PHẦN KẾT
Phụ lục. Bát-Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinh
Bát-Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm
Kinh
Prajđā Paramitā Hridaya Sūtra
(Kinh Tâm Yếu về Trí Tuệ
Ba–La–Mật)
(Prajđā: Trí Tuệ ; Paramitā: Đáo
Bỉ Ngạn;
Hridaya: tinh hoa, tâm yếu;
Sūtra: Kinh)
Kinh này do Sư Huyền Trang
đời Đường dịch ra chữ Hán vào giữa thế kỷ thứ 7. Kinh ghi lại lời dạy của Phật
Thích Ca cho cao đồ Xá Lợi Phất (Sariputta) về Trí Tuệ Ba-La-Mật, hay Tâm Thức
Đáo Bỉ Ngạn, Tâm Thức đã vượt qua bờ bên kia, tức Tâm Không, Tâm Thiền Định tối
thượng. Tâm này khi thể hiện tới trạng thái cùng tột, rốt ráo, sẽ giúp hành giả
thấy được bản tính hư huyễn, phi hiện hữu, hoàn toàn giả dối, không có thực của
Bản Ngã y niệm, và thấy được cái Tướng Không vô tướng, vô niệm của Chư Pháp,
tức cái Bản Thể Chân Thật của Sự Vật, của Chân Tâm. Từ đó hành giả xa lìa, đoạn
diệt, vượt thoát khỏi tất cả mọi vọng tưởng, phiền não, đau khổ và chứng đạt
Đạo quả Giải Thoát Vô Thượng, tức Cảnh Giới Tịnh Độ, Tâm Thái Niết Bàn vắng
lặng, trong sáng tuyệt trần, an vui trọn vẹn. Đây là kinh nhật tụng căn bản của
Phật Giáo, và đặc biệt của Thiền Tông. Kinh này gồm ba phần rất rõ rệt: Phần
Dẫn Nhập, Phần Nội Dung, Phần Kết Luận.
A. Phần Dẫn Nhập
I. Nguyên Văn
“Quán Tự
Tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa, thời chiếu kiến Ngũ Uẩn giai không,
độ nhất thiết khổ ách.”
II. Nguyên Nghĩa
Bồ Tát Quán Tự Tại (Bodhisatva
Avalokiteshvara) thực hành sâu xa Tâm Ba-La-Mật, khi soi thấy Năm Uẩn đều
không, liền vượt qua mọi khổ ách.
III. Ý Nghĩa
Một hành giả đạo hạnh, đạo danh
Quán Tự Tại, khi thể hiện Tâm Thiền Định tối thượng tới chỗ vắng lặng, sâu xa
cùng tột, bỗng thấy rõ ràng toàn bộ những khái niệm về các thành phần hư cấu
nên cái Ta chủ thể (tức Ngũ Uẩn) đều là những vọng tưởng giả dối, tuyệt nhiên
không có thực, lập tức chúng trở thành hư vô, biệt tăm, mất dạng, hoàn toàn
không còn nữa...và ngay đó hành giả này xa lìa, vượt thoát khỏi tất cả mọi hình
thức phiền não, đau khổ.
IV. Giải Nghĩa
Khi một hành giả thể hiện Tâm
Ba- La-Mật, Tâm Thiền Định tối thượng, tức quán chiếu sự vật bằng Tâm Không, vô
trước, vô chấp, vô cầu, không ôm giữ, nhận xét, so sánh, chọn lựa….tới chỗ
thanh tịnh, minh linh, sâu xa cùng cực, vị ấy bỗng bừng tỉnh, thấu biết tỏ
tường rằng tất cả những ý niệm chấp trước về Thân và Tâm ta, tức những khái
niệm Ngũ Uẩn, tức cái Ta chủ thể, cái Tôi y niệm, là hoàn toàn mê lầm, hư giả,
tuyệt nhiên không có thực, và ngay sau đó, cái kho tàng kinh nghiệm, kiến thức
khổng lồ, cấu thành cái Trung Tâm Bản Ngã ấy, được tập nhiễm, củng cố, tài bồi
bằng vô vàn những hình ảnh dĩ vãng hư huyễn từ bao đời quá khứ bỗng dưng sụp
đổ, tan biến hoàn toàn, không để lại một mảy may dấu vết nơi tâm vị ấy. Tức
thời hành giả rơi vào một tâm thái tuyệt đối vô niệm, vô ngã, một cảnh giới vô
cùng vắng lặng, cực kỳ an lạc, vong bặt tất cả mọi hình thức vọng tưởng, điên
đảo, phiền não, kể cả những giao động vi tế, u uẩn, sâu lắng nhất. Hành giả ấy
đã bước qua cánh cửa Giải Thoát, giáp mặt được với cái Bản Lai Diện Mục của
Chân Tâm, đặt chân lên bến bờ Tịnh Độ thanh bình, yên vui trọn vẹn, bỏ lại sau
lưng tất cả mọi mê lầm, sai trái, tội lỗi, khổ đau... của cõi Trần Gian tục lụy.
Đây chính là giây phút Giác Ngộ
của hành giả, thời điểm mà vị ấy có một cái nhìn vô cùng sâu sắc về Sự Vật:
thấy rõ cái không thực trong điều hư giả (Thấy y niệm về Bản Ngã là hoàn toàn
hư huyễn), thấy rõ cái không giả trong điều chân thực (Thấy bản chất vô niệm,
vô ngã của Chân Tâm, của Vạn Pháp), từ đó vĩnh viễn thoát ly mọi hư vọng, phiền
não, khổ đau. Lục Tổ Huệ Năng gọi Thiền Định là “Minh Tâm, Kiến Tánh”: Quán
chiếu nội tâm để thấy Chân Tâm, Bản Tánh. Dưới sự soi sáng, quán chiếu của Trí
Tuệ Ba-La-Mật, tức cái Tâm không, cái tâm vô tướng, vô trụ, vô niệm, cái Tâm vô
trước, vô chấp, vô cầu, cái Tâm buông bỏ mọi tỳ vết quá khứ, cái Tâm thanh
tịnh, vi tế tột cùng..., Vô Minh, Vọng Niệm tự bộc lộ nguyên hình, bản chất của
nó là hoàn toàn mê lầm, hư giả, không thực... lập tức nó tự tan biến tận gốc
rễ. Lúc ấy, cái Chủ Thể tư tưởng, tức cái Bản Ngã y niệm đảo điên, bép xép,
vọng động, mê lầm, phiền não, tự vong bặt. Toàn bộ y niệm về cái Ta chủ thể
không còn nữa. Tâm thức hành giả vô cùng vắng lặng, cực kỳ trong sáng, giống
hệt như Chân Tâm vô tướng, vô niệm, vô ngã tuyệt đối, nó đồng nhất, hợp nhất,
hòa nhập làm một với Chân Tâm, tức Bản Thể Chân Thật của Sự Vật, tức cái Tướng
Không vô tướng, vô niệm, vô ngã của Chư Pháp, tức Tâm Thái Giải Thoát Tối
Thượng hay Cảnh Giới Niết Bàn, Tịnh Độ vắng lặng tuyệt trần, tự do vô hạn, an
vui cùng cực, sạch làu mọi hình thức vọng niệm trói buộc, đảo điên, bất an,
phiền não. Tiểu Ngã trong sạch đã hòa đồng vào Đại Ngã thanh tịnh.
Thiền Định không nhằm trấn áp,
loại trừ Vô Minh để vươn tới Giải Thoát. Chúng ta chỉ cần quán chiếu nội tâm
vọng động bằng một tâm thái sạch làu mọi chấp trước, tức tâm thái Ba-La-Mật.
Khi ấy, Vô Minh, Vọng Niệm tự hiện bày chân tướng sai lầm, hư giả ở tận tầng
lớp vi tế, sâu lắng, căn để nhất. Khi sự thực này được bộc lộ, nó có tác dụng
như một khám phá vĩ đại, một sự bừng tỉnh vô cùng đột ngột, cực kỳ mãnh liệt
khiến tất cả Vô Minh, Vọng Tưởng, toàn bộ lâu đài tư tưởng, kho tàng kinh
nghiệm, kiến thức, chấp trước, thành trì của đủ loại khuôn mẫu, thành kiến,
tham dục... tức cái Trung Tâm Bản Ngã y niệm vô cùng vĩ đại, sâu dày, kiên
cố... bỗng dưng sụp đổ, nát vụn, tan biến, tự hủy diệt tận gốc rễ, và ngay đó
Đại Dương Tự Do, Giải Thoát hiện tiền. Đó là giây phút Hoát Nhiên Đại Ngộ.
Hoát Nhiên Đại Ngộ chính là giây
phút phiền não tận cùng an lạc khởi đầu, bóng tối lui đi ánh sáng hiển lộ, hỗn
loạn chấm dứt trật tự an bài, Vô Minh tan biến Giải Thoát hiện tiền, Bản Ngã
vong bặt Phật Tính tỏ bày.
V. Đại ý
Phần Dẫn Nhập của Kinh giới thiệu
về giây phút Hoát Nhiên Đại Ngộ của một hành giả khi thể hiện rốt ráo Tâm
Ba-La-Mật. Ở thời
điểm chuyển Mê sang Ngộ này, hành giả đã thấy rõ bản chất hư giả của y niệm và
thân chứng sự tan biến của Bản Ngã để hòa mình vào Đại Dương Giải Thoát, vượt
qua tất cả mọi lỗi lầm, sai trái, buồn lo, khổ lụy….
B. Phần Nội Dung
I. Nguyên Văn
“Xá Lợi Tử ! Sắc bất dị Không,
Không bất dị Sắc, Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc. Thọ, Tưởng, Hành, Thức
diệc phục như thị.
Xá Lợi Tử ! Thị Chư Pháp Không
Tướng bất sinh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố, Không
trung, vô Sắc, vô Thọ, Tưởng, Hành, Thức; vô Nhãn, Nhĩ, Tỵ, Thiệt, Thân, Ý ; vô
Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp; vô Nhãn Giới nãi chí vô Ý Thức Giới ; vô Vô
Minh diệc vô Vô Minh tận, nãi chí vô Lão Tử, diệc vô Lão Tử tận ; vô Khổ, Tập,
Diệt, Đạo ; vô Trí diệc vô Đắc, dĩ vô Sở Đắc cố”.
II. Nguyên Nghĩa
Này Xá Lợi Phất ! Sắc chẳng khác
Không, Không chẳng khác Sắc, Sắc tức là Không, Không tức là Sắc. Thọ, Tưởng,
Hành, Thức cũng lại như vậy.
Này Xá Lợi Phất ! Cái Tướng
Không ấy của Chư Pháp thì không sinh, không diệt, không nhơ, không sạch, không
thêm, không bớt. Bởi vậy, trong cái Tướng Không ấy, không có Sắc, không có Thọ,
Tưởng, Hành, Thức; không có Nhãn, Nhĩ, Tỵ, Thiệt, Thân, Ý ; không có Sắc,
Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp; không có Nhãn Giới cho tới không có Ý Thức Giới ;
không có Vô Minh và cũng không có Hết Vô Minh ; không có Lão Tử, cũng không có
Hết Lão Tử; không có Khổ, Tập, Diệt, Đạo; không có Trí cũng không có Đắc, cho
tới cả không có Sở Đắc.
III. Ý Nghĩa
Này Xá Lợi Phất ! Cái hình tướng
cơ nhục, mà ta chấp trước là Thân Xác Ta (Sắc) không gì khác hơn là những vọng
niệm giả dối, những điều hoàn toàn không thực (Không). Cái nhận thức về Thân
Xác Ta (Sắc) như một thực thể ấy, đích thị là một khái niệm mê lầm, phi hiện
hữu, không có thực (Không) trong hiện tiền. Cũng vậy, cái mà ta nhận định là
Tâm ta với các thành phần như Cảm Nhận (Thọ), Kinh Nghiệm (Tưởng), Tư Tưởng
(Hành), Ý Thức (Thức) cũng chỉ là những vọng niệm hư huyễn không có thực
(Không). Thấy biết được bản chất hư giả, không thực của khái niệm Ngũ Uẩn là
cái thấy biết chân thật. Thấy khái niệm về cái Ta, tức Ngũ Uẩn như một tự thể
có thực là Ngã Chấp, là cái
thấy mê vọng.
Này Xá Lợi Phất! Bản Thể cúa Chư
Pháp là cái Tướng Không. Cái Tướng Không ấy của Sự Vật thì không có hình tướng,
diện mạo nhất định, đặc tính bất biến. Nó không có tướng mạo, cá tính đặc thù
mà ý niệm, tư tưởng con người khoác cho như: sinh, diệt, nhơ, sạch, thêm,
bớt...Do đấy, trong cái Tướng Không vô tướng, vô niệm ấy, Sự Vật, Chư Pháp, Vạn
Hữu tuyệt nhiên không có những khái niệm luận giải về Nhân Sinh, về Vũ Trụ như
Ngũ Uẩn (Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức), Lục Căn (Nhãn, Nhĩ, Tỵ, Thiệt, Thân, Ý),
Lục Trần (Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp), Lục Thức (Nhãn Giới....Ý Thức Giới),
Thập Nhị Nhân Duyên (Vô Minh....Lão Tử), Tứ Diệu Đế (Khổ, Tập, Diệt, Đạo), Trí
và Đắc hoặc Vô Sở Đắc...Thấy Chư Pháp, Sự Vật, Vạn Hữu có hình tướng, đặc tính
nhất định có thể ghi chép, mô tả, diễn đạt lại được là cái thấy qua lăng kính ý
niệm, tư tưởng, là Pháp Chấp,
là cái thấy sai lầm, mê vọng.
IV. Giải Nghĩa
Thân Xác Ta là một hiện tượng vô
ngã (anatta). Nó hiện hành do sự cộng thông, tương tác của vô vàn nhân duyên
trong lòng Vạn Hữu. Thân Ta đích thực là một xã hội, một cộng đồng, một đại cơ
thể, một thế giới hiện tượng, một Vũ Trụ gồm vô lượng các tầng lớp thành phần
nhỏ bé khác tạo thành như: các cơ quan, bộ phận, tế bào, các đơn vị, cơ thể
sống li ti, các phân tử sinh hóa vô cùng vi tế, phức tạp...Thân Ta do trùng
trùng điệp điệp các tác nhân giả hợp đến từ thực phẩm, khí trời, từ môi trường
sinh quyển (khí quyển, địa quyển, thủy quyển), từ mặt trăng, mặt trời, từ những
thiên thể, tinh tú, thiên hà xa xôi, thăm thẳm (qua các lực, các sóng, các tia,
các trường, các hạt...). Thân ta là một hiện tượng chung của Vạn Vật: nó hiện
hữu, nó thành hoại, tồn vong, sinh diệt do sự hiện hành, doanh hư, tiêu trưởng,
hợp tan của hằng hà sa số nhân duyên trong Vũ Trụ. Nó tuyệt nhiên không phải
một sự vật đơn lẻ, một đơn vị, một thực thể tách biệt, cô lập với Vạn Sự, Vạn
Vật.
Thân Xác Ta lại là một
hiện tượng vô thường (anicca): Nó thường xuyên biến dịch, liên tục hóa thân,
biến tướng, thay cũ, đổi mới trong từng thời điểm. Cơ thể ta già nua liên tục.
Hiện tượng đồng hóa, hoàn nguyên luân phiên diễn ra. Diễn trình thành, trụ,
hoại, không, thể hiện bằng những chu kỳ dài ngắn khác nhau đang luân lưu bất
tuyệt. Lúc nào cũng có cái đang sinh ra, cái đang hủy diệt. Ngay từ tiền bán
thế kỷ 20, nhà Y học đoạt giải Nobel người Pháp Alexis Carrel đã khẳng định:
“Con người, trông bề ngoài như không thay đổi, nhưng thực ra là một dòng thác Niagara đang đổ nước”. Cái Thân Xác Ta bây giờ không phải
cái Thân Xác Ta hồi nãy, hay cái Thân Xác Ta lát nữa. Khi ta vừa ý thức về hình
tướng, diện mạo, tính chất đặc thù của nó, thì lập tức cái nhận định này đã trở
thành lỗi thời, lạc hậu, không đúng với thực tế nữa, vì Thân Xác Xác ta đã
chuyển sang một trạng thái hoàn toàn mới lạ rồi.
Vậy bản chất chân thực của cái
Ta thân xác là một hiện tượng vô ngã, vô thường, do muôn vàn tác nhân giả hợp,
lại biến đổi liên tục. Khái niệm về một cái Ta thân xác (Sắc) như một thực thể
tồn tại, biệt lập, riêng lẻ, có hình tướng vật chất xác định, có đặc tính rõ
ràng, bất biến thì chẳng khác nào một điều hư huyễn, hoàn toàn không có (Sắc
bất dị Không), hay chính xác hơn, khái niệm về một cái Ta thân xác độc lập,
thường hằng đích thị là một điều tuyệt nhiên không có trong hiện tiền (Sắc tức
thị Không).
Cũng y như thế, Tâm ta
cũng là một hiện tượng vô ngã, vô thường. Ta mê lầm, đã đơn giản hóa, khái niệm
hóa tâm thức như một cái Ta tâm thức, một thực thể tinh thần độc lập, bất biến,
gồm 4 thành phần xác định rõ rệt được như: Cảm Nhận, Kinh Nghiệm, Tư Tưởng, Ý
Thức (Thọ, Tưởng, Hành, Thức).
Tâm thức là hiện tượng vô ngã:
nó là cả một thế giới tinh thần, một kho chứa khổng lồ tập nhiễm các sở tri, sở
kiến, sở chấp, sở cầu đến từ truyền thống gia đình, chủng tộc, tôn giáo, giáo
dục, sách báo, xã hội...cộng thông tương tác chằng chịt bằng vô lượng các mối
tương quan với môi trường thiên nhiên, môi trường xã hội.
Tâm thức là hiện tượng vô
thường: nó thường xuyên biến dịch, nó đổi dời, mới lạ liên tục. Khi ta vừa khởi
lên các nhận định về Tâm thức, thì ngay đấy, nhận định này đã trở thành một
hình bóng quá khứ hư giả, chứ không phải hiện trạng của Tâm thức đang luân lưu
bất tuyệt trong hiện tiền. Những thông tin, những hiện tượng nội tâm như tâm
tư, tình cảm, cảm xúc, ý nghĩ, dục vọng... luân phiên sinh, thành, hoại, diệt.
Vậy Tâm thức là một hiện tượng
chung của Vạn Vật, do vô vàn nhân duyên từ Vạn Hữu giả hợp lại, lại mới lạ,
thanh tân, tinh khôi liên tục. Vậy khái niệm Tâm Thức như một thực thể tinh
thần cá biệt như Tâm Thức Ta, Tinh Thần Ta, Tâm Hồn Ta, với các thành phần cấu
tạo xác định, với các cá tính đặc thù, bất biến, với các quy luật vận hành cố
định là một điều hoàn toàn mê lầm, phi hiện hữu, phi thực tại, không có thực.
Tóm lại, khái niệm về Thân, Tâm
Ta, về Bản Ngã, về cái Ta chủ thể, tức khái niệm Ngũ Uẩn, tức Ngã Chấp, như một
Thực Thể cá biệt, độc lập, riêng lẻ, tách biệt với Vạn Hữu, có hình tướng, diện
mạo cụ thể, có đặc tính tinh thần rõ ràng...mà ta có thể nhận xét, mô tả, diễn
đạt được, phân biệt được với các cái Ta khác, với Vạn Hữu (được coi như đối
tượng, tha nhân, ngoại vật)... là một kiến giải hư giả, mê lầm, ngộ nhận, tuyệt
đối không có thực trong Thế Giới hiện tiền. Qua bao đời dĩ vãng, con người đã
tập nhiễm, nhuốm chứa, tích lũy những hình ảnh quá khứ để kiến tạo nên một kho
chứa khổng lồ, một trung tâm Bản Ngã chồng chất, mênh mông, sâu thẳm, cực kỳ
bền vững, đầy ắp những sở tri, sở kiến, sở cầu, những tham chấp, những thành
kiến tư tưởng, những khuôn mẫu ý niệm, những ước vọng thành đạt...Lịch trình
kiến tạo nên Bản Ngã hư giả này đã được Phật Tổ dẫn giải rõ ràng trong lý Thập
Nhị Nhân Duyên. Cái Tâm tập nhiễm, cái Tôi y niệm, cái Ta chủ thể, cái Bản Ngã
chấp trước này đã sai sử, qui định điều khiển, phỉnh gạt, nhào nặn, lôi kéo,
trói buộc con người... khiến chúng ta thường xuyên bất an, vọng động, mâu
thuẫn, lỗi lầm, lo âu, ưu phiền, khổ lụy... không một giây phút thanh bình, an
lạc, hồn nhiên, tự do, tự tại.
Trong Tập Đế, Phật bảo: “Tâm tập
nhiễm là nguyên nhân cội nguồn, thủ phạm duy nhất, gây ra tất cả mọi hình thức
sai lầm, tội lỗi, đau khổ, tai họa... ở Trần Gian này”. Những hình bóng dĩ
vãng, những kỷ niệm, ký ức, kinh nghiệm chấp trước nơi Tiềm Thức sẵn sàng nổi
lên trên bình diện Ý Thức thành những giao động lăng xăng, những vọng tưởng
miên man, những âu lo, buồn chán vu vơ, những day dứt, nôn nao vô duyên cớ...
Chúng ta ngồi đứng không yên, phải tiêu sầu, khiển muộn, lấp đầy khoảng trống
nội tâm bằng đủ mọi hình thức sinh hoạt, giải trí cầu kỳ, đa dạng. Nhưng khi
những giây phút hưởng thụ, náo nhiệt qua đi, nỗi niềm sầu muộn, bất an, trống
vắng vẫn mênh mang, lê thê, vô phương, bất trị.
Chúng ta tiếp xúc với Sự Vật qua
lăng kính tư tưởng, khuôn mẫu ý niệm, chúng ta hành sử theo sở tri, sở kiến
chấp trước trong đầu óc để mong muốn, bắt buộc Sự Vật phải diễn ra như thế này
hoặc như thế nọ. Nhưng Sự Vật hiện tiền thì mới lạ không ngừng, tư tưởng ý niệm
lại đúc kết từ những chất liệu quá khứ đã đoạn diệt. Cái như thực hiện tiền
không còn là cái như nguyện lỗi thời, lạc hậu. Khi Sự Vật chưa xảy ra, ta phấp
phỏng mong chờ, chỉ lo sợ nó không diễn ra như dự kiến, định kiến. Khi Sự Vật
diễn ra không như sở nguyện, ta bất mãn, hối hận, buồn phiền, đau khổ. Thay vì
hội nhập vào giòng sống chung đang luân lưu bất tuyệt cuả Vạn Hữu, hòa nhịp với
bản đại hòa tấu chung của Vạn Vật, con người đã dừng lại, hồi tưởng, lưu giữ,
nhuốm chứa những hình ảnh dĩ vãng hư giả để tự tách mình ra khỏi cái Đại Toàn Thể
như một thực thể chân thật, độc lập, riêng lẻ, đối lập sâu sắc với phần còn lại
của Vũ Trụ, được coi như đối tượng hay tha nhân, ngoại vật.
Cái Ta chủ thể hư giả này, tức
cái Bản Ngã y niệm, ngày một phát triển sâu dày, mênh mông, bền vững...Cái Ta
liên tục phì đại, bành trướng: Thân, Tâm ta, tài sản ta, gia đình ta, tôn giáo
ta, chủng tộc ta, quốc gia ta... Khi một phần của cái Ta sứt mẻ, thương tổn,
mất mát, ta thấy thiệt thòi, đau xót, bất an, khổ sở. Vì cái Ngã Chấp sâu dày
cùng cực này, tất cả mọi hành vi của con người đều cực kỳ vị kỷ. Cái Ta luôn
luôn thiếu thốn, thường xuyên khao khát trở thành mưu cầu chiếm hữu để ngày một
lớn mạnh hơn, tốt đẹp hơn, trường cửu hơn. Cái Ta ý niệm, vị kỷ cực đoan này là
cội nguồn sinh ra mọi thống khổ trong xã hội loài người: hung tàn, áp bức, bóc
lột, bất công, tranh chấp, xung đột, hỗn loạn, khủng hoảng...
Tóm lại, qua muôn vàn quá khứ,
con người đã tập nhiễm, tích lũy những hình bóng dĩ vãng hư giả để kiến tạo nên
một cái Ta chủ thể, một Trung Tâm Bản Ngã y niệm đầy ắp những sở tri, sở kiến,
sở cầu. Con người đã mê lầm tưởng rằng cái Chủ Thể ý niệm hư huyễn, vị kỷ cùng
cực này là một thực thể chân thực, độc lập, thường hằng, bất biến, là Chân Tâm,
Bản Tánh mình. Cái Ngã Chấp vô minh, mù quáng đó đã khai sinh ra mọi đau buồn,
khổ lụy trong cuộc nhân sinh đầy điêu linh, khổ ải này. Ngã Chấp là mê lầm, đau khổ.
Chư Pháp, Vạn Hữu, Sự Vật là một
thế giới hiện tượng vô ngã, vô thường: chúng lồng chứa nhau, đan dệt nhau,
nương tựa nhau, cộng thông, tương tác với nhau bằng vô vàn các mối liên hệ về
vật chất, về năng lượng, về thông tin, trong cái không gian vô hạn, cái thời
gian vô cùng này, đồng thời, chúng lại chuyển dịch biến hóa, đổi dời, luân lưu,
mới lạ, thanh tân, tinh khôi liên tục. Ta đã không thấy được bản chất vô ngã,
vô thường ấy. Ta đã dừng lại, lưu giữ lại hình ảnh dĩ vãng của Sự Vật, để thấy
nó như một Thực Thể có hình tướng rõ ràng, có đặc tính cố định. Ta đặt tên cho
hình tướng dĩ vãng hư giả ấy. Sau đó, ta lại tìm cách mô tả, diễn đạt lại hình
tướng, diện mạo, đặc tính của các Thực Thể ý niệm đó bằng ngôn từ, luận giải,
để nghiên cứu xếp loại, so đo, chọn lựa... Khi ta làm như vậy, thì Sự Vật đã
chuyển sang một trạng thái hoàn toàn mới lạ rồi. Vũ Trụ là một trường sáng tạo,
một lò vạn hóa, trong đó mọi hiện tượng chỉ diễn ra một lần, không bao giờ tái
diễn. Chúng ta không thể xác định hình tướng, đặc tính, hoặc gọi tên một thông
tin, một cảm nhận, một quan hệ tương tác giữa Thân, Tâm ta và Sự Vật, một hiện
tượng đang hiện hành, vì chúng là cái thay hình, đổi tánh trong từng thời điểm,
và hoàn toàn vô danh. Chúng ta không thể lưu giữ, ghi khắc, mô tả, xếp loại,
diễn đạt, luận giải, nghiên cứu nó, vì làm như vậy là chúng ta đang hồi tưởng,
tái tạo, vận dụng những hình ảnh dĩ vãng hư huyễn, đã đoạn diệt của nó, chứ
không đối diện trực tiếp với Sự Vật hiện tiền đang biến đổi không ngừng. Trong
một Vũ Trụ đang bành trướng, giãn nở với tốc độ ghê hồn như các nhà thiên văn
khẳng định, làm gì có những vật thể cố định, tĩnh tại, tách biệt, bưng bít,
riêng lẻ, độc lập.
Một Sự Vật ta vừa cho là tốt, nó
đã trở thành xấu rồi, cái ta vừa bảo là phúc nó đã chuyển thành họa rồi, một
hiện tượng ta mới nhận định là sinh, nó đã biến thành diệt rồi. Sự Vật không có
danh xưng, tên gọi, đặc tính cá biệt. Những đặc tính như tốt xấu, sinh diệt,
thêm bớt, dơ sạch, đều do ý niệm thiên chấp, đầu óc so sánh của con người khoác
cho chúng. Sở dĩ ta có khái niệm về đặc tính hiện trạng của Sự Vật như xấu,
diệt, tăng, dơ, là ta so sánh nó với hình ảnh cũ của nó đã qua đi, mà ta ghi
nhớ và đặt tên là tốt, sinh, giảm, sạch, do đó ta có ý niệm về tính chất đối
đãi của Sự Vật. Khi ta khởi lên một ý niệm, một nhận thức về Sự Vật đang hiện
hành, về hình dung, tướng mạo, tính chất của nó... thì thực chất là lúc ấy ta
đang ngưng sự cảm thông với cái Chân Thật hiện tiền đang trôi chảy, để dừng
lại, hồi tưởng lại, ngắm nhìn lại, tái tạo lại hình ảnh dĩ vãng của Sự Vật, để
đặt tên, định giá, so đo, chọn lựa những điều hư huyễn thuộc về quá khứ đã đoạn
diệt, đã không trở lại. Tóm lại, tất cả những khái niệm về hình tướng, tên gọi,
tính chất, giá trị mà ta gán ghép cho Vạn Hữu đều là những cái phi hiện tiền,
phi thực tại, không có thực, vì chúng đều là những sản phẩm do tư tưởng con
người ngụy tạo từ những hình bóng quá khứ hư giả, chỉ có trong ký ức, trong kỷ niệm,
trong thế giới ý niệm, chứ không phải Bản Thể Chân Thật của Chư Pháp hiện tiền.
Kinh Kim Cương nói rất rõ: “Nhất
thiết hữu vi Pháp như mộng huyễn, bào ảnh, như lộ, diệc như điện. Ưng tác như
thị quán...Nhược dĩ sắc kiến Ngã, dĩ âm thanh cầu Ngã, thị nhân hành tà Đạo,
bất năng kiến Như Lai” (Tất cả các Sự Vật đều biến dịch như mộng huyền, bóng
bọt, như sương mai, như tia chớp. Hãy quán xét chúng như vậy... Nếu lưu giữ
hình tướng, âm thanh để tìm hiểu Bản Chất Chân Thật của Sự Vật thì đó là con
đường sai lầm, không bao giờ thấy được Thực Tại).
Bản Thể Chân Thật của Chư
Pháp, Vạn Hữu, Sự Vật hiện tiền là Tướng Không. Tướng Không là cái Bản Thể vô
ngã, vô thường, vô tướng, vô danh, vô tính, vô niệm, phi tư tưởng, bất khả
danh, bất khả đạo, bất khả tư nghị, bất khả ngôn thuyết, luận giải. Sự Vật hiện
tiền thì không có thực thể, hình tướng, không biệt lập, không thường hằng,
không có tên gọi, danh xưng, không đặc tính nhất định, không giá trị phân biệt,
đối đãi, không thể hình dung, khái niệm, không thể mô tả, diễn đạt bằng ngôn
từ, biện minh, lý giải... Chúng thì không sinh không diệt, không nhơ không
sạch, không thêm không bớt, không tốt không xấu, không hơn không kém, không lợi
không hại, không đúng không sai, không thiện không ác, không phúc không họa. Bản
Thể Chân Thật của Chư Pháp, Sự Vật, của Tâm Ba-La- Mật của Chân Tâm là cái
Tướng Không tuyệt đối vô tướng, vô niệm.
Trong Sự Vật hiện tiền, trong
Tâm Ba-La-Mật, trong Chân Tâm, trong Tâm Không, tuyệt nhiên không có một mảy
may hình ảnh, khái niệm nào. Chân Tâm, Tâm Không vắng lặng tuyệt trần, sạch
làu, vong bặt tất cả những vọng niệm vi tế, nhỏ nhiệm, sâu lắng, tiềm ẩn nhất.
Chân Tâm, Tâm Không, Tâm Ba-La-Mật cũng im vắng tất cả những luận giải, những
khái niệm về Nhân Sinh, về Vũ Trụ, về Đạo Học, dù đó là những giáo lý cao siêu
nhất, minh triết nhất, từ những bậc Minh Sư, Giáo Chủ vĩ đại nhất, siêu phàm
nhất, hiền triết nhất. Tất cả các khái niệm, luận giải đều là những phương tiện
diễn giải Chân Lý, không phải cái Chân Thật hiện tiền vô tướng, vô niệm, trong
sáng, thường tịch. Phật vẫn cảnh giác: Ngón tay dùng để chỉ mặt trăng không
phải mặt trăng. Với các cao đồ đã qua giai đoạn tu Giới, sang phần tu Định,
Phật Tổ đã phủ nhận tất cả giáo lý mà Phật đã thuyết giảng trong suốt 45 năm
truyền Đạo. Phật bảo tất cả những khái niệm, những luận giải về Đạo Lý chỉ đắc
dụng trong phần tu Giới (phần được ví với giai đoạn vượt sông), sang phần tu
Định (phần được ví với giai đoạn sang tới bờ bên kia), hành giả phải trút sạch
toàn bộ những tri kiến ấy, để tâm trở về trạng thái bản lai vô tướng, vô niệm
tuyệt đối, tịch lặng, trong sáng cùng tột. Chiếc bè chỉ là phương tiện để qua
sông, muốn đáo bỉ ngạn, phải dứt khoát quăng bỏ nó, để đặt chân lên bến bờ Tịnh
Độ.
Nhưng con người đã không thấy
được cái Tướng Không vô tướng, vô niệm của Chư Pháp. Họ đã tập nhiễm, cưu mang
những hình ảnh dĩ vãng hư giả của Vạn Hữu, để mê lầm coi Sự Vật như những Thực
Thể biệt lập, có hình tướng rõ rệt, có đặc tính nhất định, có tên gọi phân
biệt, có giá trị tốt xấu khác nhau để mô tả, xếp loại, so đo, chọn lựa lấy, bỏ.
Họ đã thiên chấp, ràng buộc, dính mắc vào những giá trị, những khái niệm hơn
kém do chính tư tưởng họ bày đặt ra để khoác cho Sự Vật, để ra sức vươn tới,
đuổi bắt, chiếm đoạt những cái họ coi là tốt đẹp, ưu việt, phúc lợi và đùn đẩy
những cái mà họ coi là xấu xa, thiệt thòi, thấp kém, tai họa cho tha nhân, đồng
loại. Đây là đầu mối sinh ra mọi mâu thuẫn, tranh chấp, bất công, bạo ngược,
đau khổ... trong xã hội loài người. Pháp
Chấp là mê lầm, đau khổ.
V. Đại ý
Đại ý phần nội dung chính của
Kinh nói về Bản Thể Chân Thật của Chư Pháp, của Tâm Ba-La-Mật, của Chân Tâm,
của Tâm Không, tức cái Tướng Không vô tướng, vô niệm, vô ngã, vô thường, vô
danh, vô tính, bất khả danh, bất khả đạo, bất khả tư nghị, bất khả ngôn thuyết,
bất khả luận giải. Nó vắng lặng cùng cực, trong sáng tuyệt trần, an vui vô hạn:
đấy là Tâm Giải Thoát. Trái lại, Tâm Tập Nhiễm, tức cái Tâm Ngã Chấp, Tâm Pháp
Chấp, cái Tâm thấy biết, ứng sử với Sự Vật không trực tiếp, tức thời, vô niệm,
vô ngã, vô tư, vô dục, mà qua lăng kính của cái Tôi ý niệm, tham dục, cái Bản Ngã tư tưởng, vị kỷ thì hoàn toàn mê lầm, hư giả, sai
trái, mâu thuẫn....nguồn gốc của tất cả mọi hình thức tội lỗi, đau khổ trong xã
hội loài người.
C. Phần Kết luận
I. Nguyên Văn
“Bồ-Đề-Tát-Đóa y Bát-Nhã Ba-La-
Mật-Đa, cố Tâm vô quải ngại, vô quải ngại, cố vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo
mộng tưởng, cứu cánh Niết Bàn. Tam Thế Chư Phật, y Bát-Nhã Ba-La-Mật-Đa, cố đắc
A-Nậu-Đa-La Tam-Miểu Tam-Bồ-Đề.
Cố tri Bát-Nhã Ba-La-Mật-Đa, thị
Đại Thần Chú, thị Đại Minh Chú, thị Vô Thượng Chú, thị Vô Đẳng Đẳng Chú, năng
trừ nhất thiết khổ, chân thực bất hư. Cố thuyết Bát-Nhã Ba-La-Mật-Đa Chú, tức
thuyết chú viết: “Yết-đế, yết-đế, ba-la-yết-đế, ba-la-tăng-yết-đế Bồ-Đề,
tát-bà-ha !”.
II. Nguyên Nghĩa
Các bậc Bồ-Tát, theo Trí Tuệ
Ba-La-Mật, nên Tâm không ngăn ngại, vì không ngăn ngại nên không còn sợ hãi, xa
lìa các mộng tưởng điên đảo, đạt tới Tâm thái Niết Bàn. Chư Phật ba đời, y theo
Trí Tuệ Ba-La-Mật, nên đắc quả A-Nậu-Đa-La Tam-Miểu Tam-Bồ-Đề.
Vì vậy, ta nhận thấy Trí Tuệ
Ba-La-Mật đích thị như một Đại Thần Chú, một Đại Minh Chú, một Vô Thượng Chú,
một Vô Đẳng Đẳng Chú, có thể tiêu trừ mọi khổ não: đó là điều chân thực, không
sai. Cho nên, khi phát biểu về Bát-Nhã Ba-La-Mật Chú thì ta nói lời chú như
vầy: “Cao quý thay Trí Tuệ đã vượt qua, vượt qua, vượt qua khỏi, vượt qua tới
tận bờ bên kia !”(Yết-đế, yết-đế, ba-la-yết-đế, ba-la-tăng-yết-đế Bồ-Đề,
tát-bà-ha ! = Gate, gate, paragate, parasamgate Bodhi, svaha !).
III. Ý nghĩa
Các bậc Chân tu (Bồ Tát:
Bodhisatva), các bậc Giác Ngộ (Phật: Buddha), xưa nay đều do thực hành Trí Tuệ
Ba-La-Mật, Tâm Không, mà đạt cảnh giới Niết Bàn, quả vị Vô Thượng Chính Đẳng
Chính Giác (A-nậu-đa-na Tam-miểu Tam-bồ-đề = Anuttara Samya Sambodhia). Đấy là
một sự thực hiển nhiên.
Do công năng mầu nhiệm, diệu
dụng thần kỳ như vậy, nên có thể nói Trí Tuệ Ba-La-Mật là một Đại Thần Chú, một
Đại Minh Chú, một loại thần chú siêu việt tối thượng, loại thần chú cấp bậc cao
tột trên tất cả các loại thần chú cao cấp khác, có khả năng tiêu trừ, tận diệt
tất cả mọi hình thức phiền não, đau khổ: đây là một khẳng định hoàn toàn đúng
đắn, chính xác, trung thực, tuyệt không có gì là sai ngoa cả. Khi đã so sánh
công năng thù thắng, siêu việt của Tâm Không, Tâm Ba-La-Mật như công năng thần
kỳ, mầu nhiệm của một thần chú linh thiêng nhất, thì ta có thể khẳng định một
cách xác thực, không có gì là ngoa ngôn cường điệu rằng: Tâm Ba-La-Mật, Tâm
Không, đích thị như một loại thần chú tối thượng, vô song, tuyệt đỉnh. Khi đã
coi Tâm Ba-La-Mật đích thị như một thần chú tuyệt đỉnh, vô song thì ta cũng có
thể đặt lời chú cho thần chú này bằng những ngôn từ tán thán sau đây: “Cao quý
thay Trí Tuệ đã vượt qua, vượt qua, vượt qua khỏi, vượt qua tới tận bờ bên kia!
” (Yết-đế, yết-đế, ba-la-yết-đế, ba-la-tăng-yết-đế Bồ-Đề, tát-bà-ha! = Gate,
gate, paragate, parasamgate Bodhi, svaha!). (Gate:vượt qua; paragate:vượt qua
khỏi; parasamgate:vượt qua tới tận bờ bên kia; Bodhi:Trí Tuệ; svaha:từ Bắc Phạn
Sanskrit dùng để tôn vinh, tán thán). Tâm Không, Tâm Ba-La-Mật hoàn toàn xứng
đáng được tôn vinh bằng những ngôn từ xương minh, tán thán cao quý trên đây.
IV. Giải Nghĩa
Con người, qua muôn vàn dĩ vãng,
vẫn coi những kinh nghiệm, kiến thức tập nhiễm, tích lũy được là những hành
trang vô giá, những phương tiện thiết thân, những bảo bối vạn năng để đối phó
với mọi vấn đề, mọi tình huống trong cuộc sống. Nhưng Trí Tuệ Ba-La-Mật, Tâm
Không, lại là tâm thái vắng lặng, minh linh cùng tột, vong bặt tất cả những sở
tri, sở kiến, sở cầu. Trí Tuệ Ba-La-Mật chính là thứ Trí Tuệ siêu việt, cách
mạng cùng cực, vượt thoát, buông bỏ tất cả mọi kiến chấp, tham dục thường tình
của thế nhân. Đó là Trí Tuệ Đáo Bỉ Ngạn, đã vượt qua, vượt qua khỏi, vượt qua
tới tiêu đích tận cùng, tới tận bờ bên kia của giòng sông vô minh, vọng niệm,
phiền não...Nó buông bỏ, buông bỏ tới tận triệt mọi chấp trước, tham cầu sâu
lắng, vi tế nhất...Trí Tuệ Ba-La-Mật, Tâm Không, chính là cái mà Lão Tử gọi là
Đạo Tâm ngày một bớt đi, bớt đi, rồi lại bớt đi hơn nữa cho tới mức độ vô niệm,
vô vi cùng cực (nhật tổn, tổn nhi hựu tổn, dĩ chí ư vô vi). Trí Tuệ Ba-La-Mật,
Tâm Không, vượt thoát hoàn toàn khỏi sự bủa vây của mạng lưới tư tưởng, sự giam
nhốt của ngục tù ý niệm, dục vọng. Thực tế hiển nhiên cho thấy: Nhờ thực hành,
thể hiện Tâm Ba-La-Mật, Tâm Không, tâm vô niệm, vô ngã, vô trước, vô chấp, vô
cầu tới chỗ thậm thâm, rốt ráo, vi tế, sâu lắng cùng tột, mọi hành giả đông,
tây, kim, cổ đã chứng đạt Đạo quả Giải Thoát Vô Thượng, vĩnh viễn đoạn diệt tất
cả mọi hình thức vô minh, phiền não. Nó đích thị như một thần chú siêu phàm
tuyệt đỉnh, một báu vật quý giá vô song, một viên minh châu như ý đứng trên tất
cả mọi thứ trân châu, bảo ngọc trên đời, một viên thần dược vạn năng chữa dứt
tuyệt tất cả mọi căn bệnh đau khổ, phiền não. Nó xứng đáng để chúng ta tôn
vinh, tán thán bằng những ngôn từ cao đẹp, thiêng liêng nhất... Diệu dụng nhiệm
màu của Trí Tuệ Ba-La-Mật là một sự thực tuyệt đối, một chân lý hiển nhiên.
Trong Tâm Kinh, sau khi xác định
bản chất vô niệm, khẳng định công năng diệu dụng của Tâm Ba-La-Mật, Tâm Không,
cuối cùng Phật nêu ra lời ca ngợi Tâm Không, Tâm Ba-La-Mật như con đường giải
khổ chắc chắn, vẹn toàn nhất, xứng đáng được tôn vinh bằng những ngôn từ cao
đẹp nhất. Lời tán thán Phật đưa ra không phải như một chân ngôn, mật chú kỳ bí,
để ta tụng đọc cầu mong sự linh ứng. Nó chỉ nhằm khẳng định giá trị giải khổ
tuyệt đối thần kỳ, không gì so sánh được của Tâm Ba-La-Mật, Tâm Không, nhằm
giúp hành giả có vững niềm tin, nhiệt tâm, kiên chí, để theo đuổi, thực hành,
thể hiện Tâm Ba-la-Mật, Tâm Không tới chỗ vi tế, nhỏ nhiệm, sâu xa, cùng tột,
vô niệm, vô chấp, vô cầu tuyệt đối…tiến tới vượt thoát mọi phiền não, khổ ách,
hòa đồng, hợp nhất với Chân Tâm, Tâm Giải Thoát minh linh, an vui, tịch lặng.
Sau nhiều trang luận giải về Trí
Tuệ Ba-La-Mật, Tâm Không, giờ đây, chúng ta đã thấu đạt được bản chất, cũng như
công năng, giá trị phi phàm của Trí Tuệ Ba-La-Mật, của Tâm Không chưa? Chưa,
tuyệt nhiên chúng ta chưa cảm thông, lãnh hội được bản chất chân thực, diệu
dụng phi thường của thứ Trí Tuệ siêu việt tối thượng này. Chúng ta không thể lấy
ý niệm để hiểu cái vô niệm ấy, lấy tư tưởng để thông đạt cái phi tư tưởng.
Chúng ta không thể nghiên cứu kinh sách để thấu hiểu Tâm Ba-La-Mật, Tâm Không.
Tâm Ba-La-Mật, Tâm Không thì vô niệm, phi tưởng, không ghi khắc, ôm giữ, không
ý kiến, nhận xét, không thành kiến, khái niệm, không tôn chỉ, khuôn mẫu, không
động cơ, định hướng, không mục tiêu, lý tưởng. Tư tưởng, ý niệm không thể hoạch
định, kiến tạo, vẽ đặt ra bất cứ một phương pháp, một kỹ thuật, một con đường
nào dẫn tới việc thấu đạt Tâm Không, Tâm Ba-La-Mật cả. Muốn cảm thông, thấu đạt
trọn vẹn bản chất, công năng, giá trị của Chân Tâm, Tâm Ba-La-Mật, Tâm Không,
ta phải thân chứng, thể nghiệm, sống làm một với nó, tâm ta phải tuyệt đối vô
tướng, vô niệm, vô chấp, vô cầu, sạch làu mọi trước nhiễm, tham dục, giống hệt
như Chân Tâm, Tâm Ba-La-Mật, Tâm Không.
V. Đại ý
Phần Kết Luận của Bát-Nhã
Ba-La-Mật Tâm Kinh chính là lời khẳng định dứt khoát, xác quyết rõ ràng của
Phật Tổ về công năng, giá trị thần diệu phi thường, nhiệm mầu cùng tột của Trí
Tuệ Ba-La-Mật: tất cả mọi hành giả, các bậc chân tu, hay bất cứ ai, ở đâu, ở
thời đại nào, nếu kiên trì, quyết tâm thực hành Tâm Ba-La-Mật tới chỗ thậm
thâm, rốt ráo, vượt qua, vượt qua, buông bỏ, buông bỏ...tới chỗ vô tướng, vô
niệm cùng cực, đều chắc chắn thành tựu cứu cánh Giải Thoát Vô Thượng, an vui
trọn vẹn, hạnh phúc viên mãn.
Chúng ta không được chỉ dừng ở
phần tìm hiểu bản chất, công năng, giá trị của Tâm Ba-La-Mật, Tâm Không bằng
trí năng, bằng suy tưởng, luận giải. Nếu chỉ vậy, mọi mê lầm, sai trái, bất an,
phiền muộn, khổ đau của ta vẫn nguyên vẹn. Điều quan trọng bậc nhất là ta phải
thực hành, thể hiện Tâm Ba-La-Mật, Tâm Không ngay trong cuộc sống thực tế hiện
tiền. Tại đây, ngay bay giờ ta hãy lập tức để tâm lắng nghe, theo dõi, cảm
thông trực tiếp những vận hành, những bước đi của cái Tôi ý niệm, những cảm nhận, những đáp
ứng của thân tâm ta với Vạn Hữu bằng Tâm Không, một tâm thái sạch làu mọi sở
tri, định kiến, mọi ghi khắc, lưu giữ, nhận xét, so sánh, cân nhắc, lựa chọn,
điều chỉnh, sửa sai, nỗ lực, chủ tâm, định hướng, tham cầu… Tâm thái vô ngã, vô
niệm, vô chấp, vô cầu này phải được thể hiện tới mức thâm viễn tận cùng, sâu
lắng triệt để, trong sáng, vi tế, vô vi cùng tột. Nếu được như vậy, vấn đề hết
mê, hết tội, hết tất cả mọi hình thức khổ não, ưu phiền… là điều hiển nhiên
chắc chắn phải xảy ra, không thể không như vậy. Đấy là điều chân thực, bất hư,
không thể sai chạy, như Phật Tổ xác quyết, khẳng định trong phần Kết của
Bát-Nhã Ba-La-Mật Tâm Kinh.
Phụ lục. Tài liệu tham khảo
1. David Werner; Where there is no doctor;
Y Học Việt Nam,
Hà Nội, 1983.
2. Sức Khỏe cho mọi người, Y Học Việt Nam, Hà Nội,
1988.
3. Sổ tay thầy thuốc thực hành, Y Học Việt
Nam,
Sài Gòn,1988.
4. Sức Khỏe là vốn quý, Y Học Việt Nam, Hà Nội,
1984.
5. Phạm
Song, Hướng dẫn sử dụng thuốc, Xí
nghiệp Dược VN, 1986.
6. Nguyễn
Đồng Di, Hoàng Đế Nội Kinh; Khai
Trí, Sài Gòn, 1971.
7. Trần
Thúy, Phạm Duy Nhạc; Y Học Cổ Truyền Dân
Tộc, Tập I, II, III; Y Học, Hà Nội, 1985.
8. Hoàng
Bảo Châu, Lã Quang Nhiếp; Châm Cứu Học,
Tập I, II; Y Học, Hà Nội, 1978.
9. Thái
Khắc Lễ; Zen và Ý thức nói về Ăn Chay;
Khai Trí, Sài Gòn, 1971.
10. Thái
Khắc Lễ; Zen và Dưỡng Sinh;
Khai Trí, Sài Gòn, 1969.
11. Thái
Khắc Lễ; Tuyệt Thực đi về đâu?;
Khai Trí, Sài Gòn, 1971.
12. Lê
Minh; Ăn Uống và Sức Khỏe;
Thăng Long, Hà Nội, 1986.
13. Avadhutika
Anandamitra Acarya; Thức Ăn và Sức Khỏe;
Vĩnh Phụ dịch; M. Cà Mâu, Sài Gòn, 1994.
14. Bùi
Kim Tùng; Món ăn, Bài thuốc,
quyển I, II, III; Bà Rịa Vũng Tàu, 1996.
15. David
Kessler; The doctor’s complete Guide to
healing foods; Phan Linh Lan dịch; Phụ Nữ, Sài Gòn, 1997.
16. Nguyễn
Xuân Đào; Món ăn trị bệnh; Đà
Nẵng, TPHCM, 1998
17. Trương
Kế An; Thuật Dưỡng Sinh; Trương
Việt, Sài Gòn, 1966
18. Nguyễn
Minh Kính; Luyện Dưỡng Sinh,
tập I, II; Tổng Hợp Khánh Hòa, Sài Gòn, 1991.
19. Nguyễn
Văn Hưởng; Phương Pháp Dưỡng Sinh;
Văn Hóa Thông Tin Long An, 1984.
20. Ngô
Gia Hy, Bùi Lưu Yêm; Khí Công, Sức Khỏe
và Điều Trị, Long An, 1988.
21. Kiều
Ngọc; Mười sáu Phương Pháp luyện tập để
tăng cường sức khỏe; Thông Tin, TpHCM, 1991..
22. Mã
Tế Nhân; Luyện Khí Công để chữa bệnh;
Tô Quốc Tuấn dịch, Đồng Tháp, 1992.
23. Lê
Thành; Nội Đan, TPHCM, 1999.
24. Ngô
Đồ Nam;
Thái Cực Quyền Dưỡng Sinh,
Trẻ, TP.HCM 1998.
25. Hàng
Thanh; Võ Đang Thái Cực Quyền; Sài Gòn, 1974.
26. Phulgenda
Sinha; Yoga chữa bệnh; Thể
Dục Thể Thao HCM, 1989.
27. Nguyễn
Tấn Trí; Yoga, Sức Khỏe và Hạnh Phúc;
TP.HCM, 1992.
28. Desmond
Dunne; Yoga cho mọi người;
Phương Thái Không và Trí Thông dịch, TP.HCM, 1992.
29. Nawami;
Tìm hiểu Yoga; Trí Thức, Sài
Gòn, 1964.
30. Tinh
Tiến; Yoga Quyền Năng và Giải Thoát;
Thể Dục Thể Thao TP.HCM, 1994.
31. Philipe
de Meric; Yoga cho mọi lứa tuổi;
Thể Dục Thể Thao TP.HCM, 1991.
32. S.
Yesudian–E.Haich; Yoga Thể Thao và Sức
Khỏe; Thể Dục Thể Thao TP.HCM, 1992.
33. K.S.Joshi;
Yoga trong đời sống thường ngày
; Thể Dục Thể Thao TP.HCM, 1991.
34. Uyên
Vy; Yoga cho người trên 50 tuổi; Phụ
Nữ, TpHCM, 1998.
35. Thắng
Toàn-Thành Trung; Tự chữa bệnh bằng Yoga
và Thực Dưỡng; Thuận Hóa, TpHCM, 1995.
36. Koichi
Tohei; Hiệp Khí Đạo trong đời sống hằng
ngày; TP.HCM, 1990.
37. Tập
san số 4-1991, Tìm hiểu Võ Thuật; Hiệp
Khí Đạo; Thể Dục Thể Thao, TpHCM, 1991.
38. Koichi
Tohei; Phương pháp khí công Aikido,
Bùi Ngọc Lâm dịch,Thể Dục Thể Thao,Sài Gòn,1977
39. Thái
Khắc Lễ; Nội lực tự sinh;
Khai Trí, Sài Gòn, 1974.
40. Dale
Carnegie; Quẳng gánh lo đi và vui sống;
Nguyễn Hiến Lê dịch, Long An, 1989.
41. J.A.
Winter; Dứt bỏ lo âu, trừ bệnh tật;
Thẩm Diên An dịch, Đồng Nai, 1993.
42. Nguyễn
Thừa Nghiệp; Sống Hạnh Phúc,
Đồng Tháp, 1995.
43. Nguyễn
Duy Cần: Tôi tự học. Óc sáng suốt. Thuật
đọc sách. Thuật tư tưởng. Thuật yêu đương. Cái cười của Thánh Nhân. Cái dũng
của Thánh Nhân.
44. Phạm Cao
Tùng; Muốn nên người. Túi khôn loài
người. Phạm Văn Tươi, Sài Gòn, 1955.
45. Dương
Thu Ái; Trí Tuệ của người xưa; Hải
Phòng, Hà Nội, 1996.
46. Trương
Vĩnh Ký; Minh Tâm Bửu Giám,
Hoa Tiên, Sài Gòn, 1968.
47. Dale
Carnegie; Đắc Nhân Tâm;
Nguyễn Hiến Lê dịch.
48. Nguyễn
Hoài Chân; Những Bí Ẩn của Trái Đất,
Tập I, II, III; TP.HCM, 1990, 1991, 1992.
49. Những khả năng bí ẩn của con người;
Thông Tin, Hà Nội, 1981.
50. Đoàn
Văn Thông; Những người có khả năng siêu
phàm; Nguồn Sống,
California, 1994.
51. Thiên
Tùng; Các Kỳ Nhân Khí Công Trung Quốc
đương đại; Thể Dục Thể Thao Hà Nội, 1990.
52. Văn
Hòa; Trung Quốc Siêu Nhân;
Văn Hóa TP.HCM, 1993.
53. Phạm
Ngọc Dương; Hiện Tượng Ngoại Cảm. Hiện
thực và lý giải; Văn Hoá Thông Tin, Hà Nội, 2007.
54. Lê
Mai Dung; Bí Ẩn cuả các nhà Ngoại Cảm
Việt Nam,
Văn Hoá Thông Tin, Hà Nội, 2007
55. Nguyễn
Hoàng Phương; Con người và Trường Sinh
Học; Đà Nẵng, 1989.
56. Nguyễn
Đình Phư ; Nhân Điện, Những Phát Hiện và
Ứng Dụng; Văn Hóa Thông Tin, Hà Nội, 1994.
57. Nguyễn
Đình Phư ; Nhân Điện trong cuộc sống;
Văn Hóa Thông Tin, Hà Nội, 1995.
58. Nguyễn
Đình Phư ; Sự Kỳ Diệu của Năng Lượng Sinh
Học; Văn Hóa Thông Tin Hà Nội, 1996.
59. Betty
Eadie; Trở về từ Cõi Sáng;
Nguyên Phong dịch, Làng Văn, California, 1995.
60. Đoàn
Văn Thông; Bí Ẩn về Tiền Kiếp, Hậu Kiếp;
Nguồn Sống, California, 1994.
61. Đoàn
Văn Thông; Những Bí Ẩn sau Cõi Chết;
Nguồn Sống, California, 1994.
62. Đoàn
Văn Thông; Những Cõi Giới Vô Hình và Hữu
Hình; Đại Nam, California, 1993.
63. Thích
Tâm quang; Những chuyện Luân Hồi hiện
đại; 1994.
64. Hướng
Thiện; Cõi Vô Hình; Houston, Texas,
1994.
65. Lạt Ma Teunzang; Tử Thư Bardo – Thodol; Huỳnh Ngọc Hương
dịch, 1995.
66. Gina
Germinara; Những Bí Ẩn của cuộc đời;
Nguyễn Hữu Kiệt dịch, Sài Gòn, 1970.
67. John
Blofeld; Ngọc sáng trong Hoa Sen;
Nguyên Phong dịch, 1994.
68. Spalding;
Hành trình về phương Đông;
Nguyên Phong dịch, 1993.
69. Đại
Sư Hám Sơn; Đường Mây Trong Cõi Mộng;Thích
Hằng Đạt và Nguyên Phong phóng tác;Văn Nghê, California,1988.
70. HòaThượng
Hư Vân; Đường Mây Trên Đất Hoa;Thích
Hằng Đạt và Nguyên Phong phóng tác, Văn
Nghe,California,
1996.
71. Anagarita
Govinda; Đường Mây qua Xứ Tuyết;
Nguyên Phong dịch, 1993.
72. Yogânanda;
Xứ Phật huyền bí; Nguyễn Hữu
Kiệt dịch, Sài Gòn, 1973.
73. Paul
Brunton; Ấn Độ huyền bí;
Nguyễn Hữu Kiệt dịch, Sài Gòn, 1971.
74. Paul
Brunton; Ai Cập huyền bí;
Nguyễn Hữu Kiệt dịch, Sài Gòn, 1972.
75. Baird
T. Spalding; Á Châu huyền bí;
Nguyễn Hữu Kiệt dịch, Sài Gòn, 1975.
76. Lobsang
Rampa; Tây Tạng huyền bí;
Nguyễn Hữu Kiệt dịch, Sài Gòn, 1974.
77. Alexandra
David Neel; Huyền Thuật và Đạo Sĩ Tây
Tạng; Nguyên Phong dịch, 1993.
78. Alexandra
David Neel; Du hành Tây Tạng;
Minh Lạc, Thuần Bạch dịch, 1994.
79. Rechung;
Milarepa, con người siêu việt;
Đỗ Đình Đồng dịch, Nguồn Sáng, 1973.
80. Howart
Murphet; Sai Baba Avatar;
Birthday Publishing Company, San Diego,
1977.
81. Trịnh
Chuyết; Tự Điển Danh Nhân Thế Giới cần
biết; Xuân Trinh, Sài Gòn, 1970.
82. Phan
Khoang; Trung Quốc sử lược; Văn Học Sử, Sài Gòn, 1970.
83. Trần
Trọng Kim; Việt Nam Sử Lược.
84. Dương
Quảng Hàm; Việt Nam Văn Học Sử Yếu và Việt Nam Thi Văn Hợp
Tuyển.
85. Ngô
Tất Tố; Đường Thi; Khai Trí,
Sài Gòn, 1961
86. Trần
Trọng San; Thơ Đường, Tập I,
II; Bắc Đẩu, Sài Gòn, 1970.
87. Fritjof
Capra; The Tao of Physics,
Đạo Vật Lý; Phan Hồng Nhật dịch, 1996.
88. Nguyễn
Hiến Lê; Kinh Dịch, Đạo của người quân
tử; Văn Học, TPHCM, 2005.
89. Nguyễn
Hữu Lương; Kinh Dịch với Vũ Trụ Quan Đông
Phương; Tuyên Úy Phật Giáo Sài Gòn, 1970.
90. Nguyễn
Duy Cần; Dịch Học Tinh Hoa;
Thu Giang, Sài Gòn, 1970.
91. Nguyễn
Duy Cần; Chu Dịch Huyền Giải; Thu Giang, Sài Gòn,
1973.
92. Nguyễn
Duy Cần; Nhập Môn Triết Học Đông Phương;
Thu Giang, Sài Gòn, 1971.
93. Nguyễn
Duy Cần; Tinh Hoa Đạo Học Đông Phương;
Thu Giang, Sài Gòn, 1972.
94. Nguyễn
Duy Cần; Lão Tử Tinh Hoa;
Khai Trí, Sài Gòn, 1962.
95. Nguyễn
Duy Cần; Trang Tử Tinh Hoa;
Khai Trí, Sài Gòn, 1964.
96. Nguyễn
Duy Cần; Đạo Đức Kinh; Khai
Trí, Sài Gòn, 1963.
97. Nguyễn
Duy Cần; Nam Hoa Kinh; Khai Trí, Sài Gòn, 1962.
98. Trần
Trọng Kim; Nho Giáo; Tân
Việt, Sài Gòn, 1970
99. Nguyễn
Duy Cần; Phật Học Tinh Hoa;
Khai Trí, Sài Gòn, 1965.
100. Đức
Nhuận; Phật Học Tinh Hoa; Vạn
Hạnh, Sài Gòn, 1971.
101.
Thích Thiện Hoa; Phật Học Phổ Thông,
Cuốn I, II, III, IV, V, VI; Thành Hội Phật Giáo TP.HCM, 1989.
102.
Narada Maha Thera; Đức Phật và Phật Pháp;
Phạm Kim Khánh dịch, Phương Đông, Sài Gòn, 2007.
103.
Nghiêm Xuân Hồng; Biện Chứng Giải Thoát
trong Giáo Lý Trung Hoa; Quan Điểm, Sài Gòn, 1967.
104.
Nghiêm Xuân Hồng; Biện Chứng Giải Thoát
trong Tư Tưởng Ấn Độ; Quan Điểm, Sài Gòn, 1966.
105.
John Yale; Tôn Giáo là gì?;
Vương Gia Hớn dịch, An Tiêm, Sài Gòn, 1970.
106.
Darshani Deane; Minh Triết trong đời sống;
Nguyên Phong dịch, Văn Nghệ,
California, 1992.
107.
Achaan Chah; Mặt hồ tĩnh lặng;
Trần Minh Tài dịch, 1994.
108.
Vĩnh Như, Hoài Văn Tử; Con
đường An Vui, Hạnh Phúc, 1996.
109.
Thích Minh Châu ; Hãy tự mình thắp đuốc
lên mà đi; Viện Phật Học Vạn Hạnh, 1990.
110. Thích
Nhất Hạnh; An Lạc từng bước chân;
Lá Bối, California,
1995.
111.
Thích Nhất Hạnh; Phép lạ của sự Tỉnh Thức;
Lá Bối, California,
1996. ;
112.
Thích Nhất Hạnh; Đường xưa mây trắng;
Tổng Hợp, TPHCM, 2006.
113.
Thích Thanh Từ; Thiền Sư Việt Nam,
TPHCM, Sài Gòn, 1999.
114. Thích
Thanh Từ; Các Ấn phẩm dạy về Tu Thiền (Sổ
tức, Tùy Tức, Tri vọng không theo).
115. Thích
Thiện Siêu, Lời Phật Dạy, Pháp Cú:
Dhammapada, Tôn Giáo, TPHCM, 2000.
116.
Thuần Bạch; Thiền; Tôn Giáo,
Hà Nội, 2002.
117.
Suzuki; Thiền Luận (Essays on Zen
Buddhism);Trúc Thiên và Tuệ Sỹ dịch, An Tiêm, Sài Gòn, 1970.
118.
Thích Chân Quang; Giáo Trình Thiền Học;
Tôn Giáo, TPHCM, 2006.
119. Chí
Minh và Tuyết Đường; Thiền Uyển Dao
Lâm(Vườn Thiền Rừng Ngọc), Thông Thiền dịch, TP.HCM, Sài Gòn, 2001.
120. Thomas
Cleary, Zen Antics (A hundred Stories of
Enlightenment): Những Nụ Cười Thiê’n), Viên Chiếu dịch, TP.HCM, Sài
Gòn, 1999.
121.
Nguyễn Tường Bách; Lưới Trời Ai Dệt; Trẻ,
Trẻ, Sài Gòn 2006.
122.
Eugen Herrigel; Thiền trong nghệ thuật
bắn cung (Zen in der kunst des bogenschiessens), Nguyễn Tường Bách
biên dịch, Trẻ, Sài Gòn, 2005.
123.
Bankei; Tâm Bất Sinh, Thích
Nữ Trí Hải dịch, Thanh Văn, California, 1997.
124.
Nguyễn Minh Tiến; Lục Tổ Đại Sư; Tôn
Giáo, TPHcM, 2006.
125.
Trúc Thiên; Hiện tượng Krisnamurti;
An Tiêm, Sài Gòn, 1970.
126. Mộc
Nhiên; Một Nghệ Thuật Sống ;
Thanh Niên, Tp.HCM, 2002.
127. Mộc
Nhiên; J.Krishnamurti Lời Cuối Bình An;
Thanh Niên,Tp.HCM,2003.
128. Mộc
Nhiên; J.Krishnamurti Người Nhập Cuộc,
Thanh Niên, TPHCM,2004
129. Mộc
Nhiên; Đường Hạc Bay;
Thanh Niên, TPHCM, 2006.
130.
Nguyễn Ước; J.Krishnamurti, Cuộc Đời và
Tư Tưởng; Văn Học,Sài Gòn, 2002.
131.
Pupul Jayakar; J.Krishnamurti,
A Biography; Haper and Row, San Francisco, 1986.
132. J.Krishnamurti;
Tự Do đầu tiên và cuối cùng;
Phạm Công Thiện dịch, An Tiêm, Sài Gòn, 1968.
133. J.Krishnamurti;
Đường vào Hiện Sinh; Trúc
Thiên dịch, An Tiêm, Sài Gòn, 1969.
134. René
Fouere; Krishnamurti, cuộc đời và tư
tưởng; Võ Văn Quế dịch, Ca Dao, Sài Gòn, 1975.
135. J.Krishnamurti;
Ý nghĩa về sự chết, Đau Khổ và Thời Gian;
Nguyễn Minh Tâm dịch, An Tiêm, Sài Gòn, 1969.
136. J.Krishnamurti;
Giáo Dục và Ý nghĩa cuộc sống;
Hoài Khanh dịch, Ca Dao, Sài Gòn, 1971.
137. J.Krishnamurti;
Giải trừ kiến thức; Nguyễn
Minh Tâm, Đào Hữu Nghĩa dịch, An Tiêm, Sài Gòn, 1970.
138. J.Krishnamurti;
Cách Mạng con người; Nguyễn
Minh Tâm, Đào Hữu Nghĩa dịch, Khai Trí, Sài Gòn, 1969.
139. J.Krishnamurti;
Mạng lưới tư tưởng; Ẩn Hạc
dịch, 1995.
140. J.Krishnamurti;
Thế giới trong ta; Ẩn Hạc
dịch, 1994.
141.
J.Krishnamurti; Giáp mặt cuộc đời;
Nguyễn Minh Tâm, Đào Hữu Nghĩa dịch, Khai Trí, Sài Gòn, 1970.
142.
J.Krishnamurti; Tự Do và Hòa Bình.
143. J.Krishnamurti;
Hãy suy nghĩ đến những điều này;
Nguyễn Minh Tâm dịch, Sài Gòn, 1970.
144. Carlo
Suarès; Krishnamurti và con người toàn
diện; Nguyễn Minh Tâm dịch, Sài Gòn, 1970.
145. Các cuộc phỏng vấn và buổi nói chuyện cuối cùng của
J.Krishnamurti.
146.
J.Krishnamurti; Đối Diện Cuộc Đời;
Nguyễn Tường Bách
biên dịch; Phụ Nữ, TPHCM, 2004.
147.
J.Krishnamurti; Quyển Sách của Cuộc Đời; Lê
Tuyên biên dịch, Tổng Hợp, TPHCM, 2006.
148.
J.Krishnamurti; Đường bay chim đại bàng; Thích
Thiện Sáng dịch, Phương Đông,
TPHCM, 2007.
149.
J.Krisnahmurti; Meditations; Vũ
Toàn dịch, Lao Động, TPHCM, 2007
150. Tạp
chí Thế Giới Mới, Kiến Thức Ngày Nay, Tài Hoa Trẻ, An Ninh Thế Giới…