NHỮNG PHẨM CHẤT TỐT ĐẸP SỐNG GIỮA NHỮNG CON NGƯỜI
Hầu hết chúng ta có đôi khi trải qua những giây phút cô đơn ngay cả khi đang sống giữa đông người. Cảm giác cô đơn này không phải do không có người để giao tiếp, mà là do có những khoảng cách nhất định giữa ta và mọi người chung quanh. Tính cách phổ biến của vấn đề đã lôi cuốn sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu thuộc các lãnh vực khác nhau như xã hội học, tâm lý học...
Tần số xuất hiện của trạng thái cô đơn thậm chí còn có vẻ như cao hơn ở những xã hội náo nhiệt hơn. Một cuộc khảo sát quy mô lớn ở Hoa Kỳ về chủ đề này ghi nhận có đến một phần tư số người Mỹ được hỏi đã trả lời là họ đã cảm thấy rất cô đơn ít nhất là một lần trong vòng hai tuần vừa qua. Và hầu như tất cả những người tham gia đều nói là họ đã từng trải qua những giây phút cảm thấy cô đơn vào một lúc nào đó.
Trước đây, cảm giác cô đơn này được cho là thường xuất hiện ở một số đối tượng nhất định, chẳng hạn như những người lớn tuổi phải sống cách biệt trong các dưỡng đường. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu mới lại xác định là các đối tượng ở độ tuổi thiếu niên và thanh niên cũng gặp phải vấn đề với mức độ thường xuyên không kém gì những người lớn tuổi.
Các nhà nghiên cứu cũng cố gắng phân tích những nguyên nhân đã tạo ra trạng thái cô đơn này. Kết quả ban đầu cho thấy nguyên nhân thường gặp nhất là do kém khả năng giao tiếp, chẳng hạn như có khó khăn trong việc bộc lộ những vấn đề của bản thân mình, có khó khăn về ngôn ngữ trong giao tiếp, thính lực kém gây khó khăn cho việc trò chuyện với người khác, thiếu kỹ năng giao tiếp xã hội, vụng về trong ứng xử... Căn cứ vào kết quả này, các nhà nghiên cứu đề nghị phương thức tốt nhất để vượt qua tâm trạng cô đơn là phải hoàn thiện những kỹ năng giao tiếp xã hội.
Những kết quả nghiên cứu nêu trên nói lên một thực tế mà bất cứ ai trong chúng ta cũng đều có thể tự cảm nhận được. Thật ra, khoảng cách giao tiếp giữa mỗi chúng ta với mọi người chung quanh hoàn toàn có thể vượt qua bằng vào việc hoàn thiện những phẩm chất tinh thần, mà cụ thể nhất là một cách nhìn tích cực về đời sống như đã thảo luận trong chương trước.
Bản chất của mỗi con người đều tốt đẹp. Vì thế, ngay cả những người bị xem là hiểm ác hoặc thô lỗ nhất cũng vẫn có những khía cạnh tích cực nhất định nào đó. Khi chúng ta chấp nhận quan điểm này, chúng ta sẽ dễ dàng hơn nhiều trong việc giao tiếp và tạo ra mối quan hệ thân mật với bất cứ ai.
Mặt khác, sự quan trọng hóa chính mình là một trong những khuynh hướng tự nhiên tạo ra khoảng cách trong giao tiếp. Khi giao tiếp với bất cứ ai, chúng ta thường có khuynh hướng e ngại, lo sợ việc người ấy sẽ đánh giá thấp về mình. Vì thế, chúng ta luôn cố gắng ứng xử theo một cung cách nhất định nào đó, đôi khi rất gượng ép, thiếu tự nhiên. Khi hiểu được và loại bỏ khuynh hướng này, sự giao tiếp sẽ trở nên cởi mở hơn, đôi bên không còn khoảng cách và dễ dàng tạo ra mối quan hệ thân thiết với nhau hơn.
Nhưng để có được một cái nhìn tích cực đối với bất cứ ai trong giao tiếp là một điều không dễ dàng. Có những đối tượng giao tiếp mà khuynh hướng tự nhiên không mang lại cho chúng ta nhiều thiện cảm, trừ khi chúng ta phát khởi được một tình thương chân thật với tất cả mọi người. Trong thực tế, tình thương chân thật là yếu tố chính yếu, quan trọng nhất để tạo ra quan hệ thân thiết với bất cứ ai trong giao tiếp.
Chúng ta cần hiểu cụm từ tình thương ở đây theo nghĩa rộng nhất của nó. Đó là một tình cảm chỉ xuất hiện khi chúng ta thực sự nhận ra được bản chất tốt đẹp và quý giá của đời sống, và trên cơ sở đó mà phát khởi lòng yêu thương đối với tất cả mọi người, thậm chí là đối với tất cả mọi sinh vật đang sống trong thế giới này. Phật giáo gọi đây là lòng từ bi, và mô tả bằng cụm từ “ban vui, cứu khổ” (Từ năng dữ lạc, bi năng bạt khổ.” Trong phạm vi vấn đề đang bàn đến, đây có thể nói là khái niệm chính xác và đầy đủ nhất.
Lòng từ bi tuy sẵn có nơi mỗi con người nhưng không phải tự nhiên mà có thể bộc lộ hay phát triển được. Chúng ta cần nhận thức rõ giá trị và lợi ích của nó trong đời sống, sau đó mới có thể dần dần nuôi dưỡng và phát triển. Và khi đã có được lòng từ bi, mọi cung cách ứng xử, giao tiếp của chúng ta với mọi người sẽ ngay lập tức thay đổi theo chiều hướng tích cực hơn.
Lòng từ bi tạo ra sự cởi mở và xóa bỏ khuynh hướng e ngại, lo sợ trong giao tiếp. Điều đó mang lại một không khí tích cực và thân thiện. Với các yếu tố này, trong giao tiếp bạn sẽ dễ dàng đạt được một mối quan hệ thân thiết với những tình cảm và đáp ứng tích cực từ người khác. Và ngay cả khi gặp phải những thái độ không thân thiện hay phản ứng không tích cực, thì sự cởi mở trong giao tiếp cũng giúp bạn có được một sự linh hoạt, uyển chuyển thích hợp, đảm bảo tối thiểu cũng có được một cuộc đối thoại hữu ích với người ấy.
Ngược lại, không có lòng từ bi, người ta sẽ luôn cảm thấy cách biệt với người khác, dễ cáu gắt, hoặc thiếu quan tâm đến người khác. Trong trường hợp này, ngay cả việc giao tiếp với những người bạn thân nhất cũng không thể mang lại sự thoải mái thật sự.
Khi giao tiếp, chúng ta luôn mong muốn, chờ đợi một thái độ tích cực từ phía người đối diện, thay vì là chủ động tạo ra những điều ấy. Đây là một khuynh hướng khá phổ biến, nhưng lại là một khuynh hướng sai lầm. Bởi vì chính khuynh hướng đòi hỏi nơi người khác như thế thường là trở ngại, rào chắn trong giao tiếp, và thường làm tăng thêm thay vì là xóa bỏ sự cách biệt vốn có giữa hai bên.
Vì thế, để vượt qua sự ngăn cách và cô đơn khi sống giữa mọi người, điều quan trọng là phải điều chỉnh quan điểm, thái độ của chính mình trong giao tiếp. Và việc nuôi dưỡng lòng từ bi chính là phương cách tốt nhất giúp ta làm được điều này.
CÁ NHÂN VÀ CỘNG ĐỒNG
Chúng ta đã đề cập đến bản chất tốt đẹp của con người. Nhưng ngay cả khi bạn chấp nhận quan điểm này thì những phẩm chất tốt đẹp của bạn cũng không nhờ đó mà có thể bộc lộ hoặc phát triển. Bạn cần có những nỗ lực đúng hướng khác nữa. Trong đó, lòng từ bi là một yếu tố cơ bản đóng vai trò quan trọng trong việc làm bộc lộ và phát triển những phẩm chất tốt đẹp của mỗi chúng ta. Xuất phát từ lòng từ bi, chúng ta dễ dàng hình thành những quan hệ giao tiếp tốt đẹp với mọi người chung quanh, vốn là yếu tố quyết định để bộc lộ và phát triển những phẩm chất tốt đẹp.
Bạn có thể hoài nghi về tính cách thiết yếu của mối quan hệ giao tiếp tốt đẹp với mọi người, nhưng đó là sự thật. Và bạn sẽ dễ dàng nhận ra điều này nếu bạn xét đến mối quan hệ không thể chia tách giữa mỗi cá nhân với cộng đồng mà mình đang sống, hay có thể nói rộng ra là với tất cả mọi người. Mỗi một phẩm chất tốt đẹp của chúng ta đều là hướng đến người khác. Chúng ta không thể yêu thương, cảm thông, chia sẻ, độ lượng, tử tế ... khi không có một đối tượng nào đó cần đến những điều này. Nói cách khác, cộng đồng quanh ta chính là điều kiện tất yếu để giúp ta bộc lộ, rèn luyện, trau giồi những phẩm chất tốt đẹp của mình. Trong ý nghĩa đó, chúng ta phải trân trọng và biết ơn sự hiện diện của mọi người quanh ta.
Mặt khác, những yếu tố cấu thành đời sống của chúng ta đều là kết quả có được từ nỗ lực của nhiều người khác. Như đã nói trong chương trước, để có một đời sống hạnh phúc, chúng ta cần có những điều kiện vật chất tối thiểu như cơm no, áo ấm, chỗ ở ổn dịnh... Và tất cả những điều đó đều không thể có được nếu không có sự góp sức từ những người khác, từ cộng đồng quanh ta.
Nếu chúng ta lần lượt phân tích từng yếu tố, từng nhu cầu vật chất mà ta hiện đang có được trong cuộc sống, chúng ta sẽ nhận ra sự góp sức của rất nhiều người, ngay cả những người mà ta chưa từng quen biết. Ai đã làm nên căn nhà bạn đang sống? Ai đã làm ra bát cơm bạn đang ăn? Ai đã làm nên chiếc áo bạn đang mặc? Ngay cả những dòng chữ khi bạn đọc thấy trên trang sách này, cũng là kết quả của vô số những đóng góp, từ việc khai thác cây gỗ làm nên bột giấy, cho đến quá trình hình thành kỹ thuật in ấn vốn kéo dài qua nhiều thế kỷ... Không có những điều ấy, không thể có kết quả hiện tại mà chúng ta đang có được.
Cho dù là trực tiếp hay gián tiếp, sự tồn tại của mỗi cá nhân luôn phụ thuộc vào toàn thể cộng đồng. Ngay cả những gì mà chúng ta vẫn tưởng là tự mình làm được, thì thật ra vẫn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố có sự góp sức của người khác. Hiểu được điều này, chúng ta mới thấy hết tầm quan trọng của việc thiết lập mối quan hệ tốt đẹp với mọi người chung quanh.
NHỮNG QUAN HỆ THÂN THIẾT
Trọng tâm cuộc sống của chúng ta chính là những mối quan hệ thân thiết với những người chung quanh. Chính từ những mối quan hệ này mà chúng ta có được sức mạnh và niềm vui trong cuộc sống, và bằng những đóng góp của mình vào cuộc sống, chúng ta mang lại sức mạnh và niềm vui cho người khác. Đây là một trong số rất ít vấn đề mà khoa học hiện đại và tri thức truyền thống của con người có thể cùng nhất trí nhận định như nhau.
Điều mà bất cứ ai trong chúng ta cũng có thể dễ dàng nhận ra là những mối quan hệ thân thiết có tác dụng tích cực đối với chúng ta cả về tinh thần lẫn thể chất. Các nhà nghiên cứu đã nhận ra rằng những người có nhiều mối quan hệ thân thiết trong cuộc sống, nghĩa là có thể chia sẻ buồn vui, có thể nhận được sự khuyến khích, cảm thông, có thể được yêu thương trìu mến, sẽ có khả năng mạnh mẽ hơn trong việc chống chọi và vượt qua những tình trạng nghiêm trọng về sức khỏe, chẳng hạn như những cơn đau tim hay những lần phẫu thuật. Họ cũng giảm nhiều nguy cơ mắc bệnh ung thư hay nhiễm trùng đường phổi. Cụ thể, khi khảo sát trên 1.000 bệnh nhân tại Trung tâm Y khoa Đại học Duke, các nhà nghiên cứu đã ghi nhận rằng những bệnh nhân thiếu thốn tình cảm thân thiết – chẳng hạn như những người sống cô độc, không có vợ hoặc không có chồng – có tỷ lệ tử vong trong vòng 5 năm kể từ ngày phát hiện bệnh tim cao gấp 3 lần so với những người có bạn thân hay vợ hoặc chồng thường xuyên thăm viếng.
Một cuộc nghiên cứu khác tại Alameda County thuộc bang California được kéo dài trong một giai đoạn 9 năm với sự tham gia của nhiều ngàn người dân địa phương tại đây, ghi nhận kết quả là những người có nhiều mối quan hệ thân thiết trong giao tiếp có tỷ lệ tử vong và mắc bệnh ung thư thấp hơn nhiều so với những người sống cô độc thiếu tình cảm.
Một nghiên cứu thú vị khác tại Đại học Y khoa Nebraska cho thấy là những người lớn tuổi có được quan hệ thân thiết với bất kỳ ai đó – vợ, chồng, con, cháu, bạn thân... – có khả năng miễn nhiễm cao hơn và mức cholesterol thấp hơn so với những người phải sống cô độc thiếu quan hệ thân thiết.
Tương quan tích cực giữa những mối quan hệ giao tiếp thân thiết và sức khỏe đã là đối tượng trên diện rộng của hàng chục công trình nghiên cứu suốt trong một thập kỷ vừa qua. Mặc dù còn có những chi tiết cần tiếp tục khảo sát, nhưng tất cả các nhà nghiên cứu đều có thể đồng ý với nhau một điều là: những mối quan hệ giao tiếp thân thiết quả thật có ảnh hưởng tích cực đến sức khỏe của chúng ta.
Tình cảm thân thiết không chỉ ảnh hưởng tích cực đến sức khỏe, nó còn là điều kiện phát triển tốt cho những cảm xúc lành mạnh của tâm hồn. Triết gia tâm lý và xã hội học Erich Fromm sau nhiều năm nghiên cứu đã kết luận rằng: điều làm cho con người lo sợ nhất chính là bị chia cách với những người thân yêu của họ. Ông tin rằng, sự chia cách với người thân nếu xảy ra trong giai đoạn ấu thơ có thể để lại những ảnh hưởng tâm lý không tốt trong suốt cả cuộc đời. Một nhà tâm lý học người Anh nổi tiếng là John Bowlby cũng đồng ý với nhận xét này, và khẳng định là việc chia cách một đứa trẻ với những người chăm sóc nó – thường là cha và mẹ – vào khoảng cuối năm tuổi đầu tiên sẽ gây ra cảm giác lo sợ và buồn khổ. Ông cũng cho rằng đây chính là nguyên nhân tạo ra những cảm giác lo sợ, buồn khổ về sau này khi trẻ lớn lên.
Như vậy, có thể thấy là những nghiên cứu khoa học đã thống nhất chỉ ra được tầm quan trọng của những mối quan hệ thân thiết trong đời sống của mỗi chúng ta. Tuy nhiên, hiểu như thế nào về một “mối quan hệ thân thiết” vẫn còn là vấn đề còn nhiều bất đồng.
Một trong những cách hiểu cụ thể nhất được đưa ra bởi Desmond Morris, một tác giả đã viết khá nhiều tác phẩm về đề tài này. Ông cho rằng một mối quan hệ thân thiết là mối quan hệ biểu hiện qua sự tiếp xúc cụ thể về thể chất. Nói cách khác, mức độ thân thiết được đánh giá qua sự gần gũi về thể xác của hai con người. Từ những mức độ khá thông thường như một cái vỗ vai, bắt tay, cho đến ôm hôn, thậm chí là gắn bó qua quan hệ tình dục. Qua cách hiểu này, ông còn cho rằng không chỉ có quan hệ thân thiết giữa hai người, ngay cả những vật thể thường được tiếp xúc, đụng chạm cũng có thể tạo nên một mối quan hệ thân thiết với con người. Điều này giải thích tình cảm của một người dành cho những vật dụng thân quen như một chiếc tẩu thuốc, chiếc vòng đeo tay... Tuy nhiên, quan điểm này đã có vẻ như không được chấp nhận rộng rãi. Có quá nhiều người bất đồng với nó, và hầu hết đều cho rằng một quan hệ thân thiết không thể chỉ được hiểu giới hạn qua những tiếp xúc về thể chất.
Tiến sĩ Dan McAdams đưa ra một nhận xét trừu tượng hơn khi cho rằng quan hệ thân thiết là một quan hệ đáp ứng nhu cầu chia sẻ những cảm xúc sâu xa trong nội tâm của một người với người khác. Trong khi đó, tiến sĩ tâm lý Thomas Patrick Malone và con trai ông là tiến sĩ tâm lý Patrick Thomas Malone lại cho rằng một mối quan hệ thân thiết được biểu lộ qua sự liên kết chặt chẽ, và họ còn mở rộng khái niệm liên kết này đến các đối tượng không phải con người, chẳng hạn như khi con người cảm thấy mình có một mối liên kết chặt chẽ với thiên nhiên, cây cối, tinh tú, và thậm chí với không gian nữa.
Người ta cũng bất đồng với nhau cả về cách hiểu thế nào là một mối quan hệ thân thiết nhất. Ở phương Tây, người ta có khuynh hướng nghiêng về mối quan hệ tình cảm nam nữ hoặc quan hệ vợ chồng. Trong khi đó, ở Nhật Bản người ta lại trân trọng mối quan hệ bằng hữu hơn và tin rằng mối quan hệ thân thiết nhất chính là với một người bạn tâm đầu ý hợp.
Mỗi một quan điểm nêu trên đều có cơ sở khoa học nhất định. Tuy nhiên, có vẻ như không có cách hiểu nào là trọn vẹn cả. Điều đó là do mỗi quan điểm có khuynh hướng nhấn mạnh một khía cạnh của vấn đề. Trong thực tế, những mối quan hệ thân thiết luôn xuất phát từ tình cảm chân thật của mỗi chúng ta, và trước hết phải là mối quan hệ hướng đến người khác, mặc dù chúng ta không phủ nhận những mối liên hệ với môi trường sống như thiên nhiên, cây cỏ... Chính vì vậy mà ngay khi năng lực giao tiếp được hình thành đầy đủ, chúng ta luôn có khuynh hướng tìm kiếm những mối quan hệ thân thiết trong cuộc sống. Điều này không xảy ra một cách tự nhiên mà liên quan đến những nỗ lực tự thân cụ thể cũng như những quan điểm xã hội, môi trường giáo dục mà chúng ta được đào luyện từ thuở nhỏ.
Nhưng thật là một điều mâu thuẫn khi khuynh hướng đề cao cá nhân luôn thôi thúc chúng ta hướng đến sự độc lập, không phụ thuộc vào người khác, trong khi thực tế lại chứng minh là không thể có sự tồn tại của bất cứ cá nhân nào không phụ thuộc vào người khác. Hầu hết chúng ta đều có ít nhất là một lần khao khát, tìm kiếm và mong mỏi thiết lập mối quan hệ thân thiết với người mà chúng ta hết lòng yêu thương. Đôi khi chúng ta phải mất rất nhiều công sức, nỗ lực cho mục đích này. Chúng ta hy vọng là với một mối quan hệ thân thiết cùng ai đó, chúng ta sẽ thoát khỏi được tâm trạng cô đơn trong cuộc sống; nhưng cùng lúc, chúng ta vẫn nuôi ảo tưởng là mình không phụ thuộc vào bất kỳ ai khác.
Nếu chúng ta hiểu và nhận thức đúng vấn đề, chúng ta sẽ không cảm thấy khó khăn trong việc tìm kiếm và thiết lập một mối quan hệ thân thiết cùng ai đó. Chúng ta sẽ không phải bỏ công tìm kiếm, chọn lọc trong vô số con người để mong mỏi gặp được chỉ một người duy nhất mà ta có thể san sẻ mọi nỗi niềm. Khi tâm hồn chúng ta rộng mở, chúng ta sẽ thấy rằng mối quan hệ thân thiết có thể và cần được thiết lập với càng nhiều người càng tốt. Trong thực tế, mục tiêu tốt đẹp mà chúng ta nhắm đến chính là có thể quan hệ thân thiết, gần gũi với tất cả mọi người.
Trong cuộc sống thực tế với quá nhiều khoảng cách trong giao tiếp, với những sự e dè, đề phòng người khác, chúng ta thường bị giới hạn mối quan hệ thân thiết gần gũi với một số rất ít người, thậm chí trong nhiều trường hợp chỉ là một người duy nhất, người luôn gắn bó với ta trong cuộc sống chung. Đây là một thực tế không thể phủ nhận được. Tuy nhiên, xét từ góc độ những phẩm chất tốt đẹp của con người thì đây không phải là một thực tế đáng khích lệ chút nào. Chúng ta luôn có nhu cầu chia sẻ những buồn vui trong cuộc sống với người khác, và sự hiện diện của mọi người quanh ta xét cho cùng chính là để cho ta có thể làm được điều đó. Nhưng khi mà con người vẫn chưa vượt qua được những rào chắn do chính mình tạo ra để làm được điều này, thì chúng ta vẫn đang giới hạn nguồn hạnh phúc vô biên mà lẽ ra tất cả chúng ta đều có thể được cùng nhau tận hưởng.
CẢM THÔNG VÀ CHIA SẺ
Khi hiểu được tầm quan trọng và ý nghĩa tích cực của những mối quan hệ thân thiết với người khác trong cuộc sống, điều tất nhiên là chúng ta sẽ mong muốn thiết lập mối quan hệ thân thiết với tất cả những ai mà chúng ta may mắn có cơ hội được tiếp xúc. Tuy nhiên, trong thực tế thì điều này gặp phải những trở lực nhất định. Trừ khi chúng ta có được hiểu biết và sự rèn luyện hoặc tu dưỡng tinh thần đủ để vượt qua những trở lực này, bằng không thì việc thiết lập quan hệ thân thiết với tất cả mọi người vẫn chỉ là một vấn đề trên lý thuyết mà thôi.
Phần lớn chúng ta đều hiểu rằng việc giao tiếp với người khác là một nghệ thuật theo đúng nghĩa của nó, nghĩa là đòi hỏi nhiều hiểu biết tinh tế, phức tạp, kèm theo với sự khéo léo và kinh nghiệm. Trong một chừng mực nào đó, có thể so sánh với nghệ thuật nấu ăn chẳng hạn. Mặc dù ai cũng có thể tìm được đầy đủ các nguyên liệu cần thiết, nhưng để nấu thành một món ăn ngon thì còn có rất nhiều yếu tố phức tạp khác. Một người nấu ăn ngon là một nghệ nhân với những kinh nghiệm và kỹ năng khéo léo nhất định mà không phải ai ai cũng có thể bắt chước làm theo ngay được.
Cũng vậy, kỹ năng giao tế nói chung và việc thiết lập mối quan hệ thân thiết với mọi người nói riêng đòi hỏi phải biết vận dụng thật linh hoạt nhiều yếu tố tự thân để có thể nắm chắc sự thành công, vượt qua được những trở lực trong giao tiếp. Và hoàn toàn không thể có những phương pháp mang tính hệ thống để bất cứ ai cũng có thể theo đó mà thực hành. Tuy vậy, có những yếu tố mà chúng ta cần lưu tâm vì nó góp phần tạo ra sự dễ dàng cho chúng ta trong việc thiết lập mối quan hệ thân thiết với người khác.
Lòng từ bi là một trong các yếu tố quan trọng đó. Lòng từ bi của một người có khả năng tạo ra cảm giác thân thiện trong giao tiếp ngay từ giây phút đầu tiên, bởi vì hầu hết những người khác đều có thể cảm nhận được nó.
Như đã nói, tuy mọi người đều sẵn có lòng từ bi nhưng mỗi chúng ta đều cần phải biết nuôi dưỡng và phát triển nó. Để làm được điều này, chúng ta cần có sự chiêm nghiệm và quán xét thường xuyên về những giá trị tích cực và lợi ích của lòng từ bi trong cuộc sống. Chúng ta cũng cần tự phân tích những cảm nhận của bản thân mình khi được tiếp xúc với ai đó có lòng từ bi, hoặc đơn giản hơn là khi nhận được một cử chỉ tốt bụng, tử tế từ người khác. Những điều này nếu được thực hành thường xuyên sẽ giúp chúng ta nuôi dưỡng và phát triển được lòng từ bi trong cuộc sống.
Sự cảm thông là một khía cạnh quan trọng khác cần được nhắc đến của lòng từ bi. Như đã nói, Phật giáo định nghĩa lòng từ bi với hai yếu tố là cứu khổ, ban vui. Để làm được những điều này, tất yếu phải có sự cảm thông. Chúng ta không thể chân thành chia sẻ những khổ đau của người khác nếu không tự mình cảm nhận được những khổ đau đó. Chúng ta không thể thực sự mang lại niềm vui cho người khác nếu không tự mình cảm nhận và vui theo với niềm vui ấy. Vì thế, một trong những phương pháp để nuôi dưỡng lòng từ bi là phải biết cảm thông, có khả năng cảm nhận được nỗi khổ đau của người khác.
Để rèn luyện đức tính này, chúng ta có thể thực hành việc hình dung ra những hoàn cảnh mà trong đó có người đang chịu đựng khổ đau, và cố gắng hình dung những khổ đau mà người ấy đang phải gánh chịu. Điều này có vẻ như không khó lắm trong thế giới hiện đại mà chúng ta đang sống. Mỗi ngày chúng ta đều được chứng kiến những hình ảnh về các nạn nhân của chiến tranh, bạo động, đói kém, thiên tai... Chỉ cần một chút quan tâm, chúng ta sẽ có thể thực sự rung động trước nỗi đau của những con người ấy, và có thể cảm nhận được nếu hình dung chính mình rơi vào một hoàn cảnh tương tự...
Mặc dù bản chất tốt đẹp là như nhau, nhưng môi trường sống có thể tạo ra những mức độ cảm nhận và rung động khác nhau ở mỗi người. Chẳng hạn, trong khi đa số mọi người có thể xúc động trước hình ảnh con vật kêu la vùng vẫy một cách tuyệt vọng trước khi bị giết thịt, thì một người đồ tể đã quen thuộc với công việc sẽ vẫn cảm thấy dửng dưng. Trong cuộc sống, chúng ta thỉnh thoảng cũng gặp những con người dửng dưng như thế trước nỗi đau của đồng loại. Với những người này thì sự thực tập lòng từ bi cần được thực hiện với một mức độ khác hơn, chẳng hạn như họ có thể sẽ xúc động nếu như đối tượng đau khổ là một người rất thân yêu của họ...
Khía cạnh tích cực của vấn đề là, cho dù điểm khởi đầu có thể khác biệt nhau, nhưng bất cứ ai khi thực hành nuôi dưỡng lòng từ bi đều sẽ đạt đến những mức độ phát triển mong muốn. Nói cách khác, sự rung động trước nỗi khổ đau của người khác sẽ phát triển ngày càng nhạy cảm hơn khi bạn thực hành nuôi dưỡng lòng từ bi.
Bạn cũng có thể có được sự cảm thông sâu sắc bằng cách hình dung chính mình ở vào hoàn cảnh của người khác, hình dung những cảm nhận hoặc phản ứng của chính mình trong hoàn cảnh đó, không phải dựa trên quan điểm, cách nhìn của mình mà là cố gắng hình dung theo với quan điểm, cách nhìn của chính người đó. Điều này chẳng những có thể giúp bạn có được sự cảm thông chân thành và sâu sắc với người khác, mà còn tạo ra thói quen biết tôn trọng những cảm nhận, suy nghĩ của người khác. Đây là một yếu tố vô cùng quan trọng có thể làm giảm nhẹ những vấn đề mâu thuẫn, xung đột trong giao tiếp.
Trong thực tế, chúng ta không phải lúc nào cũng chủ động trong việc tiếp cận người khác. Và có nhiều trường hợp chúng ta có thể dễ dàng trở nên bực tức, cáu gắt hoặc giận dữ bởi cung cách ứng xử của ai đó mà ta cảm thấy là không hợp lý, xúc phạm hoặc dối trá... Hầu hết những cảm xúc tiêu cực trong các trường hợp này đều có thể được loại bỏ đi nếu chúng ta biết đặt mình vào hoàn cảnh của đối tượng và cảm thông với những gì mà họ đang trải qua.
Mỗi con người là một thực thể sống động và vô cùng phức tạp. Giữa hai con người bao giờ cũng có một số điểm chung nào đó, nhưng đồng thời cũng có rất nhiều điều khác biệt. Trong thực tế, chưa từng có hai con người nào có thể gọi là giống hệt như nhau. Trong nghệ thuật giao tiếp, để dễ dàng thiết lập quan hệ thân thiết với ai đó, chúng ta cần biết cách tiếp cận với người ấy bắt đầu từ những điểm tương đồng thay vì là những điểm khác biệt. Đứng trên quan điểm này, chúng ta có rất nhiều điểm chung để xây dựng một quan hệ thân thiết, chẳng hạn như tất cả chúng ta đều là những con người với những nền tảng thể chất, tinh thần, tình cảm... giống như nhau, tất cả chúng ta cuối cùng đều sẽ chết đi, tất cả chúng ta đều mong muốn một cuộc sống hạnh phúc và không muốn phải chịu đựng đau khổ... Chúng ta sẽ dễ dàng cảm thông nhau trên cơ sở những điểm chung đại loại như thế, và sẽ cảm thấy cách biệt nhau nếu xét đến những yếu tố khác biệt như dòng tộc, màu da, tôn giáo hay sở thích cá nhân...
Ngoài ra, việc hiểu được và tôn trọng những khác biệt của người mình giao tiếp, cộng thêm với sự chân thành và cởi mở cũng là những yếu tố tích cực thúc đẩy việc hình thành mối quan hệ thân thiết.
Cuối cùng, tưởng cũng nên nhắc lại một lần nữa là không có bất cứ một phương thức cụ thể nào để chúng ta có thể tuân theo đó nhằm đạt được thành công trong việc thiết lập một mối quan hệ thân thiết với người khác. Tất cả chỉ là những gợi ý chung, và điều quan trọng hơn hết vẫn là một tấm lòng chân thành rộng mở kèm theo với sự sáng tạo và những kỹ năng linh hoạt xuất phát từ kinh nghiệm cá nhân.
NỀN TẢNG CỦA NHỮNG QUAN HỆ
Chúng ta không phủ nhận tính chất khá phức tạp của những mối quan hệ tình cảm. Tuy nhiên, về cơ bản thì chúng vẫn nhất thiết phải tuân theo một số nguyên tắc nhất định. Khi không quan tâm đến hoặc không hiểu được những nguyên tắc này, chúng ta sẽ không hiểu được một số những diễn tiến tất nhiên của một mối quan hệ, và điều đó làm cho vấn đề có vẻ như càng phức tạp hơn.
Một quan hệ tình cảm bao giờ cũng được xây dựng trên một nền tảng nhất định nào đó, và chính nền tảng này sẽ quyết định tính chất của mối quan hệ ấy. Đôi khi, chúng ta quan sát vẻ ngoài và thấy rằng một vài mối quan hệ nào đó là tương tự như nhau, nhưng chúng lại thực sự được xây dựng trên những nền tảng khác nhau, và điều đó tất yếu sẽ dẫn đến những diễn tiến khác nhau.
Những mối quan hệ thông thường như quan hệ bạn bè, quan hệ tình yêu nam nữ hay quan hệ vợ chồng... nói chung đều tuân theo quy luật này. Lấy ví dụ, hai người bạn làm quen với nhau trên nền tảng có sự tương đồng về công việc. Họ có thể sẽ duy trì quan hệ qua lại, giao tiếp cùng nhau bao lâu mà sự tương đồng về công việc vẫn còn tồn tại. Tuy nhiên, nếu mối quan hệ ấy không phát triển bằng vào một khía cạnh nào khác nữa, cả hai sẽ không còn cảm thấy cần phải giao tiếp với nhau khi không có gì để trao đổi trên công việc. Tương tự, nếu hai người khác phái say mê nhau qua dáng vẻ xinh đẹp, quyến rũ bên ngoài, mối quan hệ giữa họ sẽ không có được một nền tảng chắc chắn, bởi vì các yếu tố hình thức là không bền vững và ngay cả những cảm nhận về nó cũng dễ dàng thay đổi. Hầu hết những cuộc hôn nhân tan rã đều rơi vào trường hợp tương tự như vậy, khi hai người đến với nhau và xây dựng quan hệ vợ chồng trên những nền tảng không vững chắc.
Ngày nay, người ta hay than phiền về sự suy sụp của tinh thần “tôn sư trọng đạo”. Nhưng nếu xét trên cơ sở của những gì mà chúng ta đang bàn đến, vấn đề rõ ràng là vẫn có cơ sở hợp lý của nó. Trong bối cảnh của một lớp học mà thầy là người cần tiền và học trò cần kiến thức, thì mối quan hệ xây dựng trên nền tảng ấy tất yếu không thể là gì khác hơn ngoài một sự trao đổi nhất thời. Ngược lại, khi những học trò cũ của tôi sau nhiều năm vào đời vẫn thường xuyên quay về thăm viếng, tôi hiểu là họ đã nhận được điều gì đó không chỉ giới hạn trong những tri thức của một năm học.
Có những mối quan hệ được xây dựng trên nền tảng của vật chất, tiền bạc hay quyền thế, địa vị. Những mối quan hệ này tất yếu sẽ sụp đổ khi các yếu tố ấy không còn nữa. Có những mối quan hệ được xây dựng trên nền tảng của sự gần gũi về tình cảm, tư tưởng hoặc sự cảm thông, chia sẻ và gắn bó. Những mối quan hệ này tất yếu sẽ không chịu sự chi phối của những thay đổi về vật chất và do đó có thể tồn tại dài lâu. Trong cách phân biệt thông thường, chúng ta gọi đây là quan hệ tình cảm chân thật và yếu tố cơ bản để nuôi dưỡng nó chính là cảm xúc chân thật. Không có cảm xúc chân thật, không thể có những quan hệ tình cảm chân thật.
Để đảm bảo sự bền vững của một quan hệ, điều tất nhiên là phải xem xét đến nền tảng của mối quan hệ đó. Khi hai người tiến đến hôn nhân chẳng hạn, nếu là một quyết định sau khi đã thực sự hiểu rõ về nhau và chấp nhận tất cả những gì đã biết, ta có thể tin được về sự tồn tại lâu dài của quan hệ ấy. Ngược lại, nếu sự gắn bó giữa hai người được xây dựng trên nền tảng của những vẻ đẹp bề ngoài hay những quan hệ vật chất, ta có thể dự đoán được tính chất bấp bênh và nguy cơ tan vỡ rất cao của mối quan hệ này.
Nhưng nền tảng của một mối quan hệ không phải là những yếu tố bất biến, mà chúng ta có thể thay đổi bằng cách bồi đắp, nuôi dưỡng nó như một phương thức để củng cố quan hệ tốt đẹp. Chẳng hạn, hai người có thể làm quen nhau và xây dựng quan hệ trên những điểm chung rất nhỏ nhặt và không bền vững, nhưng sau đó họ có thể tiếp tục tìm hiểu nhiều hơn và tiến dần đến những tương đồng sâu sắc, gắn bó hơn. Như vậy, nền tảng mối quan hệ của họ sẽ ngày càng vững chắc hơn và do đó mà mối quan hệ này tất nhiên sẽ có điều kiện để tồn tại và phát triển.
Mặt khác, những nền tảng ban đầu dù tốt đẹp nhưng đôi khi không đủ cho sự tồn tại và phát triển lâu dài của một mối quan hệ. Chẳng hạn, sự phát triển của quan hệ hôn nhân lâu dài đòi hỏi nhiều hơn là những gì mà hai người có được vào lúc ban đầu. Những hiểu biết về nhau và sự chân thành chia sẻ, gắn bó là cần thiết nhưng chưa đủ. Khi một gia đình thực sự được hình thành, yếu tố trách nhiệm trở nên thiết yếu để đảm bảo sự tồn tại và phát triển tốt của gia đình, hay nói cụ thể hơn là sự nuôi dưỡng và dạy dỗ con cái. Không có yếu tố này, quan hệ tình cảm dù có sâu đậm đến đâu cũng tất yếu sẽ có ngày sụp đổ.
Khi xem xét đến nền tảng của những mối quan hệ, chúng ta có thể hiểu được và nắm vững sự hình thành, phát triển, tồn tại của chúng. Điều đó giúp chúng ta chủ động hơn trong việc thiết lập và nuôi dưỡng những mối quan hệ tích cực trong cuộc sống. Khi một mối quan hệ được thiết lập trên nền tảng của những cảm xúc và lòng yêu thương chân thật cùng với sự hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau, chúng ta sẽ mở ra được những khả năng phát triển không giới hạn và những cơ hội gắn bó ngày càng thân thiết hơn.
TỪ BI VÀ ÁI LUYẾN
Chúng ta đã nói đến lòng từ bi như là một phẩm chất tốt đẹp quan trọng giúp hình thành mối quan hệ thân thiết giữa những con người. Trong thực tế, lòng từ bi rất dễ nhầm lẫn với một khái niệm khác nữa, đó là ái luyến. Khi bạn hướng sự yêu thương vào một ai đó, mong mỏi chia sẻ những khó khăn và sẵn lòng làm bất cứ điều gì cho người ấy, bạn có thể rơi vào một trong hai trường hợp này.
Khi sự yêu thương gắn liền với ý tưởng chiếm hữu hoặc gắn bó, mong muốn một tình cảm đáp lại từ đối tượng, đây là một trường hợp ái luyến. Hầu hết những yêu thương tự phát và thiếu sự rèn luyện tinh thần, thiếu hiểu biết thường rơi vào trường hợp này. Sự ái luyến mang tính cách chủ quan và phụ thuộc vào định kiến. Khi gắn bó quan hệ với một người bạn và cảm thấy yêu thương, ta đối xử tốt với người ấy, tình cảm này sẽ dẫn đến cảm xúc luyến ái và gần gũi. Nhưng khi có một thay đổi nào đó, chẳng hạn như một sự bất đồng ý kiến, hoặc người bạn ấy có một hành vi nào đó làm cho ta tức giận... tất cả tình cảm sẽ sụp đổ. Trong thực tế, tình cảm yêu thương loại này rất dễ dàng chuyển sang thành căm ghét.
Lòng từ bi thì khác. Điểm tương đồng ở đây là ước muốn san sẻ khổ đau và mang lại niềm vui cho người khác, nhưng điểm khác biệt cơ bản là lòng từ bi hướng đến mọi người chứ không chỉ riêng một đối tượng cá biệt nào, và không đòi hỏi, mong cầu một sự đáp lại từ phía đối tượng, cũng như không kèm theo ý muốn chiếm hữu đối tượng. Lòng từ bi xuất phát từ sự cảm thông sâu sắc, cảm nhận được nỗi đau của người khác nên muốn san sẻ, muốn mang lại niềm vui cho mọi người.
Lòng từ bi hàm chứa một mong muốn mãnh liệt cho tất cả mọi người đều thoát khỏi khổ đau, đều nhận được cuộc sống an vui, tốt đẹp. Với cách diễn đạt này, chúng ta có thể thấy rằng đây là một mong muốn hết sức thanh cao, thánh thiện. Chính vì vậy, theo cách nghĩ thông thường người ta vẫn cho rằng chỉ có những bậc cao tăng, những vị tu hành đắc đạo mới có được lòng từ bi mà thôi. Đây là một cách nghĩ hoàn toàn sai lầm. Bởi vì như đã nói, bản chất của mỗi con người chúng ta là những phẩm chất tốt đẹp, và một trong những phẩm chất tốt đẹp ấy chính là lòng từ bi.
Nói cách khác, mỗi chúng ta đều sẵn có lòng từ bi trong tâm ý, chỉ khác nhau về mức độ biểu lộ, phát triển của nó mà thôi. Có thể lấy một ví dụ để làm rõ điều này. Khi nhìn thấy một ai đó phải chịu đựng đau khổ, tự thâm tâm chúng ta thường tự nhiên nảy sinh một cảm giác thương cảm rất tự nhiên và mong muốn cho sự đau khổ ấy được chấm dứt ngay. Thậm chí, cảm giác này ở rất nhiều người trong chúng ta còn mở rộng đến cả loài vật, chẳng hạn như khi nhìn thấy một con chó bị đánh đập, một con chuột bị mèo xé xác, hay một con cá mắc câu giẫy giụa... Cảm xúc tự nhiên ấy không phải gì khác mà chính là biểu hiện của lòng từ bi, bởi vì nó được phát sinh vô điều kiện, không kèm theo với bất cứ mong cầu nào về sự đáp trả của đối tượng.
Mặc dù lòng từ bi là sẵn có ở mỗi người, nhưng để có thể phát triển nó thành một cảm xúc mãnh liệt và hiện diện thường xuyên trong tâm ý, chúng ta cần có sự rèn luyện, tu dưỡng.
Lòng từ bi là một cảm xúc mang tính chất tích cực, vì thế nó là một trong những nguồn hạnh phúc cho cuộc sống của chúng ta. Ngược lại, sự ái luyến là một cảm xúc bắt nguồn từ lòng tham lam, từ mong muốn chiếm hữu đối tượng, vì thế nó là một trong những nguyên nhân gây khổ đau cho cuộc sống.
Vấn đề đặt ra ở đây là, hai cảm xúc mang tính chất trái ngược nhau như thế lại rất dễ nhầm lẫn với nhau, bởi vì những gì mà chúng biểu hiện ra bề ngoài lại có vẻ như rất giống nhau. Chúng ta cần phải biết quan sát, phân tích về mặt bản chất mới có thể nhận ra và phân biệt được hai loại cảm xúc này.
Như đã nói, lòng từ bi là cảm xúc yêu thương vô điều kiện, không đòi hỏi bất cứ một đáp ứng nào, trong khi cảm xúc yêu thương do ái luyến luôn đi kèm với mong muốn chiếm hữu và đòi hỏi những đáp ứng nhất định từ đối tượng. Mặt khác, chúng ta có thể cảm nhận được những tác động khác nhau của hai loại cảm xúc này đối với tâm hồn. Trong khi lòng từ bi mang lại sự thanh thản và sáng suốt thì ái luyến gây ra khổ đau và mê muội.
Một điều cần lưu ý là lòng từ bi và ái luyến có thể đồng thời hiện hữu. Bởi vì như đã nói, mức độ biểu lộ của lòng từ bi không phải tự nhiên mà có thể trở nên mạnh mẽ. Vì thế, một khi lòng từ bi không được phát triển mạnh thì ái luyến sẽ tăng trưởng. Ngược lại, khi phát triển lòng từ bi thì cảm xúc ái luyến dần dần bị đẩy lùi. Như vậy, sự đối kháng giữa hai cảm xúc này cũng cho ta thấy sự hiện hữu đồng thời của chúng. Trong thực tế, chính sự nhầm lẫn giữa hai cảm xúc này là một tai hại vô cùng đáng sợ và đã từng gây ra nhiều bi kịch đáng tiếc cho những người tu tập. Nhưng khi hiểu đúng về bản chất của chúng, ta có thể vận dụng một cách thích hợp để củng cố những mối quan hệ tốt đẹp trong cuộc sống.
Chẳng hạn, bằng vào những phân tích trên chúng ta có thể thấy rằng tình yêu nam nữ thực chất là một cảm xúc ái luyến. Chính điều này giải thích vì sao xưa nay nó đã từng mang lại quá nhiều khổ đau cho nhân loại. Mặc dù vậy, khi hai người thực sự đến với nhau qua tình yêu, họ vẫn có thể tiếp tục gắn bó hạnh phúc với nhau lâu dài – và điều này rõ ràng là có thật – qua việc phát triển những yếu tố tích cực khác, chẳng hạn như sự hiểu biết sâu sắc về nhau, sự cảm thông, tôn trọng lẫn nhau. Chính những yếu tố tích cực này làm phát triển lòng từ bi và làm cho ý hướng chiếm hữu mất dần đi. Thật ra, chúng ta vẫn thường thấy có rất nhiều tình yêu phát triển theo hướng này và thường gọi đó là những tình yêu cao quý, khi mà hai người yêu nhau sẵn sàng hy sinh cho nhau mà không đòi hỏi bất cứ sự đáp ứng nào. Chính đây là biểu hiện sự phát triển của lòng từ bi đẩy lùi ái luyến. Và vì thế không có gì lạ khi những tình yêu như thế có thể tồn tại dài lâu và mang lại hạnh phúc cho cả hai người. Ngược lại, những người đến với nhau chỉ đơn thuần qua cảm xúc ái luyến sẽ không thể đảm bảo có được một quan hệ lâu bền. Như vậy, một trong những quy luật mà chúng ta có thể rút ra được là cần phải phát triển lòng từ bi trong bất cứ mối quan hệ nào nếu như chúng ta muốn đảm bảo rằng quan hệ đó sẽ được bền vững.
Cho dù lòng từ bi hiện hữu ở tất cả chúng ta với những mức độ khác nhau, nhưng nếu không nhận thức một cách đúng đắn, chúng ta rất ít khi có khả năng hiểu được điều này. Ngược lại, khi đã nhận ra và biết được những lợi ích lớn lao, những tác dụng tích cực của lòng từ bi trong cuộc sống, chúng ta sẽ quan tâm và nỗ lực nhiều hơn trong việc nuôi dưỡng, phát triển lòng từ bi.
NUÔI DƯỠNG LÒNG TỪ BI
Lòng từ bi không phải là một khái niệm trừu tượng khó nắm bắt như nhiều người vẫn tưởng. Trong thực tế, để có thể nuôi dưỡng và phát triển lòng từ bi thì điều kiện trước tiên hết là chúng ta phải hiểu và cảm nhận được nó một cách thật cụ thể. Có nhiều phương pháp thực hành có thể giúp chúng ta đạt được điều đó.
Chúng ta hãy bắt đầu bằng cách phân tích những cảm nhận của chính mình khi được một người nào đó đối xử tốt. Chúng ta cần phải cảm nhận thật trọn vẹn sự hài lòng và sung sướng cũng như cảm giác trân trọng khi nhận được một sự giúp đỡ chân thành, một tình cảm vô điều kiện, hoặc một sự cảm thông chia sẻ từ người khác khi ta đang buồn khổ hoặc khó khăn. Khi thực hành những bài tập phân tích này, chúng ta sẽ dần dần hiểu được ý nghĩa của lòng từ bi và tự nhiên nảy sinh một ước muốn thực hiện những điều tốt đẹp tương tự với người khác.
Tiếp đó, khi thực sự bắt tay vào việc giúp đỡ hoặc chia sẻ khó khăn cùng người khác mỗi khi có dịp, chúng ta sẽ nhanh chóng nhận ra là mọi người khác cũng có khuynh hướng đối xử tốt với ta nhiều hơn. Khuynh hướng tương quan này là có thật, và trong đó yếu tố chuyển hóa tự thân của chúng ta đóng vai trò quyết định. Khi ta đối xử tốt với người khác, ta nhận được sự đáp ứng tích cực – dù là không đòi hỏi – không chỉ từ nơi đối tượng của hành vi, mà còn là từ nhiều người khác nữa. Mặt khác, với một cách nhìn tích cực xuất phát từ lòng tốt, ta dễ có khuynh hướng cảm thông và bỏ qua những khiếm khuyết của người khác, nên cuộc sống quanh ta tất yếu sẽ chuyển biến một cách tích cực, tươi đẹp hơn.
Để có thể chân thành cảm thông và chia sẻ được những đau khổ của người khác, ta cần phải có được năng lực cảm nhận những đau khổ đó như là đang xảy ra cho chính bản thân mình. Tuy nhiên, điều khác biệt mà ta có thể nhận ra ở đây là, trong khi những đau khổ do cuộc sống đưa đẩy xảy đến với chúng ta làm cho ta bối rối, thất vọng và thậm chí có thể ngã quỵ, thì những đau khổ mà chúng ta tự nguyện gánh vác, san sẻ cùng người khác lại có tác dụng khơi dậy mọi nguồn năng lực trong ta với quyết tâm mạnh mẽ không thể gục ngã trước những đau khổ ấy. Hình ảnh những nhân viên Hồng thập tự trên chiến trường là một minh họa vô cùng rõ nét cho nhận xét này. Không ai trong chúng ta có thể phủ nhận được sự gan dạ và quyết tâm của họ, có thể là vượt xa hơn cả bản thân những người lính đang tham chiến.
Nhận thức rõ về những lợi ích thiết thực của lòng từ bi cũng là một phương thức tích cực giúp chúng ta nuôi dưỡng và phát triển nó trong cuộc sống. Mối tương quan giữa lòng từ bi và niềm vui trong cuộc sống là điều mà mỗi chúng ta đều có thể nhận ra. Nhưng còn hơn thế nữa, những nghiên cứu khoa học gần đây đã cho thấy những kết quả cụ thể mà không ai có thể phủ nhận được.
Tại Đại học Harvard, nhà tâm lý học David McClelland đã tiến hành cuộc khảo sát trên một nhóm sinh viên của trường. Trước hết, họ được cho xem một cuốn phim về những hoạt động nhân đạo của Mẹ Teresa với những người nghèo khổ và bệnh tật tại Calcutta, Ấn Độ. Những sinh viên này thừa nhận là cuốn phim đã làm họ xúc động và gợi lên sự thương cảm mạnh mẽ. Ngay sau đó, David tiến hành phân tích mẫu nước bọt của tất cả những sinh viên này và tìm thấy một kết quả chung: sự gia tăng nồng độ immuno¬globulin-A, một chất kháng thể có công năng giúp cơ thể chống lại các bệnh nhiễm trùng đường hô hấp.
Một cuộc nghiên cứu khác được James House thực hiện tại Trung tâm nghiên cứu của Đại học Michigan. Kết quả nghiên cứu cho thấy việc thường xuyên tình nguyện tham gia các hoạt động nhân đạo và đối xử một cách thương yêu, tử tế với người khác là những yếu tố giúp gia tăng tuổi thọ cũng như làm tăng thêm sinh lực. Nhiều cuộc nghiên cứu khác cũng đi đến kết quả tương tự, xác nhận rằng những trạng thái tinh thần tích cực luôn có tác dụng hoàn thiện sức khỏe con người.
NHẬP TỪ BI QUÁN
Thuật ngữ Phật giáo này có thể là còn xa lạ với một số người, nhưng thật ra nó không có gì cao siêu bí ẩn mà chính là hàm chứa những gì chúng ta đã thảo luận về lòng từ bi cho đến lúc này. Tuy nhiên, chúng ta sẽ nhắc lại theo một trình tự cụ thể và liên kết chặt chẽ hơn để mỗi người trong chúng ta đều có thể dễ dàng thực hành phép quán này ngay trong cuộc sống hằng ngày.
Phép quán từ bi có công năng làm sinh khởi và nuôi dưỡng lòng từ bi trong mỗi chúng ta. Bất cứ ai cũng có thể và nên thực hành phép quán này như một phương thức đơn giản nhưng vô cùng hữu hiệu để phát triển lòng từ bi. Mỗi lần thực hành nên kéo dài ít nhất là 5 phút và có thể lâu hơn càng tốt, nếu điều kiện cho phép.
Để thực hành phép quán này, trước hết bạn cần một nơi yên tĩnh – một góc nhỏ trong nhà, phòng khách, phòng ngủ... hoặc bất cứ nơi đâu thuận tiện. Ngồi xuống với tư thế thật thoải mái. Có thể ngồi trên ghế tựa buông thõng hai chân, nhưng tốt nhất là ngồi xếp bằng trên giường hoặc trên sàn nhà với một tấm lót mỏng, hai chân tréo vào nhau hoặc chân trên chân dưới. Chọn cách nào cũng được, nhưng cần phải giữ lưng thẳng đứng và vững chải, không tựa lưng ra sau hoặc để lưng cong xuống. Hai tay đặt trên đùi hoặc trước bụng, lòng bàn tay ngửa lên.
Sau khi ngồi yên, bắt đầu giữ hơi thở điều hòa trong chừng một phút và bắt đầu quán tưởng. Trước hết, hãy nghĩ đến một nỗi khổ đau nào đó và tự mình xác định là không mong muốn xảy đến cho mình. Có thể chọn bất cứ hình ảnh khổ đau nào có ấn tượng mạnh nhất đối với bạn để quán tưởng. Có thể là bệnh khổ, tai nạn, chết chóc... hay bất kỳ nỗi khổ nào mà bình thường bạn vẫn e sợ nhất. Tập trung suy nghĩ về nỗi khổ đó và chắc chắn là bạn không muốn nó xảy ra với mình, bởi vì bạn chỉ mong muốn và biết chắc là mình có thể được hưởng một cuộc sống an vui, hạnh phúc. Khi quán tưởng điều này, bạn hoàn toàn dựa vào những kinh nghiệm thực có của bản thân mà không phải là những sự mô tả từ bất kỳ ai khác.
Khi những ý tưởng này đã trở nên vững chắc, bạn bắt đầu mở rộng sự quán tưởng để thấy rằng tất cả những người khác – thậm chí là những sinh vật khác – cũng không khác gì bạn về điểm này. Nghĩa là, tất cả đều không muốn phải chịu đựng khổ đau và đều mong muốn được sống an vui, hạnh phúc.
Tiếp theo, bạn hãy hình dung một người nào đó không may phải chịu đựng nỗi khổ đau mà bạn vừa quán xét. Hãy cố gắng nghĩ thật nhiều về việc người ấy sẽ phải chịu đựng những đau đớn, buồn khổ như thế nào. Sau đó, bạn nghĩ đến bản thân mình và thấy rằng mình cũng không khác gì người ấy, cũng sẽ đau đớn, buồn khổ tương tự như thế nếu phải chịu đựng hoàn cảnh ấy. Khi bạn nghĩ như vậy, một cảm xúc tự nhiên sẽ sinh khởi, bạn thấy cảm thông với nỗi đau của người ấy và mong muốn cho nỗi đau ấy sớm được chấm dứt ngay. Khi bạn tiếp tục quán tưởng, cảm xúc này sẽ ngày càng mạnh hơn và bạn bắt đầu nghĩ đến việc tìm mọi cách để cứu giúp người ấy thoát khỏi đau khổ. Kể từ khi ý tưởng này sinh khởi, bạn hãy cố gắng tập trung hoàn toàn vào nó, và như thế quyết tâm của bạn sẽ ngày càng mạnh mẽ hơn. Cuối cùng, bạn duy trì tâm trạng cảm thông và mong muốn giúp đỡ này cho đến cuối thời gian thực tập.
Đối tượng xuất hiện trong phép quán từ bi có thể là bất cứ ai. Thông thường, khi bạn lần đầu tiên thực hành phép quán này, có thể bạn nên nghĩ đến một người thân của mình, vì điều đó dễ làm cho bạn thấy rung động hơn. Tuy nhiên, khi đã thuần thục, bạn nên mở rộng sang những đối tượng khác, thậm chí là những sinh vật. Khi lòng từ bi được nuôi dưỡng và phát triển mạnh, bạn sẽ có thể cảm thông và mong muốn cứu giúp ngay cả với những con vật đang chịu đau khổ chứ không chỉ riêng với con người.
Phép quán từ bi là một phương pháp dễ thực hành nhưng chắc chắn sẽ mang lại hiệu quả tích cực trong việc nuôi dưỡng lòng từ bi. Tất nhiên là điểm khởi đầu của mỗi người không giống nhau, vì như đã nói, mức độ biểu hiện của lòng từ bi ở mỗi chúng ta là khác nhau. Có những người có thể gặt hái kết quả rất nhanh chóng, một số khác cần phải có thời gian và sự kiên trì, nhưng tất cả đều sẽ đạt được sự phát triển của lòng từ bi nhờ vào việc thực hành phép quán này.