Chương 1.
Vấn đề hiện đại hóa
Hiện đại
hoá đạo Phật không có nghĩa là thế tục hóa đạo Phật. Đạo Phật đi vào cuộc đời
nhưng không bị cuộc đời làm giảm mất đi những đặc tính siêu việt của nó. Mất đi
những đặc tính siêu việt này thì đạo Phật không còn là đạo Phật. Cho nên sự có
mặt của những hình thức và những danh từ đạo Phật trong cuộc đời không được coi
như là sự có mặt của đạo Phật trong cuộc đời. Chỉ khi nào người ta thấy bản
chất của đạo Phật thấm nhuần trong mọi sinh hoạt của cuộc đời người ta mới có
thể nói đến sự có mặt của đạo Phật trong cuộc đời như một thực tại có sinh khí.
Cẩn thận mà suy xét, ta sẽ thấy rằng đạo Phật, trong chân tinh thần của nó,
phải có cả hai mặt xuất thế và nhập thế. Không xuất thế thì không có gì khả dĩ hơn được cuộc đời, không
có gì khả dĩ hướng dẫn được cho cuộc đời và làm đẹp cho cuộc đời. Còn không nhập thế thì không phải là đạo Phật
nữa, bởi vì từ bi và trí tuệ, bản chất của đạo Phật, trong trường hợp này, sẽ
không có chỗ sử dụng. Hơn nữa, theo đạo Phật, xuất thế và nhập thế có liên hệ
mật thiết đến nhau. Xuất thế có nghĩa là nắm
được chân lý của cuộc đời, làm chủ động được mình, được tình thế, và không còn
bị sai sử, lung lạc và chìm đắm bởi cuộc đời. Xuất thế không phải là chống đối
với cuộc đời mà là cao hơn cuộc đời. Một sự chạy trốn, ghét bỏ xa lánh thì
không thể gọi là cao hơn. Có thể thấp hơn cũng chưa biết chừng. Chân lý (hoặc
chân tướng) của cuộc đời không thể tìm thấy ngoài cuộc đời. Những tu viện cách
biệt với chợ búa làng xóm không phải là những dấu hiệu xuất thế. Những tu viện
ấy cũng có giá trị tương đương với những phòng thí nghiệm của các nhà bác học.
Nếu những nhà bác học phải tự giam mình trong các phòng thí nghiệm tháng này
sang tháng khác, năm này sang năm khác để có thể hoàn tất một công cuộc nghiên
cứu hay phát minh, thì những tăng sĩ trong dòng Thể Nhập cũng phải sinh hoạt
lâu tháng lâu năm trong các tu viện để hoàn tất những công cuộc thí nghiệm và
đạt đến kết quả tu chứng của mình. Đối tượng nghiên cứu của hai bên, của nhà
bác học cũng như của nhà tu sĩ, là một đối tượng hết sức rộng rãi: đó là bản
thân của sự sống. Phòng thí nghiệm cũng như thiền thất là những nơi thuận tiện
cho công phu tìm tòi, thực chứng; nhưng không phải là tất cả những phát minh
khoa học đều được thực hiện ở phòng thí nghiệm cũng như tất cả những công trình
đắc đạo đều được thực hiện ở trong thiền thất. Nhà bác học có thể đón nhận sự
phát minh khi nhìn thấy một trái táo rơi. Nhà thiền học có thể ngộ đạo khi đi
ngang chợ nghe tiếng nói của một người bán thịt lợn hay khi nghe tiếng hót của
một con chim hoàng oanh. Nếu xuất thế được hiểu theo nghĩa thấy được mặt mũi
xưa nay (bản lai diện mục) của thực tại, của cuộc đời rồi thì xuất thế cũng là
nhập thế. Vì xuất thế theo nghĩa trên không phải là lìa bỏ cuộc đời, mà chỉ là
không bị lôi kéo sai sử bởi cuộc đời. Với lại nhập thế là để thiện hóa mỹ hóa
thế tục mà không phải để cho thế tục hóa.
Hiện đại hóa đạo Phật đã không
phải là thế tục hóa đạo Phật mà còn là bồi dưỡng và phát triển giá trị xuất thế
của đạo Phật để đạo Phật có đủ năng lực giác ngộ đưa đường chỉ lối cho cuộc
đời. Hiện đại hóa đạo Phật đòi hỏi một mặt công trình tu chứng, một mặt công
trình khảo sát về thực trạng của cuộc đời, để thực hiện công cuộc hành đạo đem
đạo Phật vào cuộc đời. Công trình trước có tính cách xuất thế, công trình sau
có tính cách nhập thế và giữa hai công trình có những tương quan mật thiết.
Phải hiện đại hóa đạo Phật nếu chúng ta muốn đạo Phật có thể đóng góp thiết
thực và hữu hiệu vào công cuộc xây dựng xã hội chúng ta. Hiện đại hóa đạo Phật
tức là khai triển những tiềm lực của đạo Phật mà chúng ta biết, như ở trong
trường hợp Việt Nam
và ở nhiều nước Á Châu, là rất phong phú và có thể biến cải một cách tốt đẹp
tình trạng hiện thời của đất nước. Tiềm lực ấy sẽ không có tác dụng nào cả nếu
không được khai triển. Sự tiêu hoại dần dần các tiềm lực ấy chứng tỏ sự suy đồi
của bản chất đạo Phật; hiện đại hóa đạo Phật tức là vừa duy trì vừa phát triển
chúng. Nói một cách khác hơn, đạo Phật phải được thường xuyên hiện đại hóa nếu
muốn còn là đạo Phật. Nhờ có những cuộc cách mệnh giáo lý và giáo chế xuất hiện
trong lịch sử mà sinh lực đạo Phật đã được tiếp nối từ thời đại này sang thời
đại khác. Những giai đoạn suy trầm nhất trong lịch sử đạo Phật đã được tiếp nối
từ thời đại này sang thời đại khác. Những giai đoạn suy trầm nhất trong lịch sử
đạo Phật là những giai đoạn thiếu khai triển, thiếu sáng tạo, nói tóm lại,
thiếu công trình hiện đại hóa. Hiện đại hóa để được sống mãi, để được linh động
mãi, để đừng bị chết khô trong hình thức và khuôn khổ. Muốn tiêu diệt đạo
Phật thì cũng không cần đàn áp, bởi vì có thể càng bị đàn áp sức sống của đạo
Phật càng vươn mạnh. Muốn tiêu diệt đạo Phật thì phải tiêu diệt sinh khí đạo
Phật. Mà muốn tiêu diệt sinh khí đạo Phật thì chỉ cần khen ngợi khuyến khích
tinh thần ỷ lại, bảo thủ, thói quen ôm ấp hình thức và sợ hãi thay đổi, sợ hãi
sáng tạo. Bởi vì bất cứ sự thay đổi hay sáng tạo nào cũng hàm chứa những đớn
đau của thời kỳ sinh nở. Trong một bài báo nhan đề là “Nói chuyện về vấn đề
đóng góp”, chúng tôi đã có dịp nói rõ rằng chúng tôi tin đạo Phật có thể đóng
góp rất nhiều cho tình trạng, nhưng với điều kiện là đạo Phật phải là đạo Phật
trước đã. Mà nếu muốn đạo Phật là đạo Phật thì phải để đạo Phật được thường
xuyên hiện đại hóa - hiện đại hóa để bản chất đạo Phật được duy trì, phát
triển, lưu lộ và thấm nhuần vào mọi hình thái của sự sống. Thực ra muốn biết
một tổ chức sinh hoạt nào đó có phải là đạo Phật không thì chỉ cần xem xét giá
trị của từ bi của khoan dung của phá chấp có thể hiện và lưu lộ trong tổ chức
ấy không. Điều đó ai cũng biết và ai cũng có thể thực nghiệm. Khác hơn hết thẩy
mọi tôn giáo mọi truyền thống, đạo Phật không phải là một bó giáo điều cứng
cỏi; đạo Phật chịu đựng được mọi thử thách và luôn luôn tùy duyên để được thực
sự bất biến. Nhờ tinh thần phóng khoáng ấy mà đạo Phật đã lột xác nhiều lần
trong lịch sử và đã luôn luôn cố gắng vươn tới để có mặt. Vì thế không có lý do
gì mà chúng ta lại sợ hãi sự đau đớn, sợ hãi sự sáng tạo để cứ ngủ yên và chết
mòn trong những cái vỏ cứng thiếu sinh khí. Không có lý do gì mà chúng ta để
cho rêu mọc và phủ kín một ngôi cổ tháp. Trong tập sách này, chúng tôi sẽ xin
cố gắng trình bày một cách đơn giản những nguyên tắc và những nét đại cương của
công cuộc hiện đại hóa đạo Phật, với những đề nghị có tính cách cụ thể và khả
hành để mong có thể đóng góp một phần nào cho sự xây dựng một nền Phật giáo
hiện đại trong viễn tượng bồi đắp và phát triển nền văn hóa dân tộc và đẩy mạnh
những tiến bộ xã hội Việt Nam. Cố nhiên những ý kiến của chúng tôi có thể sẽ
được một số các Phật tử xuất gia và cư sĩ xem như là táo bạo, hoặc là phá hoại.
Điều đó tất nhiên là một sự kiện phải xảy ra, cũng như đã xảy ra nhiều lần
trong lịch sử Phật giáo Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản… Những bạn Phật tử nào bền
chí trong công cuộc hiện đại hóa đạo Phật sẽ thấy những chống đối ác liệt và
dai dẳng đó là phản ứng tất nhiên của lớp người bảo thủ và sẽ không thối chí mà
lùi bước. Những chống kia lắm lúc lại còn làm tỏ thêm những nét sáng tạo cần
thiết của phong trào hiên đạo hóa đạo Phật nữa. Những vùng vẫy của cá nhân để
thoát ra ngoài những kiềm chế vô lý của cơ cấu đại gia đình đã gây ta không
biết bao nhiêu là bi kịch trong suốt bốn mươi năm nầy mà vẫn chưa được kết
thúc. Thứ thơ mà ta quen gọi là “thơ mới” cũng không phải là trong một sớm một
chiều mà chiếm được địa vị vững chãi trên thi đàn. Ngay cả đến việc để răng
trắng không nhuộm cũng phải tốn từ mười đến hai mươi năm mới được dư luận chấp
nhận. Vậy những đau đớn do phong trào hiện đại hóa đạo Phật thế nào cũng phải
xảy đến và những người hữu tâm hãy chuẩn bị để mà phấn đấu. Có thể nhờ những
biến chuyển lớn lao của thời đại và nhờ nhận thức luôn luôn thay đổi của con
người thời nay mà cuộc khủng hoảng sẽ nhẹ bớt và thời gian chịu đựng sẽ ngắn
lại; nhưng cũng có thể công cuộc hiện đại hóa đạo Phật sẽ vấp phải vô số khó
khăn và phải kéo dài đến mười năm, hai mươi năm, ba mươi năm, cũng không biết
chừng. Phần lớn các học giả trên thế giới đồng ý với nhau rằng đạo Phật sẽ có
thể thoát xác được trong cuộc khủng hoảng vĩ đại này của văn hóa thế giới, bởi
vì trong lịch sử văn hóa, đạo Phật đã chứng tỏ khả năng thoát xác vững chải và
hùng mạnh của mình. Giáo sư Horace Friess, dạy về triết học và tôn giáo ở Đại
học đường Comlombia Nữu Ước gần bốn mươi năm, có nói với chúng tôi khi vuốt mái
tóc bạc phơ của ông: “Chắc chắn là đạo Phật sẽ được thoát xác trong lúc thâu
hóa văn hóa quốc tế và chuyển biến để tự tạo cho mình một sinh lực mới. Tuy
nhiên, chưa có những dấu hiệu nào đáng để cho chúng ta biết rằng công cuộc
thoát xác ấy đang được thể hiện”. Trong chúng ta ai cũng tin rằng đạo Phật rất
cần cho cuộc đời đầy chém giết hận thù này. Thế nhưng ta trông cậy vào khu vực
văn hóa nào trên thế giới trong công cuộc hiện đại hóa đạo Phật để đạo Phật
đóng góp phần tối đa của mình? Đó là một vấn đề cần phải xét kỹ. Các nước Tây
phương như Đức, Pháp, Anh, Mỹ nhờ có phương pháp sử học nên đã bước được những
bước dài vững chãi trên con đường nghiên cứu Phật học, ta công nhận điểm đó.
Nhưng ta cũng biết rằng Phật giáo ở các nước trên chỉ mới là Phật học và đất
đai đạo Phật ở đây không có đủ để mà làm mọc lên được những bông hoa hiện đại
hóa. Nhìn lại Đông phương ta thấy Ấn Độ, Trung Hoa, Nhật Bản, Tây Tạng, Nam Hàn
và các nước theo Phật giáo Nam phương như Tích Lan, Thái Lan, Miến Điện,
Campuchia… Sự nghiên cứu đạo Phật ở Ấn Độ cũng gây được nhiều thích thú và tin
tưởng, nhưng tiềm lực đạo Phật trong quần chúng thật là quá ít ỏi. Trung Hoa
lục địa hiện thời bị xã hội chủ nghĩa ngự trị không có thì giờ và phương tiện
làm công việc đó, tuy rằng tiềm lực đạo Phật trong quần chúng không dễ gì bị
tiêu diệt được trong vài ba chục năm. Nhật Bản bây giờ có thể được xem là đi xa
nhất trong các nước Đông phương về vấn đề học Phật theo phương pháp sử học,
trên bình diện sinh hoạt có nhiều nét biến chuyển táo bạo nhưng vẫn chưa chứng
tỏ được một sinh khí mới, chưa sáng tạo được một giáo lý mới, một giáo chế mới
khả dĩ đưa đạo Phật vào ngay giữa lòng xã hội. Các nước theo Phật giáo Nam phương đang
chứng kiến những hoang mang của lớp người trẻ tuổi trước truyền thống hầu như
bất di dịch của đạo Phật trong nước họ và cũng đang thắc mắc trước vấn đề khai
triển tiềm lực đạo Phật để phụng sự cho tiến bộ quốc gia. Nam Việt Nam chúng ta
trong những điều kiện chính trị văn hóa hiện tại có thể làm được gì? Ai cũng
thấy rằng nếu đạo Phật Việt Nam đã được trưởng thành nhiều hơn trên mọi phương
diện sinh hoạt văn hóa và xã hội thì đã có thể cứu được đất nước ra khỏi tình
trạng bi đát hiện tại.
Chúng ta không nên nói rằng chỉ
có đạo Phật Việt Nam mới có
thể dẫn đầu được phong trào hiện đại hóa Phật giáo thế giới, vì địa lý và lịch
sử Việt Nam
cho ta những điều kiện mà không có quốc gia nào có thể có. Nói như thế tức là
chủ quan, tự hào và không lượng sức mình, dù rằng cuộc vận động chống độc tài
năm 1963 vừa qua của đạo Phật Việt Nam là một cuộc vận động không tiền khoáng
hậu của đạo Phật trong lịch sử Phật giáo thế giới. Tuy nhiên chúng ta phải công
nhận rằng với những tiềm lực đang có, với những yếu tố tâm lý, lịch sử, văn
hóa, đạo Phật Việt Nam có thể đóng góp rất đáng kể cho công cuộc hiện đại hóa
đạo Phật thế giới, biến đạo Phật thành một nền văn hóa mới tràn đầy sinh lực.
Những gì ta có thể đóng góp được
sẽ tùy thuộc những cố gắng và những hy sinh của chúng ta. Chúng tôi tin tưởng
trước hết ở truyền thống cởi mở và tự do của tinh thần đạo Phật và tiếp theo đó
là kho năng lực dồi dào của quần chúng Phật tử Việt Nam. Đa số trí thức và thanh niên
Việt Nam hiện đang thấy ở đạo Phật một khả năng xây dựng cho tương lai xứ sở:
lớp trí thức văn nghệ sĩ và lớp thanh niên khát khao xây dựng ấy mà bắt tay vào
với niềm tin và nhiệt tình của họ thì không có việc gì mà không thực hiện được.
Hãy xây dựng cho đạo Phật không phải như xây dựng cho một cơ sở một thế lực tôn
giáo mà xây dựng cho một lực lượng cải tạo xã hội đáng kể, bên cạnh các lực
lượng văn hóa và tôn giáo khác.
Để xây dựng đạo Phật của hôm nay
ta phải thẳng thắn và can đảm đừng sợ khổ đau nhìn vào hiện trạng với một cặp
mắt phân tích khoa học không bị mờ ám bởi phần tình cảm và luyến tiếc. Những sự
phân tích và tìm hiểu đó phải được coi như là cần thiết cho sự thu thập kiến
thức và kinh nghiệm để làm nền tảng cho những chương trình thực hiện mà không
nên nhận là những sự chỉ trích đả phá chỉ gây thêm chia rẽ và hiểu lầm. Trong
suốt thời gian cần thiết để hiện đại hóa đạo Phật, luôn luôn phải có một cuộc
đối thoại giữa những người chủ trương hiện đại hóa và những người bảo thủ. Ta
phải xác nhận ngay rằng những người bảo thủ bao giờ cũng có những lý lẽ của họ
mà ta phải kính trọng. Họ thuộc về thế hệ trước và bối cảnh giáo dục, xã hội
của họ ít khi cho phép họ cùng có một nhận thức như ta. Hơn nữa, cả thế hệ
trước vẫn đang còn đây và cần đi nốt quãng đường còn lại của họ. Hiện đại hóa
không phải là một công trình đập phá, chỉ trích; hiện đại hóa là công trình làm
mọc lên những chồi măng sung sức trong rừng tre đã vượt qua giai đoạn xanh tốt,
để khi nào rừng tre gần tàn tạ thì những chồi non đã trưởng thành vững chãi để
nắm lấy sứ mạng lịch sử. Cho nên nếu nhận thức khôn khéo thì cả bên phía cũ lẫn
bên phía mới đều cảm thấy rằng họ cần có nhau. Thiếu phía cũ thì cơ cấu hiện
tại sụp đỗ, thiếu phía mới thì tương lai đen tối tiêu diệt. Nhưng đồng thời
phải công nhận: sự có mặt của phái mới gây đau nhức và bực dọc cho phái cũ và
sự có mặt của phái cũ cũng gây khó khăn chật chội và trở lực cho phái mới.
Không thể có một cuộc cách mệnh mà không gây đau xót. Công cuộc hiện đại hóa
đạo Phật chắc chắn sẽ gây va chạm hoặc chỉ vừa phải thôi, hoặc rất dữ dội: điều
này tùy thuộc rất nhiều ở sự khôn khéo, ở những nhận định về các bài học kinh
nghiệm lịch sử, ở sự hy sinh địa vị quyền lợi (dù là tinh thần) và ở thiện chí
của cả đôi bên. Làm thế nào để tránh được những sự mất công mất thì giờ và
những đổ vỡ không cần thiết, đó là tất cả vấn đề. Công cuộc hiện đại hóa đạo
Phật của chúng ta sẽ được thực hiện tốt đẹp nếu những người trong phía bảo thủ
chịu khó tìm hiểu thực trạng tâm lý và xã hội đương thời và đừng tự mình bưng
bít trong nhận thức chủ quan của mình. Về phía những người mới - những người
mới không hẳn là những người trẻ - phải biết tôn trọng những giá trị tinh thần
truyền thống, đừng cực đoan để không nhận thấy những căn bản truyền thống tốt
đẹp có thể là miếng đất chung của sự cộng tác giữa hai thế hệ.
Hiến chương của Giáo Hội Phật
Giáo Việt Nam Thống Nhất có một điều quan trọng có thể làm nẻo xuất phát cho
công cuộc hiện đại hóa đạo Phật. Ấy là chỗ nói về sự bảo đảm sự tự do duy trì
và phát triển các sắc thái đặc biệt của những truyền thống Phật giáo. Điều này
rất phù hợp với tinh thần tự do của đạo Phật và khiến cho những cố gắng phát
triển của đạo Phật về mọi hướng được khích lệ, bởi vì như thế trong cùng một
khu vườn sẽ có không biết bao nhiêu là kỳ hoa dị thảo. Như vậy các màu sắc
riêng biệt tạo nên một sự hòa hợp lớn, và tính cách hòa nhi bất đồng có thể lên
giá trị tự do và dung hợp của đạo Phật. Phong trào hiện đại hóa đạo Phật có thể
bắt đầu bằng những hình thức sinh hoạt hiện hữu ngay trong phạm vi Giáo Hội
Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất và nếu lớn mạnh sẽ có thể trở thành sinh lực
chíng yếu của Giáo Hội. Mà cố nhiên nếu phong trào không thực hiện được chân
tinh thần của đạo Phật thì phong trào sẽ không bao giờ trở thành sinh lực chính
yếu của Giáo Hội được cả.
Sinh hoạt như một chi phần của
Giáo hội, phong trào sẽ không bị kết án, ít nhất ngay từ lúc đầu, là “chia rẽ
Giáo Hội” hoặc “phá hòa hợp tăng”, những danh từ mà người thuần thành vừa nghe
đã le lưỡi, giật mình. Công cuộc hiện đại hóa đạo Phật đòi hỏi một tinh thần cởi
mở, chín chắn. Khởi xướng phong trào phải có những Phật tử tăng sĩ và cư sĩ trí
thức biết lo cho tương lai của đạo Phật và của văn hóa nhiều hơn là cho địa vị
và quyền lợi của chính mình.
Chúng tôi sẽ nói đến những khía
cạnh của công cuộc hiện đại hóa đạo Phật, nhưng chúng tôi thiết tưởng cần phải
mở cuộc đối thoại ngay từ bây giờ. Người trí thức, người văn nghệ sĩ và người
thanh niên của thời đại thấy không có chỗ đứng cho họ trong đạo Phật, đó là lý
do trước tiên để chúng ta phải hiện đại hóa đạo Phật. Đã đành rằng sự đóng góp
của các giới khác, nhất là giới lao động, cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đạo
Phật có thể là những đóng góp lớn lao nhất nhưng để cho giới trí thức, giới văn
nghệ sĩ và giới thanh niên đứng ngoài tức là chặn đứng những phát triển văn hóa
của Phật giáo. Sự đóng góp của giới trí thức, văn nghệ sĩ và thanh niên là sự
đóng góp có tính cách khởi xướng, sáng tạo và hướng dẫn, trong khi sự đóng góp
của các giới Phật tử khác tuy vĩ đại thực nhưng vẫn chỉ có tính cách của một
sức mạnh đẩy tới, của một năng lượng. Không có sự tham gia của trí thức và
thanh niên thì không có ai chịu mang đạo Phật đi vào các lĩnh vực giáo dục,
kinh tế, nói tóm lại, vào những mạch sống của của xã hội. Nếu bình tâm mà xét,
ta sẽ thấy trong cơ cấu tổ chức của Giáo hội, một người trí thức, một nhà văn
nghệ, một người thanh niên không thể tìm ra chỗ đứng thích ứng của mình để
phụng sự, dù người ấy muốn liên hệ cuộc đời mình với lý tưởng đạo Phật.
Để sáng tỏ vấn đề, ta hãy lấy
trường hợp của một thanh niên. Anh sinh năm 1942, năm nay hai mươi ba tuổi, học
trường Sư phạm. Anh đọc sách Phật, thương lý tưởng đạo Phật và muốn phụng sự
cho lý tưởng ấy. Anh suy nghĩ về những trường hợp sau đây:
1/ Gia nhập đoàn Sinh viên Phật
tử.
2/ Đem kiến thức chuyên môn ra
đời để phụng sự cho lý tưởng đạo Phật.
3/ Đi tu, làm tăng sĩ.
Gia nhập đoàn Sinh viên Phật tử
thì anh đã gia nhập rồi. Anh có đi nghe một số các thầy giảng về Phật pháp, có
thầy giảng dễ hiểu có thầy giảng khó hiểu. Mỗi thầy giảng một cách khác nhau.
Anh cũng có lên chùa lễ Phật mỗi ngày chủ nhật, và với kiến thức sư phạm của
anh, anh có quan sát sinh hoạt sáng chủ nhật của các em đoàn sinh Gia đình Phật
tử. Anh cũng có tham gia một ít công tác từ thiện xã hội của đoàn. Và làm đều
đặn những công tác ấy, anh thấy anh vẫn có cảm giác lạc lõng, tự thấy vẫn còn ở
ngoài đạo Phật. Anh thấy sự
học hành có tính cách “chấm câu” của anh không đáp ứng được ý nguyện tha thiết
và thành khẩn của anh đối với việc đem lý tưởng đạo Phật làm đẹp cho cuộc đời.
Chỉ còn sáu tháng nữa anh ra trường thôi và thời gian hai năm trời sinh hoạt
trong đoàn không đủ đốt lên trong anh một ngọn lửa ấm để cho anh có cảm tưởng
anh sống vì lý tưởng đạo Phật. Mai mốt anh sẽ được bổ về dạy ở tỉnh nào anh
cũng không biết và cuối cùng đối với đạo Phật anh vẫn là kẻ đứng ngoài. Anh yêu
nghề dạy học cho nên anh mới vào trường sư phạm. Anh nghĩ rằng nếu anh vào đạo
Phật, anh cũng ưa đem theo kiến thức chuyên môn của anh vào mà phụng sự. Nhưng
không có chỗ nào trong đạo Phật để anh có thể đứng với kiến thức chuyên môn của
anh. Xin về dạy trong một trường Bồ Đề cũng chưa chắc là dễ bởi vì trường Bồ Đề
cũng phải có quen (đôi khi là có thế lực) mới vào dạy được. Mà có phải anh vào
Bồ Đề dạy là để sinh nhai đâu. Anh chỉ muốn đứng phụng sự trong hàng ngũ Phật
tử, chứ muốn sinh nhai thì anh cứ đợi sự vụ lệnh gửi anh đi dạy trường công cho
khoẻ, tội gì mà đi xin việc. Trường Bồ Đề đã ít mà cách thức tổ chức của nhà
trường, từ hình thức đến nội dung, anh nhận thấy cũng không có gì biểu lộ được
sinh khí và đường hướng đạo Phật. Anh có xin vào được để dạy trong trường thì
cũng chỉ để tính giờ lấy lương thôi, không có dịp nào để cho anh học Phật và
soi tỏ giáo lý Phật học trong đường hướng giáo dục mà phụng sự cho lý tưởng
Phật giáo cả. Dạy ở các trường Bồ Đề không bắt buộc phải có một chứng chỉ triết
học Phật giáo nào cả, cũng không bắt buộc phải có một chứng chỉ Sư phạm Phật
giáo nào cả. Thế thì anh sẽ học thế nào và hành thế nào trên bước đường sự
nghiệp lý tưởng của anh?
Còn nếu đi tu làm tăng sĩ thì
anh cũng không tìm ra chỗ đứng cho thích hợp với anh. Anh đã có vào thăm và ở
lại các chùa để tìm hiểu. Các chú tiểu trong chùa chỉ được học rất ít, học
không có phương pháp, không có thầy giỏi dạy. Mà học những gì? Một ít kinh chữ
Nho theo kiểu thuộc lòng. Các chú phải quét chùa, tụng kinh và để cho các Thầy
sai vặt, hầu hạ. Lắm khi phải dọn cơm bưng nước cho thập phương bổn đạo nữa.
Hành đạo như các chú trong tu viện xưa của Tổ Hoằng - Nhẫn, thì họa may ra anh
còn làm được, chứ bây giờ đi vào các chùa làm giống như các chú tiểu bé nhỏ thì
anh biết là anh không có căn cơ thích hợp. Anh cũng có đến Phật học viện Ấn
Quang và Hải Đức, và sau khi tìm hiểu, anh thấy chương trình học vẫn nệ cổ và
thiếu hẳn phương pháp. Kiến thức của một người học xong tám năm Phật học viện
có thể không sâu sắc bằng kiến thức của một sinh viên được nghiên cứu hai năm
dưới sự hướng dẫn của một vị giáo sư có kiến thức vững chãi về khoa học và Phật
học. Và dầu cho anh có học xong một chương trình bốn năm tại viện Cao Đẳng Phật
học Sài Gòn, cơ sở giáo dục mà anh hài lòng nhất ấy, thì liệu anh đã có chỗ
đứng chưa? Anh sẽ tu như thế nào? Về Huế để tu trong một ngôi chùa cổ kính như
chùa Thiền Tôn để cầu đạt đạo chăng? Anh chưa muốn như thế. Anh thấy giới luật
Tỳ Kheo 2250 giới, không hoặc chưa thích hợp với anh; cả giới Sa di (10 giới)
cũng thế. Anh cũng không muốn làm một vị trụ trì lo về công việc hướng dẫn nghi
lễ và cai quản một ngôi chùa. Tóm lại anh không tìm thấy chỗ đứng nào thích hợp
với khả năng anh, chí hướng anh, với những điều kiện tâm lý và xã hội của anh.
Anh nhận thấy rằng các bạn anh, nam cũng như nữ, cả một thế hệ thanh niên yêu
mến đạo Phật mà đều không tìm được chỗ đứng của mình trong đạo Phật. Những
khuôn khổ sẵn có hiện thời không thích hợp với họ Giáo lý thì không nói rồi. Nhưng giáo chế và giáo sản mà còn giữ mãi những khuôn khổ ấy thì các anh các
chị không bao giờ có cảm tưởng là mình có thể dấn thân trọn vẹn vào đạo Phật.
Căn cơ của các anh các chị không thể thích ứng được với khuôn khổ đó. Phải có
những khuôn khổ mới thích hợp với các anh, các chị hơn, nếu đạo Phật muốn có
bàn tay xây dựng đắc lực của các anh các chị.
Ta hãy lấy thí dụ trường hợp của
một văn nghệ sĩ, một nhạc gia chẳng hạn. Anh có kiến thức khá vững về nhạc dân
tộc và nhạc tôn giáo. Anh thương đạo Phật, thương dân tộc và muốn phụng sự dân
tộc bằng đạo Phật. Anh nhận thấy nền lễ nhạc hiện tại của Phật Giáo Việt Nam quá suy vi,
so với lễ nhạc cổ điển. Anh ý thức được sứ mệnh trọng đại của lễ nhạc trong
sinh hoạt tôn giáo, sinh hoạt tâm linh. Và với kiến thức của anh về đạo Phật về
dân tộc, anh thấy rằng lễ nhạc Phật Giáo Việt Nam đang đi tới chỗ phá sản. Nói
chuyện với một người bạn chuyên về kiến trúc, anh thấy kiến trúc và lễ nhạc
Phật giáo có liên hệ với nhau mật thiết và trong trường hợp Việt Nam cả hai đều
đang đi đến một khúc đường phiêu lưu nguy hiểm! Lối xây dựng pha trộn các nét
Trung Hoa, Ấn Độ, Pháp và Mỹ khiến cho nhiều ngôi chùa mang những nét dị kỳ
không thể chấp nhận được. Có những ngôi chùa trông như những chiếc building có
vẽ rồng vẽ phụng. Lối thờ tự, hành lễ mất hết trang nghiêm trong khuôn khổ
những kiến trúc đó. Còn các bài tụng thì mất hết thiền vị, nhất là trong những
buổi lễ hỗn hợp giữa cư sĩ và tăng sĩ.
Những bài hát ngô nghê vừa mang
tính chất ngoại lai vừa mang nội dung trữ tình tầm thường được mang vào trong
chính điện. Các điệu tán lễ cổ điển dần dần thất truyền. Điệu kinh và nhạc lễ
được sáng tác bừa bãi không căn cứ trên một nguyên tắc nào cả và không chú
trọng đến một nội dung tâm linh nào cả. Anh tìm đến bày tỏ thắc mắc của anh
nhưng ít có vị nào có thẩm quyền trong giáo hội để ý đến những việc “nhỏ mọn”
đó cả. Giáo hội chưa có một trường âm nhạc tôn giáo, cũng không có được đến một
lớp học về lễ nhạc, dầu ở ngay trong Viện Cao Đẳng Phật Học Sài Gòn. Anh dù có
yêu mến và thiết tha đến nền lễ nhạc của Phật giáo bao nhiêu thì cũng đành
chịu. Phải chi anh được dạy trong một tôn giáo nhạc viện Phật giáo hoặc làm
việc trong một ban nghiên cứu và sáng tác về lễ nhạc đạo Phật. Dù biết là nền
lễ nhạc Phật giáo có thể phong phú (vì đã phong phú) về giá trị tâm linh và có
thể nuôi dưỡng nhân loại trong sinh hoạt tâm linh giải thoát, anh vẫn không thể
phụng sự nó được và phải ngày ngày đi dạy từng giờ để cho thời gian trôi qua và
để nhìn thấy lễ nhạc Phật giáo càng lúc càng trở nên nghèo nàn và phản bội lại cả
tinh thần đạo Phật. Nhưng anh biết làm gì hơn? Trong những khuôn khổ hiện có
của đạo Phật, không hề có chỗ thích hợp cho anh. Thiếu gì những văn gia, những
họa gia có tâm trạng như anh, thương dân tộc và Phật giáo thì có thương, mà
phụng sự thì chỉ có thể phụng sự theo kiểu “phát tâm”, khi công việc làm ăn hơi
rỗi rảnh (mà có bao giờ thực rỗi rảnh?) mới viết cho được một bài, sáng tác cho
được một khúc nhạc, vẽ cho được một cái bìa sách. Không được nuôi dưỡng nhiều
trong sinh hoạt tâm linh, không có thì giờ để thở không khí đạo Phật, làm sao
những sáng tác ấy tỏ lộ được tinh thần và giá trị tâm linh của đạo Phật? Thiện
chí nhiều như nhạc sĩ Thẩm Oánh mà cũng chỉ có thể viết cho đạo Phật những bài
như bài “Thập phương chúng sinh” và “A Di Đà Phật” mà thôi. Bao giờ cho những
tâm hồn Phật tử ấy có được điều kiện để phụng sự cho lý tưởng đạo Phật không
phải như “những người bạn của Phật giáo” ủng hộ cho Phật giáo, mà là như những
người Phật tử phụng sự cho lý tưởng đạo Phật của mình?
Và sau đây ta lấy ví dụ một nhà
trí thức, một kinh tế học gia. Anh biết rằng kinh tế là huyết mạch, và đạo Phật
chỉ có thể thực sự đi vào cuộc đời nếu đạo Phật có chủ thuyết xã hội của mình.
Đạo Phật không thể nằm trong lòng cuộc đời nếu đạo Phật chỉ dạy những bài học
luân lý đạo đức khô khan! Trong tình trạng hiện thời của đất nước, đạo Phật
muốn đóng góp phần của mình thì phải có lập trường rõ rệt đối với các chủ
thuyết kinh tế; phải có một đường lối và kế hoạch thực hiện phát triển kinh tế
và cải tiến xã hội của mình. Đạo Phật sẽ không thể đóng được một vai trò chủ
yếu nào cả nếu chỉ bằng lòng với một ít những công tác từ thiện lẻ tẻ. Tuy biết
rõ như vậy nhưng anh không thể đem tài năng của anh ra để phụng sự cho đạo Phật
được. Trước hết, anh thiếu một không khí thuận tiện để tìm học về những nguyên
lý căn bản của Phật giáo được coi như là những phương tiện chỉ dẫn anh tìm đến
một quan niệm Phật giáo về các vấn đề xã hội và kinh tế như vấn đề quyền tư
hữu, vấn đề sản xuất, vấn đề đấu tranh giai cấp, v.v… Sau nữa, anh không thấy ở
xã hội vụ của Viện Hóa Đạo một dự định nào cả về vấn đề cải tiến xã hội, phát
triển kinh tế mà chỉ thấy có một vài dự định về công tác cứu trợ, bố thí, hoàn
toàn có tính cách từ thiện. Dù anh muốn hiến cả cuộc đời anh và kiến thức
chuyên môn của anh cho lý tưởng Phật giáo, anh cũng như người sinh viên sư phạm
và người nhạc sư trên kia, không tìm thấy được một chỗ ngồi trong tổ chức đạo
Phật hiện tại. Anh cũng phải lo việc sinh sống cho gia đình; nếu có thể anh
cũng chỉ nhận lời mời để diễn thuyết tại một chùa nào đó về vấn đề kinh tế mà
thôi. Nhưng thực ra chẳng có chùa nào lại mời “thuyết pháp” về kinh tế và chính
trị cả.
Thế cho nên nếu cần xây cất
nhiều chùa, đúc nhiều chuông, hoặc đứng dậy để bảo vệ cho đạo Phật để chống lại
bạo quyền thì chúng ta đã có cả khối Phật tử thuần thành ủng hộ một cách sốt
sắng nồng nhiệt. Nhưng nếu cần đưa đạo Phật đi sâu vào sự xây dựng cho cuộc đời
về mọi mặt văn hóa, giáo dục, nghệ thuật, y tế, kinh tế, xã hội, thì chúng ta
còn cảm thấy lúng túng. Lúng túng vì trong hàng ngũ chúng ta, chưa có mặt người
trí thức, người văn nghệ sĩ và người thanh niên.
Hình ảnh của người Phật tử lý
tưởng, theo ý muốn của một số các bậc Thượng Tọa bây giờ, là hình ảnh của một
người Phật tử “thuần thành”. Thuần thành ở đây có nghĩa là biết vâng lời, và có
thể là vâng lời một cách tín thành, vâng lời gần như vô điều kiện. Những Phật
tử như thế thì thường được các Thầy thương (ai mà lại không thương?), nhưng như
thế thì người Phật tử chỉ có thể đóng góp bằng đức tin và bằng sức lao động (dù
là lao động trí óc) của mình mà không được đóng góp bằng lý tưởng và bằng trí
thông minh của mình. Người trí thức, người văn nghệ sĩ và người thanh niên ít
khi nhận chịu một sự đóng góp “thuần thành” như thế. Và cũng bởi lý do đó cho
nên sự vắng mặt của họ trong hàng ngũ Phật tử thực hành lại càng dễ chứng minh.
Trong phong trào hiện đại hóa đạo Phật, người trí thức, văn nghệ sĩ và thanh
niên sẽ có mặt như những bộ óc đi kèm với những trái tim; và Phật sự sẽ được
thực hiện dưới ánh sáng của trí tuệ chứ không phải chỉ là bằng động lực của
tình cảm. Có thể sự khác biệt của đạo Phật với nhiều tôn giáo khác là ở điểm
quan trọng ấy.
Vậy thì thanh niên và trí thức
đòi hỏi một chỗ đứng thích ứng với họ. Thanh niên và trí thức có thể hiến trọn
cuộc đời họ cho lý tưởng đạo Phật một khi lý trí và tình cảm của họ tìm được
những môi trường thích ứng. Họ sẽ không đòi hỏi quyền lợi như khi họ đứng ở bên
ngoài nữa. Trong đời sống phụng sự, lý tưởng được thực hiện tức là một quyền
lợi cao nhất. Vì thương đạo Phật họ đòi hỏi chỗ đứng ấy và họ xứng đáng được có
chỗ đứng ấy. Và nếu nhận thức được sự cần thiết của sự hiện diện họ, chúng ta
đừng bắt buộc họ phải đến như những Phật tử “thuần thành”, và nhất là đừng bắt
buộc họ nằm gọn trong những khuôn khổ không khế hợp với họ. Họ không muốn và
cũng không thể nằm trong những khuôn khổ đó. Phải tạo ra những khuôn khổ mới
cho họ, cũng như khi một người thợ mộc đến, chúng ta phải đưa cho họ cái bào mà
không phải là một cái bay.
Tổ chức gia đình Phật tử thật có
thể gọi là một nét son trong công cuộc hiện đại hóa đạo Phật. Nhìn vào tổ chức
ấy, ta thấy đạo Phật đã để ý đến việc giáo dục thanh thiếu niên - một lo lắng
cho sự sống, cho tương lai, không giống với rất nhiều những công việc khác chỉ
lo đến phần những người già và người chết. Phong trào Gia đình Phật tử có được
cũng là nhờ ở thanh niên trí thức, nhưng vẫn chưa đạt đến ước vọng chân thực
của nó là tinh luyện nên một phương thức giáo dục linh động và hữu hiệu cũng vì
môi trường sinh hoạt của nó chưa thích hợp mấy cho thanh niên trí thức. Nạn
khan hiếm huynh trưởng là do ở đấy. Nhiều nơi, ta nhận thấy đoàn thể các em
oanh vũ, thanh niên thiếu nữ Phật tử chỉ là để trang điểm cho những buổi lễ của
đạo Phật, những buổi đón đưa các vị thượng khách, và để giúp đỡ các Ban đại
diện Tỉnh, Quận, Xã trong các công tác tổ chức v.v… mà thôi. Thế mà so với hình
thái nguyên thủy của tổ chức nhi đồng Phật tử, tổ chức Gia đình Phật tử đã được
coi như là tiến bộ vượt bực rồi. Ngày xưa các bác trong Tỉnh hội và Chi Hội
Phật giáo cho con em của mình tới chùa, lập ra một Ban đồng Ấu tập tụng kinh,
cầm hoa sen trên tay đi hộ niệm
(nghĩa là đi đám) và hát bài điếu phúng “cuộc hồng trần xoay vần quá ngán, kiếp
phù sinh tụ tán mấy mươi hồi”…. Hoạt động đạo Phật ngày ấy chỉ là cầu an cầu
siêu, tạo lập nghĩa địa, làm chay đưa đám. Ngày nay, những công tác ấy vẫn còn
là những công tác chính – Xoay quanh ta thấy thêm việc thuyết pháp, việc ấn
tống kinh, việc tu bát quan trai, việc cứu tế từ thiện… Tuy vậy những việc kể
sau chỉ được thực hiện ở một số rất ít các chùa mà thôi. Và cũng do những người
lớn tuổi làm cho những người lớn tuổi. Kinh ấn tống là để tụng cầu phước, còn
tu bát quan trai là để dành cho người tuổi đã cao. Dù sao ta phải công nhận
rằng cho đến nay (kể từ hồi đạo Phật suy đồi) vai trò chủ yếu của Phật giáo Việt
Nam chỉ mới là cung cấp và làm thỏa mãn một số nhu yếu tín ngưỡng của giới bình
dân mà thôi – Dù giới này chiếm một đại đa số trong quần chúng. Kể ra đạo Phật
Việt Nam
phải làm phận sự ấy bởi vì căn cơ và sinh hoạt tín ngưỡng của quần chúng bình
dân đòi hỏi như vậy. Sự thờ cúng ông bà, tổ chức đàn chẩn tế cô hồn v.v… vốn
không có trong hình thức sinh hoạt của Phật giáo nguyên thủy, nhưng vì cần khế
cơ nên đạo Phật đã thiết lập hoặc chấp nhận. Vì thỏa mãn được nhu yếu đại
chúng, vì thích nghi với căn cơ đại chúng nên tất nhiên đạo Phật được đại chúng
yêu mến bảo vệ. Nhưng trong xã hội ngày nay, vai trò của người trí thức trở nên
cần thiết hơn xưa nhiều, bởi vì chúng ta phải đưa đạo Phật qua khỏi một khúc
quanh lịch sử rất lớn lao mà khả năng của đại chúng bình dân không đủ để làm
việc ấy. Cho nên người trí thức phải thấy ở đạo Phật không phải chỉ những nhu
yếu tín ngưỡng mà còn là một nẻo thoát cho dân tộc cho nhân loại. Vì thế khai
triển phần triết học và đạo học trong đạo Phật cho họ, mà không nên cuộc hạn
đạo Phật vào phạm vi tín ngưỡng, phạm vi có thể coi như là thấp nhất của đạo
Phật, nhất là tín ngưỡng khế cơ cho giới bình dân. Người trí thức yêu mến đạo
Phật vì những phần cao siêu thâm diệu nhất của đạo Phật chứ không phải vì phần
tín ngưỡng. Hiện đại hóa đạo Phật là khai triển các phần thâm sâu ấy để dùng
làm động cơ tiến bộ cho xã hội về mọi mặt văn hóa và xã hội. Xã hội dù muốn dù
không cũng phải tiến bộ; giới bình dân sẽ cũng như giới trí thức nhận ra rằng
cần phải khai thác mọi khả năng của đạo Phật làm động lực cho xã hội tiến bộ.
Họ sẽ có những nhu yếu mới và sẽ bớt những nhu yếu cũ mà họ nhận ra là hơi ấu
trĩ, vô lý. Họ sẽ dần dần nhận ra rằng đạo Phật là một kho tàng giàu có mà lâu
nay họ chỉ thừa hưởng một phần rất nghèo nàn: tin nhân quả tội phước, cầu an,
cầu siêu, xin một cái bùa hộ mạng cho con v.v…
Những vị đang lãnh đạo giới Phật
tử đại chúng vẫn phải tiếp tục phận sự của mình, vẫn phải tổ chức thuyết pháp,
cầu an, cầu siêu, làm chay, cúng vía. Xã hội ta trong hiện tại nếu không nhờ
sinh hoạt đó thì có thể tan rã bởi vì trong khi nền tảng một nền văn hóa mới
chưa được xây dựng, những sinh hoạt kia vẫn được xem như là những chiếc rễ cái
rễ con còn có thể giúp cho cây đại thụ đứng vững được trong cơn giông tố, và dù
một số các rễ đã long khỏi mặt đất. Công cuộc hiện đại hóa không bao hàm một sự
phá đổ những sinh hoạt kia nhất là trong giai đoạn mà cơ sở văn hóa mới chưa
được xây dựng xong. Công cuộc hiện đại hóa sẽ là sự nỗ lực làm mọc kên những
mầm non thật khỏe, thật mạnh trong một môi trường sinh hoạt mới thích hợp cho
sự phát triển của đạo Phật như một niềm tin mới, một ý thức hệ mới một sinh lực
mới. Cố nhiên đứng về phương diện này, đối diện với cuộc khủng hoảng văn hóa
thế giới, đạo Phật phải thực sự hiến mình trong lò luyện thép để tái hiện một
cách bi hùng như một nền văn hóa mới. Đạo Phật sẽ không thuần túy là một tôn
giáo tín ngưỡng mà phải là một đạo lý
nhân sinh - nhân sinh hiểu theo mọi khía cạnh, từ sinh hoạt tâm
linh đến sinh hoạt kinh tế - có thái độ, có quan niệm,có kế hoạch của mình về
mọi phương diện sinh hoạt nội tâm và xã hội, kinh tế, chính trị. Như thế, ngoài
những nhu yếu thực nghiệm và thăng hóa của đời sống tâm linh để làm phát lộ và
tuôn chảy nguồn đạo đức vô hành, chúng ta còn có những nhu yếu nghệ thuật hóa,
xã hội hóa và khoa học hóa sinh hoạt đạo Phật. Không có lý do gì mà đạo Phật
ngần ngại không tự phát triển trong môi trường nghệ thuật, xã hội và khoa học,
bởi vì không những tinh thần đạo Phật chính là tinh thần nghệ thuật, xã hội và
khoa học mà đạo Phật còn là động cơ thúc đẩy sự phát triển những bộ môn sinh
hoạt ấy về hướng chân thiện mỹ nữa.
Ý thức về sự cần thiết của sự có
mặt người trí thức văn nghệ sĩ và thanh niên trong hàng ngũ Phật tử trong công
việc xây dựng đạo Phật, ta sẽ phải khai thị những giáo lý và giáo chế mới phù
hợp với thời đại và căn cơ của họ. Số lượng các vị tăng sĩ nhận thức về sự cần
thiết đem đạo Phật vào văn hóa, vào kinh tế và vào nghệ thuật rất là ít ỏi, có
thể đếm trên những lóng tay. Ta không thể tưởng tượng rằng với số lượng đó mà Giáo
Hội Phật Giáo có thể thực hiện được gì đáng kể. Phải có thêm trong hàng ngũ
những người sống vì lý tưởng đạo Phật, hàng chục ngàn người nữa, trong đó số
thanh niên học thức chiếm phần quan trọng. Mà muốn được như vậy không có cách
chi hơn là cách mệnh giáo chế. Công trình hiện đại hóa đạo Phật sẽ phải lấy
cách mệnh giáo chế làm tâm điểm.
Nhưng cách mệnh ở đây không phải
là lật đổ, là đả phá. Nếu có lật đổ đả phá thì cũng chỉ là lật đổ và đả phá
những thái độ những quan niệm cố chấp, lỗi thời và phản lại tinh thần tự do và
tiến bộ của đạo Phật. Chỉ cần có một quan niệm cởi mở dung hợp là cánh cửa giáo
chế được mở rộng và những chân trời mới sẽ dàn trải trước mắt ta. Đạo Phật,
nhất là đạo Phật Bắc phương, đã chứng tỏ tinh thần phóng khoáng cầu tiến ấy một
cách rõ rệt. Những nhà cách mạng giáo lý và giáo chế như Đại Thiên, Long Thọ,
Thế Thân, Thân Loan, Thái Hư… tuy có phải chịu đựng nhiều đau khổ nhưng quả
thực đã đem tới cho đạo Phật bao nhiêu là sinh lực mới là giác sắc mới. Ngày
xưa Phật giáo Bắc phương đã tự cải biến những hình thái sinh hoạt của mình để
vươn tới và hòa đồng trong văn hóa của các nước như Tây Tạng, Nhật Bản, Trung
Hoa, v.v.. Từ chế độ khất thực đi đến chế độ tự viện “bất tác bất thực”, từ
chiếc áo vàng đến những chiếc áo nâu mang màu sắc đơn giản và nghèo khổ của
quần chúng lam lũ, từ sinh hoạt đơn giản của tham thiền và hành hóa đi đến sự
chấp nhận ruộng ký linh, sự thờ cúng ông bà, trai đàn chẩn tế… đã có những
chuyển biến lớn lao để khế thời và khế cơ. Không lẽ nằm trong truyền thống phóng
khoáng đó mà hôm nay chúng ta lại để cho thân thể mọc rêu đóng vẩy và sợ hãi
những sự cải tiến những sự sáng tạo hay sao? Nghiên cứu về sự phát hiện của lý
tưởng Bồ Tát trong lịch sử tư tưởng Phật giáo chẳng hạn, ta sẽ thấy nếu mẫu
người Bồ Tát không xuất hiện đúng vào ngày giờ ấy trong lịch sử thì chưa chắc
Phật giáo đã là chất liệu chủ yếu của văn hóa Á Châu chúng ta trong ngày hôm
nay.
Tình trạng khẩn trương của đất
nước và những biến động trong những năm vừa qua chắc chắn đã lay chúng ta tỉnh
thức và do đó chúng tôi tin chắc rằng cuộc đối thoại sẽ thiết lập dễ dàng hơn
và hy vọng có nhiều thông cảm hơn. Giữa những người cùng mang một lý tưởng xây
dựng cho đạo Phật, những nhận thức bất đồng sẽ có thể đem đối chiếu trong một
tinh thần cởi mở. Đó là nguồn an ủi độc nhất mà cũng là lớn lao nhất cho chúng
tôi cũng như cho các bạn nào cùng mang ý nguyện hiện đại hóa đạo Phật. Trong
quá trình sinh thành của hạt lúa thành cây lúa, hạt lúa nằm dưới đất ý thức
được sự hiện diện mới của mình nơi bông lúa và bông lúa ý thức được rằng mình
là một hiện sinh mới của hạt lúa nằm dưới gốc. Được như thế, sự từng trải khôn
ngoan sẽ khiến cho hòa điệu được bảo vệ dù những đau đớn của việc nứt mầm nẩy
lộc là những đau đớn không thể nào tránh khỏi.
Sau hết, trước khi đi vào những
vấn đề cụ thể, ta nên nhắc cho nhau nhớ tính cách quan trọng của thái độ tự do
vô trước mà người Phật tử, khi dấn thân vào công việc thiết lập những nề nếp
sinh hoạt văn hóa phải có. Tất cả những hiến chế, giới luật, giáo lý đều chỉ
nên được xem như là cần thiết cho một giai đoạn lịch sử sinh hoạt của con
người. Không thể xem chúng như những luật lệ nghìn đời những giáo điều bất di
bất dịch. Với thái độ vô chấp ấy, ta luôn luôn mở rộng cửa để đón nhận những
biến đổi, những bổ túc, những cải thiện, để cho dòng sinh hoạt ngày nào cũng
mới, giờ nào cũng mới và do tính cách “nhật tân” ấy mà đạo Phật sẽ duy trì được
sinh khí và bản chất mình, mà đạo Phật mãi mãi còn là đạo Phật. Khi nào chúng
ta mắc kẹt trong hiến chế, luật lệ, trong tổ chức khắt khe thì chúng ta bắt đầu
làm tiêu khô bản chất linh động của đạo Phật. Chúng ta sẽ sa vào vũng lầy hình
thức khô héo. Tổ chức khéo quá, chặt chẽ quá, tinh vi quá thì thế nào bản chất
cũng suy trầm, mà thiếu tổ chức thì không thể tạo nên cho mình được một sức mạnh.
Giữa hai thái cực, ta sẽ chọn một trung đạo: tổ chức thì tổ chức, và có thể là
tinh vi, nhưng với tinh thần phá chấp và vô trước. Phải cương quyết bảo vệ cho
đặc tính tự do và sáng tạo của đạo Phật, điều đó là điều phải khắc cốt ghi tâm.
Nhìn vào hiến chế, ta có thể thấy ngay các đặc tính ấy. Phải khuyến khích mọi
tự do phát triển, tự do sáng tạo, có như thế ta mới trung thành được với bản ý
của ta khi tình nguyện lên đường phụng sự lý tưởng đạo Phật.