Chương
VII. Nhị Nguyên (Tâm và Vật)
Tâm là
gì? Và nó từ đâu đến? Hiện tượng khó xác định này phải chăng nó đến từ một diễn
trình tiến hóa, khi bộ não đã trở nên khá phức tạp? Phải chăng tâm chỉ là phản
ánh của những tiến trình vật lý? Ý niệm phân chia tâm và vật có nghĩa gì không?
Phật giáo giải quyết vấn đề này như thế nào? Nếu tâm xuất hiện từ vật vô tri,
nó có thể tác động gì lên vật? Ta có thể đưa ra lập luận nào để chứng minh có
một làn sóng tâm linh hoàn toàn độc lập với thân trong mọi trường hợp?
Thuận: Đa số các nhà sinh học nghĩ rằng
trong diễn trình tiến hóa, tâm xuất hiện khi mạng lưới các tế bào thần kinh đạt
đến một mức phát triển nào đó? Theo thuyết này thì tâm xuất hiện cũng như sự
sống từ vật chất vô tri. Phật giáo có chia sẻ quan điểm này không?
Matthieu: Phật giáo chấp nhận đa số
quan niệm của khoa học về lịch sử và tiến hóa của vũ trụ - trừ quan niệm về một
cuộc khởi đầu - nhưng Phật giáo có một tầm nhìn khác về bản thể của tâm. Theo
Phật giáo, tâm cũng giống như những hiện tượng mà chúng ta cảm nhận được, không
có tự tính. Cái tâm hằng ngày của chúng ta chỉ là một chức năng thuộc lĩnh vực
tương đối. Phật giáo phân biệt nhiều mức độ về cái tâm: thô, tế và vi tế. Tâm
thô thuộc về chức năng sinh hóa của bộ não. Tâm tế là cái tâm có khả năng tự
vấn và tự chủ, cũng như liên hệ đến những tình cảm và ham muốn trong quá khứ.
Tâm vi tế, nhà Phật gọi là Trí tuệ là cái tâm phát sáng hoàn toàn trong suốt và
không liên quan đến bất cứ một vật thể hay một vọng tưởng nào.
Bộ não, thân thể và cả môi
trường cung cấp những điều kiện và những trợ duyên để “tâm thô” hoạt động. Nếu
không có Thân và Bộ não, thì “tâm thô” và “tâm tế” không hoạt động được. Còn
“Tâm vi tế” hay “Trí tuệ” thì khác hẳn. Nó không bị ảnh hưởng của tinh thần,
cũng như môi trường. Nó siêu việt lên những vọng tưởng tiêu cực, cũng như tích
cực. Nó không bị ảnh hưởng bởi Vô minh hay Niết bàn. Người ta gọi nó là “Tâm
bản nguyên”, “Phật Tánh”, “Vô lượng quang”, “Bản thể tối thượng”, “Tỉnh thức”.
Cái Tâm Trí huệ này cũng có tính năng sáng tạo. Tuy thế, chúng ta chỉ nên xem
những tư tưởng của nó như bắt nguồn từ sự “Tỉnh thức”, còn nếu ngược lại, chúng
ta nhận định đó là tư tưởng thật, và riêng biệt của các loại tâm kia, thì chúng
ta lại rơi vào Nhị nguyên và Vô minh, như mặt trời tạm thời bị mây che lấp.
Thuận: Nhưng cái tâm trí huệ này từ đâu
đến? Có cần đến chăng một tia lửa để cho sự sống bắt đầu và cái tâm hoạt động
từ những vật vô tri?
Matthieu: Khái niệm về một tia lửa
làm nảy sinh vấn đề cái tâm có một khởi đầu. Nếu đúng như vậy, thì tia lửa này
phải đến từ hư không, hay từ Đấng sáng tạo. Và như chúng ta đã biết, Phật giáo
bác bỏ cả hai trường hợp này. Hoặc giả nó đến từ vật thể vô tri như các nhà
thần kinh sinh học, hay vật lý học đã nghĩ. Trong số này Brian Green đã viết:
“Tôi nghĩ rằng tâm là phản ánh của những tiến trình vật lý vi mô rất phức tạp,
và diễn tiến thật nhanh chóng. Dù rằng các đặc tính của tâm khác hẳn những
thành phần vật chất cấu tạo ra nó, tôi vẫn nghĩ những thành phần này đứng đằng
sau nó”. Phật giáo chủ trương rằng Nhân và Quả cần phải có cùng một chất liệu,
nhưng nếu Nhân chỉ là một trợ duyên, thì Nhân và Quả có thể có chất liệu khác
nhau. Nếu một vật có từ một vật khác hoàn toàn khác hẳn nó, như vậy mọi thứ đều
có thể sinh ra từ bất cứ một cái gì. Vì vậy mà trí huệ không thể sinh ra từ vật
thể vô tri được và không nhất thiết trong mọi trường hợp, phải tùy thuộc vào
một chất liệu vật lý.
Đức Đạt Lai Lạt Ma đã giải thích
vấn đề như sau: “Rõ ràng là cái “Tâm thô” tùy thuộc vào chức năng bộ não, ở đây
liên hệ nhân quả rất minh bạch. Nhưng đây là câu hỏi làm tôi luôn thắc mắc.
Phật giáo cho rằng có hai loại nhân. Loại thứ nhất là loại có chất liệu vật
chất, với loại này thì quả cũng có cùng chất liệu. Loại thứ hai chỉ là yếu tố
trợ duyên thôi, thì quả có thể khác nhân. Vậy thì nguyên nhân đầu tiên từ cái
tâm, và sự liên hệ của nó như thế nào với chức năng của não? Về phương diện
thực nghiệm, có hai loại hiện tượng khác nhau: vật chất và tinh thần. Hiện
tượng vật chất có vị trí trong không gian có thể đo đạc được, ngược lại các
hiện tượng tinh thần không nằm trong không gian, và cũng không đo đạc. Như vậy
là hai hiện tượng rất khác nhau. Trong trường hợp đó, nếu một hiện tượng vật lý
có thể tác động lên một hiện tượng tinh thần thì e rằng có điều gì đó không phù
hợp.
Sự giải thích của Đức Đạt Lai
Lạt Ma có thể được minh họa bằng một hình ảnh: cái hạt là chất liệu của mầm,
trong khi mặt trời và sự ẩm ướt chỉ là trợ duyên. Lập luận duy vật nhất nguyên
cho rằng con người chỉ là một gói tế bào thần kinh và cái tâm chỉ là kết quả
của những luồng điện đi ngang qua mạng lưới thần kinh. Bác sĩ Cabanis thế kỷ
thứ XVIII nói rằng: “Bộ não tạo ra tư tưởng như lá gan tạo ra chất mật”. Một vài
nhà sinh học thần kinh thì cho rằng do tác động hỗ tương của thân và môi trường
chung quanh, nên cái tâm mới nảy sinh. Không chấp nhận lập trường này, vậy Phật
giáo có đi theo thuyết Nhị Nguyên của Descartes cho rằng có hai thành phần
riêng biệt là Tâm và Vật không? Theo Descartes, cái Tâm không thể định vị trong
không gian và không thể chia chẻ được. Ngược lại vật chất không có Tâm, nhưng
có kích thước vì thế có thể chia chẻ được. Như vậy con người có hai bản thể: nó
biết suy tư và cái suy tư ấy phải nhờ cái thân mới thể hiện được.
Matthieu: Quan niệm Phật giáo hoàn
toàn khác hẳn thuyết Nhị nguyên của Descartes. Phật giáo cho rằng “Tâm và Vật”
chỉ khác nhau trên quy ước vì trong bản thể chúng là một và không có tự tính.
Nếu cái tâm có tự tính, nó không thể tự soi rọi được cũng như một con dao không
thể tự cắt được. Khi chúng ta biết rằng ta đang nghĩ đến một bông hoa, cái tâm
của ta không thể tự biết, mà ta biết nhờ vào hình ảnh hiện ra trong tâm. Nhưng
trong trường hợp trí huệ mà ta gọi là cái tâm Vô lượng quang có khả năng tự
biết, siêu việt lên nhị nguyên Người -Vật. Một trong những đặc tính của trí tuệ
là luôn luôn tỉnh thức, không nhị nguyên, biểu hiện bằng cái nhận thức tức thì,
mà không cần đến tư tưởng. Thuyết Nhị nguyên của Descartes trong đó thiếu mất
quan niệm tương thuộc, bị sai lệch vì cái quan niệm chia đôi Tâm và Vật. Vì
riêng rẽ, nên Tâm và Vật không thể tiếp xúc với nhau vì cả hai không cùng có
điểm chung nào cả.
Thuận: Theo Descartes, điểm chung đó
nằm ở tuyến tùng trên bộ não. Do trung gian cái tuyến này, tâm phản ứng lại
những tình cảm xuất phát từ thân, mà vẫn giữ nguyên cái khả năng thoát ra được
các xung động tiêu cực như ham muốn, hận thù. Còn về Thân thì Descartes quan
niệm như một cỗ máy hoàn hảo chịu sự điều khiển của các luật vật lý. Ý tưởng
tuyến tùng là chỗ dựa của “Tâm” đã bị bác bỏ từ lâu. Nhưng vấn đề cơ bản của
thuyết nhị nguyên Descartes là bản thể của tâm và liên hệ giữa Tâm và Thân chưa
được hoàn toàn giải quyết. Dù lượng tử có thể cho phép nghĩ đến một cái tâm phi
vật chất tác động lên thế giới vật chất, nhưng hiện nay nếu cho rằng một thực
thể phi vật chất lại có thể thay đổi động ứng của hệ thống vật chất, không thể
phù hợp với nguyên tắc bảo tồn năng lượng (không có gì sinh ra cũng không có gì
mất đi) một trong những nguyên tắc thiêng liêng của ngành vật lý học.
Matthieu: Lý do tại sao thuyết Nhị
nguyên không tồn tại được vì lẽ Tâm và Vật đều không có tự tính và cả hai đều
thuộc về một - Nhứt nguyên.
Vật lý học cho rằng khối lượng
tương đương với năng lượng, còn Phật giáo thì cho rằng hư không là hình tướng,
và hình tướng là không. Sự trái ngược giữa Tâm và Vật mất đi ý nghĩa về bản thể
và dù có những sự khác biệt về đặc tính giữa cái động và cái không động, sự tác
động hỗ tương giữa hiện tượng bên ngoài và tâm thức vẫn có thể xảy ra. Khi
người ta hiểu rằng sự tương quan giữa Tâm và Vật chỉ có tính cách giao tiếp chứ
không phải chất liệu thì Tâm và Vật không còn là vấn đề. Điểm giao tiếp có là
do có sự tương thuộc, vì những cái gì cộng sinh đều tác động lẫn nhau.
Thuận: Nói tóm lại Phật giáo cho rằng
sự phân chia tinh thần và vật chất chỉ là giả tạo. Rốt lại chỉ có một thực tại
duy nhất.
Matthieu: Hay nói đúng hơn chỉ là
một dạng không thực tại. Và như thế sự phân chia hai Tâm và Vật chỉ biểu hiện
sự dính mắc vào sự chắc thật của sự thật, và như vậy chỉ là một ý niệm.
Thuận: Thuyết nhị nguyên của Descartes
còn dựa vào ảo tưởng là thế giới bên ngoài không có một chất liệu chủ quan.
Nhưng như chúng ta đã biết, cơ học lượng tử đã chỉ ra rằng người quan sát có dự
phần vào tiến trình tương thuộc, từ đó nảy sinh ra hiện tượng. Khi bạn nói về
sự bổ sung giữa bộ não và tâm, tôi lại nghĩ đến nguyên lý thời danh của
Nielsbohr. Theo tôi, “tâm” bổ sung cho “vật”, cũng như “hạt” bổ sung cho
“sóng”.
Matthieu: Ngoài sự phân hai giữa Ta
và Người không cho phép chúng ta có cái nhìn chân xác về thực tại. Chính ta
tưởng tượng ra cái hố ngăn cách giữa trong và ngoài, tâm và vật, ta và người
làm nảy sinh ra ý niệm về Ngã. Vì “ngã” chỉ là một giả tưởng nên ta khó lòng
chiều theo mọi đòi hỏi của nó. Nếu làm theo nó, ta sẽ đi ngược lại thực tại.
Chandrakerti đã viết ra những dòng sau:
“Đầu tiên, chúng ta nghĩ ra cái
“ngã” và chúng ta dính mắc vào nó.
Sau đó, chúng ta nghĩ ra cái
“của tôi” và chúng ta dính mắc vào thế giới vào vật chất.
Giống như nước bị bánh xe của
cối xay cuốn đi, chúng ta bất lực và cũng bị cuốn theo
Và tôi chỉ còn biết quỳ lạy Đức
Từ Bi đã ôm lấy muôn loài”.
Thuận: Sự phân chia không thật giữa Ta
và Người đã được các vật lý gia khai sáng ra cơ học lượng tử chú ý, như
Schrodinger đã viết: “Chủ thể và khách thể chỉ là Một. Người ta không thể nói
rằng cái rào chắn ngăn đôi hai phía bị vỡ bởi thực nghiệm, vì lẽ cái rào chắn
ấy không hề có”. Khoa học mới về sự phức tạp, cho phép tiếp cận dễ dàng hơn vấn
đề “động và bất động”. Theo cái nhìn mới này, tâm xuất hiện khi mạng lưới các
tế bào thần kinh trong bộ não đạt đến một mức độ phức tạp nào đó. Như vậy,
không cần đến một làn sóng tâm thức để giải thích sự biến thái từ bất động đến
động. Quan điểm này dựa trên sự quan sát vài hệ thống vật lý hay hóa học gọi là
“hệ thống mở” có nghĩa là tác động hỗ tương với môi trường. Sự tác động này tạo
nên những khúc quanh khiến cho những hệ thống nói trên đột nhiên rơi vào những
trạng thái có tổ chức hơn. Lấy ví dụ ban đầu đồng thể và không có cấu trúc, khi
nước sôi lên, nó sẽ trở nên có tổ chức và ổn định. Nhiều nhà sinh học cho rằng
sự tiến hóa đã diễn tiến y như vậy, đi từ khúc quanh này đến khúc quanh khác,
tự tổ chức lấy từng bước một và rồi tiến đến từ bất động đến động. Những động
lực đã tạo nên những khúc quanh trên đều do tác động của môi trường đã làm cho
trái đất mất đi sự quân bình của nó, ví dụ như những thay đổi về thời tiết và
về mức độ Oxy trong không khí. Không có một yếu tố phụ nào là cần thiết trái
với những “thuyết sinh khí” của Henri Bergson cho rằng có một luồng sinh khí đã
thúc đẩy các hệ thống sinh học tổ chức và sáng tạo.
Một trong những phát minh lạ
lùng nhất của sự phức tạp là có những điều kiện mất quân bình làm nảy sinh ra
sự tổ chức: Có nhiều lý do để chấp nhận quan điểm trên đây về sự xuất hiện của
tâm. Trước tiên, những sinh vật là những “hệ thống mở” tốt. Đời sống không thể
riêng lẻ được. Nó phải luôn luôn trao đổi năng lượng với môi trường, hoặc để
nuôi sống hoặc để thải ra những chất không cần thiết. Mặt khác luôn có những
yếu tố thay đổi, trong cũng như ngoài làm mất đi sự quân bình của bầu khí
quyển. Những thay đổi này có thể lần hồi, hay đột nhiên. Sự tăng trưởng dần dần
của lượng Oxy trong không khí do các cây cối quang hợp, là một ví dụ khác về sự
thay đổi đột ngột là những vụ nổ trên mặt trời làm bắn ra những hạt bụi năng
lượng, rơi xuống trái đất, hay như sự va chạm của một thiên thể khổng lồ với
địa cầu cách đây 65 triệu năm đã làm như chúng ta biết, tuyệt chủng loài khủng
long và ¾ những loại động vật và thực vật thời đó. Theo thuyết nói trên những
thay đổi không phải dần dần mà từng chập, mỗi khi những ngưỡng được cho phép bị
vượt qua. Những nghiên cứu về cổ sinh vật học gần đây có vẻ ủng hộ thuyết này
hơn là thuyết của Darwin,
theo đó sự tiến hóa diễn ra liên tục, người ta sẽ tìm thấy những hóa thạch
tượng trưng cho mọi hình thái trung gian giữa các nhóm lớn sinh vật. Nhưng sự
việc không phải như vậy. Theo các nhà sinh học như những người Mỹ Stephen Jay
Gould và Niles Eldredge, sự tiến hóa sinh học diễn tiến theo từng giai đoạn
nhất định. Các loại sinh vật không thay đổi trong một thời gian dài, sau đó
trong một thời gian ngắn chúng thay đổi sâu sắc. Giống như những bước nhảy
lượng tử trong vật lý nguyên tử, sự tiến hóa diễn tiến theo từng bước một. Và
người ta có thể tưởng tượng ra là trong lúc xảy ra một trong các bước ấy, tia
lửa của sự sống và của tâm thức xuất hiện.
Matthieu: Nếu diễn trình xuất hiện
đời sống tâm thức cho phép một sự giao lưu giữa cái động và cái bất động, và
người ta có thể nghĩ đến một mối dây nhân quả theo chiều đi lên, và một mối dây
nhân quả theo chiều đi xuống. Từ đó ta có thể chấp nhận cái nhìn Phật giáo về
giao điểm giữa Tâm và Vật. Nhân quả đi lên cho phép Thân ảnh hưởng đến Tâm và
Nhân quả đi xuống thì Tâm ảnh hưởng đến Thân (người ta có thể đưa ra ví dụ sự
biểu hiện của một vài gene trong cơ thể một đứa bé bị xóa đi vì sự thiếu tình
thương của cha mẹ). Khi Tâm ảnh hưởng đến Thân thì nó tạo ra cho mỗi người một
cái nhìn thế gian tùy theo nghiệp chướng của người đó trong quá khứ. Cái nhìn đó
có thể có những điểm chung do “cộng nghiệp” và những điểm riêng tùy thuộc vào
hành động của nó trong thế giới mà nó đang sống, và đó là “biệt nghiệp”.
Thuận: Đúng là Nhân quả có thể tác động
theo hai chiều. Theo chiều đi xuống nó cho phép các tầng lớp trên tác động lên
các tầng lớp dưới. Vì thế Tâm ảnh hưởng lên Thân. Tuy nhiên cái “Tâm cá nhân”
không phải là đỉnh cao trong cuộc sống mà chính là cái Tâm cộng đồng, cái nôi
của văn hóa và tôn giáo. Đó là cái mà người ta thường gọi là “lịch sử văn hóa
xã hội” đã tạo nên những tác phẩm văn chương nghệ thuật, khoa học và những định
chế xã hội và chính trị. Cũng theo chiều đi xuống một sự thay đổi chính phủ kèm
theo một chính sách mới về kinh tế và xã hội mới có thể ảnh hưởng đến tinh thần
quần chúng.
Matthieu: Tôi xin nhắc lại là Phật
giáo phân biệt nhiều tầng lớp tâm thức. Theo quan điểm này vật chất tạo điều
kiện cho “Tâm thô” hoạt động, nhưng nguyên nhân đầu tiên của cái tâm thô này
chỉ có thể là một làn sóng tâm thức, và cả làn sóng tâm thức này cũng được tạo
nên bởi những đợt sóng tâm thức kế tiếp nhưng không có khởi đầu.
Thuận: Phật giáo giải thích ra sao về
sự chuyển tiếp giữa Tâm và Vật?
Matthieu: Năm thành phần bên ngoài
là đất, nước, gió, lửa và không gian liên hệ với năm thành phần trong thân là
xương và thịt-máu và dịch-hơi nóng-không khí và các khoảng trống. Năm thành
phần này liên kết với năm năng lực giống như một con ngựa và anh nài ngựa. Năm
năng lực này xuất xứ từ năm thể sáng của tâm thức tượng trưng bởi năm màu:
vàng, trắng, đỏ, xanh lá cây và xanh dương. Năm thể sáng này là năm thức của
trí tuệ. Năm thức này sẽ hiển hiện khi hai bức màn che dấu trí tuệ biến mất đi.
Đó là bức màn của những tình cảm tiêu cực, và bức màn che dấu bản thể tối hậu
của các hiện tượng.
Thuận: Nếu tôi hiểu đúng, thì Phật giáo
vì muốn tránh sự gián đoạn giữa bất động và động nên chủ trương có một làn sóng
tâm thức có nhiều chỗ dựa vật chất khác nhau.
Matthieu: Mỗi chỗ dựa vật chất được
gọi là dấu ấn vật chất của Tâm để dùng từ của Francisco Varela. Nhưng không
nhất thiết là cái Tâm luôn luôn cần đến cái Thân để biểu hiện. Đôi khi, trong
một giây phút nào đó Tâm có thể trải nghiệm một thế giới không hình tướng, cũng
không có nhận thức các hiện tượng. Hiện tượng này giống như trạng thái giữa sự
sống và cái chết mà Tử thư Tây Tạng gọi là Thân trung ấm trong đó có sự nhận
thức về hình tướng và tinh thần, nhưng không có vật chất. Điều này các nhà sinh
vật học không thể chấp nhận được, và là sự khác biệt giữa Phật giáo và các môn
vạn vật học.
Thuận: Cứ cho là cái Tâm không cần đến
một chỗ dựa vật chất, vậy liên hệ giữa Tâm và Thân như thế nào?
Matthieu: Liên hệ đó là do tất cả
thuộc về Nhất nguyên. Dù không có chỗ dựa vật chất, cái Tâm cũng không rời xa
các hiện tượng.
Thuận: Phật giáo dựa vào lập luận nào
để chủ trương như vậy?
Matthieu: Có hai loại lập luận. Đầu
tiên là những nhân chứng đã trải nghiệm qua thử thách giữa sống và chết tức
trạng thái “Thân trung ấm”. Ở Tây phương những trải nghiệm về đến gần biên giới
cái chết đã được biết đến rất nhiều. Đây là những chứng nhân đã chết lâm sàng
một thời gian ngắn hay dài, sau đó được hồi sinh. Họ diễn tả những trạng thái
an lạc vô biên, tình yêu nhân loại, một cuộc hành trình đi từ một đường hầm tối
đen đến một vùng ánh sáng rực rỡ cho đến một điểm không thể quay trở lại, nơi
đó họ phải chọn lựa hoặc tiếp tục cuộc hành trình, hoặc quay trở lại cuộc sống.
Tất cả những chứng nhân đều cho biết rất ngần ngại khi trở lại tấm thân vật
chất. Đôi khi họ trải nghiệm những cảnh tượng thật rùng rợn như được diễn tả ở
địa ngục. Tất cả bọn họ khi trở về với cuộc sống, đã thay đổi rất nhiều và sống
tốt hơn trong quãng đời còn lại.
Dù các hiện tượng trên có giá
trị nói về “Bên bờ cái chết”. Điều làm tôi ngạc nhiên là sự khá giống nhau, qua
những lời kể lại, về trạng thái giữa sống và chết: một cảm giác bình yên sâu
xa, lòng từ bi, ánh sáng rực rỡ… Một việc lạ lùng khác là các bệnh nhân khi
tỉnh lại, đã kể lại những sự kiện đã xảy ra trong phòng bệnh trong khi họ đã kể
như chết lâm sàng.
Matthieu: Loại lập luận thứ hai là
dựa vào sự nhớ lại các tiền kiếp. Chứng cớ thì rất nhiều nhưng vì không được
kiểm nghiệm chặt chẽ bởi các nhà khoa học nên chúng không được chấp nhận. Tuy
nhiên có vài trường hợp ngoại lệ hoàn toàn không có tính cách lừa dối hay ngẫu
nhiên. Đó là trường hợp của Shanti Devi.
Shanti Devi sinh ở Ấn Độ, tại Delhi năm 1926. Lúc lên
bốn tuổi cô đã kể cho cha mẹ cô nghe nhiều điều lạ lùng. Cô bảo rằng nhà thật
của cô là ở thành phố Mathura,
nơi cô sống với chồng. Ban đầu cứ tưởng là cô đùa dần dần cha mẹ cô bắt đầu lo
lắng về trạng thái tinh thần của cô. Tuy nhiên Shanti Devi rất thông minh và
rất dễ thương. Trong vòng hai năm cô tiếp tục câu chuyện của cô và làm cho cha
mẹ cô khó chịu. Khi sáu tuổi, cô trốn nhà và cô đi bộ, nhưng không thành công
vì Mathura cách Delhi 150 cây số. Một hôm, cô kể cho cô bạn
gái nghe cô không phải tên Shanti Devi mà là Lugdi Devi, rằng cô đã có chồng
thậm chí có một đứa con mà cô không nuôi dưỡng được, vì cô qua đời 10 ngày sau
khi sinh nở. Cả trường chế nhạo cô và cô phải bỏ chạy. Thất vọng cô đi lang
thang và đến một ngôi đền. Ở đó cô gặp người đàn bà an ủi cô, và cô đã kể hết
cho người ấy nghe câu chuyện của cô. Trong khi ấy cả nhà cô hoảng hốt lên, và
ông bố đã đi tìm và gặp lại cô. Tuy vậy hai năm kế tiếp không có việc gì xảy
ra. Sau cùng, vì tò mò thầy giáo của cô và ông hiệu trưởng đã đến nhà cô thăm
cha mẹ cô để tìm hiểu sự thật. Họ đã hỏi chuyện cô bé thật lâu, và cô bé trả
lời thật chững chạc. Cô diễn tả đời sống của cô ở Mathura với chồng là một nhà buôn, và xác
nhận cô có thể nhìn ra các người thân và các người xưa cũ. Trong câu chuyện, cô
luôn dùng những từ ngữ ở Mathura
mà ở nhà cô, cũng như ở trường không ai nói. Các giáo sư nài nỉ cô cho biết tên
của chồng cô. Hổ thẹn, Shanti Devi che mặt nói thầm: “Kedar Nath”. Mặc cho
những lo ngại của bố mẹ Shanti Devi, ông hiệu trưởng cho người đi tìm hiểu ở Mathura và họ đã tìm thấy
một thương gia có tên là Kedar Nath. Ông hiệu trưởng đã viết thư cho ông này.
Vài tuần sau, ông nhận được thư trả lời.
Rất ngạc nhiên, ông Nath xác
nhận là 9 năm về trước vợ ông đã chết sau khi đã sinh hạ một đứa con trai. Ông
ta cũng muốn biết thêm, nhưng hãy còn ngờ vực nên bắt đầu gửi một người anh chú
bác đến Delhi.
Cô bé nhận ra ngay lập tức người đàn ông mà em chưa hề gặp, tiếp đón ông ta
nồng nhiệt, bảo ông ta béo ra, rất buồn vì thấy ông ta vẫn còn độc thân, và đã
hỏi ông ta rất nhiều điều. Ông ta xuất hạn dầm dề và cũng biết bắt đầu hỏi thăm
cô bé, nhưng sau đó van xin cô che dấu việc khi chồng cô vắng nhà, ông ta đã
tán tỉnh cô. Sau cùng ông ta kêu lên: “Lugdi Devi, người đàn bà tuyệt diệu và
thánh thiện nhất trên đời”.
Sau đó cô bé hỏi thăm về con
trai cô. Khi người anh kể chuyện lại, Kedar Nath gần như ngất đi. Ông ta quyết
định đi Dehi với con trai và cả cậu em mà ông ta muốn mượn tên để thử cô bé.
Nhưng vô ích, vì khi ông ta vừa muốn khai tên ông em, thì cô bé đã kêu lên:
“Không, anh không phải là em chồng tôi, mà chính là chồng tôi, Kedar Nath”. Và
cô ta ôm chầm lấy ông và khóc nức nở. Và khi cậu bé gần bằng tuổi cô bước vào
phòng, cô ôm chầm lấy như mẹ ôm con. Tất cả những người có mặt đều sững sờ.
Cuộc nói chuyện kéo dài với nhiều chi tiết chính xác về quá khứ. Cô bé nói sẵn
sàng tha thứ cho Kedar Nath vì đã không tôn trọng lời hứa không lấy vợ mới.
Kedar Nath ở lại Delhi nhiều ngày và sau khi trở
về Mathura, ông
ta tin chắc là Shanti Devi là hiện thân của vợ cũ của ông. Tiếng đồn vang xa
đến nỗi thánh Gandhi đến tận nơi để thăm cô bé vì ông thấy đây là một trường
hợp thú vị. Gandhi nói với cô bé: “Ông muốn biết thêm nhiều nữa khi con đến Mathura. Điều mà con cần
là sự thật, và không bao giờ tránh xa sự thật”. Ông gửi cô bé cùng cha mẹ cùng
với ba vị bô lão đáng kính, nhiều luật sư, ký giả, thương gia có uy tín. Ngày
15 tháng 11 năm 1935 phái đoàn đến ga Mathura.
Một đám đông người tụ tập chờ đợi. Lập tức, cô bé nhận ra ngay những người thân
cũ. Cô chạy đến ông lão và kêu lên: “Ông ơi” và hỏi thăm về vật thiêng mà ông
cất giữ. Ông lão rất đổi ngạc nhiên vì chính Lugdi Devi đã giao nó cho ông. Sau
đó cô dẫn phái đoàn đến chính nhà cũ của cô và gặp lại bà con họ hàng cũ. Tất cả
đều hết sức ngạc nhiên. Cha mẹ cô lo sợ rằng cô bé sẽ ở lại Mathura,
nhưng tuy rất đau lòng, cô vẫn trở lại Delhi
cùng với cha mẹ. Cô cũng không trách móc chồng cũ lấy đi 140 rupi mà chỉ hai
người biết chỗ giấu mà không trao lại cho con. Ủy ban điều tra làm việc rất chu
đáo và sau khi xem xét các sự kiện đã kết luận là Shanti Devi chính là Lugdi
Devi tái sinh. Shanti Devi sau đó sống rất đơn giản, độc thân vì cô đã hứa với
chồng là sẽ không lấy chồng kiếp sau. Cô không thể lợi dụng sự nổi danh của cô
và sau khi học văn và triết cô dành cuộc đời cho cầu nguyện và thiền định: Cuối
những năm 50, cô đồng ý thuật lại cuộc đời của cô.
Thuận: Đúng là một câu chuyện đáng ngạc
nhiên và cảm động.
Matthieu: Trường hợp này tuy ngoại
lệ, nhưng không cá biệt: Giáo sư Ian Stevenson ở Đại học Virginia đã nghiên cứu hàng trăm trường hợp
cho rằng nhớ lại được tiền kiếp. Giáo sư chỉ giữ lại 20 trường hợp mà theo ông,
không thể giải thích khác hơn là có một ký ức siêu việt. Cả hai mươi trường hợp
này đều là những trẻ em bình thường.
Thuận: Ông Stevenson dạy trong cùng một
đại học với tôi và tôi có dịp nói chuyện với ông ấy về tiền kiếp. Ông ta nhìn
nhận rằng việc nghiên cứu hết sức khó khăn, đa phần là lường gạt. Tuy nhiên,
nếu có thể nhớ lại tiền kiếp, tại sao chỉ có một số ít người được cái may mắn
đó.
Matthieu: Khi người ta thức giấc
giữa đêm hoặc sau khi bị đánh thuốc mê, hoặc sau một cơn ngất, người ta bị chìm
trong một sự hỗn loạn tinh thần một thời gian và người ta không biết mình đang
ở đâu. Sự mờ mịt tạm thời của tinh thần do những chấn thương nho nhỏ đó, có
nhiều nét giống nhau với sự chết tuy không có cùng cường độ. Do đó người ta
hiểu rằng khi chết, sự tổn thương sẽ nặng hơn và sự quên đi sâu xa hơn. Tuy
nhiên, khi cái chết đến trong khi tinh thần thật sáng suốt, hoặc giả khi chết
trẻ. Đôi khi những kỷ niệm cũ lại tái xuất hiện trong đời sống mới. Điều này
thường xảy ra khi còn bé thơ, vì khi lớn lên những dấu ấn thời gian làm mờ nhạt
đi những kỷ niệm xưa cũ. Sự mờ mịt do cái chết đem lại sẽ ít đi với những người
đã đạt đến một trình độ định tâm tiến bộ, và biết cách vượt qua Thân trung ấm
một cách sáng suốt. Vì thế, ở Tây Tạng những trường hợp nhớ lại tiền kiếp nhiều
hơn ở các trẻ em hóa thân của những vị tiên hiền đã khuất.
Thuận: Sự giải thích này phù hợp với
trường hợp những cuộc tái sinh các Đức Đạt Lai Lạt Ma đã chọn sau những người
kế vị. Nó không áp dụng cho trường hợp của Stevenson, vì không có một em bé nào
trước đó là một vị hiền triết. Trong quyển “Đạo sư và triết gia”, bạn đã kể ra
trường hợp tái sinh của thầy bạn, Khyentsé Rinoptché.
Matthieu: Tôi chọn trường hợp ông
ấy để kể lại vì tôi được chứng kiến tận mắt. Tôi xin nhắc lại một sự kiện: một
đạo sư Tây Tạng nhận biết hóa thân của Khyentsé Rinpotché qua các hình ảnh và
giấc mộng, nên ông ta quyết định tổ chức một lễ mừng thọ vị hóa thân. Khoảng
100 đệ tử của Khyentsé Rinpotché tụ họp ở một nơi linh thiêng về phía đông Nepal.
Ngày cuối cùng, có một nghi lễ đặc biệt trong đó người chủ lễ sẽ phân phát cho
những người tham dự một ít nước thánh. Tuy nhiên, cậu bé quyết định sẽ tự mình
phân phát lấy, nên nhớ là cậu mới hai tuổi rưỡi. Rất tự nhiên, cậu gọi bà mẹ
đến và cho bà một giọt, xong cậu lại gọi cháu của Khyentsé Rinpotché và khoảng
hai chục người khác. Sau khi đã ban phúc cho những người ở gần, một tu sĩ đã hỏi
cậu: “Thế nào, đã hết rồi chứ ạ?”. Cậu bé trả lời: “chưa”, và lấy tay chỉ vào
một người trong đám đông. Giữa khoảng một trăm người có một nhóm người đến từ
Bhoutan sau ba ngày đi bộ, trong ấy có viên đầy tới già của Khyentsé Rinpotché.
Một tu sĩ khác chỉ người này, người nọ cho đến khi gặp viên đầy tớ già thì cậu
kêu lên: “Đúng, ông ấy!”. Người đầy tớ già bật khóc, trong khi cậu bé ban phúc
lành cho ông ta. Đối với tôi, sự kiện này có tầm quan trọng đặc biệt vì chính
tôi chứng kiến tận mắt. Từ đó cậu bé lại nhận ra những người thân thuộc khác
của Khyentsé Rinpotché. Đức Đạt Lai Lạt Ma mà ai cũng kính trọng vì sự đơn giản
khiêm tốn nói rằng ngài không còn nhớ các tiền kiếp, tuy nhiên khi lần đầu tiên
vào phòng của vị Lạt Ma thứ mười ba tiền nhiệm, ngài đã chỉ vào ngăn một ngăn
tủ đầu giường và yêu cầu đưa bộ răng giả của Đức ngài. Đúng là trong ngăn kéo
có bộ răng giả của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười ba. Những ví dụ đại loại như thế
thì không hiếm ở Tây Tạng, vào những nơi chốn và thời kỳ khác nhau, và người ta
không thể nghĩ đến một sự ngẫu nhiên hay lường gạt.
Một lý thuyết có thể hoàn toàn
vô giá trị vì chỉ một trường hợp ngoại lệ. Ví dụ như lý thuyết cho rằng tất cả
các con thiên nga đều trắng dựa trên sự quan sát hằng ngàn con thiên nga tuy
rằng điều này không có một giá trị tuyệt đối. Lý thuyết này sụp đổ với sự xuất
hiện của chỉ một con thiên nga đen. Nếu người ta muốn phủ nhận sự tái sinh,
không những cần phải chối bỏ những bằng cớ có được, mà còn phải chứng minh sự
bất khả của việc tái sinh. Ý niệm người ta có thể tái sinh qua nhiều kiếp rất
xa lạ với Tây phương, và chỉ cần nêu lên những trường hợp kể trên là người ta
bực tức bác bỏ. Riêng cá nhân tôi, tôi không có ý áp đặt những sự kiện mà tôi
chứng kiến, tôi chỉ muốn vấn đề được cứu xét một cách chính chắn và ít thành
kiến hơn.
Thuận: Yếu tố văn hóa giải thích tại
sao việc nhớ lại những tiền kiếp xảy ra ở những nơi mà người ta tin là có sự
tái sinh. Nếu những sự kiện đó xảy ra ở Tây phương chúng sẽ bị xem như là trò
trẻ con, hoặc giả là những biểu hiện bịnh tâm thần. Tôi rất đồng ý là vấn đề
cần được nghiên cứu thấu đáo hơn, một cách khoa học. Tôi phải nói rằng một sự
nhớ lại tiền kiếp sẽ giúp chúng ta sống tốt hơn trong đời hiện tại. Chúng ta sẽ
có nhiều lợi ích về những kinh nghiệm trong các đời quá khứ, để phát triển hài
hòa hơn. Và việc nhận thức thiện và ác sẽ tinh tế hơn.
Matthieu: Và đó cũng là một trong
những mục tiêu của cuộc chuyển hóa nội tâm. Nếu chúng ta đạt được một sự trưởng
thành tâm linh nào đó trong đời sống hiện nay. Dù rằng chúng ta không biết chút
gì về đời sống sau này, chúng ta sẽ không đi từ số không mà chúng ta sẽ hoàn
thiện dễ dàng hơn việc chuyển hóa nội tâm của chúng ta.
Thuận: Việc có những tiền kiếp có thể
giải thích được những thiên tài chớm nở như Mozart. Trực giác vĩ đại của
Einstein phải chăng đã chín mùi qua nhiều cuộc sống? Và phải chăng mọi trực
giác đều bắt nguồn bằng hồi ức những sự kiện trước đó. Điều này cũng giải thích
được cảm giác đã biết được một nơi chốn, hoặc một người nào đó mà chúng ta chưa
hề thấy hoặc gặp bao giờ. Ngoài ra, Phật giáo đã nói rằng những người có quan
hệ mật thiết, tốt hay xấu, với chúng ta trong đời sống này đều đã có nhân duyên
với chúng ta trong những tiền kiếp trước? Phải chăng nghiệp của họ ràng buộc
nghiệp của chúng ta?
Matthieu: Theo Phật giáo, mọi chúng
sinh đều có liên hệ với chúng ta vào một thời điểm nào đó không có khởi đầu. Họ
có thể là cha là mẹ, là bạn hay là thù. Chắc chắn rằng có những người ràng buộc
chúng ta lâu dài từ đời này sang đời khác.
Thuận: Phật giáo có quan niệm một tâm
thức chung cho cả nhân loại không?
Matthieu: Phật giáo không hề quan
niệm một tâm thức chung cho tất cả chúng sinh, nhưng là những đợt sóng tâm thức
cá nhân đi từ đời này sang đời khác. Những đợt sóng này có thể so sánh với
những sóng nước của biển cả. Khi ta nhìn một làn sóng biển ở ngoài xa, ta có
thể tưởng tượng ra những khối nước lớn di chuyển. Thật ra không phải vậy. Những
hạt nước vẽ nên những vòng tròn khi sóng đi qua, nhưng không đi theo sóng vào
bờ.
Thuận: Vì thế nên một cái chai ở ngoài
khơi không phải bị sóng biển cuốn đi, nó chỉ đi từ dưới đáy đến ngọn của làn
sóng. Làn sóng đi qua, mà không mang theo gì cả.
Matthieu: Sự di chuyển tâm thức từ
thể này sang thể khác cũng giống như sự chuyển di kiến thức. Trong khi nghe
giảng rõ ràng là có một kiến thức được chuyển đi, nhưng kiến thức ấy không phải
là một vật thể. Một ví dụ khác là việc đổ khuôn. Người ta tạo một hình thể khác
mà không thay đổi chất liệu.
Những trạng thái khác nhau mà
tâm thức tạo ra - cũng cần nói rõ là những từ luân hồi, tái sinh chỉ là sự
phỏng chừng - gần giống như một dòng nước trong đó có sự tiếp nối các chức
năng, các thông tin mà không có một chất liệu vật lý nào rõ rệt. Sự hình thành
một con người tùy thuộc vào sự thay đổi của dòng nước ấy. Tùy theo hành động và
tư tưởng của chúng ta, chúng ta sẽ lại có những tâm thức tương ứng. Một làn
sóng vật lý có thể tác dụng phá hoại như tia phóng xạ, hoặc tác dụng tốt lành
như tia sáng mặt trời. Một làn sóng phát thanh có thể kêu gọi chiến tranh hay
hòa bình. Cũng giống như thế, những thay đổi mà chúng ta mang đến cho làn sóng
tâm thức của chúng ta bằng tư tưởng, ngôn ngữ hay hành động tốt hoặc xấu, có
thể để đem lại hạnh phúc hay đau khổ.
Làn sóng tâm thức đó là tổng số
những kinh nghiệm sống của chúng ta trong cuộc đời này và cả những đời trước do
một mạng lưới phức tạp các yếu tố tiêu cực hay tích cực, sáng suốt hay hỗn
loạn. Tâm của chúng ta có thể trong sáng hay mờ mịt. Tuy nhiên quá nhiều tập
quán đã không cho phép chúng ta uốn nắn lại tâm thức của mình. Tâm thức của
chúng ta có thể bị vướng mắc vào cái “xấu”, cái “ác” do đó cần phải có một sự
kiên trì tu tập, để chuyển hóa các thói hư, tật xấu đó. Trạng thái thanh lọc
cuối cùng là Giác ngộ, là Phật tánh mà mỗi Phật tử đều ngưỡng vọng tới.
Thuận: Như vậy là có một làn sóng tâm thức
cho riêng mỗi người?
Matthieu: Cũng giống như những đợt
sóng đổ vào bờ, hết đợt nọ đến đợt kia, ta cũng có thể nghĩ đến một sự lên
xuống của làn sóng tâm thức ở một cá thể mà ta gọi là con người. Nhưng cũng
không thể xác định có một cái ngã riêng biệt của làn sóng tâm thức đó.
Thuận: Nếu không có cái Ngã, thì bộ nhớ
gán vào đâu? Ý niệm “cái tôi” không thể tách rời ra khỏi ký ức là gì? Quan niệm
về chúng ta phần lớn dựa vào hồi ức ấy mà ta có ý thức về nhận dạng của chúng
ta.
Matthieu: Nếu bộ nhớ tùy thuộc vào
cái Ngã, thì tất cả những ai đã đạt đến trạng thái vô ngã, đều mất hết trí nhớ.
Chúng ta không nên lẫn lộn cái Ngã thường tình với cái làn sóng tâm thức cá
thể. Chúng ta gọi “Ngã” là những đặc tính của làn sóng tâm thức mà chúng ta lầm
tưởng là một thực thể giữa làn sóng luôn thay đổi ấy. Việc không có cái Ngã
cũng không ngăn cấm bộ nhớ mắc liền vào bộ não và chi phối cái Tâm thô đã nói ở
trên. Cái Ngã chỉ là một nhãn hiệu gán vào sự kết hợp của một số thành tố Tâm
Thể chứ không phải là một thực thể riêng biệt nào.
Thuận: Làm thế nào để dung hợp cái quan
niệm về làn sóng tâm thức với những bằng chứng thần kinh sinh lý đã chỉ ra rằng
bộ nhớ – vai trò quan trọng của cái Ngã – được tạo nên bởi một mạng lưới tế bào
thần kinh trong bộ não.
Matthieu: Rõ ràng có một sự liên hệ
mật thiết hoạt động của bộ não và Tâm thô. Từ đó nói lên tùy theo bộ não hoạt
động bình thường hay bị bịnh mà cái tâm thô bị ảnh hưởng. Nhưng bạn cũng cần
nhớ lại rằng ngoài cái Tâm thô còn có Tâm tế và Tâm vi tế. Và như thế, bộ nhớ có
thể biểu hiện của Tâm vi tế giống như một làn sóng có thể chuyển đi một thông
tin.
Nhận
định về các tầng lớp của cái tâm rất khó để được các nhà khoa học hay đa số
quần chúng chấp nhận nhưng với một thiền giả thuần thục, những tầng bậc ấy được
trải nghiệm ở nội tâm và như Francisco Valera đã viết: “Những tầng lớp tâm thức
ấy, dưới con mắt người Tây phương xuất hiện như một thể Nhị nguyên và bị gạt
bỏ. Tuy nhiên, chúng không phải chỉ là lý thuyết và chúng cũng đã được trải
nghiệm thực sự và cần được tôn trọng bởi những ai chỉ tin vào các phương pháp
thực nghiệm. Muốn hiểu được tâm vi tế cần phải được huấn luyện đầy đủ, hành trì
lâu dài và miên mật. Theo chiều hướng này, những hiện tượng trên chỉ được mở ra
cho những người quyết tâm thực hiện những trải nghiệm ấy. Tuy nhiên trong
truyền thống khoa học, những trải nghiệm đó không được các nhà khoa học nghiên
cứu chú ý, dù bằng thiền định hay một phương pháp quán xét nội tâm nào khác.
May mắn thay, hiện nay khoa học về tâm càng ngày càng chú ý đến sự trải nghiệm,
và vài nhà nghiên cứu đã tỏ ra mềm dẻo hơn trong việc khám phá tâm thức.