Tánh cảnh, hiện lượng, thông tam tánh
(Năm thức trước chỉ duyên với tánh cảnh, hiện lượng, và gồm đủ 3 tánh)
Câu này nói về năm thức trước. Năm thức trước, đối với ba cảnh chỉ duyên với tánh cảnh; trong ba lượng chỉ duyên với hiện lượng; và đối với ba tánh: thiện, ác, vô ký, thì gồm đủ cả.
Ba cảnh là tánh cảnh, đới chất cảnh và độc ảnh cảnh. Tánh cảnh là cảnh có thể tánh và (tác dụng) chân thật, tức là cảnh vật có thật chất làm đối tượng cho năm căn, do tám pháp năng sở [3] hợp thành. Nói cách khác, tánh cảnh là cảnh vật có thể tánh và có thật chất, bao gồm tướng phần (của thức thứ tám, của năm thức trước và ngũ câu ý thức), mà trong đó, tánh cảnh có chủng tử sanh khởi, có thể tánh và tác dụng chân thật với các pháp thật có nơi hiện tại, tức là nói đến sở duyên duy thức[4].
Đối với hai loại biến [5], năm thức trước chỉ duyên với nhân duyên biến, nghĩa là chỉ duyên với cảnh tự tướng ly ngôn; còn ở trong độc ảnh cảnh (của thức thứ sáu) thì duyên với phân biệt biến.
Đối với ba lượng, năm thức trước chỉ tương ưng với hiện lượng. Vì tương ưng với hiện lượng nên khi duyên cảnh, năm thức trước nhận thức trực tiếp, sáng tỏ các cảnh, do vậy mà nói năm thức trước chỉ duyên với tánh cảnh.
Năm thức trước thông cả ba tánh: thiện, ác và vô ký, bởi vì tánh chất của năm thức thì chẳng phải hằng nhất. Muốn rõ thì xem tiếp văn sau:
Nhãn, nhĩ, thân tam, nhị địa cư
(Ở nhị địa, tức từ sơ thiền ly sanh hỷ lạc địa thuộc Sắc giới, chỉ còn có 3 thức là nhãn thức, nhĩ thức và thân thức)
Câu này nói về giới và địa của năm thức. Giới có ba: Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới. Địa có chín: 1. Ngũ thú tạp cư địa (thuộc Dục giới); 2. Sơ thiền ly sanh hỷ lạc địa; 3. Nhị thiền định sanh hỷ lạc địa; 4. Tam thiền ly hỷ diệu lạc địa; 5. Tứ thiền xả niệm thanh tịnh địa (thuộc Sắc giới); 6. Không vô biên xứ địa; 7. Thức vô biên xứ địa; 8. Vô sở hữu xứ địa; 9. Phi phi tưởng xứ địa (thuộc Vô sắc giới).
Dục giới là cõi giới có ba việc là ăn uống, ngủ nghỉ và tình dục. Ngũ thú tạp cư địa là trời, người, súc sanh, ngạ qủy và địa ngục. Sở dĩ nói Ngũ thú tạp cư là vì năm loại chúng sanh này ở chung lẫn lộn nhau trong Dục giới.
Nhị địa cư, là chỉ Sơ thiền ly sanh hỷ lạc của Sắc giới. Từ Nhị thiền trở lên, do không có tầm tứ [6] nên năm thức trước không khởi tác dụng. Nói cách khác, bảy địa sau không có sự ô nhiễm của tầm tứ.
Câu tụng trên ẩn lược tỷ thức và thiệt thức, chỉ có trong chúng sanh ở Ngũ thú tạp cư địa của Dục giới, vì từ cõi thiền thiên (Sơ thiền) trở lên không có đoàn thực. Đoàn thực (, ăn bằng thực phẩm,) dùng ba trần: hương, vị, xúc làm thể. Ở Sắc giới không có đoàn thực nên hai thức này không phát sanh. Vì sao không có đoàn thực? Vì đoàn thực chính là điều chán chê ở các cõi thiền thiên.
Biến hành, biệt cảnh, thiện thập nhất
Trung nhị, đại bát, tham sân si
(Những tâm sở của 5 thức trước gồm có: 5 tâm sở Biến hành, 5 tâm sở Biệt cảnh, 11 tâm sở thiện, 2 phiền não trung tùy, 8 phiền não đại tùy và 3 phiền não căn bản)
Hai câu tụng trên nói về những tâm sở của năm thức. Những tâm sở này, trong ý nghĩa tương ương của Duy thức, hàm đủ ba nghĩa: một là, luôn luôn sanh khởi theo tâm thức; hai là, cùng tương quan với tâm thức; ba là, hệ thuộc vào tâm thức. Thí dụ như những vật thuộc về ta nên gọi là ngã sở. Năm thức này đối với sáu loại tâm sở chỉ thiếu loại Bất định.
Tâm sở biến hành: Có 5 tâm sở là tác ý, xúc, thọ, tưởng và tư.
1. Tác ý (khởi niệm): Đặc tánh của tâm sở này là năng lực đánh thức tâm. Hoạt dụng của nó là hướng dẫn tâm vào cảnh mà tâm thức duyên theo. Sự tác ý có hai công dụng: một là, khi tâm chưa sanh khởi, thì nó đánh thức khiến tâm sanh khởi; hai là, khi tâm sanh khởi rồi, sự tác ý dẫn dắt tâm hướng theo cảnh.
2. Xúc (tiếp xúc): Đặc tánh của tâm sở này là làm (chất xúc tác) cho tâm vương, tâm sở tiếp xúc được với cảnh. Hoạt dụng của xúc là làm chỗ nương tựa cho các tâm sở khác như thọ, tưởng, tư v.v...
3. Thọ (thọ dụng): Đặc tánh của tâm sở này là cảm nhận những cảnh tướng thuận (đáng ưa), nghịch (đáng ghét) và không thuận không nghịch (chẳng đáng ưa mà cũng chẳng đáng ghét). Hoạt dụng của thọ là khởi lên sự ham muốn. Lại có chỗ nói, tâm sở thọ làm cho sanh khởi những trạng thái tâm lý như vui mừng hay lo buồn, để rồi muốn tiếp nhận hay buông bỏ.
4. Tưởng (phân biệt): Đặc tánh của tâm sở này là đối với cảnh (sau khi cảm thọ) nó nắm giữ những ảnh tượng, tức là khả năng an lập bằng tự cảnh phần (ở nơi tâm thức). Hoạt dụng của tưởng là đặt bày ra các thứ danh ngôn. Điều đáng chú ý là tâm sở tưởng an lập tự cảnh phần bằng các ảnh tượng rồi sau đó tùy theo ảnh tượng mà khởi các thứ danh ngôn.
5. Tư (suy nghĩ): Đặc tánh của tâm sở này là thúc đẩy tâm (tâm vương và tâm sở khác) tạo tác (sự suy nghĩ). Hoạt dụng của tư là sai sử tâm theo chiều hướng thiện, ác hay vô ký. Nói tóm, tâm sở tư có công năng nắm bắt các cảnh tượng từ tổng quát đến chi tiết rồi sai sử tự tâm khiến tạo tác những sự nghĩ ngợi theo chiều hướng thiện, ác hay vô ký.
Vì sao gọi là biến hành? Vì các tâm sở này đi cùng khắp trong bốn lãnh vực và có mặt trong tất cả tâm vương (như là điều kiện cần và đủ) để tâm vương có thể vận hành (trong việc nhận thức vạn pháp). Bốn lãnh vực: một là, đi khắp 3 tánh (thiện, ác và vô ký); hai là, đi khắp 8 thức (tâm vương); ba là, đi khắp 9 địa (3 cõi / tất cả không gian); bốn là, đi khắp tất cả thời gian (quá khứ, hiện tại và vị lai).
Tâm sở biệt cảnh: Có 5 tâm sở là: dục, thắng giải, niệm, định và tuệ.
1. Dục (mong muốn): Đặc tánh của tâm sở này là mong muốn những cảnh vui thích. Hoạt dụng của dục là siêng năng theo đuổi (đối tượng ưa thích). Những cảnh vui thích có ba loại: một là, cảnh đáng ưa vui (trong hiện tại); hai là, cảnh mong cầu có được (trong tương lai); ba là, cảnh muốn quán thấy (trong khi tu tập chỉ quán), đặc biệt có sự hiểu biết chân chánh.
2. Thắng giải (hiểu rõ): Đặc tánh của tâm sở này là ghi nhận và gìn giữ những cảnh quyết định (trong ba loại cảnh vui thích mà tâm sở dục muốn theo đuổi). Hoạt dụng của thắng giải là không thể bị dẫn chuyển (bởi cái khác, sau khi nó đã quyết định chọn lựa).
3. Niệm (ghi nhớ): Đặc tánh của tâm sở này là làm cho tâm thức nhớ lại rõ ràng những cảnh (đã qua) từng huân tập (trong tâm thức). Hoạt dụng của niệm là làm chỗ nương cho tâm sở định.
4. Định (chuyên chú): Đặc tánh của tâm sở này là khiến tâm chuyên chú, không cho tâm tán loạn đối với cảnh sở quán. Hoạt dụng của định là làm chỗ nương cho trí (tâm sở tuệ).
5. Tuệ (sáng suốt): Đặc tánh của tâm sở này là lựa chọn cảnh sở quán. Hoạt dụng của tuệ là dứt nghi ngờ.
Năm tâm sở trên, do mỗi tâm sở duyên mỗi cảnh riêng khác mà phát sanh, nên gọi là biệt cảnh.
Tâm sở thiện: Nói về 11 món tâm sở thiện, Duy thức tam thập tụng có bài tụng rằng:
Thiện vị: tín, tàm, qúi
Vô tham đẳng tam căn
Cần, an, bất phóng dật
Hành xả cập bất hại
(Tâm sở thiện gồm có: tin, hổ thẹn, sỉ nhục, không tham lam, không giận dữ, không si mê, siêng năng, nhẹ nhàng, không phóng dật, buông thả và không tổn hại)
Tất cả 11 tâm sở này đều có đặc tánh “hiền lành” nên gọi là tâm sở thiện.
1. Tín (tin): Đặc tánh của tâm sở này là: với chân lý sự thật (thật) thì tin sâu, với giá trị đạo đức (đức) thì ưa muốn, với năng lực của sự thật và đạo đức (năng) thì làm cho tâm thanh tịnh. Hoạt dụng của tín là đối trị sự bất tín, và ưa thích điều thiện.
Tín có ba mặt: một là, tin vào chân lý: là tin nhận sâu sắc vào sự thật (hiện tượng) và lý thật (bản thể) của các pháp; hai là, tin vào giá trị đạo đức: là tin ưa sâu xa vào tam bảo trong ý nghĩa Phật thì chân thật, pháp thì thanh tịnh và tăng thì công đức; ba là, tin vào năng lực: là tin chịu sâu chắc vào thiện pháp thế gian có năng lực đem đến hạnh phúc thế gian và thiện pháp xuất thế gian có năng lực đạt thành Thánh đạo xuất thế gian, mà khởi lên ý mong cầu.
Tín đối trị được cái tâm bất tín (vào thật, đức, năng) và đem lại sự ưa thích thiện pháp thế gian và sự tu chứng thiện pháp xuất thế gian. Tin sâu là vì có tâm sở thắng giải làm nhân cho tín. Ưa muốn là vì có tâm sở dục làm quả của tín. Công năng của tín là lóng trong, có thể làm cho tâm được thanh tịnh, như thủy thanh châu có công năng thanh lọc nước bẩn.
2. Tàm (hổ thẹn): Đặc tánh của tâm sở này là nương vào sức mạnh của bản thân (tự) và đạo lý (pháp), sùng kính người hiền, coi trọng điều thiện. Hoạt dụng của tàm là đối trị tâm không biết hổ thẹn và ngăn dứt làm điều ác. Tự là tự thân, pháp là giáo pháp. Nếu tự xét “tôi là người như vậy hay sao?” và hiểu rõ “đạo lý (làm người) là thế nào?”, thì thử hỏi có dám làm điều ác?
3. Qúi (sỉ nhục): Đặc tánh của tâm sở này là nương vào sức mạnh của thế gian để coi nhẹ người dữ, chống cự điều xấu (khinh cự bạo ác). Hoạt dụng của qúi là đối trị tâm không biết sỉ nhục. Sức mạnh của thế gian là sự chê trách của người đời (dư luận). Khinh cự bạo ác là coi nhẹ người dữ (bạo) nên chẳng thân cận, chống cự điều xấu (ác) nên chẳng dám làm.
4. Vô tham (không tham lam): Đặc tánh của tâm sở này là đối với sự hiện hữu (hữu) qua mọi sắc thái (của quả dị thục) mà không có cái tâm tham đắm. Hoạt dụng của vô tham là đối trị tham đắm, và ưa làm việc lành.
5. Vô sân (không giận dữ): Đặc tánh của tâm sở này là đối với sự đau khổ qua mọi hình thức (khổ khổ, hành khổ, hoại khổ )[7] mà không có cái tâm oán giận. Hoạt dụng của vô sân là đối trị sân hận, và ưa làm việc lành.
6. Vô si (không si mê): Đặc tánh của tâm sở này là hiểu biết rành rõ các sự lý (thế gian và xuất thế gian). Hoạt dụng của vô si là đối trị ngu si, và ưa làm việc lành.
7. Cần (= tinh tấn: siêng năng): Đặc tánh của tâm sở này là dũng mãnh trong việc dứt các việc dữ, làm các việc lành. Hoạt dụng của cần là đối trị biếng nhác, làm tròn đủ các việc lành.
8. Khinh an (nhẹ nhàng ổn định): Đặc tánh của tâm sở này là xa lìa những gì nặng nề bực bội, điều hòa thảnh thơi thân tâm, tức nói khả năng buông thả. Hoạt dụng của khinh an là đối trị hôn trầm (thân tâm nặng nề), và được quả chuyển y[8]. Xa lìa những gì nặng nề bực bội là khinh (nhẹ nhàng). Điều hòa thảnh thơi thân tâm là an (ổn định). Sở y của tâm sở này là khả năng gánh vác và nhận chịu, làm chỗ dựa cho thân tâm chuyển bỏ những gì nặng nề bực bội (tạp nhiễm) để được thảnh thơi ổn định (thanh tịnh).
9. Bất phóng dật (không phóng túng): Đặc tánh của tâm sở này là tinh tấn để thành tựu ba thiện căn là: vô tham, vô sân và vô si, có khả năng ngăn ngừa và chế ngự tâm trong việc đoạn ác tu thiện. Hoạt dụng của bất phóng dật là đối trị tâm phóng túng để thành tựu trọn vẹn những điều thiện của thế gian và xuất thế gian. Nói tóm, tâm sở bất phóng dật là tinh tấn có được ba thiện căn, có được công năng ngăn ngừa và chế ngự. Lìa bỏ sự tinh tấn có được ba thiện căn và công năng ngăn ngừa, chế ngự đó, thì thể của bốn pháp: tinh tấn, khinh an, bất phóng dật và hành xả, không thể thành lập.
10. Hành xả (buông thả): Tinh tấn có được ba thiện căn làm nhân tố cho tánh cách của tâm sở này, đó là tâm an trụ nơi bình đẳng, chánh trực và vô công dụng[9]. Hoạt dụng của hành xả là tâm an trụ vắng lặng và đối trị trạo cử (xao động). Chữ xả ở đây là xả trong hành uẩn[10], chứ chẳng phải xả trong thọ uẩn, vì vậy gọi là hành xả. Tâm an trụ nơi bình đẳng, chánh trực và vô công dụng nghĩa là khi buông xả tâm tư thì xa lìa trạng thái hôn trầm (nặng nề) và trạo cử (xao động) để có được: đầu tiên là tâm bình đẳng, kế đến là tâm chánh trực[11] và sau cùng là tâm vô công dụng. Một pháp hành xả đây cũng tức là bốn pháp: tinh tấn, khinh an, bất phóng dật và hành xảû. Bởi lẽ, khả năng làm cho tâm an trụ vắng lặng là bốn pháp[12] và biểu hiện cho tâm an trụ vắng lặng là tâm bình đẳng, tâm chánh trực, tâm vô công dụng.
11. Bất hại (không làm tổn hại): Đặc tánh của tâm sở này là không làm tổn hại các loài hữu tình, vì luôn có tâm sở vô sân đi kèm. Hoạt dụng của bất hại là lòng bi mẫn, có khả năng đối trị tâm tổn hại.
Câu tụng trung nhị, đại bát, tham sân si là nói về nhiễm tâm sở (tâm sở nhiễm ô). Nhiễm tâm sở gồm có 26 loại (trong đó có 6 loại là phiền não căn bản và 20 loại là phiền não tùy thuộc). Năm thức trước chỉ có 13 loại nhiễm tâm sở, gồm có: 3 trong 6 căn bản phiền não và 10 trong 20 tùy phiền não.
Tùy phiền não: gồm có 20 loại, phân làm 3 bậc là tiểu, trung và đại.
Tiểu tùy có 10 loại là: phẫn, hận, phú, não, tật, xan, cuống, siểm, hại và kiêu.
Trung tùy có 2 loại là: vô tàm và vô qúi.
Đại tùy có 8 loại là: trạo cử, hôn trầm, bất tín, giải đãi, phóng dật, thất niệm, tán loạn và bất chánh tri.
Tiểu tùy không tương ưng cùng năm thức trước, chỉ có trung tùy và đại tùy mới phụ thuộc năm thức trước. Sở dĩ gọi là tùy phiền não vì 20 loại phiền não này tùy thuộc vào 6 loại phiền não căn bản mà sanh khởi trong phạm vi tương ưng rộng hẹp khác nhau.
Có 3 nghĩa: một là, tự loại câu khởi (mỗi loại cùng khởi); hai là, biến nhiễm nhị tánh (khắp cả hai tánh bất thiện); ba là, biến chư nhiễm tâm (khắp cả các tâm nhiễm ô). Nếu đủ cả 3 nghĩa thì gọi là đại tùy, có 1 nghĩa hay hơn thì gọi là trung tùy, không có 3 nghĩa thì gọi là tiểu tùy.
Hai tánh ở đây là bất thiện và hữu phú (nhiễm ô). Mười loại tiểu tùy, do mỗi loại riêng biệt sanh khởi, nên thiếu nghĩa tự loại câu khởi. Mười loại tiểu tùy này là bất thiện tánh, nên thiếu nghĩa biến nhiễm nhị tánh. Đã thiếu tánh hữu phú và chẳng có nghĩa biến chư nhiễm tâm, nên gọi là tiểu tùy. Mười loại tiểu tùy này cùng thức thứ sáu tương ưng, vì vậy không giải thích ở phần này.
Năm thức trước có 10 tùy phiền não: 2 thuộc trung tùy và 8 thuộc đại tùy. Vô tàm và vô qúi là tự loại câu khởi (và có mặt trong khắp cả các tâm bất thiện), thuộc về trung tùy.
1. Vô tàm (không biết hổ với mình): Đặc tánh của tâm sở này là chẳng đoái hoài đến bản thân (tự) và đạo lý (pháp), coi thường người hiền, chống cự điều thiện. Hoạt dụng của vô tàm là làm chướng ngại tánh xấu hổ (tàm) và sanh lớn việc xấu ác.
2. Vô qúi (không biết thẹn với người): Đặc tánh của tâm sở này là chẳng đoái hoài đến (dư luận) thế gian, coi nặng người dữ (bạo), thỏa hiệp điều xấu (ác). Hoạt dụng của vô qúi là làm chướng ngại tánh sỉ nhục (qúi) và sanh lớn việc xấu ác.
(Tám loại phiền não sau đây thuộc về đại tùy. Các tâm sở này biến khắp các tâm sở bất thiện, phạm vi hoạt động lại rộng hơn 2 loại trung tùy, nên gọi là đại tùy)
1. Trạo cử (xao động): Đặc tánh của tâm sở này là chẳng chịu yên tịnh khi tâm đối với cảnh. Hoạt dụng của trạo cử là làm chướng ngại hành xả và cản trở xa ma tha (tu chỉ).
2. Hôn trầm (thân tâm nặng nề): Đặc tánh của tâm sở này là không thể gánh vác được việc gì cả (vô kham nhậm) khi tâm đối với cảnh. Hoạt dụng của hôn trầm là làm chướng ngại khinh an và cản trở tỳ bát xá na (tu quán).
3. Bất tín (không tin): Đặc tánh của nó là với chân lý sự thật (thật) thì không tin nhận; với giá trị đạo đức (đức) thì không ưa muốn; với năng lực của sự thật và đạo đức (năng) thì (vì không tin nên) làm cho tâm nhiễm ô. Hoạt dụng của bất tín là làm chướng ngại việc tịnh tâm (tu chỉ quán) và làm chỗ nương cho giãi đãi[13].
4. Giãi đãi (biếng nhác): Đặc tánh của tâm sở này là biếng nhác trong việc đoạn các điều ác, tu các điều thiện. Hoạt dụng của giãi đãi là làm chướng ngại tinh tấn và tăng thêm tánh nhiễm ô.
5. Phóng dật (phóng túng): Đặc tánh của tâm sở này là buông lung, phóng túng, chẳng thể ngăn ngừa tâm nhiễm ô, chẳng thể chế ngự (tâm ấy) cho thanh tịnh. Hoạt dụng của phóng dật là làm chướng ngại bất phóng dật và làm nền tảng cho việc thêm lên điều ác, giảm bớt điều lành.
6. Thất niệm (mất chánh niệm): Đặc tánh của tâm sở này là không thể ghi nhớ rõ ràng cảnh sở duyên. Hoạt dụng của thất niệm là chướng ngại chánh niệm và làm điều kiện cho tán loạn sanh khởi. Bản chất của thất niệm cũng là bản chất của tâm tán loạn. Tâm sở thất niệm này có hai phần: một là, một phần nhiếp vào tâm sở niệm, nhưng là sự ghi nhớ (niệm) nào tương ưng với phiền não; hai là, một phần nhiếp vào tâm sở si, như luận Du Già nói, thất niệm là một phần của si mê, vì si mê làm cho thất niệm. Nói một cách khác, thất niệm nhiếp vào hai phần: niệm và si (= vọng niệm).
7. Tán loạn (không tập trung): Đặc tánh của tâm sở này là làm cho tâm trôi nổi, chạy nhảy trước cảnh sở duyên. Hoạt dụng của tán loạn là làm chướng ngại chánh định và làm chỗ nương cho ác tuệ[14], vì tán loạn làm phát sanh ác tuệ.
8. Bất chánh tri (Biết không chính xác): Đặc tánh của tâm sở này là hiểu biết sai lầm đối với cảnh sở quán. Hoạt dụng của bất chánh tri là làm chướng ngại sự hiểu biết chính xác (chánh tri) và làm điều kiện hủy phạm giới luật (do dễ tạo nghiệp bất thiện).
Căn bản phiền não: Tham, sân, si là 3 trong 6 căn bản phiền não (tham, sân, si, mạn, nghi và ác kiến).
1. Tham (tham đắm): Đặc tánh của tâm sở này là tham nhiễm, đắm trước sự tồn tại[15] trong mọi quả báo dị thục. Hoạt dụng của tham là chướng ngại thiện căn vô tham và làm sanh khởi các khổ luân hồi.
2. Sân (nóng giận): Đặc tánh của tâm sở này là nổi giận, ghét bỏ đối với cảnh khổ trong mọi hình thái khổ đau (khổ khổ, hành khổ, hoại khổ). Hoạt dụng của sân là chướng ngại thiện căn vô sân, làm cho thân tâm không yên ổn (vì không ưa thích nghịch cảnh) và làm chỗ nương cho ác hạnh.
3. Si (ngu si): Đặc tánh của tâm sở này là mê muội, không nhận định rõ các sự lý (thế gian và xuất thế gian). Hoạt dụng của si là làm chướng ngại thiện căn vô si và làm điểm tựa cho mọi thứ tạp nhiễm (luôn thích ứng với phiền não và tùy phiền não)[16].
Ba món phiền não còn lại (mạn, nghi và ác kiến) xin xem phần chú giải về thức thứ sáu. Sở dĩ gọi các tâm sở này là phiền não căn bản là vì nó (làm cội gốc) sanh ra các chủng tử tùy miên. Tùy miên khác với phiền não, vì tùy miên là tập khí (chủng tử) của phiền não và vì tướng trạng cả hai thì trái ngược nhau: phiền não thì lộ rõ dễ thấy, tùy miên thì nhỏ nhiệm khó biết. Tùy miên và phiền não ảnh hưởng lẫn nhau mà làm cả hai thêm lớn mạnh.
Ngũ thức đồng y tịnh sắc căn
(Năm thức đều nương nơi tịnh sắc căn để có tác dụng nhận biết)
Câu tụng này nói, năm thức lấy năm căn làm chỗ sở y. Tịnh sắc căn còn gọi là thắng nghĩa căn[17]. Sở dĩ gọi như vậy là vì thể của nó chẳng phải là nhiễm pháp và tánh của nó là vô phú, vô ký. Năm thức tùy theo căn mà lập danh, gồm đủ 5 nghĩa: y, phát, thuộc, trợ và như (nương tựa, phát sanh, phụ thuộc,
trợ giúp và giống như). Chữ y trong câu tụng là 1 trong 5 nghĩa trên.
Nếu giải rộng ra thì gọi là thức của y căn (thức nương vào căn để hiểu biết), thức của thuộc căn (thức phụ thuộc vào căn mà thiết lập danh xưng), thức của trợ căn (thức trợ giúp cho căn hoạt động), thức của như căn (thức giống như căn tiếp nhận hình ảnh), tất cả đều là y chủ thích[18]. Thức của phát căn: căn là nơi để thức phát sanh tác dụng, là y sĩ thích.
Cửu duyên, thất, bát hảo tương lân
(Nhãn thức cần 9 duyên để sanh khởi, ba thức: tỷ, thiệt và thân chỉ cần 7 duyên, nhĩ thức chỉ cần 8 duyên, tất cả có quan hệ qua lại rất tốt)
Đây là nói 9 duyên để năm thức có thể phát khởi phân biệt. Chín duyên là: không, minh, căn, cảnh, tác ý, phân biệt y, nhiễm tịnh y, căn bản y và chủng tử.
1. Không: là khoảng không gian cách nhau giữa căn và cảnh.
2. Minh: là ánh sáng của mặt trời, mặt trăng, ánh sáng của đèn.
3. Căn: là 5 căn làm chỗ tựa cho 5 thức (phát sanh tác dụng).
4. Cảnh: là 5 trần cảnh làm đối tượng cho 5 thức duyên theo.
5. Tác ý: đồng nghĩa với tâm sở tác ý trong 5 món biến hành.
6. Phân biệt y: là thức thứ sáu.
7. Nhiễm tịnh y: là thức thứ bảy.
8. Căn bản y: là thức thứ tám.
9. Chủng tử duyên: là chủng tử của 8 thức, mỗi mỗi đều nương chủng tử phát sanh.
Xét 9 duyên trên đối chiếu với tứ duyên thì chủng tử duyên là nhân duyên [19], cảnh là sở duyên duyên[20], 7 duyên còn lại là tăng thượng duyên[21]. Còn đẳng vô gián duyên [22] là nói tám thức tâm vương, mỗi loại sanh diệt trước sau, không gián đoạn, có lực dụng năng dẫn và sở dẫn (= duy trì hiện hành và duy trì chủng tử) bằng nhau.
Câu tụng trên tuy ẩn lược, nhưng đã gồm đủ trong đó. Cho nên có bài tụng rằng:
Nhãn thức cửu duyên sanh
Nhĩ thức duy tùng bát
Tỷ, thiệt, thân tam: thất
Hậu tam: ngũ, tam, tứ.
(Nhãn thức cần 9 duyên để sanh khởi, nhĩ thức chỉ cần 8 duyên, ba thức: tỷ, thiệt và thân chỉ cần 7 duyên, thức thứ 6, 7 và 8 tương ứng cần 5, 3 và 4 duyên)
Nếu thêm đẳng vô gián duyên thì mỗi thức tăng thêm 1 duyên.
Thức thứ 6 có 5 duyên:
1. Căn duyên: là ý căn (mạt na).
2. Cảnh duyên: là 18 giới.
3. Tác ý duyên: là tác ý trong 5 món biến hành.
4. Căn bản duyên: là thức A lại da.
5. Chủng tử duyên: là thức thứ 6 tự thân sanh chủng tử.
Thức thứ 7 có 3 duyên:
1. Chủng tử duyên: là thức thứ 7 tự thân sanh chủng tử.
2. Tác ý duyên: là tâm sở tác ý trong 5 món biến hành.
3. Căn cảnh duyên: căn và cảnh đều là thức thứ 8. Cho nên Duy thức tam thập tụng viết: y bỉ chuyển, duyên bỉ (thức mạt na do thức A lại da sanh ra, rồi trở lại duyên thức A lại da chấp làm tự ngã).
Thức thứ 8 có 4 duyên:
1. Căn duyên: là thức mạt na.
2. Cảnh duyên: là chủng tử, căn thân và khí thế giới.
3. Tác ý duyên: là tác ý trong 5 món biến hành.
4. Chủng tử duyên: là thức thứ 8 tự thân sanh chủng tử.
Đẳng vô gián duyên nghĩa là mỗi thức sau khi diệt, liền mở hay đóng cảnh giới của mỗi thức, dẫn dắt niệm sau sanh khởi, khoảng giữa (2 niệm) không có gián đoạn. Nếu thêm đẳng vô gián duyên thì nhãn thức có 10 duyên; nhĩ thức có 9 duyên; tỷ, thiệt, thân thức có 8 duyên; ý thức có 6 duyên; mạt na thức có 4 duyên; A lại da thức có 5 duyên.
Vì sao các thức phải mượn duyên mới phát sanh được? Vì các thức là hữu vi pháp nên phải mượn nhân gá duyên, thiếu duyên thì không phát sanh được. Thức nào nhiều duyên thì (hoạt động) ngắn ngủi, ít duyên thì (hoạt động) dài lâu. Câu tụng trên ẩn lược 3 thức sau, vì không nói đủ các duyên.
Hợp tam, ly nhị, quán trần thế
(Trong việc quán sát trần thế, tỷ thức, thiệt thức và thân thức phải tiếp xúc với trần cảnh, còn nhãn thức và nhĩ thức thì cần có không gian chia cách giữa căn và cảnh)
Câu tụng này nói nhãn thức và nhĩ thức phải cách hở (ly) trần cảnh mới tiếp nhận được cảnh; còn tỷ thức, thiệt thức và thân thức phải chung đụng (hợp) trần cảnh mới tiếp nhận được cảnh. Quán, là quán sát, là kiến phần năng duyên[23], đó là 5 thức trước và các tâm sở. Trần thế, là tướng phần sở duyên [24], đó là 5 trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc.
Ngu giả nan phân thức dữ căn
(Hàng tiểu thừa và người thường khó mà có sự hiểu biết chân xác về thức và căn)
Câu tụng này nói hàng tiểu thừa thanh văn và người thường chấp pháp nên chẳng biết rằng căn và thức, mỗi cái có chủng tử và hiện hành, rằng căn và thức có sự hổ tương sanh khởi. Chủng tử và hiện hành của căn chỉ có thể hướng dẫn chủng tử và hiện hành của thức, cho nên nói căn là duyên tố sanh ra thức. Căn không thể là nhân tố sanh ra thức được, vì thức tự nó có chủng tử năng sanh (sanh ra hiện hành). Hàng tiểu thừa trí thiển tâm thô, chưa dứt trừ sở tri chướng[25], đối với các pháp chưa hiểu rõ tường tận cho nên chưa tin được giáo lý Duy thức của đại thừa.
Biến tướng quán không duy hậu đắc
(Chỉ có hậu đắc trí mới chuyển đổi tướng phần sở duyên thành kiến phần năng duyên để tiếp cận với chân như)
Năm thức này (ở giai đoạn phàm phu) biết rõ thế tục (thấy có) và thấy không[26] Biến, là chuyển đổi. Tướng, là tướng phần. Quán, là kiến phần năng duyên. Không, là chân như sở duyên. Duy hậu đắc (chỉ có trí hậu đắc )[27], là chẳng phải trí căn bản [28], vì 5 thức này dựa vào sắc căn (5 năm) mà sanh khởi. Trí hậu đắc (của 5 thức này) không thể trực tiếp duyên chân như [29]. Trí hậu đắc là trí còn có phân biệt, so lường, tính toán nên không thể trực tiếp duyên với lý vô phân biệt. Không, là thật tánh Duy thức [30].
Quả trung du tự bất thuyên chân
(Ở ngay nơi quả Thánh cũng không thể nói là năm thức trước trực tiếp duyên được chân như)
Là nói về 5 thức trở thành vô lậu (vô lậu ngũ thức). Không phải trong lúc tu nhân chẳng thể nói chân, mà ở ngay nơi quả vị (vô lậu) cũng không thể trực tiếp duyên được chân như. Năm thức này dựa vào sắc căn, có sự phân biệt, cho nên không thể trực tiếp duyên được chân như. Sở dĩ gọi là trí hậu đắc, vì nó sanh sau trí căn bản. Ngoại đạo chấp rằng, 5 thức trước không có trí căn bản thì làm sao có trí hậu đắc được. Câu trả lời là, trí căn bản và trí hậu đắc đều là trí (vô phân biệt [31] ) cả và cùng thông đạt sự (lý).
Theo ngài An Huệ[32], 5 thức này sau khi tu nhân rồi trở thành (5 thức) vô lậu, thì bản thân 5 thức này sẽ tự chuyển đổi tướng phần của chúng để duyên với chân như. Kiến phần và tướng phần (của tâm thức) thuộc biến kế chấp tánh [33]. Tự chứng phần [34] thuộc y tha khởi tánh [35]. Đến quả vị Phật tức là đạt đến tự chứng phần, thì 5 thức trước trực tiếp duyên được chân như, do không còn kiến phần và tướng phần thuộc biến kế chấp tánh nữa. Cho nên ngài Hộ Pháp luận sư [36] dùng câu này để phá chấp của các luận sư khác.
Viên minh sơ phát thành vô lậu
Tam loại phân thân tức khổ luân
(Thức thức tám vừa chuyển thành Đại viên cảnh trí thì năm thức trước cũng thành vô lậu, nghĩa là thành tựu Thành sở tác trí. Bấy giờ, năm thức này có công dụng hóa hiện 3 loại thân để hóa độ và dứt trừ cái khổ luân hồi cho chúng sanh)
Khi nhân tu trọn vẹn, thành tựu quả vị Phật, thì 5 thức trước tương ưng với (đặc tánh của một trong tứ trí) tâm phẩm, tức thành tựu Thành sở tác trí. Bấy giờ 5 thức này có công dụng hóa hiện ra 3 loại thân để hóa độ và dứt trừ các khổ sanh tử luân hồi cho chúng sanh. Nói cách khác, nơi quả vị Phật, thức thứ tám, vốn tương ưng với các tâm sở, chuyển từ Vô lậu bạch tịnh thức thành Đại viên cảnh trí. Sơ phát, là bỗng chốc hiện tiền. Thành vô lậu, nghĩa là khi thức thứ tám (viên minh) vừa chuyển (sơ phát) thành Đại viên cảnh trí, thì 5 thức trước cũng thành vô lậu. Tam loại phân thân, nghĩa là khi tâm sở của 5 thức chuyển thành Thành sở tác trí, thì trí đó có công năng hóa hiện 3 loại hóa thân. Ba loại hóa thân này thuộc hóa thân, 1 trong 3 thân: pháp thân, báo thân và hóa thân. Các hóa thân này bao trùm các căn cơ, ưu liệt chẳng đồng.
Ba loại hóa thân là:
1. Đại hóa thân: cũng gọi là Thắng ứng thân. Thân này cao 1 ngàn trượng, để giáo hóa hàng bồ tát đại thừa gia hạnh vị [37].
2. Tiểu hóa thân: tức là Liệt ứng thân [38]. Thân này cao 1 trượng 6, để giáo hóa hàng bồ tát đại thừa 3 tư lương vị [39].
3. Tùy loại hóa thân: Thân này biểu hiện theo thân của 6 loại chúng sanh, bao gồm tam thừa và lục thú.
Đại viên cảnh trí, Diệu quán sát trí, Bình đẳng tánh trí và Thành sở tác trí là tứ trí tâm phẩm mà tổng nhiếp hết tất cả công đức hữu vi vào Phật địa. Đây là một sự chuyển hóa các thức hữu lậu là thức thứ 8, thức thứ 7, thức thứ 6 và 5 thức trước, tương ứng đặc tánh của mỗi thức, theo thứ tự mà được 4 trí. Trí tuy chẳng phải thức, nhưng y thức chuyển (bỏ 2 trọng chướng là phiền não chướng và sở tri chướng) mà có. Thức làm chủ, cho nên nói do thức chuyển mà được 4 trí. Ở địa vị hữu lậu thì trí yếu, thức mạnh. Trong địa vị vô lậu thì trí mạnh, thức yếu. Vì khuyên hữu tình nương nơi trí mà buông bỏ thức, nên nói chuyển 8 thức để được 4 trí, mà thuật ngữ thường gọi là “chuyển thức”.