Dịch âm:
(Năm thức trước:)
Tánh cảnh, hiện lượng, thông tam tánh
Nhãn, nhĩ, thân tam, nhị địa cư
Biến hành, biệt cảnh, thiện thập nhất
Trung nhị, đại bát, tham sân si.
Ngũ thức đồng y tịnh sắc căn
Cửu duyên, thất, bát hảo tương lân
Hợp tam, ly nhị, quán trần thế
Ngu giả nan phân thức dữ căn.
Biến tướng quán không duy hậu đắc
Quả trung du tự bất thuyên chân
Viên minh sơ phát thành vô lậu
Tam loại phân thân tức khổ luân.
(Thức thứ sáu:)
Tam tánh, tam lượng, thông tam cảnh
Tam giới luân thời dị khả tri
Tương ưng tâm sở ngũ thập nhất
Thiện ác lâm thời biệt phối chi.
Tánh, giới, thọ, tam hằng chuyển dịch
Căn, tùy, tín đẳng tổng tương liên
Động thân, phát ngữ độc vi tối
Dẫn mãn năng chiêu nghiệp lực khiên.
Phát khởi sơ tâm hoan hỷ địa
Câu sanh du tự hiện triền miên
Viễn hành địa hậu thuần vô lậu
Quán sát viên minh chiếu đại thiên.
(Thức thứ bảy:)
Đới chất, hữu phú, thông tình bản
Tùy duyên chấp ngã, lượng vi phi
Bát đại, biến hành, biệt cảnh tuệ
Tham, si, ngã kiến, mạn tương tùy.
Hằng thẩm tư lương ngã tướng tùy
Hữu tình nhật dạ trấn hôn mê
Tứ hoặc, bát đại tương ưng khởi
Lục chuyển hô vi nhiễm tịnh y.
Cực hỷ sơ tâm bình đẳng tánh
Vô công dụng hạnh ngã hằng tồi
Như lai hiện khởi tha thọ dụng
Thập địa bồ tát sở bị cơ.
(Thức thứ tám:)
Tánh duy vô phú, ngũ biến hành
Giới địa tùy tha nghiệp lực sanh
Nhị thừa bất liễu nhân mê chấp
Do thử năng hưng luận chủ tranh.
Hạo hạo tam tàng bất khả cùng
Uyên thâm thất lãng cảnh vi phong
Thọ huân, trì chủng, căn thân khí
Khứ hậu, lai tiên, tác chủ ông.
Bất động địa tiền, tài xả tàng
Kim cang đạo hậu, dị thục không
Đại viên, vô cấu đồng thời phát
Phổ chiếu thập phương trần sát trung.
Dịch nghĩa:
(Năm thức trước:)
Tánh cảnh, hiện
lượng, gồm ba tánh
Nhị địa có ba nhãn,
nhĩ, thân
Biến hành, biệt cảnh,
mười một thiện
Hai trung, tám đại,
tham sân si.
Năm thức cùng nương
tịnh sắc căn
Chín, bảy, tám duyên
quan hệ tốt
Ba hợp, hai ly, nhìn
thế gianhế
Phàm ngu khó biết
thức cùng căn.
Trí hậu đắc biến
tướng, quán không
Trong quả còn chẳng
được nói chân
Viên minh vừa phát
thành vô lậu
Ba loại phân thân dứt
trầm luân.
(Thức thứ sáu:)
Ba tánh, ba lượng,
gồm ba cảnh
Ba cõi luân hồi dễ
biết hay
Tương ưng tâm sở năm
mươi mốt
Thiện ác lúc nào
riêng phối hợp.
Tánh, giới, thọ: ba
thường chuyển đổi
Căn, tùy, tín thảy
nối tiếp nhau
Thân động, miệng nói
hơn hết cả
Dẫn mãn nghiệp lực
lôi chịu quả.
Hoan hỷ địa sơ tâm
phát khởi
Câu sanh ngã pháp vẫn
dây dưa
Sau Viễn hành địa
thuần vô lậu
Quán trí tròn sáng
chiếu đại thiên.
(Thức thứ bảy:)
Đới chất, hữu phú,
gồm tình bản
Theo duyên chấp ngã,
luôn phi lượng
Tám đại, biến hành,
tâm sở tuệ
Tham, si, ngã kiến,
mạn theo hoài.
Thường xét suy lường
vin ngã tướng
Ngày đêm hữu tình
chịu mê mờ
Bốn hoặc, tám đại
tương ưng khởi
Ý thức gọi rằng nhiễm
tịnh y
Sơ tâm Cực hỷ tợ bình
đẳng
Vô công dụng hạnh,
ngã phá rồi
Như lai hiện thân tha
thọ dụng
Chỉ dạy bồ tát Thập
địa căn.
(Thức thứ tám:)
Tánh là vô phú, năm
biến hành
Giới địa tùy theo
nghiệp lực sanh
Nhị thừa chẳng hiểu
nên mê chấp
Do đó có ra việc luận
tranh.
Mênh mang ba tàng
không cùng tột
Biển sâu bảy sóng do gió
cảnh
Thọ huân, trì chủng,
căn thân khí
Đến trước, đi sau làm
chủ ông
Đến Bất động địa bỏ
tên tàng
Vào Kim cang đạo
không dị thục
Đại viên, vô cấu cùng
lúc khởi
Khắp chiếu mười
phương hằng sa cõi.
SÁCH THAM KHẢO
H.T Thích Trí Quang dịch giải, Nhiếp Luận, 1994.
H.T Thích Trí Quang dịch giải, Kinh Giải Thâm Mật, 1994.
H.T Thích Thiện Hoa biên soạn, Luận Đại Thừa Trăm Pháp và
Bát Thức Qui Củ Tụng, Phật Học Phổ Thông, Khóa IX, Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ
Chí Minh ấn hành, 1992.
H.T Thích Thiện Siêu dịch và chú, Luận Thành Duy Thức, Nhà
xuất bản Văn hóa Sài goon, 2006.
H.T Thích Quảng Liên, Duy Thức Học, Trung Tâm Nghiên Cứu
Văn Hóa Triết Học Đông Phương Quảng Đức, 1972.
H.T Thích Thắng Hoan, Khảo Nghiệm Duy Thức Học – Tâm Lý
Học Thực Nghiệm, Tái bản lần thứ 2, Đường Sáng Printing, 1998.
Tỳ Kheo Ni Như Thanh, Duy Thức Học, Tập 1 và Tập 2, Thành
Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh ấn hành, 1991.
H.T Thích Minh Cảnh chủ biên, Từ Điển Phật Học Huệ Quang,
Cảo bản, 1999.
CHÚ THÍCH
1 Ðàm Huyền (?-?): danh tăng Trung Quốc, người
Hồ Nam.
Sư xuất gia lúc tuổi nhỏ, chuyên tâm học tập, biện tài vô ngại. Sư từng đi du
học ở Nhật bản 2 lần, tu tập Thai mật và Ðông mật đều được học vị Truyền pháp
quán đảnh. Năm 1935, sư mang về nước những kinh sách về Mật giáo do sư sưu tập,
khoảng 300 loại, hơn 2500 quyển, gồm các bản chép tay, bản in chụp, bản hoàn
chỉnh, bản dịch văn Phạn, văn Tây tạng, và có những bản gồm cả 4 thứ tiếng Tây
tạng, Phạn, Anh, Hán, cùng nhiều sách vở khác. Những sách này được triển lãm
tại Phật học thư cục Thượng Hải và được cất giữ can than ở thư viện Phật học
viện Vũ Xương. Su đã thúc đẩy phong trào nghiên cứu Phật học ở Trung quốc phát
triển mạnh mẽ. Sư từng giảng dạy ở Sở nghiên cứu Phật học viện Vũ Xương, Phật
học viện thế giới.
2 Thái Hư (1889-1947): Cao tăng Trung quốc, người huyện
Sùng Ðức, tỉnh Chiết Giang, họ Trương, tên Kiềm Sâm, pháp danh Duy Tâm, hiệu là
Hoa Tử, Bi Hoa, Tuyết Sơn Lão Tăng, Tấn Vân Lão Nhân. Sư là người đề xướng
phong trào đổi mới Phật giáo từ thời Dân Quốc về sau. Sư xuất gia năm 16 tuổi,
thọ giới Cụ túc năm 18 tuổi với hòa thượng Ký Thiền chùa Thiên Ðồng ở Ninh Ba. Năm
19 tuổi, nhân đọc kinh Bát nhã mà có sở ngộ. Năm 1912, sư đến Quảng Châu tuyên
dương giáo pháp, trụ trì chùa Song Khê, núi Bạch Vân. Sư là người sáng lập
Trung quốc Phật giáo Hiệp tiến hội tại Nam Kinh, sau sát nhập vào Trung quốc
Phật giáo Tổng hội. Sư chủ trương 3 cuộc cách mạng lớn về giáo lý, giáo chế và
giáo sản, cổ súy phong trào chấn hưng Phật giáo, kiến lập chế độ Tân tăng đoàn.
Năm 1914, nhập thất ở núi Phổ Ðà, một đêm nọ, nghe tiếng đại hồng chung mà có
tâm niệm dứt bặt, trải qua ngộ cảnh lần thứ 2. Năm 28 tuổi, sư lại trải qua ngộ
cảnh lần thứ 3. Năm 29 tuổi, sau khi ra thất, sư tham gia Ðài Loan pháp hội, du
lịch Nhật bản, sáng lập Giác xã tại Thượng Hải, làm chủ biên Giác xã tùng thư,
năm sau đổi thành Hải Triều Âm nguyệt san. Dù là người có quan điểm cách tân
Phật giáo, nhưng sư luôn phản đối quan điểm khảo chứng lịch sử của các học giả
Nhật bản cho rằng luận Ðại thừa khời tín, kinh Lăng nghiêm là ngụy thư. Năm
1924, sư tham dự đại hội Nhật bản Ðông á Phật giáo, đồng thời khảo sát Phật
giáo Nhật bản. Người Nhật tôn sư là minh chủ giới Phật giáo Dân quốc. Năm 1927,
sư trụ trì chùa Nam Phổ Ðà ở Hạ môn, kiêm Viện trưởng viện Phật học Mân Nam. Năm
1928, sư sáng lập Hội Phật học Trung quốc tại Nam Kinh, đồng thời hoằng hóa ở
các nước: Anh, Pháp, Ðức, Hà Lan, Bỉ, Mỹ, là vị tăng Trung quốc đầu tiên truyền
bá Phật giáo đến Âu Mỹ. Năm 44 tuổi, sư trụ trì chùa Tuyết Ðậu ở Phụng Hóa. Năm
49 tuổi, sư soạn Ngã đích Phật giáo cách mạng thất bại sử, trình bày nguyên
nhân phải đổi mới Phật giáo. Năm 1947, sư thị tịch tại Trực Chỉ Hiên, chùa Ngọc
Phật, Thượng Hải, thọ 59 tuổi. Một đời sư khởi xướng và tận lực đổi mới Phật
giáo, theo chủ nghĩa tam Phật: Phật tăng, Phật hóa, Phật quốc. Sư coi trọng
giáo dục Tăng tài, thiết lập nhiều viện Phật học, sáng tác nhiều tác phẩm Phật
giáo có giá trị, mà sau này được đệ tử là ngài Ấn Thuận gom chép thành bọâ Thái
Hư toàn thư, 64 tập.
3 Tám pháp năng sở: sắc, hương, vị, xúc (tứ vi) và
địa, thủy, hỏa, phong (tứ đại).
4 Sở duyên duy thức: là nói đối tượng nhận thức là
nhân sanh khởi của tâm và tâm sở, và bị các thứ tâm này chấp lấy. Ðối tượng ấy
là những ảnh tượng trong tâm thức và cảnh đối diện bên ngoài.
5 Nhị biến: nhân duyên biến và phân biệt biến.
Nhân duyên biến là tâm vương và tâm sở biến hiện tướng phần mà chẳng nhờ lực
phân biệt của năng duyên, do tự có nhân duyên phát sanh chủng tử, tự có thật
thể, thật dụng của tâm sắc, tức là trong 3 loại cảnh, nó thuộc về tánh cảnh. Phân
biệt biến là nhờ lực phân biệt của năng duyên mà trở lại khởi tướng phần. Phân
biệt biến có 2 loại: một là, tùy theo lực phân biệt của năng duyên, chẳng mang
bản chất của tánh cảnh, cũng không đủ khả năng sanh chủng tử, tức là trong 3
loại cảnh nó thuộc về tướng phần của độc ảnh cảnh, như khi duyên với tướng phần
của lông rùa, sừng thỏ; hai là, mang bản chất của tánh cảnh, lại có khả năng
sanh chủng tử, cũng nhờ lực phân biệt của năng duyên, nên gọi là tự tướng của
tánh cảnh, chẳng mượn thật dụng của sắc tâm nên nó là đới chất cảnh, như thức
thứ bảy duyên với kiến phần của thức thứ tám, như thức thứ tám duyên với tướng
phần của các tâm vương, tâm sở trong mọi lúc.
6 Tầm tứ: cựu dịch là giác quán, tân dịch là
tầm tứ, là 2 tâm sở trong 4 món bất định tâm sở. Tầm có nghĩa là đánh mạnh vào,
có đặc tánh là hướng tâm, để tâm trên đối tượng. Tư là tư duy được đưa lên cao
độ, có đặc tánh liên tục nhấn mạnh vào đối tượng, dán chặt vào đối tượng.
7 Khổ có 3 loại: một là, khổ khổ,
khổ sở vì nóng lạnh, đói khát, bịnh tật …; hai là, hành khổ, khổ sở vì sự biến
động của pháp hữu vi, trong đó, là 5 uẩn bao gồm thân tâm và thế giới của thân
tâm ấy; ba là, hoại khổ, khổ sở vì cái vui mất đi.
8 Chuyển y: y là căn bản y, tức là căn bản
thức. Chuyển y là chuyển căn bản thức trong đó có 2 trọng chướng là phiền não
chướng và sở tri chướng mà thành 2 đại quả là đại niết bàn và đại bồ đề.
9 Vô công dụng = không cần dụng công = nhậm vận
(tiến hành tự nhiên):nghĩa là tu tập đã thuần thục, tự nó thường xuyên diễn
tiến, không cần chú ý hay được kích thích.
10 Hành uẩn: bao gồm tất cả tâm sở khác ngoài
2 tâm sở thọ và tưởng. Duy thức cho là bao gồm cả bất tương ưng hành pháp. Bất
tương ưng hành pháp có 24: đắc, mạng căn, chúng đồng phận, dị sanh tánh, vô
tưởng định, diệt tận định, vô tướng quả, danh thân, cú thân, văn thân, sanh,
trụ, lão, vô thường, lưu chuyển, định dị, tương ưng, thế tốc, thứ đệ, phương,
thời, số, hòa hiệp tánh và bất hòa hiệp tánh. Hành xả mà cho là hành động tạo
tác mà không chấp trước, thì quá xa nguyên nghĩa của nó. Hành xả là khi các tâm
sở nối tiếp nhau chuyển biến nơi tâm thức mà không có sự chấp trước, nhìn dòng
chảy tâm thức qua đi một cách thản nhiên, không thêm không bớt thành kiến chủ
quan. Hành xả còn gọi là trú xả.
11 Tâm chánh trực = tâm ngay thẳng. Khởi tín luận
nói là chánh định chân như: “Tâm ngay thẳng là chính xác nhớ thẳng tâm thể chân
như”.
12 Bốn pháp: tinh tấn, khinh an, bất phóng dật
và hành xả có quan hệ mật thiết và hữu cơ, cho thấy tu tập là như thế nào. Cách
nói về 4 pháp như vậy thật là đặc thù, cần cứu xét kỹ.
13 Hôn trầm, trạo cử,
nghi (bất tín),
tham, sân được gọi là 5 thứ ngăn che (ngũ cái) cho việc tu chỉ quán. Còn tham
và sân thì không tu được chỉ quán. Tạm hết tham và sân, nhưng không có chánh
niệm, tức có trạo cử và thất niệm, thì khó tu chỉ. Tu chỉ rồi mà bị hôn trầm
thụy miên và hoài nghi chánh pháp thì khó tu quán.
14 Ác tuệ = trí tuệ ác hại, kiến thức sai
lầm, lấy nhiễm tuệ làm tánh, nó làm chướng ngăn kiến giải thiện.
15 Sự tồn tại: là hữu, hữu tham hay hữu ái, tức ý
chí muốn sống, muốn tồn tại, tái sanh, tương tục và tăng trưởng.
16 Thích ứng với phiền não và tùy phiền não: thích
ứng với ảo giác (kiến phần hữu lậu) và ảo tượng (tướng phần hữu lậu).
17 Thắng nghĩa căn: là sắc căn thù thắng của chúng
sanh, lấy tịnh sắc căn hiện hành thanh tịnh do 4 đại chủng hợp thành làm thể để
khởi thức, chấp cảnh, mà ngày nay gọi là hệ thần kinh của 5 giác quan; lấy phù
trần căn (như nhãn cầu, lỗ tai, sống mũi..) làm chỗ sở y, gìn giữ và giúp thành.
18 Y chủ thích: là một trong 6 phương pháp giải
thích các từ phức hợp của tiếng Phạn, gọi là lục hợp thích hay lục ly hợp
thích: đầu tiên chia chẻ ra để giải thích (ly thích), sau đó tổng hợp lại để
giải thích (hợp thích). Lục hợp thích là: trì nghiệp thích, y chủ thích, hữu
tài thích, tương vi thích, lân cận thích và đới số thích. Y chủ thích cũng gọi
là y sĩ thích, là từ thể của pháp sở y mà lập danh của pháp năng y. Thí dụ
nương vào nhãn căn mà sanh ra sự nhận biết phân biệt nên gọi là nhãn thức,
nghĩa là thức của nhãn, đó là lấy nhãn làm thể sở y, thức là pháp năng y. Biệt
pháp từ pháp sở y mà lập ra danh năng y, nên gọi là y chủ.
19 Nhân duyên: cái nhân làm duyên tố, như nói nhãn
thức do chủng tử của nó hiện hành mà có.
20 Sở duyên duyên: đối cảnh làm
duyên tố, như nói phải có sắc cảnh làm đối tượng cho nhãn thức.
21 Tăng thượng duyên: dữ kiện thêm lên làm duyên tố,
như nói chủng tử nhãn thức hiện hành được là phải có nhãn căn.
22 Ðẳng vô gián duyên: sự mất đi của giai đoạn trước làm
duyên tố, như nói chính bản thân nhãn thức mà giai đoạn trước mất đi nhường chỗ
cho giai đoạn sau sanh ra.
23 Kiến phần năng
duyên: là chủ thể
nhận thức có công năng tiếp xúc đối tượng.
24 Tướng phần sở
duyên: là đối
tượng nhận thức làm sở y cho các thức duyên theo.
25 Sở tri chướng: chướng ngại chân
lý, làm cho không chứng ngộ. Các vị thanh văn, duyên giác đàn áp được chướng
ngại sự dụng (= phiền não chướng làm cho bị luân hồi) nên thoát khỏi luân hồi,
nhưng chưa nhập chủng tánh bồ tát vì còn sở tri chướng.
26 Chánh văn là liễu tục kiến không, nên dịch là
thấy có thấy không. Kinh Tăng A hàm giải thích: Ðức Thế tôn nói với các vị tỳ
kheo, có 2 sự thấy là thấy có và thấy không. Thấy có là thế nào? Là thấy có
dục, có sắc, có vô sắc. Thấy có dục là 5 dục: mắt thấy sắc thì rất ưa, qúi và
nhớ, chưa bao giờ rời bỏ mà cứ tôn thờ mãi; tai nghe tiếng, mũi ngửi hơi, lưỡi
biết mùi, thân biết xúc, ý biết pháp (cũng như vậy), và đó gọi là thấy có. Thấy
không là thế nào? Là thấy có thường, thấy không thường, thấy có đoạn, thấy
không đoạn, thấy có biên, thấy không biên, thấy có mạng, thấy không mạng, thấy
thân mạng khác nhau, thấy thân mạng là một, (và) 62 sự thấy (xuất từ các sự
thấy) như trên gọi là thấy không, và toàn là không phải sự thấy chính xác.
27 Trí hậu đắc: là trí thấu đạt cảnh y tha như
huyễn, còn có năng sở.
28 Trí căn bản: là trí hội nhập chân như, không
có năng sở.
29 Chân như: trung thật như thế, vì chân như
là bản thể mà không pháp nào, người nào và lúc nào mà không siêu việt khái niệm
nhị biên. Kinh Giải Thâm Mật giải thích: Chân như nơi các pháp nhiễm tịnh gọi
là tánh như hữu. Chân như ấy có 7: 1. Chân như nơi sự lưu chuyển: cái tánh
không mở đầu, không chấm hết của các hành; 2. Chân như nơi các tướng: cái tánh
nhân vô ngã và pháp vô ngã của các pháp; 3. Chân như nơi sự liễu biệt: cái tánh
duy thức của các hành; 4. Chân như nơi sự an lập: thánh đế về khổ mà Như lai
nói; 5. Chân như nơi sự tà hành: thánh đế về tập mà Như lai nói; 6. Chân như
nơi sự thanh tịnh: thánh đế về diệt mà Như lai nói; 7. Chân như nơi sự chánh
hành: thánh đế về đạo mà Như lai nói.
30 Thật tánh Duy thức: thật tánh ấy
mà nói là không, vì các pháp toàn là không thật, là toàn do ý thức giả thiết,
là không thể thủ đắc.
31 Trí vô phân biệt: tuệ giác siêu việt khái niệm. Theo
Nhiếp luận: Trí vô phân biệt không nhiễm như hư không, là vì (phần căn bản của
nó: trí căn bản) thoát ly mọi sự chướng ngại, được gọi là thích ứng với sự được
và thích ứng với sự thành. Trí vô phân biệt như hư không, là vì (phần hậu đắc
của nó: trí hậu đắc) thường đi trong thế gian mà không bị mọi sự của thế gian
làm cho ô nhiễm.
32 An Huệ (Sthiramati, 475-555): luận sư Ấn
độ, người nước La la (Phạt lạp tỳ) thuộc nam Ấn. Sau khi Phật nhập diệt khoảng
1100 năm, sư là vị đại học giả của Phật giáo đại thừa ở nam Ấn độ. Sư kế thừa
ngài Ðức Huệ, rồi trao truyền cho ngài Chân Ðế. Sư tinh thông học thuyết Nhân
minh, Duy thức, nghị luận giỏi, là 1 trong 10 vị đại luận sư của tông Duy thức.
Sư tông sùng và kế thừa giáo nghĩa của bồ tát Thế Thân, soạn Duy thức tam thập
tụng thích luận để luận giải Duy thức tam thập tụng của bồ tát Thế Thân. Những
tác phẩm khác như: Ðại thừa a tỳ đạt ma tạp tập luận (16 quyển), Ðại thừa quảng
ngũ uẩn luận (1 quyển), Ðại thừa trung quán thích luận (9 quyển), Câu xá thật
nghĩa sớ (5 quyển).
33 Biến kế chấp tánh: ảo giác ngã pháp do phàm phu ngộ
nhận, vọng chấp, như ngộ nhận sợi giây là con rắn.
34 Tự chứng phần (tự thể phần): là tự thể của tâm
thức có khả năng chứng biết kiến phần (hoạt động nhận thức) và tác dụng nội tại
chứng tự chứng phần của chính mình.
35 Y tha khởi tánh: Y tha là do yếu tố mà thành. Các
pháp hữu vi do chủng tử nơi A lại da nhờ các trợ duyên mà hiện hành, như nói
sợi giây do chỉ gai và mọi duyên tố mà thành.
36 Hộ Pháp (Dharmapàla): cao tăng Ấn độ, sống
vào khoảng thế kỷ 6, người thành Kiến chí bổ la, là con của quan đại than nước
Ðạt la tỳ đồ (Dràvida) thuộc miền nam Ấn độ, là 1 trong 10 vị đại luận sư Duy
thức. Sư vâng lời cha mẹ kết hôn với 1 công chúa, nhưng vào ngày hôn lễ thì sư
cạo tóc xuất gia. Sư tinh thông giáo lý đại thừa và tiểu thừa, thâm nhập yếu
chỉ của Du già duy thức, từng tranh luận về nghĩa hữu và vô với bồ tát Thanh
Biện, soạn luận giải Duy thức tam thập tụng của bồ tát Thế Thân. Sư từng giảng
dạy ở chùa Na lan đà nước Ma kiệt đà, nơi có học tăng đến mấy ngàn vị. Năm 29
tuổi, sư về ẩn tu tại chùa Ðại bồ đề (Mahàbodhi), chuyên việc trứ tác, và
truyền pháp cho luật sư Giới Hiền. Sư thị tịch năm 32 tuổi. Trước khi sư tịch,
trên không có tiến nói rằng, đây là vị Phật trong ngàn vị Phật ở Hiền kiếp. Tác
phẩm: Ðại thừa quảng bách luận thích luận, Thành duy thức bảo sanh luận, Quán
sở duyên luận thích.
37 Gia hạnh vị: Chỉ cho bồ tát tứ gia hạnh vị
(noãn, đảnh, nhẫn, thế đệ nhất) từ chỗ đã chứa nhóm được tư lương phước trí,
tiến thêm một bước gia công dụng hạnh để đạt đến kiến đạo (Hoan hỷ địa) trụ ở
vị chân như. Giai vị này có khả năng đạt đến cảnh giới có 2 vô ngã, nhưng trong
tâm vẫn hiện tiền tướng như, nên chưa thật trụ nơi cảnh giới Duy thức. Ðây gọi
là pháp đại thừa thuận quyết trạch phần.
38 Thường gọi là cái thân Phật trong lịch sử,
biểu hiện cho loài người, còn gọi là trượng lục ứng thân.
39 Tư lương vị: Giai vị chứa nhóm các thiện hữu
lậu để đạt đến quả Phật. Ba tư lương vị là chỉ cho hàng bồ tát thập trụ, thập
hạnh, thập hồi hướng, lấy phước đức trí tuệ làm tư lương trợ đạo. Thập trụ nặng
về tu tập lý quán, thập hạnh nặng về tu tập sự quán, thập hồi hướng tu lý sự
bất nhị quán. Pháp tu hành này gọi là đại thừa thuận giải thoát phần, dù đã dứt
trừ được hiện hành của 2 chấp phân biệt, nhưng chủng tử năng thủ, sở thủ vẫn
tiềm phục chưa trừ.
40 Chính ái và dục là căn bản của
luân hồi. Gốc rễ luân hồi là ái. Ái được dục hỗ trợ nên làm cho sanh tử liên
tục.
41 Cực lược sắc: đơn vị vật chất nhỏ nhất do phân
tách thực sắc của 5 cảnh và 5 căn. Tiểu thừa Hữu bộ cho nó là vật có thực, và
thuộc về sắc xứ, sở duyên của nhãn thức, nhưng đại thừa Duy thức thì cho nó có
là do phân tích trên mặt giả tưởng, và thuộc về pháp xứ, sở duyên của ý thức. Cực
lược sắc là 1 trong 5 loại pháp xứ sở nhiếp sắc (sắc pháp thuộc pháp xứ) do
tông Duy thức lập ra. Năm loại pháp xứ sở nhiếp sắc là: cực lược sắc, cực huýnh
sắc, thọ sở dẫn sắc, biến kế sở sắc, định tự tại sở sanh sắc.
42 Cực huýnh sắc: còn gọi là tự ngại sắc, chỉ cho
những hiển sắc không đủ tánh ngăn ngại của không giới, như màu sắc, sáng, tối.
43 Pháp xứ sở nhiếp sắc: còn gọi là pháp xứ sắc, là sắc
pháp thứ 11 trong 11 sắc pháp trong Duy thức (5 căn, 5 cảnh và pháp xứ sắc). Xứ
trong pháp xứ là chỗ nương tựa và nuôi lớn tâm sở, chia làm 12 loại gọi là thập
nhị xứ (6 căn và 6 cảnh). Pháp cảnh trong 12 xứ là đối cảnh khách quan của ý
căn. Pháp xứ bao gồm 11 xứ kia cùng làm nhiệm vụ trưởng dưỡng tâm và tâm sở. Trong
tất cả sắc pháp, hễ pháp nào bị gom vào pháp xứ thì gọi là pháp xứ sở nhiếp sắc.
44 Ðộc đầu ý thức: là ý thức không cùng với 5 thức
trước sanh khởi.
45 Thọ sở dẫn sắc: còn gọi là vô biểu sắc, chỉ cho
những sắc pháp phát sanh từ cảm thọ. Nương nơi 2 nghiệp thiện ác của thân và
khẩu khi phát động mà sanh ra sắc pháp vô hình nơi thân, đây là hiện tượng
không thể biểu hiện ra bên ngoài được, như tác dụng tinh thần đề phòng sai
trái, bỏ điều xấu ác do tâm niệm trì giới dẫn khởi.
46 Biến kế sở sắc: ý thức duyên với 5 căn, 5 cảnh mà
khởi sanh tác dụng suy tính, so lường đối với tất cả pháp hư vọng phân biệt,
ngay nơi thân biến hiện ra ảnh tượng sắc pháp, như hoa đốm giữa hư không, bóng
trăng trong nước, hình ảnh trong gương … đều xếp vào loại sắc pháp này. Loại
sắc pháp này bản chất của nó chỉ có đủ ảnh tượng mà không có chỗ nương gá.
47 Ðịnh quả sắc: còn gọi là định tự
tại sở sanh sắc, chỉ cho các cảnh sắc, thanh, hương, vị … được biến hiện ra nhờ
sức thiền định. Loại sắc pháp này là do định lực thù thắng, có thể tự tại biến
hiện tất cả sắc.
48 Ngũ câu ý thức = minh liễu ý thức: ý thức sanh
khởi cùng lúc với bất cứ một thức nào của 5 thức trước.
49 Chánh văn là bất tác giải, nghĩa là không có
suy tư, phân biệt.
50 Chánh văn là vô thể pháp, là chỉ cho ảnh
tượng, pháp xứ.
51 Ở đây đọc là ố tác, không phải là ác tác =
những hành vi ác rất nhỏ của thân, hay của miệng.
52 Ý địa: lĩnh vực của ý thức: ý
căn, là ý thức tự ngã. Chính ý thức tự ngã này mà làm cho tâm thức tạp nhiễm
làm nhân cho khổ (và vừa là bản thân của khổ), rồi ý thức tự ngã này chuyển đổi
đi thì chính nó làm cho tâm thức thanh tịnh. Do đó ý địa hay ý được gọi là
nhiễm tịnh y.
53 Kinh Giải thâm mật: Trong địa đầu tiên có 2 thứ ngu
tối, một là ngu tối vì ngã chấp và pháp chấp, hai là ngu tối vì những sự tạp
nhiễm trong ác đạo, cùng với sự nặng nề của 2 thứ ngu tối ấy, là những cái bị
đối trị ở đây. (H.T Trí Quang dịch)
54 Duyên ở đây là căn duyên và cảnh
duyên, đều là chỉ cho thức A lại da.
55 Ý ô nhiễm: là ý thức về tự ngã, thường tương
ưng với 4 phiền não: ngã si, ngã kiến, ngã mạn và ngã ái.
56 Sự thanh tịnh của ý lạc tăng thượng: là một
trong những đặc thù mà mỗi địa đều có, và cấp độ của địa sau thì hơn cấp độ của
địa trước. Kinh Giải thâm mật ghi: Ðại bồ tát Quán Tự Tại thưa Phật: Bạch đức
Thế tôn, các địa như thế này được lập ra bởi mấy thứ đặc thù? Ðức Thế tôn dạy
đại bồ tát Quán Tự Tại: Thiện nam tử, khái lược có 8 thứ: một là, sự thanh tịnh
của ý lạc tăng thượng; hai là, sự thanh tịnh của tâm tăng thượng; ba là, sự
thanh tịnh của bi tăng thượng; bốn là, sự thanh tịnh của độ tăng thượng; năm
là, sự thanh tịnh của sự phụng sự chư Phật tăng thượng; sáu là, sự thanh tịnh
của sự thành thục chúng sanh tăng thượng; bảy là, sự thanh tịnh của sự thọ sanh
tăng thượng; tám là, sự thanh tịnh của uy đức tăng thượng.
57 Chánh văn là tối hạ phẩm, tồn
nghi, tạm dịch là triền miên, tức vô minh ở lớp sau chót.
58 Nhậm vận: vận chuyển một cách tự
nhiên, không tác ý.
59 Thuần nhất = bản chất vô ký không thay đổi.
60 Tức cho 6 thức trước là sở huân, kỳ
thật 6 thức trước là năng huân.
61 Thắng giả: người thắng, chỉ cho các vị bồ
tát đã vào kiến đạo, được chân hiện quán.
62 Chủng tử ở trong: chủng tử ở ngoài là chủng tử nói
theo nghĩa đen; chủng tử ở trong là năng tánh huân tập. Thí dụ như sự đa văn
thì nhất thiết phải có sự huân tập đa văn (ký ức và tác ý đúng lý) thì mới
thành tựu được.
63 Chánh văn là cùng sanh tử uẩn: hợp thể đi
đến tận cùng sanh tử.
64 Chuyển bỏ phiền
não chướng và sở
tri chướng mà chuyển được đại bồ đề và đại niết bàn. Ðược chuyển y thì đối
tượng không còn điên đảo, đối tượng đó là thức thứ tám thành vô lậu (chân như
xuất triền).
Người gửi bài: Tuyên Hoàng