Mục Lục
Chương
I: Duyên Kỳ Ngộ
Chương
II: Hiện Hữu Hay Không Hiện Hữu
Chương
III: Đi Tìm Một Người
Chương
IV: Vũ Trụ Trong Một Hạt Cát
Chương
V: Như Một Tia Chớp Trong Đám Mây Mùa Hạ - Sự Vô Thường Giữa Lòng Thực Tại
Chương
VI: Vấn Đề Thời Gian
Chương
VII: Nhị Nguyên (Tâm và Vật)
Chương
VIII: Về Rô Bốt
Chương
IX: Lý Trí Và Thiền Định
Chương
X: Vẻ Đẹp Trong Khoa Học Và Trong Phật Giáo
Chương
XI: Từ Thiền Định Đến Hành Động
Kết Luận
Kết Luận
Của Nhà Khoa Học
Kết Luận
Của Nhà Sư
LỜI DỊCH
GIẢ
Quyển
sách này chúng tôi biên dịch theo cuốn “L’infini dans la paume de la main”, còn
có tựa là “Le moine et l’Astro physician” của hai tác giả Matthieu Ricard và
Trịnh Xuân Thuận.
Matthieu Ricard thì chúng ta đã
biết qua quyển “Đạo sư và Triết gia” còn Trịnh Xuân Thuận là nhà vật lý thiên
văn người Việt rất được ngưỡng mộ hiện nay trên thế giới. Giáo sư Thuận hiện là
giáo sư diễn giảng ở Đại học Virginia Mỹ.
Quyển sách đề cập đến nhiều vấn
đề mà Phật Giáo hằng quan tâm: sự hình thành của vũ trụ, hiện hữu hay không
hiện hữu, nguồn gốc của Tâm, tánh không của các Pháp, tái sinh và luân hồi
v.v...
Quan điểm của Phật Giáo và Khoa
học có nhiều điểm tương đồng và cũng rất nhiều điểm dị biệt. Muốn dung hợp
những quan điểm có phần siêu hình của Phật Giáo với quan điểm thực nghiệm của
Khoa học là một việc không dễ dàng gì. Do đó, cuốn sách khó đọc, khó hiểu, khó
dịch cho sát nghĩa và như đã trình bày trong quyển “Đạo sư và Triết gia”, với
vốn học Phật cũng như vốn ngoại ngữ còn rất hạn chế, chúng tôi đã gặp không ít
khó khăn trong khi biên dịch. Chúng tôi đã tự động lược bỏ những chương, những
đoạn mà chúng tôi thấy khó nắm bắt, cũng như không phù hợp với một cái nhìn
chung về những vấn đề đã nêu.
Do đó, chắc chắn quyển sách sẽ
có nhiều sai sót và lỗi phiên dịch, vì vậy một lần nữa kính nhờ các bậc tôn túc
trong và ngoài Đạo vui lòng chỉ giáo và bổ chính.
Bác sĩ Hồ Hữu Hưng
Cẩn bút
Vũ Trụ Trong Lòng Bàn Tay
Dẫn nhập
của M.Ricard
Ta phải
sống như thế nào? Sống thế nào cùng với xã hội? Ta phải biết điều gì? Đó là ba
câu hỏi làm bận lòng nhân loại qua các thời đại. Thật là lý tưởng nếu cuộc đời
chúng ta đưa đến một sự hoàn mãn từng phút từng giây cho đến ngày chúng ta lìa
bỏ cõi đời này.
Sống cùng với xã hội là cần phải
đi đến việc cùng chung có một tinh thần trách nhiệm cộng đồng. Còn kiến thức
thì giúp chúng ta khám phá thiên nhiên đồng thời với nội tâm của chúng ta.
Những câu hỏi trên cũng nằm ở
trung tâm điểm của khoa học, triết học, nghệ thuật, hoạt động xã hội và tâm
linh, chưa kể các lĩnh vực trên như đã xảy ra trong hiện tình xã hội ngày nay,
làm thu hẹp tầm nhìn của chúng ta về cuộc sống. Nếu chúng ta không có sự minh
triết và lòng vị tha, khoa học và chính trị sẽ là những con dao hai lưỡi, đạo
lý sẽ bị bỏ quên, nghệ thuật trở nên nhảm nhí và tâm linh thì hão huyền.
Từ thế kỷ 17, thời điểm của cách
mạng khoa học, cho đến ngày nay, một số người ngày càng nhiều đã xem khoa học
đồng nghĩa với sự hiểu biết. Sự thu nhập thông tin được nuôi dưỡng bởi khoa học
càng ngày càng bành trướng và chưa có dấu hiệu chậm lại. Song song, tôn giáo
càng ngày càng suy tàn trong các xã hội dân chủ và ngoại đạo, cũng như bị quy
định trong các xã hội khác. Cốt lõi của tôn giáo là tình yêu và lòng bi mẫn đã
từng chịu nhiều thử thách trong lịch sử nhân loại. Những truyền thống tâm linh,
giáo điều hay thực nghiệm, ngoài cái khía cạnh siêu hình, thường đem đến những
lời khuyên đạo lý, sáng suốt nhưng đôi khi cũng có tính ràng buộc. Ngày nay,
những lời khuyên ấy cũng mất dần giá trị, con người không còn tư tưởng hay hành
động theo lời dạy của các tôn giáo dù rằng họ là tín đồ của các tôn giáo đó.
Con người tin tưởng hơn vào khoa học và kỹ thuật mà họ nghĩ rằng nó giúp họ
giải quyết mọi vấn đề của tương lai. Tuy nhiên, cũng có những người cho rằng
cao vọng của khoa học là biết hết mọi thứ là điều rất viễn vông. Căn bản của
khoa học bị giới hạn bởi lĩnh vực của tự nó đặt ra. Và nếu kỹ thuật đem đến
những lợi ích to lớn, thì nó cũng đồng thời gây ra những thiệt hại không nhỏ.
Hơn nữa khoa học không chỉ dẫn gì được cho cách phải sống như thế nào. Trên
thực tế, khoa học không tốt cũng không xấu. Đưa nó đến tận mây xanh hay kéo nó
xuống đất đen cũng không có nghĩa hơn việc tôn vinh hay chỉ trích sức mạnh. Một
cánh tay đồng thời có thể giết người hay cứu người. Những nhà khoa học không
tốt cũng không xấu hơn những người bình thường khi chạm trán đến những vấn đề
đạo lý do những phát minh của họ gây ra.
Khoa học không đem đến sự minh
triết. Nó có thể tác động lên thế gian, nhưng chỉ những đức hạnh con người mới
hướng dẫn được cuộc sống của họ. Những đức hạnh chỉ có thể nảy sinh được từ một
khoa học tâm linh, mà tâm linh không phải là một món đồ xa xỉ, nhưng là thật sự
cần thiết. Trong vòng hai mươi năm trở lại đây, cuộc đối thoại giữa Phật giáo
và Khoa học theo sự gợi ý của đức Đạt Lai Lạt Ma và nhiều nhân vật Phật giáo
khác. Từ năm 1987 theo đề xướng của một nhà doanh nghiệp Adam Enfle và bác sĩ
chuyên khoa thần kinh sinh vật Francisco Varela nhiều cuộc hội thoại đã được
thường xuyên tổ chức giữa đức Đạt Lai Lạt Ma và nhiều nhà bác học nổi tiếng
(bác sĩ chuyên khoa thần kinh, sinh vật học, tâm lý học, vật lý và triết học).
Một người trong nhóm đã nói: “Một trong những đặc tính lạ lùng của những cuộc
hội thoại này là thái độ cởi mở nhưng hết sức nghiêm túc giữa những nhà khoa
học và các Phật tử, tất cả đều mong ước mở rộng tâm linh bằng cách học hỏi các
phương pháp và quan điểm của nhau. Từ những cuộc gặp gỡ được đặt tên là “Tâm và
cuộc sống”, nhiều quyển sách đã được viết. Vài quyển được dịch ra tiếng Pháp
như: “Những cây cầu nhỏ” (Passerelles), “Khi tâm đối thoại thân”, “Ngủ, Mơ và
Chết” cũng như những bài viết của Allan Wallace “Khoa học và Phật giáo”
Phật giáo nhấn mạnh tầm quan
trọng trong việc giải thích bản thể của tâm bằng thiền định. Trải qua nhiều thế
kỷ các Phật tử đã tìm ra cách tiếp cận thật nghiêm chỉnh việc tìm hiểu các
trạng thái tinh thần và bản thể rốt ráo của “tâm”. Tâm đứng đằng sau mọi hoạt
động trong đời sống, là cửa sổ giúp ta cảm nhận thế giới. Chỉ cần một thay đổi
nhỏ ở trung tâm thì thế gian này sẽ hoàn toàn đảo lộn. Dù những khám phá của
Phật giáo có sâu sắc đến đâu đi chăng nữa, chúng ta cũng nên luôn luôn nhớ rằng
giáo lý Phật giáo không hề có tính cách giáo điều. Nó gần như một bản đồ chỉ
đường để chúng ta đi theo người hướng dẫn. Phật giáo sẵn sàng sửa sai nếu biết
mình lầm lỗi. Không phải vì nó nghi ngờ tính chân thật của những khám phá hay
chờ đợi các khám phá đó được công khai nhìn nhận, nhưng vì chúng đã thật sự
được trải nghiệm. Trong việc đi tìm kiến thức, Phật giáo không trốn tránh sự
mâu thuẫn, trái lại còn nuôi dưỡng nó. Trong những cuộc hội thảo siêu hình mà
Phật giáo tham dự trải qua nhiều thế kỷ với các triết gia Ấn Độ cũng như với
giới khoa học và các tôn giáo khác, Phật giáo đã có cơ hội tu chỉnh, mở rộng
các quan điểm triết học, luân lý của mình trong việc tìm hiểu thế gian.
Nhưng thái độ cởi mở của Phật
giáo không phải là một thái độ cơ hội rẻ tiền. Những đóng góp lớn lao cho Triết
học, những thảo luận về thiền định sâu sắc, gợi cảm và việc thực hành thiền
định đòi hỏi một quyết tâm cao với một sự kiên nhẫn không gì lay chuyển được.
“Không nên hy vọng một sự thành tựu mau chóng, nhưng cứ tiếp tục thiền định đến
hơi thở cuối cùng”. Đó là lời của Tổ Milarepa. Sự chuyển hóa nội tâm dẫn đến
Giác Ngộ, thuộc về một lĩnh vực hoàn toàn khác hẳn với công việc tìm tòi triết
học hay khám phá khoa học.
Phật giáo cơ bản là một khoa học
của sự tỉnh thức. Những cuộc đối thoại sau đây không nhằm mục đích mang lại cho
khoa học một dáng vẻ thần bí hoặc bênh vực cho Phật giáo dựa vào các khám phá
khoa học. Thật ra là để đặt lại vị trí của Khoa học trong bối cảnh một quan điểm
rộng rãi hơn về đời sống tâm linh mà kinh nghiệm đóng một vai trò cốt yếu, cũng
là để nối kết cách nhìn các hiện tượng xuất hiện cũng như thực chất của chúng,
để có thể chỉ ra là Phật giáo có thể giải quyết được sự đối kháng giữa thực
tại, chủ trương rằng các hiện tượng là có thực và các khám phá vật lý đi ngược
lại cách nhìn này.
Cuộc đối thoại này cũng phản ánh
lại hai mảng đời: một là của nhà vật lý thiên văn Á Đông muốn đối chiếu những
kiến thức Khoa học của mình với các kiến thức triết học và hai là của một nhà
khoa học Tây phương trở thành một tu sĩ Phật giáo mà những kinh nghiệm cá nhân
đã đưa đến sự so sánh giữa hai cách tiếp cận thực tại.
Có ba nền văn hóa giao lưu của
Trịnh Xuân Thuận ở Việt, Pháp và Mỹ. Sinh tại Hà Nội năm 1948 giữa cuộc chiến tranh
thuộc địa, sáu năm trước thảm bại của quân đội Pháp ở Điện Biên Phủ, ông học ở
các trường Tiểu và Trung học Pháp tại Sài Gòn. Chịu ảnh hưởng của văn hóa Pháp,
năm 1966 ông quyết định sang Pháp để theo học ngành vật lý vì ông nghĩ sẽ tìm
ra câu trả lời cho ông về bản thể của thế giới. Nhưng bài diễn văn quan trọng
của Tướng De Gaulle kêu gọi quân đội Mỹ rút khỏi Đông Nam Á đã làm đảo lộn kế
hoạch của ông. Chính phủ Việt Nam
thời ấy cắt đứt quan hệ với Pháp nên người Việt không còn có thể sang Pháp du học.
Sau một năm ở Thụy Sĩ trong trường Đại học Bách khoa Lausaune, ông sang Mỹ và
được nhận vào Caltech (Đại học Kỹ thuật California) đỉnh cao của các nhà vật lý
thiên văn. Vào năm 1967, Trung tâm Caltech có viễn vọng kính Palomar lớn nhất
thế giới. Cũng tại đây, với sự hiện diện của Edwin Hubble, người ta đã khám phá
ra thiên hà và sự trương nở của vũ trụ.
Thời gian theo học của giáo sư
Thuận trùng hợp với việc khám phá nhiều hiện tượng mới về bầu trời. Chính giáo
sư cũng đã từng nói: “Ở giữa các khám phá rộn ràng ấy, tôi không thể không trở
thành nhà vật lý thiên văn được”. Từ đấy ông không ngừng quan sát vũ trụ và trở
thành một chuyên viên tầm cỡ trong việc giải thích sự hình thành các thiên hà.
Hiện nay, ông là giáo sư diễn giảng ở Đại học Virginia.
Còn tôi, tôi theo đuổi việc
nghiên cứu khoa học nhiều năm ở Viện Pasteur theo ngành di truyền tế bào của
Giáo sư Francois Jacob giải Nobel về y học. Năm 67 tôi đi Ấn Độ để gặp đạo sư
Kangyour Rinpotche và nhiều năm sau đó, cứ đến hè là tôi trở lại không khí vắng
lặng, nơi ẩn cư của thầy tôi ở Darjeeling. Tôi vẫn tiếp tục công việc nghiên
cứu khoa học.
Nhưng
đến năm 72, sau khi đã bảo vệ luận án tiến sĩ tôi quyết định sống ở Hi Mã Lạp
Sơn. Tôi đã sống ở Ấn Độ, ở Bhoutan và ở Nepal. Nơi đây, tôi sống cạnh người thầy
thứ hai của tôi Khyentse Rinpotche trong 12 năm. Tôi có dịp đi theo ông qua Tây
Tạng học nhiều lần. Hiện nay, tôi sống ở Tu viện Shéchèn gần Katmandou. Vào mùa
hè 1997, lần đầu tiên tại đại học Audorre, tôi đã gặp giáo sư Thuận và có cuộc
thảo luận sôi nỗi trong những lần đi dạo trong khung cảnh hùng vĩ của núi rừng
Piernées. Từ những cuộc trao đổi thân tình ấy, quyển sách này có dịp ra đời.