Chương
IX. Lý Trí Và Thiền Định
Làm thế
nào để nhận thức thế gian?
Việc tích trữ ý niệm và thông
tin có cho phép đưa đến nhận thức tối hậu về thế gian? Đâu là giới hạn của luận
lý và của lý trí thông thường mà khoa học thường đặt nền tảng? Khoa học có trả
lời được tất cả các câu hỏi về thế gian và khám phá ra bản thể tối hậu? Phương
pháp tiếp cận phân tích và hợp lý của khoa học khác nhau thế nào với những
phương pháp thiền định của Phật giáo. Làm thế nào để kiểm chứng giá trị của
khoa học thiền định đặt cơ sở trên việc quán xét nội tâm và thực nghiệm chủ
quan?
Thuận: Trong khoa học, những phương pháp
cơ bản dùng trong việc khám phá gồm có lý thuyết dựa trên phân tích và thực
nghiệm. Nếu Phật giáo không quên lý luận và phân tích, thì dường như phương
pháp chính mà Phật giáo sử dụng là Thiền định. Bạn có thể cho tôi biết chữ
“nhận thức” có đồng nghĩa giữa khoa học và Phật giáo không? Nhận thức mà người
ta có qua thiền định, có giống như nhận thức qua lý trí không? Thiền giả phải
chăng nên từ bỏ việc phân tích để có nhận thức, và chỉ cần thuần khiết tâm trí,
dứt bỏ mọi niệm tưởng, mọi suy nghĩ để nhận chân được thực tại.
Matthieu: Thể theo các quyển luận
Phật giáo, chữ “hợp lý” (pramana) có nghĩa phương tiện để có nhận thức đúng
đắn. Luận lý bắt buộc phải có trong mọi khía cạnh nhận thức, khoa học hay thiền
định. Tuy nhiên, người ta có thể phân biệt một nhận thức quy định và một nhận
thức tuyệt đối. Nhận thức quy ước cho ta biết về vạn vật hiện hữu, còn nhận
thức tuyệt đối cho ta tiếp cận với bản thể tuyệt đối của các hiện tượng (như
không tự tính, tánh không). Cả hai lối nhận thức đều có giá trị trong mỗi lãnh
vực riêng biệt.
Luận lý và lý trí cũng đều được
thiền định sử dụng khi quán sát sự vận hành của tư tưởng và thấy được khả năng
chúng đem lại đau khổ hay hạnh phúc. Sự kiện tinh thần nào đem lại sự bình an
nội tại và mở rộng lòng chúng ta với kẻ khác? Còn những gì là đem lại sự phá
hoại tâm hồn chúng ta? Sự phân tích này cho phép chúng ta hiểu các tư tưởng kết
nối với nhau như thế nào, và ràng buộc chúng ta ra sao?
Khi mà thiền định làm phát triển
lòng nhân ái và từ bi của chúng ta, thì lý trí và thực nghiệm sẽ mở rộng mắt
chúng ta về những kết quả tai hại của sự sân hận, cũng như lợi ích của sự kiên
nhẫn trong đời sống hằng ngày. Tu tập để nuôi dưỡng những tình cảm và suy nghĩ
đưa đến hạnh phúc thật sự, và chối bỏ những gì đưa đến đau khổ, thay đổi dần
dần dòng tư tưởng của chúng ta, rồi đến tính tình của chúng ta.
Thuận: Giác ngộ có phải là nhận thức ở
mức độ cao hơn không?
Matthieu: Có nhiều dị biệt giữa
giác ngộ và nhận thức thông thường. Trước tiên giác ngộ không phải là nhận thức
về sự đa dạng các hiện tượng và những sự kiện tinh thần, mà là về bản thể thật
sự của chúng. Cách nhận thức cũng khác: Nhị nguyên chủ thể, khách thể biến mất,
và lý trí thông thường nhường chỗ cho một sự nhận biết trực tiếp rõ ràng và
tỉnh thức, có nghĩa là người thấy và vật được thấy chỉ là một. Tưởng chừng như
là vô lý, nhưng giác ngộ phát xuất từ một luận lý tuyệt đối dựa trên sự hiểu
biết về tánh không và vượt lên trên luận lý quy ước của một hệ tư tưởng thông
thường.
Thuận: Có thể nói đây là một nhận thức
trực giác hay thần bí chăng?
Matthieu: Những từ “trực giác”,
“thần bí” có thể làm ta nhầm lẫn. Nếu dùng từ “trực giác” như một nhận thức
trực tiếp, tức thì cũng gần đúng. Nhưng nếu ta đồng hóa cái trực giác ấy với
một linh cảm mơ hồ không kiểm soát được, hoặc giả một cảm giác mơ hồ vọt ra từ
tiềm thức, thì đó chỉ là phản ánh của những ước muốn hay những tư tưởng hỗn độn
thường nhật của chúng ta. Trái lại, nếu ta dùng từ “thần bí” như một sự kết hợp
mật thiết, không nhị nguyên với bản thể của tâm khi nào cũng trong sáng, chiếu
diệu và vô niệm, thì đó là Thiền Phật giáo.
Chắc chắn là ta có thể có, trong
khi thiền định nhiều trải nghiệm thần bí, nhưng đó chỉ là những phóng ảnh của
tâm, chỉ làm ta lạc lối, thay vì soi sáng chúng ta. Thay vì chờ đợi những giây
phút xuất thần, hay trầm mình trong tịch lặng, tốt hơn là nên Thiền định quán
sát đến tột cùng, sau đó để tâm yên nghỉ, vô niệm trong một trạng thái sáng
suốt miên viễn. Và như vậy ta đã thành tựu việc ngộ lại bản thể của tâm sâu xa
và bất biến như bầu trời. Ta đi ngược lại cội nguồn của tư tưởng, và khi tư
tưởng đã chấm dứt, ta mới hiểu được điều không thể diễn tả bằng lời được. Dù
không diễn tả được, nhưng với nhiều thiền giả thuần thục, thì trạng thái đó là
một trải nghiệm trung thực.
Thuận: Có phải vì thế và vì giới hạn
của ngôn ngữ, nên Phật giáo dùng ẩn dụ hay biểu tượng để mô tả sự Giác ngộ.
Hoặc giả các Thiền sư hay dùng hình thức “Công án” để đập tan mọi luận lý, mọi
lý lẽ, gạt bỏ mọi khái niệm. Công án là một bí mật trong Thiền học dùng để mở
tâm cho người học đạo. Ví dụ như vị thầy, khi vỗ tay hỏi đệ tử: “Tiếng vỗ một
bàn tay là gì?” Câu hỏi này là để phá tan trong một thoáng chốc mọi vọng tưởng
của người đệ tử, để anh ta có thể nhận thấy khi cơ duyên đã chín mùi, bản lai
diện mục của mình.
Matthieu: Khi cần phải diễn tả
những mức độ khác nhau của việc thành tựu tâm linh và nhận ra tánh không của
vạn pháp, ta thường bất lực vì thiếu vắng ngôn từ. Người ta không thể dùng luận
lý thông thường được vì đơn giản là nó không đầy đủ. Cũng khó cho thiền giả
diễn tả tâm giác ngộ của mình, giống như người câm không nói được vị mật như
thế nào. Và cũng vì thế nên Phật giáo vẫn dùng những ẩn dụ như ngón tay chỉ mặt
trăng: phải nhìn mặt trăng, chứ không nên nhìn ngón tay.
Trong khuôn khổ tiếp cận chân lý
như vậy, các vị Thiền sư thỉnh thoảng hay dùng những phương tiện bất ngờ để
giúp đệ tử giác ngộ. Trong một đêm trăng sáng mùa thu, trên những triền núi
nhìn xuống tu viện Dzotchen ơ Tây Tạng, nơi tôi có duyên trú ngụ một thời gian,
một ẩn sĩ Tây Tạng thế kỷ XIX tên là Patrul Rinpotché nằm ngủ bên cạnh người đệ
tử. Thình lình ông gọi anh ta:
“Này, anh thường nói với ta là
anh không hiểu “Bản lai diện mục” là gì phải không?
- Thưa Thầy, đúng vậy
- Thật ra, có gì là khó đâu
Ông bảo người đệ tử đến nằm bên
cạnh ông. Người đệ tử tên là Loungtok đến bên cạnh thầy và nhìn ngắm bầu trời
Patrul Rinpotché hỏi tiếp:
“Anh có nghe tiếng chó trong tu
viện sủa không? Anh có thấy các ngôi sao chiếu sáng không?”
-Thưa, có
-Thế thì bản lai diện mục là vậy
đó”.
Đúng vào thời điểm ấy, Loungtok
ngộ ra bản thể của tâm. Công tu hành nhiều năm, với sự giúp đỡ của thầy vào
đúng khoảnh khắc thích hợp, Loungtok bỗng thấy tâm mình bừng sáng và đạt đến
giác ngộ. Bản chất của giác ngộ là ra ngoài mọi khái niệm. Các cách nhận thức
khác đều thiếu sót. Một lý thuyết chỉ có thể nói lên một khía cạnh của thực
tại, vì lẽ nó chỉ dùng những mệnh đề giới hạn bởi những khái niệm. Cái khái
niệm này có nhắc bạn nhớ lại định lý bất toàn của nhà toán học người Áo Kurt
Godel không?
Thuận: Định lý Godel quả thật bao hàm
những giới hạn cho việc suy luận hợp lý. Định lý này thường được xem là khám
phá hợp lý quan trọng nhất trong thế kỷ XX. Năm 1900, người Đức David Hilbert
đã thách thức là đã đặt được các môn toán học trên một nền tảng hợp lý vững
chắc. Kurt Godel đã chấp nhận lời thách thức đó nhưng không phải theo chiều
hướng mà Hilbert hiểu. Ông ta đề nghị vào năm 1931, một định lý lạ lùng và bí
hiểm nhất về toán học. Ông chỉ ra rằng một hệ thống số học mạch lạc, và không
mâu thuẫn nhất định gồm có những định đề không quyết định được, có nghĩa là
không thể dùng luận lý mà nói chúng đúng hay sai. Mặt khác không thể chứng minh
rằng một hệ thống là mạch lạc và không mâu thuẫn chỉ trên căn bản các nguyên lý
toán học (là những tiên đề đầu tiên được chấp nhận mà không cần chứng minh) nằm
trong hệ thống đó. Muốn làm được việc chứng minh ấy, cần phải đi ra ngoài hệ
thống và sử dụng những công lý phụ bên ngoài hệ thống. Và như vậy hệ thống đó
là bất toàn. Và cũng vì thế mà định lý Godel thường được gọi là “Định lý bất
toàn”.
Định lý này đã có tác dụng như
một cú sét đánh trong giới toán học Godel đã chứng minh rằng luận lý có giới
hạn và cái mộng của Hilbert muốn chứng minh sự mạch lạc của mọi môn toán học
chỉ là một ảo tưởng. Định lý Godel lại còn có tác động lên nhiều lãnh vực tinh
thần khác như triết học và tin học. Về triết học, thì nó cho thấy tư tưởng hợp
lý không phải là không có giới hạn, và về tin học, nó hàm ý rằng có nhiều bài
toán học không bao giờ được giải quyết bằng máy tính.
Matthieu: Phật giáo đã từ lâu xác
định rằng vọng tưởng có nhiều giới hạn trong tự thân. Con đường giác ngộ không
chối bỏ lý trí, nhưng siêu vượt lên lý trí. Lý trí không đủ để diễn tả chân lý
tối hậu vì lẽ những giới hạn nối liền với cấu trúc của lý trí không cho phép
một nhận thức trực tiếp của tuyệt đối. Muốn hiểu bản thể của “Tâm”, cần phải
chấm dứt vọng tưởng để vượt qua nhị nguyên chủ thể-khách thể.
Thuận: Kết quả đáng ngạc nhiên của định
lý Godel đã chỉ ra rằng có một giới hạn tự nhiên cho nhận thức khoa học. Muốn
vượt qua giới hạn đó, phải cần đến những cách nhận thức khác mà bạn vừa đề cập.
Matthieu: Đây là một điểm quan
trọng vì những con người ở thời đại chúng ta đã tạo ra một hình ảnh gần như
huyền bí cho khoa học. Họ quan niệm như thể khoa học, một ngày nào đó, sẽ có
thể trả lời mọi câu hỏi. Nhưng thật ra còn rất xa để có thể đến được đó, chưa
nói đến việc giác ngộ hay nhận thức tâm linh ngay trong đời sống hiện tại,
nhiều vấn đề vẫn còn ngoài tầm hiểu biết của khoa học.
Thuận: Khoa học cũng chưa hẳn là đã
khách quan như các phương pháp khoa học thường giải thích. Nhà khoa học làm
việc giữa một xã hội với một nền văn hóa. Dù muốn hay không muốn, ông ta cũng
bị chi phối bởi những khái niệm siêu hình. Còn trong việc trình bày kết quả của
các cuộc nghiên cứu, ông ta cũng bị ảnh hưởng bởi sự huấn luyện nghề nghiệp, sự
theo học các bậc thầy, tác động của các đồng nghiệp và công trình của họ. Vì
thế một khi đi vào công cuộc nghiên cứu, thì cần về sự quan sát thế giới bên
ngoài cộng với những thực nghiệm được phân tích và giải thích ở nội tâm cùng
với sự soi sáng của các khái niệm và lý thuyết của mỗi nhà khoa học. Ví dụ với
nhà Vật lý thiên văn thì ông ta viện dẫn đến sự hình thành các thiên hà, còn
nhà vật lý thì nghĩ đến lý thuyết về các lực nguyên tử. Sự chấp nhận một thuyết
này thay vì một thuyết khác, cũng không phải là không có định kiến. Nhà khoa
học sẽ bị ảnh hưởng bởi quan điểm của các vị thầy hoặc của các đồng sự gần gũi
(điều mà người ta hay gọi là một trường phái), hay tệ hơn bởi những sự kiện có
tính cách thời lượng. Tuy nhiên, trong khoa học cũng như trong các lãnh vực
khác, phải dè chừng những thể cách thời lượng. Một lý thuyết được nhiều người
ưa thích chưa hẳn là một lý thuyết hay. Đa số những người chấp nhận lý thuyết
ấy, không phải là vì sau khi cứu xét kỹ lưỡng, mà là vì xu thời hay vì muốn
theo gót những con chim đầu đàn nhiều uy tín.
Với tư cách là một sinh vật biết
suy nghĩ, nhà khoa học không thể quan sát thiên nhiên một cách hoàn toàn khách
quan. Einstein đã viết: “Những khái niệm vật lý là những sáng tạo tự do của tâm
trí con người, dù rằng chúng có vẻ như bị chi phối bởi thế giới bên ngoài.
Những cố gắng của chúng ta để nắm bắt thực tại giống như một con người cố tìm
hiểu cơ chế của cái đồng hồ đóng kín. Nó nhìn thấy mặt kính đồng hồ cùng những
cây kim đang di chuyển, nó nghe cả tiếng kêu tích tắc, nhưng nó không có phương
tiện nào để mở nắp đồng hồ. Nếu nó khéo tay, nó có thể nghĩ ra hình ảnh một cơ
chế hoạt động của vật thể mà nó quan sát, nhưng không bao giờ nó có thể chắc
chắn rằng hình ảnh mà nó tạo ra là duy nhất có thể giải thích được những gì mà
nó quan sát. Nó không bao giờ có thể so sánh cái kiểu mẫu do nó sáng tạo với cơ
chế thực sự, và cũng không thể tưởng tượng nổi cái khả năng mà sự so sánh đó có
thể đem lại một ý nghĩa nào”.
Khi mà nhiều lý thuyết đều khả
thi, những lại không cùng phù hợp, được đưa ra nhân cùng một hiện tượng, sự
chọn lựa giữa các lý thuyết đó thường là dựa vào những nhận xét siêu hình. Vì
vậy, Einstein vì chuộng thực tế, nên không bao giờ chấp nhận sự giải thích cách
nhiên về thực tại nguyên tử và thực tại vi mô của cơ học lượng tử. Ông đã để ra
nhiều năm cố tìm một kẽ hở trong thuyết lượng tử mà không bao giờ thành công.
Vì thế nên ông rời bỏ khoa vật lý vi mô, để chú tâm vào những khám phá lớn làm
đảo lộn lãnh vực này trong thập niên 50.
Matthieu: Những lý thuyết khoa học
chịu ảnh hưởng siêu hình hơn người ta thường tưởng. Nhà khoa học Tây phương có
khuynh hướng cho rằng có một thực tại rõ ràng và chắc thật đằng sau mọi hiện
tượng, và vì vậy cố tìm ra một nguyên nhân đầu tiên cho vũ trụ. Trái lại nhà khoa
học Đông phương thường đặt lại vấn đề thực tại. Ông ta dễ dàng chấp nhận một sự
tương thuộc các hiện tượng trong một thế giới không có khởi đầu. Vì thế ông ta
dễ dàng chấp nhận hơn những tư tưởng siêu hình và dựa vào đó ông ta hình dung
ra những lý thuyết mới.
Thuận: Nhưng những định kiến khoa học
không phải tất cả đều xấu, và còn có thể là một nguồn cảm hứng cho nhà khoa học
nữa. Thật vậy nếu không có tiên kiến, không có ảnh hưởng tôn giáo trước vô số
thông tin mà thiên nhiên đem đến cho nhà khoa học, làm sao ông ta có thể lựa
chọn thông tin nào khả dĩ giúp ông tìm ra những định luật, những nguyên lý mới?
Sự lựa ra thực tại là một giai đoạn thiết yếu trong việc nghiên cứu khoa học.
Vì vậy thực tại không thể không bị chuyển đổi trong nội tâm. Và nhà khoa học
chỉ thấy điều gì ông có thể thấy, hay chỉ muốn thấy mà thôi.
Matthieu: Einstein còn nói: “Trên
nguyên tắc, thật là sai lầm khi đặt một lý thuyết chỉ duy nhất trên những tinh
độ có thể quan sát được. Thật ra, cái gì đến lại hoàn toàn trái ngược. Vậy là
chỉ lý thuyết mới quyết định được cái gì chúng ta có thể quan sát”.
Thuận: Cha đẻ của thuyết tiến hóa
Charles Darwin đã kể một câu chuyện thú vị về vấn đề này. Trong một chuyến đi
ông đã để ra cả một ngày bên cạnh một con rạch và chỉ thấy sỏi và nước. Mười
một năm sau, ông trở lại nơi đó để tìm dấu vết một băng hà, và dĩ nhiên ông
thấy dấu vết băng hà. Có thể ông đã tìm thấy nó trước đây, nếu ông biết tìm
đúng chỗ. Có nhiều ví dụ tương tự như thế.
Matthieu: Các nhà khoa học thường
có khuynh hướng đặt những sự kiện mới trong khuôn khổ những khái niệm sẵn có,
và không thích đi ra ngoài những khuôn khổ đó.
Thuận: Đúng thế, tuy nhiên những cuộc
cách mạng khoa học được hình thành do sự góp nhặt các sự kiện mới không đi vào
các khuôn khổ cũ như đã nói, mà bắt buộc chúng ta phải thay đổi quan niệm. Điều
này cũng xảy ra khi các thiên tài nhìn thấy những liên kết mới giữa các hiện
tượng có vẻ như tách biệt. Theo nhà viết sử về khoa học Norwood Russell Hanson
thì: “Người quan sát gương mẫu không phải là kẻ xem và kể lại những gì người
khác cũng đã xem và kể lại, nhưng là người đã nhìn thấy qua những vật thể quen
thuộc điều mà không một ai khác nhìn thấy được”. Newton đã khám phá ra luật hấp dẫn khi ông
hiểu ra sự liên hệ giữa một trái táo rơi với sự vận chuyển của mặt trăng xung
quanh mặt trời. Einstein khám phá ra luật tương đối khi ông nhận thức được sự
liên kết giữa thời gian và không gian.
Những thành tựu về sáng tạo và
tưởng tượng đó không phải là do tình cờ, mà là kết quả của nhiều năm dài nghiền
ngẫm, sàng lọc, phân tích, tổng hợp những yếu tố phân tán của thế giới bên
ngoài. Tôi không nghĩ rằng sự thiếu khách quan trong phương pháp khoa học có
nghĩa là cơ bản, khoa học nói chung còn nhiều thiếu sót. Khoa học được bao che
bởi một hành lang an toàn. Nhờ đó, nó luôn luôn trở lại đúng hướng mỗi khi lạc
lối hay đi vào ngõ cụt. Hành lang an toàn ấy là tác động hỗ tương giữa lý
thuyết và quan sát. Có hai khả năng:
Một là những quan sát mới, hay
kết quả những cuộc thí nghiệm gần đấy phù hợp với lý thuyết đương thời và như
vậy lý thuyết này được củng cố.
Hoặc là nếu không phù hợp thì lý
thuyết trên có thể bị sửa đổi hay gạt bỏ, dành chỗ cho một lý thuyết khác có
thể tiên đoán được các hiện tượng có thể kiểm chứng bằng thực nghiệm. Nhà khoa
học trở lại với kính viễn vọng hay với chiếc máy gia tốc các nguyên tử. Thuyết
mới chỉ có thể được chấp nhận nếu những tiên đoán của ông ta được xác nhận.
Quan sát và đo đạc của nhà khoa học cần phải được tái lập và xác nhận bởi những
nhà nghiên cứu khác và những kỹ thuật khác.
Khoa học tiến bộ không phải theo
một con đường thẳng như người ta vẫn tưởng, mà theo một con đường quanh co khúc
khuỷu.
Matthieu: Sự qua lại giữa lý thuyết
và thực nghiệm cho phép ta kiểm chứng một lý thuyết giải thích và tiên đoán
đúng một vài sự kiện. Tuy nhiên điều đó cũng không ảnh hưởng gì đến định kiến
siêu hình của các nhà nghiên cứu. Một nhà khoa học có thể chứng minh cho một
bạn đồng nghiệp rằng ông này sai về thời gian tồn tại, hay về khối lượng của
một hạt cơ bản. Tuy nhiên cả hai đều biết chắc rằng sự hiện hữu của hạt cơ bản
là có thật. Mỗi khi có một cuộc cách mạng khoa học quan trọng, các khoa học gia
luôn tin tưởng rằng mình đã đạt đến chân lý. Đó chẳng qua cũng chỉ là một ảo
tưởng, một định kiến triết học.
Thuận: Vài nhà khoa học lại còn long
trọng tuyên bố “Chúng ta đã hiểu tất cả, không còn gì để khám phá nữa”. Lịch sử
khoa học đã chứng minh rằng cho đến bây giờ họ đã lầm. Vào cuối thế kỷ XIX,
Lord Kelvin, một chuyên gia về nhiệt động học đã tuyên bố rầm rộ là việc nghiên
cứu về vật lý đã chấm dứt, các thế hệ mai sau chỉ còn việc làm cho công việc đo
đạc tinh vi hơn, và bổ sung các số lẻ. Ông đã nhầm to: vài năm sau, thuyết
tương đối và cơ học lượng tử đã làm đảo lộn ngành vật lý. Theo ý tôi, tôi nghĩ
rằng chúng ta không bao giờ biết được tất cả sự thật nếu chỉ dựa vào khoa học.
chúng ta luôn tiến gần đến đích, nhưng không bao giờ đến được đó. Định lý Godel
đã chỉ ra những hạn chế của lý trí.
Matthieu: Điều này không hàm ý rằng
Thiền định trong Phật giáo là không khoa học. Nếu ta xác định rằng môn Khoa học
tự nhiên là lãnh vực có thể nghiên cứu theo hướng vật chất, ta đã loại ra ngay
từ đầu cái “Tôi” (tức ngôi thứ nhất) và mọi hiện tượng phi vật chất. Nếu ta
quên điều đó, ta sẽ mau chóng khẳng định rằng vũ trụ là tất cả, mọi vật đều
thuộc dạng khách thể (ngôi thứ ba) và duy nhất là vật chất. Và như vậy, dù biết
hay không ta đã có một lập trường siêu hình.
Thuận: Thật là đáng tiếc, vì như vậy ta
có thể bỏ qua những khám phá quan trọng. Nhưng sự loại ra mọi cái phi vật chất
có vẻ là cần thiết trong việc phát triển môn khoa học tự nhiên. Nếu Thiền định
trong Phật giáo thật sự là một khoa học thì những giả thiết của nhà nghiên cứu
Phật giáo sẽ như thế nào.
Matthieu: Mục tiêu căn bản của Phật
giáo là chấm dứt đau khổ. Ta bắt đầu bằng việc quán xét nội tâm để xem cái gì
có thể đem lại một sự an lạc, và cái gì phá hoại sự bình an của thiền giả. Ta
nhận thấy rằng những tình cảm như ác ý, đố kỵ, ham muốn không thể đem lại an
vui lâu dài, vì lẽ đó là những tình cảm vị kỷ chỉ kích thích lòng tham dục.
Hiểu được điều này, ta thấy rằng cần phải chuyển hóa những tình cảm tiêu cực
gắn liền vào tự ngã. Nếu dứt bỏ được sự lừa dối của tự ngã, dần dần chúng ta sẽ
chấm dứt đau khổ.
Thuận: Bây giờ hãy đi vào giai đoạn
thực nghiệm.
Matthieu: Trong giai đoạn thực
nghiệm, ta phân tích những đặc điểm của cái “tôi”, đến khi nào ta biết rằng
“cái tôi” chỉ là một nhãn hiệu tinh thần. Và khi “cái tôi” tan biến thì ta mới
biết điều gì sẽ xảy ra. Ta nhận thấy lợi lạc của lòng bao dung, tính kiên nhẫn,
tình yêu muôn loài cũng như sự độc hại của lòng ích kỷ, sự sân hận và tính đố
kỵ v.v... Dần dần ta hiểu ra cơ chế của những tình cảm ấy, và ta tìm cách thanh
lọc tâm với nhiều phương pháp khác nhau.
Thuận: Những điều vừa nói, phải chăng
đã nêu lên những liên hệ cần thiết và không thay đổi giữa các hiện tượng?
Matthieu: Các cơ chế tình cảm vận
hành rất mạch lạc ví dụ lòng sân hận không bao giờ đem đến hạnh phúc thật sự.
Vài người cảm thấy hài lòng một cách điên rồ, khi lên cơn giận dữ, nhưng ai
cũng biết rằng ta không thể sống an vui với tâm trạng đó. Sân hận đố kỵ làm mất
đi mọi niềm vui, trong khi tình yêu và lòng bi mẫn đem lại cho ta sự bình an
thoải mái trong tâm hồn.
Thiền định không phải là công
việc trừu tượng, mà là một cuộc khám phá đòi hỏi một sự quán sát nội tâm sâu
xa, lâu dài có hệ thống giống như một nhà bác học phân tích những chủ đề vật lý
và toán học. Công việc quán xét nội tâm đó không đưa tới một phương trình nào,
nhưng những tháng năm dài để suy gẫm về sự vận hành của tâm trí, cuối cùng cũng
làm cho tâm trở nên ổn định, sáng suốt và tươi mát.
Thuận: Có phải lúc khởi đầu ta quan sát
người khác, rồi sau đó mới quay lại quan sát chính ta?
Matthieu: Cả hai việc đều phải song
hành. Nếu sự quan sát người khác có thể mở mắt cho ta, thì điều quan trọng là
quay về với nội tâm của chính chúng ta.
Nếu chúng ta phạm sai lầm với
người khác, chúng ta lại không thể che dấu sự thật của chính mình. Do vậy,
chúng ta cần phải luôn nhìn trong tấm gương tâm của chúng ta. Thiền định sẽ
giúp chúng ta phá tan những định kiến về thế giới bên ngoài, cũng như những
định kiến về cả chúng ta và nhờ thế dần dần chúng ta sẽ khám phá ra bản thể của
vạn vật.
Thiền định còn chỉ rõ cái “tôi”
chỉ là một sản phẩm của tưởng tượng và điều này nếu ta hiểu thật thấu đáo sẽ
ảnh hưởng đến cái nhìn thế gian cũng như cách xử thế của chúng ta.
Thuận: Bây giờ chúng ta đi đến giai
đoạn chót của việc kiểm chứng. Trong khoa học, sự quan sát cũng như thực nghiệm
đều có tính cách khách quan, có nghĩa là kết quả không tùy thuộc vào nhà nghiên
cứu. Một nhà vật lý người Việt hay người Mỹ sẽ đạt được những kết quả tương tự
với kết quả của một đồng nghiệp người Pháp, nếu công việc đo đạc được thực hiện
chính xác. Cái tính khách quan đó là nền tảng của phương pháp thực nghiệm. Một
khám phá khoa học khác thường chỉ có thể được cộng đồng khoa học chấp nhận, nếu
nó được kiểm chứng một cách độc lập bởi những nhóm khoa học gia sử dụng dụng cụ
và phương pháp khác nhau.
Trái lại, trí tuệ của Phật giáo
lại dựa vào thiền định và quán sát nội tâm hoàn toàn cá nhân và chủ quan. Một
quan niệm về trí tuệ như thế có tính cách phổ biến hay không?
Matthieu: Khảo sát nội tâm từ lâu
đã tạo nên một thành kiến không tốt ở phương Tây, vì lẽ người ta chưa biết phải
làm sao để tiếp cận nó. Người ta cho rằng tinh thần là một cái gì không ổn định
và những cuộc thí nghiệm về chính nó không thể tái lập được. Thái độ đó xuất
phát từ những người quan tâm đến Thiền, một mặt đã không trải nghiệm được trạng
thái tâm linh, mặt khác họ đã không rút tỉa được gì từ những kinh nghiệm của
các Thiền giả phương Đông.
Kinh nghiệm nội tâm có một giá
trị không chối cãi được đối với các thiền giả qua nhân cách, lòng vị tha, sự
thanh thản, bao dung, cao thượng tâm hồn mà Thiền mang đến cho họ. Ngoài ra,
nếu từ bên ngoài ta không thể đánh giá được giá trị của Thiền thì tốt hơn là ta
nên tự trải nghiệm để nhận thức lấy kết quả.
Thuận: Vậy phải thực hành như thế nào?
Matthieu: Bạn có nói đến trong vật
lý và trong thiên văn vật lý việc sử dụng những thiết bị càng ngày càng mạnh
hơn. Trong Thiền định, dụng cụ chỉ là tinh thần. Ban đầu nó chưa thích nghi
được nên thất thường, không ổn định và mất phương hướng. Nó cũng khó bị chế ngự
như một con thú rừng bị sập bẫy. Vậy là phải điều chỉnh và mở rộng ống kính của
kính viễn vọng. Và nhờ vào một cố gắng liên tục, cái tâm trở nên ổn định hơn,
yên lặng và dễ điều khiển hơn. Ta loại trừ dần những tình cảm thô thiển như sân
hận, đố kỵ, tham lam, rồi tiến đến ta cố dứt trừ những vọng niệm, và những chao
động của tâm. Ta sẽ nhận ra được những cơ chế căn bản của thương, ghét, của sự
mê muội cũng như trong sáng của tâm, của sự trói buộc và sự giải thoát.
Thuận: Tôi muốn biết có cần phải vượt
lên việc suy gẫm có tính phân tích ấy và phải làm thế nào? Mặt khác nhận diện
các vọng niệm phải chăng là vô hiệu hóa chúng?
Matthieu: Ta không nên gạt bỏ chúng
ngay, mà phải truy tìm nguồn gốc của chúng. Khi ta quan sát chúng, ta nhận thấy
chúng không có tính cách chắc thật, không hình dáng, màu sắc, vị trí nhất định
và chúng tự tan biến khi ta theo dõi chúng. Chúng không đến từ đâu và cũng
không đi về đâu. Chúng tan đi như sương sớm dưới mặt trời. Và khi vọng tưởng đã
dứt bặt, tâm sẽ ở trong trạng thái nguyên sơ, trong sáng, thanh thản không còn
nghĩ gì đến quá khứ. Không còn hướng đến tương lai, không còn sợ hãi cũng như
không còn hoài vọng điều gì khác. Sự tập luyện tâm này nếu tiến hành liên tục
sẽ giúp ta thấy được tính cách không nắm bắt được của các tư tưởng. Và khi nhận
ra tính không của chúng, ta sẽ thoát ra được sự ràng buộc của chúng. Những tư
tưởng nhiễu loạn mất dần khả năng gây ra những xáo trộn tâm hồn có thể biến
chúng ta thành tiêu cực đối với người khác. Với thời gian, ta trở thành chuyên
gia trong việc nhận diện các tư tưởng và mỗi khi chúng khởi lên ta nhìn chúng
thì chúng tan đi giống như một cụ già nhìn bọn trẻ chơi đùa vậy.
Thuận: Với một con người bình thường,
phải mất bao lâu để đi đến giai đoạn ấy? Cả một đời người chăng?
Matthieu: Không nhất thiết phải
thế. Tùy theo năng lực và sự kiên trì của mỗi người. Trong giai đoạn đầu, tập
nhận ra tư tưởng khi chúng xuất hiện, giống như ta nhận ra người quen trong đám
đông. Đến một giai đoạn cao hơn, tư tưởng tự nó tháo gỡ như con rắn tự mình
tháo ra sau khi đã khoanh tròn. Và sau cùng ta tự mình làm chủ lấy tâm và tư
tưởng không còn làm hại ta được nữa. Ta có thể ví von như tư tưởng là một kẻ
trộm đi vào một căn nhà trống, không lấy được gì và chủ nhà cũng không mất gì.
Tư tưởng đến rồi đi, không để lại dấu vết, giống như ta dùng ngón tay vẽ trên
mặt nước.
Thuận: Nhưng kinh nghiệm đó thay đổi
rất nhiều ở những con người khác nhau, trong khi thực nghiệm khoa học lại có
thể tái lập được.
Matthieu: Kinh nghiệm thiền định
của mỗi cá nhân không thể quan sát được bởi một cá nhân khác như những thử
nghiệm khoa học, và cũng không chỉ ra được một sự thật hiển nhiên khách quan
nào. Đôi khi thiền giả lại đánh giá không đúng kinh nghiệm của mình. Tuy nhiên,
như tôi đã trình bày, kết quả là một sự chuyển hóa lâu dài của một con người,
và điều này rõ ràng là có tính cách khách quan. Hơn nữa, trong lãnh vực nội
quán, những mục tiêu đạt đến rất mạch lạc: sự bình an, sự không còn luyến ái,
lòng bi mẫn, tính cao thượng. Những kết quả này không tùy thuộc vào bất cứ loại
người nào. Những phương tiện, những kỹ thuận mà thiền giả sử dụng rất giống
nhau. Những văn bản Phật giáo mô tả rất chi tiết các giai đoạn của tiến trình
ấy. Thật ra tùy theo căn cơ của mỗi người, chúng ta tiến đến việc làm chủ bản
tâm của chúng ta mau chóng hay trì trệ, nhưng kết quả nói chung thì cũng gần
giống như nhau.
Thuận: Những sự mô tả các tác giả khác
nhau có phù hợp với nhau chăng?
Matthieu: Những sự mô tả không nhất
thiết phải sử dụng cùng một loại hình ảnh, nhưng các giai đoạn trong cuộc hành
trình đến giác ngộ và kết quả thì phù hợp với nhau. Ví dụ một vài tác giả nói
rằng ban đầu tư tưởng giống như một dòng sôi sục rồi sau đó trở thành một con
sông nhỏ thỉnh thoảng có vài dợn sóng lăn tăn, sau cùng biến thành một đại
dương mà bên dưới hoàn toàn yên lặng. Có rất nhiều tác phẩm mô tả nhiều chi
tiết, nhiều kỹ thuận chỉ dẫn các giai đoạn thiền định để cuối cùng đi đến Giác
ngộ.
Thuận: Giống như Đức Phật?
Matthieu: Giống như Đức Phật và
những vị Tổ đã đi theo con đường của Ngài. Thật ra, có nhiều mức độ trong việc
thành tựu tâm linh, tuy nhiên mức độ nào cũng đem đến một sự an lạc đáng kể. Sự
giác ngộ của Đức Phật dĩ nhiên là vô thượng so với thành tựu của một hành giả
sơ cơ, cũng giống như bầu trời xanh bao la so với bầu trời nhìn qua một lỗ kim.
Trong cả hai trường hợp, ta cùng thấy một bầu trời. Dù chưa đi đến giác ngộ,
người ta cũng đã nếm được mùi vị của sự giải thoát. Nói chung, có thể xem thiền
định nghiêng về chất lượng, trong khi vật lý học nghiêng về số lượng.
Thuận: Trở lại vấn đề giác ngộ, Đức
Phật phải chăng là người duy nhất đạt đến đó? Mỗi người chúng ta có khả năng
đến được đó không?
Matthieu: Với kinh nghiệm bản thân,
Đức Phật cho rằng những ai thành tâm và quyết chí đi theo con đường của Ngài
thì sẽ đạt được kết quả giống như Ngài. Người há đã chẳng nói: “Ta đã chỉ ra
con đường. Các con chỉ còn đi theo con đường ấy”. Mỗi chúng sinh đều có sẵn
năng lực để đạt đến nhận thức về bản thể tối hậu của tâm. Bản thể này gần giống
như tình yêu bao trùm muôn loài trên thế gian. Kẻ nào thoát khỏi những ràng
buộc tinh thần tiêu cực, sẽ nhận thức được một sự bình yên và một lòng từ ái
không gì lay chuyển được.
Thuận: Nhưng làm sao biết được là ta
nhầm lẫn? Trong các khoa học tự nhiên, người ta đối chiếu những tiên đoán của
một lý thuyết với sự quan sát khách quan, ví dụ như quỹ đạo một hành tinh chẳng
hạn. Nếu phù hợp thì lý thuyết được chấp nhận. Nếu không, sẽ bị bác bỏ hay sửa
đổi.
Matthieu: Nếu những thông tin khoa
học giống như một bản đồ địa lý, thì giáo lý của Đức Phật giống như một cuốn
sách chỉ dẫn du lịch. Càng tiến lên, con đường càng trở nên sáng sủa hơn. Người
ta sẽ nhận thức được rằng càng rời xa con đường, sự tiến bộ càng chậm lại.
Những trở ngại đó có thể làm ta thất vọng, nghi ngờ, rối loạn đôi khi căm ghét,
nhưng nếu hiểu được chúng thì đó sẽ là cơ hội để ta tinh tấn hơn. Tất cả những
trạng thái tâm linh đó đều được mô tả chính xác trong các bản văn Phật giáo.
Thuận: Điều này bắt đầu giống như lý thuyết
và thực nghiệm của các môn khoa học tự nhiên.
Lý thuyết là giả định rằng sự
luyến ái về cái “tôi” là đầu mối của mọi đau khổ, phiền não.
Phương pháp là phân tích cái tôi
đó và hậu quả do nó gây ra.
Thực nghiệm là quán sát nội tâm
và thiền định. Và kết quả là loại trừ tham ái và vô minh. Nếu ta vấp phải những
trở ngại, ta lại sử dụng những phương tiện thiền định khác để vượt qua, và mục
tiêu cuối cùng vẫn là dẹp bỏ cái “Ngã”.
Tôi bắt đầu hiểu rõ hơn vì sao
bạn lại dùng từ “Khoa học Thiền định”. Theo tinh thần của các phương pháp thiền
định để đi đến giác ngộ, thì chúng rất gần với phương pháp khoa học. Điều làm
tôi ngạc nhiên nhất là việc quán sát nội tâm có thể tái lập được.
Matthieu: Những cuộc nghiên cứu tâm
lý về quán sát nội tâm thường không đem lại kết quả vì thiếu kiên nhẫn, và vì
không chú ý đến kinh nghiệm của truyền thống đã có từ hàng nghìn năm nay. Quán
sát nội tâm đòi hỏi một sự kiên trì để đi đến cùng sự phân tích, nếu không sẽ
dễ thối chí, ngã lòng. Dưới cái nhìn của khoa học tự nhiên sự quán sát nội tâm
cũng bị nghi ngờ bởi vì nó có tính cách chủ quan.
Thuận: Những nhà thần kinh học cũng cố
gắng phát triển những phương pháp chủ quan để nghiên cứu về tâm.
Matthieu: Thật ra những kỹ thuận
mới về ghi hình trong Tâm đã tiến triển vượt bực. Người ta có thể phân biệt
những vùng não nào của não bộ khởi động khi ta làm một cử chỉ, và những vùng
nào hoạt động khi ta chỉ nghĩ đến cử chỉ đó. Những vùng hoạt động cũng khác
nhau khi nghe một từ trừu tượng hay một từ cụ thể. Gần đây Francisco Valera đã chỉ
ra hiện tượng nối liền các phần của não, khi nhận ra một vật thể. Một chương
trình nghiên cứu cũng đã bắt đầu phát triển với những nhân vật đã tu tập thiền
định nhiều năm dài. Những kết quả sơ khởi rất đáng khích lệ và những công việc
nghiên cứu sẽ được công bố.
Nhưng liệu việc quán sát nội tâm
thuần túy, việc nhận ra bản thể tối hậu của sự vật, có thể được diễn tả một
ngày nào đó trên bình diện thần kinh học?
Người ta có thể khám phá ra
những khác biệt trong hoạt động của não bộ, nhưng những khác biệt này cần được
bổ sung bởi kinh nghiệm của thiền giả. Nếu không, những kết quả không thể cho
ta biết về chất lượng sống động của thiền định.
Thuận: Phải nói rằng còn rất lâu chúng
ta mới hiểu được bộ não vận hành như thế nào khi chúng ta thương ghét, sáng tạo
hay cảm thấy vui, buồn. Cần phải để ý đến việc bắt chước có hệ thống của khoa
học tự nhiên, do các khoa học tâm linh sử dụng, thường đem lại nhiều điều quá
đáng. Vào đầu thế kỷ XX, thuyết tâm lý phản ứng đã cố gắng đưa tâm lý học lên
hàng khoa học khách quan bằng cách nghiên cứu cách phản ứng của các sinh vật
với các kích động bên ngoài. Thuyết này loại bỏ mọi điều không thể quan sát
trực tiếp được và những người chủ trương còn cho rằng không có sự tồn tại của
tâm thức, một điều hết sức vô lý.
Matthieu: Dù người ta không phát
hiện được một điều gì có thể đo đạc được ở các thiền giả, điều này cũng không
làm giảm đi giá trị của kinh nghiệm nội tâm và sự chuyển hóa tâm hồn của thiền
giả. Ngược lại, dù nhà nghiên cứu nó xấu hay tốt thế nào đi nữa, điều này cũng
không làm thay đổi công trình của họ. Mục đích cơ bản của thiền định là trở nên
một con người tốt hơn. Nhưng lối sống “thiền” đôi khi dễ làm người ta chán nản.
Luôn luôn tìm kiếm năng lực để dẹp bỏ các tật xấu không phải là điều dễ dàng.
Thuận: Tâm lý học và khoa học tâm linh
tây phương có cùng nghiên cứu các đề tài này không?
Matthieu: Tâm lý học nghiêng về
tình cảm, về cách ứng xử, về kỷ niệm, còn các khoa tâm linh nghiên cứu các
trạng thái tinh thần liên quan đến nhận thức, ký ức v.v... Nhưng dù cho những
khoa học ấy càng ngày càng lớn mạnh, chúng cũng không đem đến một sự cải thiện
tinh thần đáng kể nào cho con người.
Thuận: Vậy khoa tâm lý và tâm phân học
có thể giúp ta được, nhưng có lẽ nó cần mở rộng tầm nhìn và áp dụng một vài
phương pháp thiền định.
Matthieu: Trường hợp của Tâm phân
học lại khác. Tâm phân học nhắm vào việc hòa giải, việc ổn định “tự ngã” để trở
lại trạng thái bình thường. Vấn đề là tìm ra một phương trình thích nghi giữa
những xung lực của tự ngã và nhu cầu xã hội. Thiền định thì lại nhằm dẹp tan tự
ngã.
Trong trường hợp Tâm phân học,
cái “tôi” là ưu tiên số một. Người ta củng cố nó, và nó bị kẹt trong ảo tưởng
là nó thật sự hiện hữu để bị người ta nhào nặn như một mẩu giấy dính mà người
ta không sao quẳng đi được.
Trong trường hợp Thiền định,
người ta thiêu rụi “cái tôi” đó như thiêu lông chim không để lại chút tro nào,
như vậy mục đích vượt xa một sự ổn định hay trở lại trạng thái quân bình.
Thiền định giải thoát ta khỏi
mọi ràng buộc của tự ngã, và đem lại một sự an lạc tràn đầy mà Tâm phân học
không có được. Nó còn giúp ta hiểu được bản thể không những của ta mà của cả
thế giới bên ngoài nữa.
Thuận: Với nhà khoa học, niềm vui khi
khám phá các bí mật thiên nhiên rất phấn khởi, tuy nhiên nó không đủ cho cả một
đời người. Những giây phút khi thật sự được tìm thấy, rất mực sôi động nhưng
ngắn ngủi.
Từ khi khoa học bắt đầu nảy sinh
từ thế kỷ XVI, kiến thức của chúng ta đã phát triển mãnh liệt, nhưng không vì
thế mà chúng ta trở nên đạo đức hơn. Và thiền định chính là phương pháp giúp ta
lấy lại cái đạo đức đó.
Tình thế có vẻ cấp bách hơn
nhiều khi con người có khả năng làm xáo trộn môi trường sinh thái của cả một
hành tinh, và cũng có thể tự hủy diệt. Do vậy vấn đề đạo đức là cấp thiết hơn
bao giờ hết, nhất là trong lãnh vực di truyền, trong khi khoảng cách giữa người
nghèo và người giàu không ngừng gia tăng.