Chương
IV. Vũ Trụ Trong Một Hạt Cát
Sự tương thuộc và toàn nguyên của các hiện tượng
Khái niệm tương thuộc là cốt lõi
trong cái nhìn Phật giáo về thực tại, và khái niệm đó ảnh hưởng rất lớn cuộc
sống chúng ta. Sự tương thuộc đó rất gần với khái niệm bất khả phân trong cơ
học lượng tử. Cả hai khái niệm đều đưa đến vấn đề đơn giản nhưng cũng rất cơ
bản: một vật hoặc một hiện tượng có thể tồn tại theo tự tính không? Nếu không,
các hiện tượng trong vũ trụ có liên hệ với nhau đến mức độ nào? Nếu các vật
không tồn tại theo tự tính thì chúng ta rút ra kết luận gì về sự sống?
Thuận: Trong một chương trước, Phật
giáo bác bỏ ý niệm một nguyên lý sáng thế cũng như khái niệm những vũ trụ song
hành mặc dù chấp nhận có vô số vũ trụ. Phật giáo giải thích những hằng số vật
lý và những điều kiện tiên khởi một cách chính xác bằng thuyết tương thuộc các
hiện tượng, khiến cuộc sống có thể sinh sôi nảy nở trên mặt đất được. Tôi nghĩ
đã đến lúc phải làm sáng tỏ thuyết tương thuộc này.
Matthieu: Để làm được điều này
chúng ta cần trở lại khái niệm về “Thực tại tương đối”. Theo Phật giáo nhận
thức của chúng ta về thế giới gồm những hiện tượng đặc biệt, rõ ràng, sinh ra
từ những nguyên nhân và những điều kiện riêng biệt. Nhận thức đó Phật giáo cho
là thực tại tương đối hay giả tạo. Kinh nghiệm hằng ngày cho chúng ta thấy
dường như các vật thể có thật một cách khách quan và như có tự tính. Nhưng kinh
nghiệm đó chẳng qua là do tư tưởng chúng ta tạo nên mà thôi. Dù cho cảm nhận đó
được mọi người chấp nhận nó cũng không thể tồn tại. Khi được đem ra phân tích,
Phật giáo chủ trương rằng những hiện tượng có mặt vì có liên quan đến hiện
tượng khác theo luật Nhân quả. Phật giáo nhìn cuộc đời như một sự trào dâng các
hiện tượng có liên hệ với nhau, cũng như có can dự vào sự hình thành của nhau.
Còn chúng sinh thì cảm nhận các hiện tượng như có tự tính và tách rời hoàn toàn
khỏi họ.
Trong một bài thuyết giảng của
Đức Phật, Ngài đã ví các hiện tượng như một tấm lưới lớn dệt bằng ngọc minh
châu. Mỗi hạt ngọc đều phản chiếu các hạt ngọc khác cũng như tất cả các hạt
ngọc đều phản chiếu các vật thể trên vũ trụ. Điều này phản ánh rõ rệt quan niệm
tương thuộc các hiện tượng và không có một hiện tượng nào có thể tách rời ra
toàn thể.
Thuận: Các quan niệm về sự trào dâng
các hiện tượng cũng giống cái nhìn của vũ trụ học hiện đại: từ một nguyên tử
đến cả một vũ trụ qua các thiên hà các ngôi sao và loài người, mọi thứ đều
chuyển dịch và thay đổi liên tục.
Matthieu: Không những các vật
chuyển động nhưng chúng ta cảm nhận chúng như bất động vì chúng ta nhìn chúng
dưới một góc cạnh nào đó. Như vậy đừng nhìn thế gian với dáng vẻ bên ngoài.
Phật giáo không phủ nhận những vật thể quy ước mà con người cảm nhận hay nhà
khoa học khám phá. Phật giáo chỉ khẳng định khi xét đến bản thể các vật thì không
có vật thể nào có tự tính.
Thuận: Vậy thì bản thể của các vật liên
hệ như thế nào với sự tương thuộc?
Matthieu: Chữ tương thuộc dịch từ
chữ Phạn “Pratiyasamutpada” có nghĩa là hiện hữu bằng cách “cộng sinh”.
Và có thể được giải thích bằng
hai cách khác nhau. Cách thứ nhất là “cái này có thì cái kia có” và cách thứ
hai là “cái này đã có nên sản sinh ra cái kia”. Nói cách khác, không có vật gì
hoàn toàn độc lập với cái khác. Một vật thể chỉ có thể xuất hiện khi nó liên
kết, bị quy định cũng như quy định, cùng hiện hữu cũng như cùng vận hành với
một vật thể khác và cũng cùng biến dịch liên tục. Sự tương thuộc dính liền mật
thiết với sự vô thường của các hiện tượng và giải thích cái mà Phật giáo gọi là
“tánh không” có nghĩa là không một vật thể nào có tự tính. Đức Đạt Lai Lạt Ma
thứ VII có bài kệ:
“Hiểu được sự tương thuộc, người ta hiểu được tánh
không,
Hiểu được tánh không, người ta hiểu được sự tương
thuộc”.
Đấy là cái thấy Trung đạo
Đi ra ngoài vực thẳm tối đen của hư vô và thực tại
Trớ trêu thay, ý niệm tương
thuộc phá tan khái niệm vạn vật có tự tính, đồng thời nó cũng giải thích sự
xuất hiện của vạn vật. Chúng ta thử quan sát khái niệm một vật thể có tự tính
xuất hiện độc lập với các vật thể khác. Bất động và độc lập nó không thể ảnh
hưởng gì đến vật thể khác cũng như các vật thể không thể ảnh hưởng gì đến nó.
Vì vậy sự tương thuộc là cần thiết cho sự xuất hiện mọi vật thể. Lập luận này
cũng bác bỏ quan niệm cho rằng có những hạt độc lập tạo nên vật chất cũng như
quan niệm có một thực thể sáng tạo, tự mình tạo nên vật chất. Hơn nữa, sự tương
thuộc này gồm luôn cả tâm thức: một vật thể phải tùy thuộc vào một chủ thể thì
mới có thể là một vật thể được.
Sự tương thuộc còn là liên hệ
giữa cái một và tất cả: một là tất cả và tất cả là một.
Sau rốt khía cạnh tế nhị nhất
của sự tương thuộc là sự tùy thuộc giữa nền tảng sự chỉ danh và chính sự chỉ
danh một hiện tượng. Hình dáng, kích thước, màu sắc hay những đặc điểm khác
cũng chỉ là nền tảng của sự chỉ danh vật thể, toàn thể các thứ đó không làm nên
một thực thể hay một vật có tự tính. Sự chỉ danh vật thể chỉ là một cấu tạo
tinh thần để chỉ ra hiện thể của một vật. Trong đời sống hằng ngày, khi một vật
thể xuất hiện trước chúng ta thì không phải cái tên của vật đó mà chính là vật
đó. Nhưng khi chúng ta phân tích vật đó từ những nguyên nhân và điều kiện để nó
xuất hiện thì ta không tìm ra được một tự tính nào của nó. Ta không thể nói là
không có vật, mà cũng không thể cho nó là tự phát được. Kết luận là vật có mặt,
nhưng nó chỉ hiện diện trên danh nghĩa, theo quy định. Một vật thể mà không có
tự tính nhưng lại hiện hữu cũng có tác dụng, có vận hành theo luật Nhân quả.
Bài kệ Tây Tạng giải thích:
Tánh
không, không phải là sự vắng bóng của sự vận hành
Mà là
không có trong thực tại tối hậu
Các vật
do duyên hợp mà có, thì không có tự tính
Và thế
gian này giống như một ảo ảnh
Khi ta
hiểu được tánh không và sự duyên hợp
Trên cái
nền tảng duy nhất đó
Các khái
niệm về tánh không và giả tạm,
Hiện
hành song song và không mâu thuẫn với nhau.
Thuận: Tất cả điều gì bạn nói về sự
tương thuộc rất ấn tượng với tôi vì lẽ khoa học cũng khám phá ra những kỹ thuật
để chứng minh thực tại là một, và độc lập vừa nằm trong thế giới vi mô, và cả
trong thế giới vĩ mô. Sự hiển nhiên về các hiện tượng vi mô tương thuộc với
nhau dựa trên thử nghiệm tư tưởng thời danh của Einstein và hai cộng sự Boris
Podolsky và Nathan Rosen năm 1935. Người ta còn gọi sự thử nghiệm ấy là nghịch
lý EPR, lấy mẫu tự đầu tiên của ba nhà bác học. Nó nghịch lý vì Einstein quan
niệm thực tại bị chia chẻ ra thành những hạt không liên kết nhau. Và nếu ta
giải thích được thực tại chỉ là “Một”, thì nghịch lý EPR sẽ không tồn tại.
Để hiểu thử nghiệm này phải biết
rằng ánh sáng cũng như vật chất đều có một bản thể nhị nguyên nghĩa là trong
lĩnh vực vật lý, cái mà ta gọi là quang tử (photon), điện tử (electron) vật
chất được thể hiện khi là một hạt, khi là một sóng. Đây là một phát minh lạ
lùng của cơ học lượng tử. Nhưng lạ lùng hơn là sự sai biệt giữa hạt và sóng có
thể nhận rõ với sự có mặt của một người quan sát. Khi ta quan sát một quang tử
với một máy đo, nó xuất hiện dưới dạng một hạt. Nhưng khi ta không còn quan sát
nó thì nó trở lại hình thể sóng. Sóng này tỏa ra khắp nơi trong không gian
giống như những làn sóng tạo nên do một cục đá ném xuống mặt hồ. Và người ta có
thể nói rằng quang tử ở khắp nơi trong không gian. Cơ học lượng tử nói rằng nếu
không có người quan sát thì không thể biết được quang tử nằm ở đâu vào một thời
điểm nào đó. Nhiều lắm là ta có thể phỏng đoán vị trí của nó. Giống như những
lượn sóng trong đại dương, làn sóng quang tử cách nhiên (onde probalité) được
nhà vật lý người Áo Erwin Schrodinger tính toán vào năm 1926 có những biên độ
khác nhau. Cơ may tối đa để gặp một quang tử là ở những biên độ cao, và tối
thiểu ở biên độ thấp. Nhưng dù ở biên độ cao, người ta cũng không bao giờ chắc
chắn sẽ gặp được quang tử ở một vị trí nào đó. Điều đó có thể xảy ra 3 trên 4
hoặc 9 trên 10 lần. Sự cách nhiên không bao giờ là 100%. Là người theo thuyết
định mệnh, Einstein không bao giờ chấp nhận sự may rủi của thuyết cơ học lượng
tử. “Thượng đế không hề chơi xúc xắc”
và ông không ngừng tìm một kẽ hở trong thuyết cơ học lượng tử và phương thức
giải thích cách nhiên về thực tại của thuyết này. Vì thế ông mới nghĩ ra thử
nghiệm EPR.
Việc thử nghiệm được tiến hành
như sau: hãy tưởng tượng bạn có một máy đo để theo dõi các hạt quang tử. Bây
giờ bạn hãy nhìn một hạt tự động chia ra thành hai quang tử A và B. Theo luật
đối xứng, hai hạt này sẽ di chuyển theo những hướng khác nhau. Nếu A đi về
hướng Bắc chúng ta sẽ bắt gặp B ở hướng Nam. Đến đây thì không có gì đáng
ngạc nhiên. Nhưng chúng ta đã quên đi những điều kỳ lạ của cơ học lượng tử:
trước khi được máy dò bắt gặp, A không phải là một hạt mà là một sóng. Sóng này
không có vị trí nhất định và A có thể có mặt bắt cứ nơi nào. Chỉ khi bị máy dò
bắt gặp thì A lại trở thành hạt và di chuyển về hướng Bắc. Nhưng trước khi được
máy dò bắt gặp, A không thể biết được hướng nào của nó, như vậy làm sao B đoán
được A sẽ đi theo hướng nào để điều chỉnh hướng đi của mình ngõ hầu được bắt
gặp cùng một thời điểm ở hướng đối nghịch. Điều này không có ý nghĩa nào hết,
ít ra là phải chấp nhận A có thể tự động báo cho B biết hướng đi của mình. Tuy
nhiên theo thuyết tương đối của Einstein, không một tín hiệu nào có thể đi
nhanh hơn vận tốc ánh sáng. Einstein nói rằng: “Thượng đế không gởi những tín
hiệu thần giao cách cảm” vì vậy không thể có tác động huyền bí nào từ xa được.
Dựa trên suy nghĩ đó, Einstein
kết luận rằng cơ học lượng tử đã mô tả thực tại một cách thiếu sót. Theo ông, A
phải biết hướng đi của mình và thông tin lại cho B trước khi tách rời. A có
những đặc tính riêng độc lập với sự quan sát. Và giải thích của cơ học lượng tử
theo đó A có thể ở bất cứ nơi đâu là sai lầm. Theo Einstein vận tốc và vị trí
của hạt trên một quỹ đạo đã định sẵn trên hạt, hoàn toàn tách rời với sự quan
sát. Cơ học lượng tử không thể cho biết quỹ đạo của hạt vì nó không xét đến
những thông số bổ sung. Vì vậy nó bị thiếu sót.
Tuy nhiên Einstein đã lầm. Sau
cùng các nhà vật lý đã chỉ ra rằng điều mà Einstein nói rằng không thể xảy ra
trong thử nghiệm EPR đã thật sự xảy ra. Từ khi được khám phá, cơ học lượng tử
không hề có một kẽ hở nào. Các cuộc thử nghiệm đã chứng minh rằng nó đúng cho
đến khi có khám phá mới, cơ học lượng tử vẫn là thuyết hay nhất về sự vận hành
của nguyên tử và thế giới vi mô.
Matthieu: Khi nào thì có hiệu ứng
EPR được kiểm chứng bằng thử nghiệm?
Thuận: Trong thời gian khá lâu, nghịch
lý EPR chỉ là một ý niệm của Einstein và các cộng sự. Người ta không biết phải
thử nghiệm nó như thế nào. Năm 1964 John Bell, là một nhà vật lý Ái Nhĩ Lan đã
nghĩ ra một định lý toán học được biết với cái tên “Bất đẳng thức Bell” có thể kiểm chứng
được bằng các đo đạc thực nghiệm xem có các ẩn biến số (variables cachées) nằm
trên các hạt như Einstein đã nghĩ hay không? Định lý này có thể đem các cuộc
tranh luận từ bình diện siêu hình sang bình diện thực nghiệm. Năm 1982 ở đại
học Orsay, nhà bác học người Pháp Alain Aspect và nhóm của ông đã thực hiện một
loạt thử nghiệm trên các cặp quang tử để thử hiệu ứng EPR. Họ đã tìm thấy rằng
bất đẳng thức Bell
đã bị xâm phạm và như vậy Einstein đã sai lầm, cơ học lượng tử đã đúng. Trong
thử nghiệm của Aspect cặp quang tử A và B đã tách xa nhau 12cm, tuy nhiên B vẫn tức khắc biết
được A đang làm gì.
Matthieu: Làm sao người ta biết
được hiện tượng xảy ra là tức khắc và một tín hiệu ánh sáng đem thông tin từ A
đến B đã không có đủ thời gian để đi hết quảng đường xa cách nhau?
Thuận: Những đồng hồ điện tử cùng những
máy dò để phát hiện A và B cho phép đo một cách chính xác thời điểm đến của các
quang tử. Sự khác biệt giữa hai thời điểm đến dưới một vài phần mười của một
phần tỷ giây. Các đồng hồ điện tử hiện nay không thể đo khoảng thời gian dưới
10-10 giây. Tuy nhiên trong 10-10 giây, ánh sáng chỉ có
thể đi được 3cm kém xa 12cm giữa A và B. Hơn nữa, kết quả cũng y nguyên như vậy
khi người ta tăng khoảng cách giữa hai quang tử. Dù biết chắc rằng ánh sáng
không thể có đủ thời gian để đi hết khoảng cách giữa A và B để đem đến một số
thông tin, cách vận hành của A và B vẫn diễn ra đồng bộ. Trong thử nghiệm gần
đây hơn, trong năm 1998, nhà bác học Thụy Sĩ Nicolas Gisin và các cộng sự ở
Genève bắt đầu tạo ra một đôi quang tử. Sau đó người ta chuyển một quang tử
trên một sợi dẫn quang (fibreoptique) về hướng bắc Genève và quang tử kia về
hướng nam. Những máy dò được đặt cách xa nhau 10km. Khi đến đầu sợi dẫn quang,
mỗi quang tử sẽ ngẫu nhiên chọn một trong hai lộ trình, một dài và một ngắn.
Người ta đã nhận thấy trong mọi trường hợp, các quang tử đã làm giống hệt nhau.
Trung bình chúng chọn một trên hai lần lộ trình dài, và cũng một trên hai lần
lộ trình ngắn, nhưng trong cả hai trường hợp sự lựa chọn của chúng trùng hợp
nhau. Các nhà vật lý Thụy Sĩ tin chắc rằng cả hai quang tử không thể tiếp xúc
với nhau bằng ánh sáng vì sự cách biệt về thời gian phản ứng của chúng dưới
3/10 của một phần tỷ giây. Trong khoảng thời gian đó, ánh sáng chỉ đi được 3cm
trên 10km chia cắt hai quang tử.
Vật lý cổ điển cho rằng sự lựa
chọn của A và B hoàn toàn độc lập vì chúng không thể tiếp xúc với nhau. Nhưng
không phải vậy. Sự phản ứng đồng bộ luôn luôn hoàn hảo. Làm thế nào để giải
thích rằng B luôn luôn biết tức khắc A đang làm gì? Sự nghịch lý chỉ có được
khi chúng ta nghĩ như Einstein rằng thực tại bị chia chẻ và định vị trên mỗi
quang tử. Sự nghịch lý không còn nữa nếu chúng ta chấp nhận A và B cùng thuộc
về một thực tại toàn nguyên dù cả hai xa cách nhau. A không cần gửi một tín
hiệu cho B vì cả hai luôn luôn tiếp xúc bởi một giao lực huyền bí nào đó. Dù ở
đâu B cũng thuộc về cùng một thực tại với A.
Matthieu: Dù cả hai hạt ở hai đầu
của vũ trụ?
Thuận: Đúng vậy, cơ học lượng tử loại
bỏ mọi ý niệm về sự định vị. Các ý niệm về ở đây, ở kia không có ý nghĩa gì cả.
Vì đây là kia. Và các nhà vật lý gọi đó là sự bất khả phân.
Matthieu: Sự nhận định này phải có
những hậu quả to lớn cho sự hiểu biết về thực tại của các nhà vật lý cũng như
sự nhận định bình thường của chúng ta về thế gian.
Thuận: Chắc chắn như vậy. Nhưng vài nhà
vật lý vẫn còn hoài nghi về quan niệm một thực tại toàn nguyên không bị chia
cắt và họ đã cố gắng tìm một khe hở trong các cuộc thử nghiệm cũng như trong
định lý Bell.
Cho đến nay thì họ đã thất bại. Cơ học lượng tử không hề sai lầm và hiện tượng
EPR gợi lên ý niệm thực tại là “Một” hoặc là tương thuộc để nói theo Phật giáo.
Một thử nghiệm khác cũng rất nổi
tiếng và hấp dẫn đã chỉ ra rằng sự tương thuộc không chỉ xảy ra ở thế giới vi
mô mà còn cả ở vĩ mô nữa. Đó là thử nghiệm về cái đồng hồ Foucault.
Nhà vật lý học người Pháp Leon
Foucault muốn chứng minh rằng Trái đất quay quanh bản thân nó. Năm 1851 ông treo
một cái đồng hồ trên nóc vòm Khải hoàn môn. Khi bắt đầu chạy, chiếc đồng hồ đã
vận hành một cách đáng ngạc nhiên: mặt phẳng dao động của nó xoay theo múi giờ.
Khi người ta đặt nó theo hướng Bắc Nam, sau vài giờ nó dao động theo
hướng Đông Tây và nếu chúng ta đặt nó ở hai cực, chiếc đồng hồ xoay một vòng
đúng 24 giờ. Tại Paris, vì hiệu ứng vĩ tuyến, chiếc đồng hồ chỉ xoay một phần
vòng trong một buổi.
Vì sao hướng của chiếc đồng hồ
thay đổi? Foucault trả lời rằng sự chuyển động đó chỉ có dáng như vậy mà thôi
vì thật ra chính mặt phẳng dao động của nó nằm yên, chỉ Trái đất quay mà thôi.
Sau khi đã chứng minh Trái đất quay, Foucault ngừng tại đó. Nhưng thử nghiệm
của Foucaut còn thiếu sót vì sự chuyển động chỉ được mô tả khi so sánh với một
chuẩn điểm đứng im: sự chuyển động tuyệt đối là không có– Galilée đã hiểu rằng
sự chuyển động là không. Sự chuyển động một vật không phải tự nó có, mà nó chỉ
có khi liên quan đến một vật khác.
Để chỉ sự bất động của một chuẩn
điểm, một ngôi sao chẳng hạn, chỉ cần đặt cái đồng hồ theo hướng của nó. Nếu
ngôi sao nằm im, nó sẽ nằm trong một mặt phẳng dao động của đồng hồ và vì vậy
đồng hồ là bất động. Và nếu ngôi sao di chuyển, nó sẽ rời khỏi mặt phẳng dao
động của cái đồng hồ.
Hãy thử lại với những thiên thể
gần cũng như xa. Nếu ta đặt mặt phẳng của cái đồng hồ theo hướng mặt trời thì
mặt trời sẽ dần dần rời xa mặt phẳng dao động của đồng hồ sau vài tuần. Những
ngôi sao gần chúng ta nhất cũng sẽ làm như vậy sau nhiều năm, và chòm sao
Andromède cách chúng ta 2 triệu năm ánh sáng sau thời gian rất dài. Chỉ có
những thiên hà cách chúng ta hàng triệu năm ánh sáng là không rời xa mặt phẳng
dao động của chiếc đồng hồ mà thôi.
Tại sao chiếc đồng hồ Foucault
lại vận hành như vậy? Hiện nay người ta chưa có câu trả lời. Nhà vật lý người
Áo Ernst Mach, người đã tìm ra đơn vị đo tốc độ siêu âm, đã nhìn trong hiện
tượng ấy sự phổ hiện của vật chất và tác dụng của nó. Theo ông, khối lượng một
vật là kết quả của tác dụng toàn vũ trụ lên vật ấy. Đấy là nguyên tắc Mach. Khi
ta cố đẩy một chiếc xe, sức cản của chiếc xe là từ toàn vũ trụ. Mach chưa bao
giờ định ra công thức tác động huyền bí đó rất khác với lực hấp dẫn và từ đó
đến nay chưa có người nào làm được việc này. Cũng giống như thử nghiệm EPR về
thế giới vi mô.
Matthieu: Theo Phật giáo, đây là
một định nghĩa hay về sự tương thuộc. Các hiện tượng tùy thuộc vào nhau vì cùng
tồn tại trong cùng một toàn thể và toàn thể này vận hành theo luật Nhân quả.
Chúng ta lại trở về với vấn đề “Cái này có vì cái kia có, cái này thay đổi vì
cái kia cũng thay đổi”. Vậy từ từ người ta cũng thấy ngay rằng mọi thứ đều có
liên hệ với nhau.
Thuận: Cái tương thuộc này phù hợp với
kết quả các cuộc thử nghiệm mà tôi miêu tả trước. Cả thử nghiệm EPR, cái đồng
hồ của Foucault, quán tính của Mach cũng không thể giải thích bằng lời bốn lực
căn bản được biết trong vật lý. Điều này làm đau đầu các nhà vật lý.
Matthieu: Tôi nghĩ có một ví dụ có
thể nói lên được sự khác biệt giữa quan điểm khoa học và quan điểm Phật giáo.
Theo nhiều nhà khoa học, sự khám phá ra các hiện tượng đều thuộc về một toàn
nguyên là rất ấn tượng, tuy nhiên nó có rất ít ảnh hưởng đến cuộc sống chúng
ta. Trái lại đối với Phật tử, sự tương thuộc các hiện tượng có một ảnh hưởng
rất lớn. Sự tương thuộc giúp ta xem lại nhận thức của chúng ta về thế giới để
làm giảm bớt các nỗi lo sợ, các tình cảm yêu ghét của chúng ta. Sự tương thuộc
phải khiến chúng ta đập tan bức tường ảo tưởng giữa “Ta” và “Người”. Nó cho
thấy sự phi lý của các tình cảm như kiêu căng, ghen tị, tham lam và độc ác. Nếu
tất cả chúng sinh đều tương thuộc thì chúng ta cảm thông được với hạnh phúc và
đau khổ của người khác. Muốn xây dựng hạnh phúc của riêng mình trên sự đau khổ
của kẻ khác không những là vô luân, mà còn không thực tế nữa. Tâm Từ và tâm Bi
trong Phật giáo xuất phát từ sự tương thuộc này. Hiểu được sự tương thuộc dần
dần đưa đến một sự chuyển hóa nội tâm trên con đường đưa đến giác ngộ.
Thuận: Sự tương thuộc các hiện tượng
bằng trách nhiệm phổ biến là một chương trình độc đáo. Nó làm sống lại những
lời của Einstein. Thật ra ngôn ngữ vật lý chưa diễn tả được tính cách toàn
nguyên và thiêng liêng của thực tại. Vài người còn nghĩ đến “một thực tại bị
che phủ” như nhà vật lý người Pháp Bernard d’Espagnat.
Matthieu: Nếu nghĩ về cái thực tại
bị che phủ đó như là một thực tại thực sự đằng sau các hiện tượng thì lại hóa
ra xem thế gian này là thực. Nhưng nếu xem từ “thực tại bị che phủ” đồng nghĩa
với bất khả tư nghì thì Phật giáo đồng ý. Một điểm quan trọng khác mà chúng ta
cần ghi nhớ là sự tương thuộc không những là giữa các hiện tượng mà còn là các
điều kiện để các hiện tượng xuất hiện.
Thuận: Heisenberg cũng chia sẻ quan
điểm đó khi ông viết: “Thế giới giống như một tấm vải phức tạp dệt bằng các
hiện tượng liên kết với nhau để trở thành một tấm vải duy nhất”. Nếu cho là sự
tương thuộc là một định luật cơ bản thì tôi đồng ý, nhưng khoa học chưa biết
phải diễn tả nó như thế nào. Nhưng dù sao các nhà khoa học cũng nhận rõ rằng có
sự ràng buộc chằng chịt trên thế gian này. Big Bang là một thí dụ. Chúng ta đều
là sản phẩm của vụ nổ tiên khởi này. Những nguyên tử Hydro và Helium bao gồm
98% khối lượng vật chất trong vũ trụ được chế tạo trong ba phút đầu tiên của vụ
nổ. Những nguyên tử Hydro của các đại dương hay con người chúng ta cũng đều từ
đó mà ra. Như vậy chúng ta cùng chung một phổ hệ. Còn những nguyên tố nặng của
2% còn lại thuộc về thuật luyện kim nguyên tử trong các vì sao hay từ các vụ nổ
các thiên thể siêu tâm linh.
Chúng ta là sản phẩm của những
hạt bụi trên các vì sao cũng là anh em muôn thú với cỏ cây hoa lá. Với việc
chúng ta thở, chúng ta đã có liên hệ với vạn vật trên thế gian. Khi một cơ thể
sống chết đi và tan rã, những nguyên tử từ cơ thể đó sẽ thoát ra môi trường và
xâm nhập vào các cơ thể khác. Cơ thể của chúng ta đang chứa khoảng một tỷ
nguyên tử của cây bồ đề nơi Đức Phật đã thành Đạo.
Matthieu: Điều này cũng chỉ cho
phép xem hiệu ứng EPR một cách khác: vì các hạt nối kết với nhau thật chặt chẽ
sau vụ nổ Big Bang, chắc chắn các hạt ấy còn tồn tại đến bây giờ. Vậy là cái
toàn thể, cái Một vẫn là điều kiện tự nhiên của mọi hiện tượng. Nhưng đối với
Phật giáo không phải việc các hạt nối kết với nhau là quan trọng mà là cái việc
chúng ta tương thuộc lẫn nhau và chúng ta cùng có chung ý niệm sống hạnh phúc
và tránh đau khổ.
Thuận: Một loại kết nối khác được khoa
học khám phá là chúng tương thuộc nhau về mặt di truyền. Nguồn gốc của chúng ta
là phát xuất từ giống người Homohabilis xuất hiện ở Phi châu cách nay một triệu
tám trăm ngàn năm dù chúng ta thuộc nòi giống gì và màu da ra sao. Là con cháu
của các vì sao, người ngày nay có thể đã cảm thấy dòng dõi thuộc vũ trụ của
mình, khi ta nhìn thấy lần đầu tiên, trái đất của chúng ta trôi lăn trong vũ
trụ mênh mông. Và sự toàn nguyên nói trên làm cho chúng ta phải có trách nhiệm
về trái đất của chúng ta và phải cố tránh tàn phá môi trường của nó.
William Blake đã diễn tả hết sức
ngoạn mục sự toàn nguyên của vũ trụ bằng các vần thơ sau:
Thấy
được vũ trụ trong một hạt cát
Và cả
một thiên đường trong một bông hoa dại
Nắm lấy
cả vũ trụ trong lòng bàn tay
Và cả
vĩnh cửu trong một giờ.
Matthieu: Khi nghe các câu thơ của
Blake, tôi lại chợt nhớ đến bốn câu kệ của Đức Phật:
Thấy
trong một nguyên tử
Và trong
mỗi nguyên tử
Toàn thể
thế gian
Đó là
điều bất khả tư nghì.
Các bản văn Phật giáo cũng nói
rằng Đức Phật biết rõ bản thể cũng như sự đa dạng của các hiện tượng như xem
trong lòng bàn tay của mình và Ngài có thể biến một sát na thành vĩnh cửu và
ngược lại. Nếu người ta suy nghĩ kỹ về ý nghĩa của bốn câu kệ, người ta nhận ra
ngay sự toàn giác của Đức Phật. Chúng ta không cần xem Đức Phật như Thượng đế.
Chỉ cần hiểu rằng sự Giác Ngộ sẽ đưa đến một cái nhìn Nhất nguyên về vạn vật và
bản thể của chúng. Thi sĩ triết gia Ấn Độ Asva… (Vô ước) có viết: “Trong đại định ta có thể nhìn
xuyên suốt cái Nhất nguyên của vũ trụ”. Ngược lại, vô minh che lấp mất nhận
thức đúng đắn về bản thể muôn loài.
Thuận: Sự có mặt vô số vũ trụ đã đưa
tôi đến việc suy nghĩ về sự có mặt của các hình thái thông minh khác trong vũ
trụ. Vũ trụ mà ta quan sát được gồm trăm tỷ thiên hà, mỗi thiên hà gồm trăm tỷ
ngôi sao. Và nếu mỗi ngôi sao có một số hành tinh xoay quanh giống như hệ Mặt
trời thì số hành tinh trên vũ trụ là hàng trăm ngàn tỷ tỷ. Như vậy rất đáng
nghi ngờ là chỉ có Trái đất chúng ta là có đời sống và tâm thức. Sự có mặt của
những nền văn minh ngoài hành tinh chúng ta nêu lên những câu hỏi về thần học
thật thú vị. Ví dụ như theo Thiên chúa giáo, Đức chúa trời đã gửi con- Ngài
Jesus Christ xuống trần gian để cứu độ loài người. Có chăng một số Jesus Christ
khác đã đến những hành tinh nơi có sự sống và tâm thức để cứu độ những cư dân
tại đó?
Matthieu: Phật giáo đã đề cập đến
hàng tỷ thế giới với nhiều hình thức sự sống khác nhau. Trong đa số các thế
giới ấy đều có một vị Phật đứng ra dạy dỗ chúng sinh đạt tới giác ngộ.
Thuận: Triết gia người Ý Giordano Bruno
đã nêu lên những câu hỏi trên vào cuối thế kỷ thứ 16. Ông ta gợi ý một vũ trụ
vô tận có vô số thế giới với nhiều hình dáng, sự sống khác nhau. Ông ta đã phải
trả giá bằng chính mạng sống của mình vì Nhà thờ đã đưa ông ta lên giàn hỏa vào
năm 1600. Cũng khá thú vị khi biết rằng Phật giáo đã nêu lên cùng vấn đề cách
đây hơn hai ngàn năm.
Matthieu: Người ta cũng bảo rằng
trên mỗi cọng cỏ, mỗi hạt bụi, trong mỗi nguyên tử và trong mỗi lỗ chân lông
của các vị Phật có vô số thế giới mà vẫn đủ chỗ cho tất cả tồn tại. Nói cách
khác, do sự tương thuộc, mỗi phần có thể gồm thêm các phần khác mà không cần
thay đổi kích thước. Điều này cũng tương tự như trong kinh Phật nói rằng có thể
đặt núi Tu Di trong một hạt cải.
Thuận: Đây là một hình ảnh đáng kinh
ngạc. Trong các cuộc nói chuyện của chúng ta, tôi vẫn thán phục khả năng của
Phật giáo dùng những hình ảnh nên thơ để diễn tả những ý niệm khó hiểu đôi khi
đi ngược lại sự hiểu biết thông thường và không nằm trong ngôn ngữ thông dụng.
Theo Phật giáo có chăng một thế giới nếu không có tâm thức để nhận biết?
Matthieu: Thật vậy, thế giới chung
quanh ta không biến đi khi chúng ta không có khả năng nhận biết. Tuy nhiên đây
là một câu hỏi sai vì lẽ một mặt tâm thức có mặt nhưng vẫn tương thuộc vào các
thứ khác, và mặt khác người ta không thể hiểu hay mô tả thực tại nếu không có
tâm thức. Thực tại mà chúng ta nhận biết chỉ là một thực tại quy ước còn bản
thể của thực tại đó chính là cái “không” và Phật giáo đã chọn con đường Trung
đạo vượt khỏi cái “có” và cái “không”. Long Thọ đã nói trong “Trung đạo luận”:
Hiện hữu
hay hằng hữu
Không
hay hư vô
Người
trí không chọn cái hữu hay cái vô
Và Long
Thọ tiếp tục:
Cái gì
có mặt do sự có mặt một thứ khác
Không
phải là thứ đó, nhưng cũng không phải khác
Và như
vậy nó không phải có cũng không phải không.
Và
Đức Phật cũng nhận định trong một chiếc gương sáng, mọi vật vẫn phản chiếu
nhưng không thật, mọi hiện tượng phản chiếu trong tâm thức cũng hệt như vậy.