định. Muốn có cảnh giới cao
hơn phải dựa vào tu hành của mình. Chính mình không công phu tu tập thì không
xong. Vì thế khi tu hành, chúng ta phải chân thật chuyển biến được cảnh giới,
thật sự có kết quả thì Phật sự cầu siêu này có thể không cần hình thức gì cả.
Trong hồi ký Ảnh Trần, lão pháp sư Đàm Hư nói, năm
xưa ngài ở cùng vài người bạn, chuyên nghiên cứu kinh Lăng Nghiêm, “tám năm
song cửa học Lăng Nghiêm”. Lúc đó ngài đang là cư sĩ, mỗi ngày còn phải làm
việc, bôn ba vì cuộc sống nên không thể hoàn toàn chuyên tâm. Nhưng thời gian
tám năm chỉ đọc một bộ kinh, ít nhiều cũng chứng tỏ ngài có định lực. Nếu trong
tám năm đọc hàng chục bộ kinh sẽ không hiệu quả. Tám năm ròng tham cứu, tâm
định trên một bộ kinh, oan gia trái chủ của ngài đã đến nhờ ngài siêu độ. Khi
nhìn thấy những vong hồn đến, ngài sợ hãi, e rằng những vong hồn ấy đến gây
phiền phức. Nhưng oan gia trái chủ bước tới quỳ dưới chân ngài, cầu ngài siêu
độ, tâm của ngài liền an ngay vì biết họ không phải đến gây phiền phức. Họ nói
chỉ cần ngài đồng ý là có thể siêu được. Ngài liền gật đầu đồng ý, lập tức
những vong hồn đáp trên đầu gối và vai ngài để vãng sanh. Hoàn toàn không có
nghi thức gì cả.
Khi bản thân đạt được cảnh giới này, có công phu viên mãn,
vong linh liền nương nhờ phước báu của chúng ta. Chỉ cần chúng ta đồng ý là
được. Cho nên cần phải nhớ, siêu độ vong linh hoàn toàn dựa vào đức hạnh và
công phu tu hành của chính mình.
Chúng ta hiểu rõ lý lẽ này, hiểu thấu cảm ứng của tâm điện
thì chính từ những tư tưởng, khởi tâm động niệm thiện phát ra sóng thuần thiện.
Lực của sóng mạnh có thể làm cho tất cả chúng sanh trên thế gian bao gồm quỷ
thần, những sóng phát ra ác niệm bị sóng thiện bao phủ và triệt tiêu. Hiệu quả
rất thù thắng.
Nói về sinh nở, niệm bộ kinh này có nhiều lợi lạc. Khi
niệm những điều nêu trong kinh điển như lý luận, phương pháp, cảnh giới đều
hiểu thấu, hành giả càng có lực thù thắng hơn. Vì đã hiểu thấu thì đọc tụng có
thể tùy văn nhập quán. Cảnh giới bình thường của chúng ta khó chuyển, tối thiểu
trong khi đọc tụng, cảnh giới đó có thể biến chuyển một vài phần. Hiệu quả này
đều hiện rõ trong hoạt động của sóng. Hiểu sâu sắc, biết y giáo phụng hành thì
lực đó càng không thể nghĩ bàn.
“Thị tân sanh tử”
Đứa bé mới chào đời, dù trai hay gái, nếu có ác báo đều có
thể được giải trừ. Đời quá khứ đã gây tội nghiệp thì đời này phải đến chịu quả
báo. Vì vậy thời điểm mang thai bé là lúc nghiệp chướng rất dễ tiêu trừ. Còn
khi em bé lớn lên, sáng tối suốt ngày suy nghĩ lung tung, lúc đó chúng ta muốn tiêu
trừ nghiệp chướng cho con cũng khó lòng giúp được. Lúc mang thai, bé hoàn toàn
nghe lời, tiêu trừ nghiệp chướng nên thực hiện ngay trong thời gian này.
Thai giáo các thánh hiền xưa đã nói tương tự như vậy. Thai
giáo trong Phật pháp cũng thế.
“An lạc dị dưỡng, thọ mạng tăng trưởng”
Nghiệp chướng đứa bé được tiêu trừ, tai nạn cũng được tiêu
trừ, nó trở nên dễ nuôi, thọ mạng được tăng trưởng. Nếu đứa bé này do thừa
phước mà sanh, thì phước báu chúng ta tu trong đời quá khứ, nay được đứa bé đến
báo ơn cha mẹ, tạo ơn đức với cha mẹ, như vậy bản thân bé cũng tu phước.
“Chuyển tăng an lạc, cập dữ thọ mạng”
Chúng ta dạy dỗ, giúp đỡ bé, phước báu của bé càng nhiều
hơn, thọ mạng càng dài hơn. Trong chú giải cũng giải thích rất hoàn hảo vấn đề
này.
Xem tiếp kinh văn, quyển trung, trang 59
Phục thứ Phổ Quảng, nhược vị lai thế chúng sanh, ư nguyệt
nhất nhật, bát nhật, thập tứ nhật, thập ngũ nhật, thập bát nhật, nhị thập tam,
nhị thập tứ, nhị thập bát, nhị thập cửu, nãi chí tam thập nhật, thi chư
nhật đẳng, chúng tội kết tập, định kỳ khinh trọng.”
Đề mục đã nói “trai tụng cảm báo”. Kinh này nói về mười
ngày chay, cũng có kinh nói sáu ngày chay, những ngày này đều tính trên lịch
âm. Ngày nay, ít người còn dùng lịch âm. Các xã hội trên thế giới hiện nay đều
thông dụng lịch dương. Phật nói, trong những ngày này, một số quỷ thần ở trời
đất tuần tra trên thế gian. Mỗi một khởi tâm động niệm, lời nói việc làm của
chúng sanh, thiện hay ác, quỷ thần đều ghi lại, đều điều tra xem xét, thu thập
chứng cứ xác định nặng nhẹ. Đến lúc lâm chung, người không có phước đức lúc này
sẽ đến gặp Diêm La Vương, lấy hồ sơ đối chiếu để xác định quả báo nặng nhẹ.
Việc như thế, rốt cuộc là có thực hay chỉ là mê tín?
Có thật. Thế gian chúng ta cũng vậy. Hàng ngày cảnh sát
tuần tra, gặp người phạm tội, liền điều tra, thu thập chứng cứ phạm tội, sau đó
mới xét xử. Sau khi xác định tội trạng, phải tìm chứng cứ. Công việc khá khó
khăn, không dễ dàng. Quỷ thần cũng vậy, đến tìm kiếm chứng cứ, chúng ta không
có cách nào che giấu, lừa được người phàm nhưng không thể lừa gạt quỷ thần.
Chúng ta ứng dụng khoa học để phá án, xét độ thành thật, nhưng không biết quỷ
thần không cần dùng những thiết bị khoa học kỹ thuật này mà lại trực tiếp từ
tín hiệu làn sóng phát ra của con người để kết án. Khởi tâm động niệm, quỷ thần
đều biết. Người xưa từng nói, “ba thước trên cao có thần minh”, con người chỉ
có thể lừa mình dối người nhưng không lừa được quỷ thần.
Kinh Vô Lượng Thọ đã dạy, số chúng sanh ở thế
giới Cực Lạc Tây phương quá nhiều, không thể tính đếm được. Những người vãng
sanh thế giới Cực Lạc Tây Phương đều đến từ thế giới mười phương chư Phật, đều
tu pháp môn niệm Phật mà vãng sanh. Không chỉ có thế giới chúng ta, mười phương
tất cả thế giới chư Phật mỗi ngày vãng sanh đến đó, không biết bao nhiều mà kể.
Đến thế giới Cực Lạc Phương Tây, đạo lực thần thông của họ hầu như không khác
xa đức Phật A Di Đà. Những người đó có thiên nhãn, thiên nhĩ rất lợi hại. Tận
hư không biến pháp giới họ đều nhìn thấy. Khởi tâm động niệm của tất cả chúng
sanh, họ đều biết cả vì đạt tha tâm thông. Thần thông của quỷ thần còn giới hạn
so với khả năng của A La Hán ở Tây Phương. Khả năng của A La Hán có thể biết
được năm trăm kiếp của một con người, cụ thể tình trạng từng đời từng kiếp.
Trong khi đó quỷ thần chỉ biết được những việc làm của chúng ta gần đây khoảng
vài tháng.
Chúng ta muốn vãng sanh thế giới Cực Lạc Tây phương, nếu ý
niệm không lành, hành vi không thiện thì dù suốt ngày niệm A Di Đà Phật, mười
vạn biến, không bao giờ gián đoạn vẫn không thể vãng sanh.
Pháp sư:
HT. TỊNH KHÔNG giảng
Trích lục
từ Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện
Biên
dịch: Nhạo Minh cư sĩ
Biên tập:
PT. Giác Minh Duyên
Giảng tại Tịnh tông Học hội Singapore,
tháng 05 - 1998