Những điều cần biết
khi Tịnh Tọa niệm Phật
Trong lúc thực hành niệm
Phật, nhất là khi tịnh tọa, hành giả có thể gặp thường những hiện tượng:
hôn trầm, tán loạn, vô ký, phan duyên. Trường hợp này hành giả cũng cần
phải biết cách đối trị mới dễ dàng khắc phục. Nếu không biết cách thì
khó hàng phục được các hiện tượng ấy, lâu ngày có thể khiến hành giả
chán sợ, lười dụng công.
1. Về hôn trầm: Tức là
tâm mờ mịt như buồn ngủ, có hai loại:
* Tâm thức tự nhiên
lờ mờ, còn biết niệm Phật nhưng không sáng tỉnh, thỉnh thoảng đầu bị
gục. Đây là hôn trầm do khí hỏa hư trong người thăng lên lấn áp tinh
thần. Hành giả nên niệm ra tiếng liên tục và hơi nhanh thì trị được. Đó
là dùng sự cử động của bên ngoài để điều hòa giải trừ khí hư.
* Tâm có vẻ hơi mỏi, khởi niệm gượng gạo, thỉnh thoảng bị ngáp hơi, ngồi
lâu muốn ngủ, trạng thái này diễn biến càng lúc càng nhiều. Đây là hôn
trầm do thiếu hăng hái tinh tấn. Hành giả hãy mặc nhiên và niệm nhanh
(có thể động môi) để kích thích tinh thần. Nhờ bắt tâm khởi niệm nhanh
nên tinh thần mới phấn chấn tươi tỉnh.
2. Về tán loạn:
Cũng có hai loại
* Tâm nghĩ ngợi nhớ tưởng lung tung, quên
việc niệm Phật hiện tại, tinh thần mệt mỏi, không tự chủ, không tỉnh
minh, muốn xả công phu. Đây là tán loạn do tâm nóng nảy phát sinh.
Nguyên nhân là khi niệm Phật, hành giả lại niệm gấp gấp nên ngồi lâu tim
nóng mới bị tán loạn. Gặp trường hợp này, hành giả nên niệm ra tiếng
một cách chậm rãi thong thả, có thể ngân nga. Như thế tâm sẽ trở nên dịu
mát và an bình.
* Nếu tinh thần vẫn an bình nhưng tâm thức thỉnh
thoảng lại khởi nhớ việc này việc nọ. Mặc dù biết được vọng niệm, nhưng
không tránh khỏi sự duyên theo hoặc khó dừng nó. Và mỗi khi vọng niệm,
thì ngưng niệm Phật. Đây là do hành giả thiếu chủ tâm, không tập trung
vào câu niệm Phật nên thói quen dịch chuyển của tâm thức mới có dịp khởi
động. Hành giả chỉ cần tập trung lắêng nghe tâm niệm, nghe từng tiếng
từng câu rõ ràng thì hàng phục được.
3. Về phan duyên và
vô ký:
*Phan duyên: là thói quen tâm ưa rong ruổi
bên ngoài, cũng là một loại động loạn, nhưng có điều nó lặng lẽ, như
ngồi niệm Phật mà tai lại lắng nghe tiếng người ngoài nói chuyện hoặc
mắt theo dõi cảnh vật chung quanh… tức là năm thức duyên theo năm trần
cảnh. Đây là nguyên nhân làm công phu bị gián đoạn và mất chánh niệm.
Hành giả không biết, tưởng mình không vọng niệm rồi chẳng lo đoạn trừ,
lâu ngày thành thói quen nặng, ngồi niệm Phật mà chỉ huân tập vào tâm
những chuyện vô ích bên ngoài, tu nhiều mà tâm không định.
* Vô ký: là một thái cực đối lập với phan duyên, tức là tâm thức
biến mất, hành giả ngồi niệm Phật đến một lúc tự nhiên không nhận biết
gì cả, quên niệm Phật, như người chết có khi trải qua hàng giờ. Nếu
không biết lại cho là được định tâm, đắm thích theo nó khiến uổâng phí
ngày giờ gieo trồng chủng tử gỗ đá vô tri.
Để đối trị tâm phan
duyên và vô ký này, hành giả có thể khởi niệm Phật rõ ràng từng niệm ba
câu hay năm câu, mười câu cho liên tiếp, rồi ngừng khoảng hai giây, sau
đó khởi niệm trở lại ba hay năm, mười câu liên tiếp nữa, rồi lại ngừng,
ngừng rồi lại niệm. Cứ như thế mà hành trì niệm Phật, vừa niệm vừa lắng
nghe kiểm soát rõ ràng. Thực hành như vậy tâm sẽ tập trung mạnh mẽ.
Cần biết thêm là trừ tâm phan duyên thì niệm ra tiếng, còn đoạn tâm vô
ký thì niệm thầm. Dù niệm ra tiếng hay niệm thầm, đều kiểm soát ghi nhận
rõ ràng từng đợt mấy câu. Sở dĩ trường hợp phan duyên đuổi theo cảnh,
thì cảnh do mình để kéo về mới kết quả và đoạn tâm vô ký, là ý thức chìm
mất, vì vô ký là ý thức hay chìm mất, nên bắt ý thức làm việc và kiểm
soát nó thì nó sẽ không mất nữa.
Đó là khái quát cách đối trị các
bệnh hôn trầm, tán loạn, phan duyên và vô ký. Tuy nhiên, hành giả cũng
cần biết khi cơ thể mệt mỏi suy kém do làm việc nhiều hoặc bệnh tật cũng
thường gây ra các chứng bệnh ấy. Trường hợp này, hành giả phải nghỉ
ngơi để bồi dưỡng cho thân được điều hòa, không nên gượng ép công phu vô
ích.
Lại nữa, khi hành giả niệm Phật đã thành thạo, tiếng Phật
không mất mà vẫn phát động đều đặn, tâm an bình, tỉnh táo, nghe biết rõ
ràng. Nơi tâm tự nhiên sinh khởi các ý tưởng vọng động kèm theo câu Phật
hiệu của hành giả. Đây là do tâm của hành giả đạt đến chỗ bình lặng,
làm lưu xuất các chủng tử trong tạng thức. Trường hợp này hành giả không
cần quan tâm, cứ chú ý câu Phật hiệu của mình. Các chủng tử được lưu
xuất ấy lần lần bặt dứt, sẽ trở lại sự trong sáng tự nhiên nơi tâm.
Điều cần nhớ nữa là khi các vọng niệm khởi sinh, hành giả đã cố gắng
dụng công niệm Phật mà các vọng ấy cứ gợi lên hoài có thể khiến hành giả
duyên theo, nhất là các vọng thuộc về nghiệp nặng của mình. Mỗi người
đều có nghiệp nặng của mình, những vọng tưởng về các nghiệp ấy thường
rất khó trừ. Ví dụ: Người nghiệp sâu nặng, ngồi tu lại có các vọng về sự
việc trái ý tổn hại sinh ra. Các vọng này rất khó trừ vì nó khởi động
nghiệp của các hành giả, khiến hành giả khó bình tâm bỏ qua. Hoặc người
nghiệp ái nặng, các vọng tưởng về người thân xa lìa, chết chóc, tai nạn…
cũng thế. Đối với các vọng này, hành giả không nên gượng tránh vô ích,
vì chúng sẽ không dứt khi chưa được giải quyết. Cho nên, hành giả phải
suy xét về nhân duyên, nhân quả, từ bi, hỷ xả, vô ngã, vô thường… tùy
theo mỗi loại mà quán sát các pháp thích hợp. Vọng về sân thì quán từ
bi, hỷ xả, nghiệp báo; vọng về ái thì quán sát bất tịnh, vô thường, vô
ngã… Như thế mới chặt được gốc của các vọng, các vọng sẽ tự tiêu diệt.
Sau đó hành giả trở lại niệm Phật như cũ. Nhờ quán sát như thế, nghiệp
của hành giả từ từ nhẹ bớt. Về sau các vọng này có khởi lên, nếu hành
giả vẫn tỉnh giác biết rõ nó vô lý và không bị động vì nó, thì không cần
quan sát nữa, cứ tiếp tục niệm Phật, không cần quan tâm. Vì nó giống
như một cái cây đã bị đốn ngã, tuy còn dư tàn các lá mầm nhưng chẳng có
gì nguy hiểm, không bao lâu chúng sẽ chết hẳn.
Đôi khi các vọng
thuộc về hằng ngày như suy tính, xét nét, lo lắng… Hành giả mặc dù nhận
biết được chúng nhưng tâm lại không muốn xả trừ, mà cố tưởng đuổi theo
nghĩ tưởng. Rõ mình muốn đuổi theo như thế, hành giả hãy dũng mãnh cảnh
sách rằng: “Đang niệm Phật thì lo niệm Phật, làm việc gì chỉ nghĩ việc
ấy. Mọi thứ đều có nhân duyên, hãy phó mặc cho nhân duyên của nó”. Có
như vậy mới trừ được thói quen phóng tâm nắm níu các duyên ấy.
Hành giả nếu khéo điều tâm, ngay từ lúc bắt đầu vào tịnh tọa cho đến khi
cuối thời công phu, tâm luôn luôn tươi vui hăng hái, thích thú tập
trung thì không vướng phải các bệânh hôn trầm, tán loạn… trên. Niệm từng
câu lắng nghe rõ ràng, say sưa, thích thú với các âm thanh Phật hiệu.
Ấy là phương pháp thầân diệu giúp hành giả quên hết tất cả cảnh duyên
bên ngoài và mọi nỗi lo phiền suy tính trong tâm.
Hành giả cũng
nên biết, khi tâm đã có phần khó tập trung bởi hôn trầm tán loạn thì cố
gắng tập thường xuyên lặng lẽ niệm Phật. Vì còn niệm ra tiếng, tâm tất
còn duyên ra bên ngoài, sức quán chiếu nội tâm còn yếu và khi đối cảnh
khó giữ được câu niệm liên tục, không gián đoạn, lại hao nhiều sức khỏe.
Chỉ khi thường xuyên chăm chú lắng nghe câu niệm nơi tâm, sự quán chiếu
nội tâm mới trở nên mạnh mẽ, đủ sức giúp hành giả quên hoàn toàn ngoại
cảnh, để đạt được chánh định (tam muội) và giữ cho hành giả vẫn niệm
Phật không gián đoạn khi làm việc hay đối cảnh, lại không tổn hao sức
khỏe. Dĩ nhiên, lúc mới chuyển từ to tiếng niệm sang mặc niệm, do sức
mặc niệm còn yếu, vọng tưởng có thể sinh khởûi nhiều. Hành giả không sợ
hãi thối thất, cứ cố gắng mặc niệm từng tiếng, lắng nghe rõ ràng hoặc
niệm từng chập liên tiếp vài câu rồi ngưng, ngưng rồi niệm liên tiếp
nữa… kiểm soát số câu không quên. Như vậy lâu ngày, sức mặc niệm sẽ
mạnh.
Thực hành niệm Phật một cách đúng đắn như trên tất được định
tâm nhanh chóng, dễ dàng, ít tổn tâm lực và sức khỏe hành giả niệm
Phật, hãy tinh tấn thực hành.
Nguyện tất cả chúng sinh
Đồng
sinh Tây phương
Đồng thành Phật đạo.
***
(Cảm tác sau khi thực nghiệm
lại phương pháp niệm Phật: kính tặng tất cả hành giả niệm Phật).
Hãy lắng nghe, hãy bình thản lắng nghe, lắêng nghe rõ ràng không bỏ
sót, lắng nghe trong lòng đang niệm Phật A Di Đà Phật, A Di Đà Phật…
Hành giả hãy lẳng lặng lắng nghe, bền bỉ lắng nghe. Trong lòng niệm A
Di Đà Phật như thế nào mặc kệ, cứ lắng nghe đừng cố gắng làm gì cả, lắng
nghe A Di Đà Phật nơi tâm chẳng cần biết bên ngoài.
Mắt khi nào
phải nhắm thì nhắm, đừng kiềm, âm thanh A Di Đà Phật có nhỏ, thây kệ,
đừng cố gắng niệm to. Nơi thân nơi tâm có cảm gì cứ tự nhiên. Chỉ chăm
chú lắng nghe, mặc tất cả, luôn luôn lắng nghe, lắng nghe mải miết A Di
Đà Phật nơi tâm.
A Di Đà Phật dù có nhỏ, A Di Đà Phật dù có xa, A
Di Đà Phật dù có đi xa hút cũng vẫn cứ lắng nghe âm thanh càng vi tế, sự
lắng nghe càng tinh tường. Rồi thì một âm cũng tròn đủ A Di Đà Phật,
không âm cũng không tròn đủ A Di Đà Phật, một cái lấp lánh của tâm cũng
tròn đủ A Di Đà Phật, một cái dao động vô hình của tâm cũng tròn đủ A Di
Đà Phật, vẫn lắng nghe rõ biết rõ thấy rõ nơi tâm như vậy.
Sẽ đến
lúc toàn thể thân tâm tràn đầy thanh tịnh vắng lặng, tâm thức là một
khối kiên cố, không một vọng tưởng nào xen được, đỉnh đầu dần dần gom
cứng và như bị xuyên thủng một cách an lạc, A Di Đà Phật vẫn nghe rõ
ràng. Sau cùng tất cả tan vỡ, tâm hoàn toàn phẳng lặng, A Di Đà Phật nhẹ
nhàng thong thả đi qua, đi qua, như từng áng mây bay qua bầu trời trong
vắt không một chướng ngại. Cái nghe bây giờ không còn lắng nữa vì đã tự
nhiên rồi. Tất cả an tịnh, thân tâm quên hết rồi, sự sáng suốt và thanh
tịnh bao trùm.
Hành giả hãy lắng nghe đi, thật kỳ diệu!
Hãy
bền chí nhưng đừng trông mong, đừng gián đoạn, gián đoạn không thành.
Liên tục nửa giờ, một giờ, hai ba giờ sẽ đến nhất tâm! Liên tục không
gián đoạn tôi nhận rõ. Đừng nghe A Di Đà Phật bên ngoài, buông bỏ chuỗi,
ngồi bình thường an trú giữa không gian yên tịnh, niệm Phật trong chánh
niệm sẽ thành tựu!
Nguyện đem công đức này
Trang
nghiêm Phật Tịnh độ
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ ba đường
Nếu
có người thấy nghe
Đều phát lòng Bồ đề
Hết một báo thân này
Sinh
qua cõi Cực lạc
Nam mô A Di Đà Phật.