-01-
Ba nơi nương tựa
Viết dựa theo tập sách "Tam Quy, Ngũ Giới"
của Bác Phạm Kim Khánh
Tìm nơi nương tựa - quy y - là một hành
động
chung của hàng Phật tử, căn bản cho các công phu hành trì trong
Đạo Phật.
Bất cứ luận thuyết, tông phái và pháp hành nào của Phật giáo đều
bắt nguồn
từ hành động quan yếu này, mà mỗi Phật từ đều trì tụng thường
xuyên, đó là
việc quy y. Trong tiếng Pāli, hành động đó gọi là "sarana-gamana"
(quy y). "Gamana" nghĩa là đi đến, quy về, tìm về. "Sarana"
nghĩa là nơi nương tựa, giúp đỡ, dưỡng nuôi, hướng dẫn. Quy y về
một nơi
nào có nghĩa là đến đó để xin giúp đỡ, hướng dẫn và dưỡng nuôi.
Thông
thường, đó là điều ta làm khi gặp phải một khủng hoảng nào đó
trong đời
sống, khi gặp phải một thực tế khó khăn mà tự chúng ta không thể
đương đầu
được. Do đó, ta tìm đến một nơi nào đó để xin giúp đỡ.
Điều làm cho một người trở thành một Phật tử không phải chỉ đơn
giản là
đi tìm nơi nương tựa ở bất cứ điều gì. Thông thường, người ta đi
tìm nơi
nương tựa ở một cái gì khác, chẳng hạn nương tựa vào gia đình, bạn
bè,
nghề nghiệp, chức vụ, kinh doanh, thú vui dục lạc, rượu chè, ma
túy,
v.v... Điều làm cho một người trở thành một Phật tử chân chính là
người ấy
tìm nơi nương tựa ở Đức Phật, Giáo pháp, và chư Thánh Tăng - gọi
là Quy Y
Tam Bảo.
Sau đây là một câu chuyện ghi lại lời giảng của Đức Phật trong
kinh Ví
Dụ Hòn Núi (Tương Ưng 3.II.V) về tầm quan trọng của việc quy y Tam
Bảo:
Khi Ðức Phật ngự tại thành Sāvatthi (Xá Vệ). Lúc ấy vua
Pasenadi
(Ba-tư-nặc) của nước Kosala đến hầu Phật, và sau khi đảnh lễ xong,
vua
ngồi lại một bên. Ðức Thế Tôn hỏi:
- Thưa Ðại Vương, Ngài đến đây có việc gì không?
- Bạch Thế Tôn, bấy lâu nay con hết sức bận rộn với những công
việc mà
hàng vua chúa thường quan tâm đến, như là làm sao để gìn giữ quyền
lực,
bảo đảm an ninh của xứ sở, bành trướng lãnh thổ và vui hưởng trên
các
chiến thắng đó.
- Thưa Ðại vương, Ðại vương nghĩ thế nào? Thí dụ như có người
thân tín,
đáng tin cậy từ phương Ðông đến gặp Ðại vương và thưa: "Tâu Ðại
vương, xin
báo đến Ðại vương được biết, rằng hiện có một ngọn núi rất cao,
đang di
chuyển và đè bẹp tất cả mọi loài chúng sinh. Tâu Ðại vương, xin
Ðại vương
hãy gấp làm những gì cần phải làm".
Rồi một người khác đến từ phương Tây, rồi một người thứ ba đến
từ
phương Bắc, rồi một người thứ tư đến từ phương Nam cũng đều đến
báo nguy
như thế. Như vậy, thưa Ðại vương, từ bốn phía đều có các ngọn núi
khổng lồ
vồn vập tràn tới. Nghe như vậy thì Ðại Vương vô cùng kinh sợ. Tiêu
diệt
kiếp sống làm người quả thật khủng khiếp. Tái sinh trở lại vào
cảnh người
quả thật hy hữu. Bấy giờ Ðại Vương phải làm thế nào?
- Bạch Thế Tôn, tiêu diệt kiếp sống làm người quả thật vô cùng
khủng
khiếp, tái sinh trở lại làm người quả thật rất hy hữu. Như thế,
con không
thể làm cách nào khác hơn là cố gắng sống một cuộc sống chân
chánh, công
minh chánh trực, và làm những việc thiện, tạo phước.
- Thưa Ðại Vương, Ta báo cho Đại Vương biết là tuổi già và sự
chết đang
tiến đến Đại Vương. Khi tuổi già và sự chết tiến dần đến, Ðại
Vương phải
làm thế nào?
- Bạch Thế Tôn, những việc như xua voi, ngựa, chiến xa, và quân
lính
vào chiến tranh, những việc hằng làm bận tâm hàng vua chúa - những
việc ấy
không thể làm gì để ngăn chống tuổi già và sự chết. Bạch Thế Tôn,
trong
triều có những vị quân sư tài giỏi, bùa phép cao cường, có thể
ngăn ngừa
cả đội binh địch. Trong quốc khố, có vàng bạc châu báu được tàng
trữ đầy
kho, dư đủ để chống đỡ mọi chiến lược tài chánh. Tuy nhiên, bùa
phép và
tài sản ấy không thể cản ngăn sự chết và tuổi già đang tiến dần
đến con.
Bây giờ, con không thể làm cách nào khác hơn là cố gắng sống cuộc
sống
chân chánh, công minh chánh trực, và làm những việc thiện, tạo
phước.
- Đúng vậy, thưa Ðại vương. Quả đúng như thế. Khi tuổi già và
sự chết
tiến dần đến, Đại Vương không thể làm cách nào khác hơn là cố gắng
sống
cuộc sống chân chánh, công minh chánh trực, và làm những việc
thiện, tạo
phước.
Và bậc Ðạo Sư nói lên bài kệ:
Như núi đá rộng lớn,
Dựng đứng lên hư không,
Tiến tới tràn xung quanh,
Áp đè cả bốn phía.
Cũng vậy, già và chết
Di chuyển đến hữu tình,
Giai cấp Sát-đế-lỵ,
Bà-la-môn, Phệ-xá,
Thủ-đà, Chiên-đà-la
Kẻ đổ rác, đổ phân,
Không một ai thoát khỏi,
Tất cả bị chinh phục.
Ở đây không tượng binh,
Không xa binh, bộ binh,
Không trận chiến chú thuật,
Không trận chiến tài sản
Có thể giúp chiến thắng,
Chống với già, với chết.
Do vậy người hiền trí,
Thấy rõ phần tự lợi,
Người trí đặt tin tưởng,
Vào Phật, Pháp và Tăng.
Ai với thân, khẩu, ý,
Hành trì đúng Chánh pháp,
Ðời này được tán thán,
Ðời sau, hưởng phước trời.
*
Do vậy, là những Phật tử hiền trí, chúng ta tìm về nơi nương
tựa cao
quý nhất trên thế gian, đó là Tam Bảo: Phật Bảo, Pháp Bảo và Tăng
Bảo.
Ðức Phật tìm ra Con Ðường Giải Thoát, vượt thoát ra khỏi mọi
hình thức
khổ não của kiếp sống triền miên luân hồi trong sinh tử. Với lòng
từ bi vô
lượng, Ngài đã chỉ dạy rõ ràng cho chúng sinh về Con Đường đó.
Pháp Bảo là
Con Ðường, là những lời dạy quý báu của Ngài. Tăng Bảo là những vị
đã có
niềm tin nơi Ðức Phật, lắng nghe và thông hiểu lời dạy, nỗ lực
hành trình
theo Con Ðường và chứng đắc các Ðạo Quả cao thượng.
1) Quy Y Phật
Người Phật tử hằng ngày đọc tụng, suy ngẫm, xưng tán mười hồng
danh của
Ðức Thế Tôn là: Ðấng Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc,
Thiện
Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân
Sư,
Phật, Thế Tôn.
- Ðấng Ứng Cúng (Arahaṁ), còn phiên âm là
A-la-hán, vì
Ngài có phẩm hạnh hoàn toàn trong sạch, đã tận diệt ô nhiễm, xa
lìa những
bợn nhơ ngủ ngầm trong tâm. Ngài đã phá tan và thoát ra khỏi vòng
luân
hồi, chấm dứt chuỗi dài sinh tử triền miên và không còn tái sinh
trong cõi
Ta-bà này nữa. Ngài là bậc chí tôn chí thánh, xứng đáng để chư
Thiên và
nhân loại lễ bái cúng dường.
- Ðấng Chánh Biến Tri (Sammāsambuddho), vì Ngài
thông
suốt các pháp một cách chân chánh và tự mình chứng ngộ, không thầy
chỉ
dạy. Nơi đây, "không thầy chỉ dạy" có nghĩa là không có vị thầy
nào chỉ
dạy cho Ngài phương pháp tu học để chứng đắc Ðạo Quả Chánh Ðẳng
Chánh
Giác. Trước kia, Ngài có học với những vị thầy như Ālāra Kālāma,
Uddaka
Rāmaputta để hiểu biết thế gian pháp, nhưng để tiến đến tầng siêu
thế thì
chính Ngài phải tự mình quán nhìn vào trong, tìm chân lý bên
trong. Đắc
tuệ giải thoát, Ngài chứng ngộ Chân Lý tối hậu, chưa từng được
biết.
- Ðấng Minh Hạnh Túc (Vijjācaraṇa-sam panno), vì
Ngài có
đầy đủ minh trí và giới hạnh, trí tuệ viên thông, vừa sâu sắc vừa
mênh
mông bao quát, đức hạnh thanh cao siêu xuất.
- Ðấng Thiện Thệ (Sugato) là người đi chân chánh.
Ngài đi
chân chánh vì đi trên Con Ðường Cao Quý, tức Bát Chánh Ðạo. Ngài
đi theo
phương pháp chân chánh, vì dứt bỏ mọi luyến ái và hướng đến trạng
thái chu
toàn. Mục tiêu cuộc hành trình của Ngài là chân chánh vì đó là
Niết Bàn.
Ngài đi chân chánh vì đi thẳng đường, không quanh co hay lui tới.
- Ðấng Thế Gian Giải (Lokavidū), vì Ngài thông
suốt cả
Tam Giới gồm Dục Giới, Sắc Giới và Vô Sắc Giới. Ngài đã kinh
nghiệm và
thông suốt thấu đáo thế gian dưới tất cả mọi khía cạnh như về bản
chất cá
nhân, về sự phát sinh, sự chấm dứt và phương tiện đưa đến chấm dứt
thế
gian.
- Ðấng Vô Thượng Sĩ (Anuttaro), không ai
sánh
bằng, vô song, vô thượng. Trong toàn thể tam giới, Ðức Phật có
nhiều đặc
tính cao thượng, quý trọng hơn tất cả, về giới hạnh, về pháp hành
thiền,
về trí tuệ, về giải thoát, về tri kiến giải thoát, không ai hơn
hoặc sánh
bằng Ngài.
- Ðấng Ðiều Ngự Trượng Phu (Purisa-damma-sārathi),
vì
Ngài dẫn dắt những người hữu duyên đáng được giáo hóa. Ngài rèn
luyện, un
đúc, khép vào khuôn khổ giới luật những chúng sinh cần được huấn
luyện và
đưa những chúng sinh ấy đến giới đức trong sạch, trí tuệ tuyệt
hảo.
Xin lưu ý ở đây là Vô Thượng Sĩ và Điều Ngự Trượng Phu cũng có
thể hiểu
chung là một danh hiệu "Đấng Vô Thượng Điều Ngự Trượng Phu".
- Ðấng Thiên Nhân Sư (Satthā Devāmanus-sānaṁ),
bậc thầy
của chư Thiên và nhân loại, vì Ngài dạy các pháp có lợi ích trong
hiện
tiền, tại nơi đây, có lợi ích trong những kiếp sống vị lai và các
pháp dẫn
đến mục tiêu tối hậu là Niết Bàn.
- Ðấng Giác Ngộ (Buddho). Từ giấc mơ vô minh,
Ngài đã
thức tỉnh, chứng ngộ Ðạo Quả Vô Thượng dưới cội bồ đề. Ðây là kết
quả của
công phu tích cực tu tập thực hành tròn đủ ba mươi pháp Ba-la-mật
qua
nhiều đời, nhiều kiếp. Trong đời sống cuối cùng, sau cuộc chiến
đấu kỳ
diệu phi thường kéo dài sáu năm đăng đẵng, không có sự hỗ trợ từ
bên ngoài
và không được sự hướng dẫn của một năng lực siêu phàm nào, cô độc
một
mình, Bồ-tát Gotama (Cồ Ðàm), lúc ấy ba mươi lăm tuổi, tận diệt
mọi ô
nhiễm ngủ ngầm từ vô lượng tiền kiếp, chấm dứt mọi tiến trình tham
ái, và
chứng ngộ thực tướng của vạn pháp, trở thành một vị Phật, bậc Toàn
Giác.
- Ðức Thế Tôn (Bhagavā), một danh từ diễn đạt
lòng tôn
sùng kính mộ. Ðây là một hồng danh đặc biệt mà Ngài thành đạt do
sự liễu
ngộ vô thượng, Chánh Ðẳng Chánh Giác, cùng với tri kiến toàn hảo.
Khi thấu hiểu những đức hạnh, trí tuệ, công đức và lòng từ bi
vô lượng
của Ðức Phật. chúng ta cảm thấy cần phải tỏ lòng kính mộ đến một
lý tưởng
trong sạch. Trong tâm ta tràn ngập những tư tưởng tri ân, kính
trọng, tôn
sùng, quý mến. Khi thành kính chiêm bái kim thân Ngài, ta tìm thấy
một
nguồn năng lực dồi dào, thúc giục xây dựng trong tâm mình một nơi
tôn thờ
trang nghiêm, rồi cố dọn lòng trong sạch để xứng đáng đón rước
hình ảnh
của Ngài, tôn trí hình ảnh ấy vào đền thờ nội tâm với đầy sự kính
mến tiềm
tàng trong lòng. Trước bàn thờ ấy, ta nguyện hàng ngày dâng lên
Ðức Phật
những lễ vật, không phải những ngọn nến phải tiêu mòn hay những
đóa hoa
phải tàn héo, mà là những hành động từ ái, những thái độ hy sinh
cao cả,
những công trình phục vụ hoàn toàn vị tha. Ðó là lễ vật mà ta chú
nguyện
hằng ngày để dâng đến Ðức Phật.
Ta nhận định chắc chắn rằng đó hẳn là nơi nương tựa chu toàn
nhất cho
chúng sinh, và từ đó phát sinh một niềm tin vững chắc nơi Ðức Bổn
Sư ,và
từ đáy lòng, ta tự nguyện:
"Buddhaṁ saranaṁ gacchāmi"
- Con xin về nương tựa nơi Ðức Phật.
2) Quy Y Pháp
Ðức Phật là nương tựa cao quý, nhưng Ngài đã nhập diệt. Trước
giờ Ngài
nhập Ðại Niết Bàn, Ngài Ānanda (A Nan) bạch hỏi: "Sau khi
Ngài nhập
diệt, ai sẽ thay thế Ngài để lãnh đạo Giáo Hội?", Ðức Phật dạy:
"Này Ānanda, có thể thầy nghĩ rằng Giáo Huấn Tối Cao sẽ
không còn ai
giảng dạy, quý thầy sẽ không còn Ðạo Sư dẫn dắt. Này Ānanda, thầy
không
nên nghĩ như thế. Giáo Pháp và Giới Luật đã được Như Lai truyền
dạy rõ
ràng và quảng bá rộng rãi. Này Ānanda, khi Như Lai nhập diệt, Giáo
Pháp và
Giới Luật (Dhamma-Vinaya) ấy sẽ là Đạo Sư của quý vị." (Ðại
Kinh Bát
Niết Bàn, Trường Bộ)
Đây là một lời dạy rất rõ ràng. Từ ngày ấy, hơn hai ngàn năm
trăm năm
đã trôi qua, giáo lý vàng ngọc mà trong suốt 45 năm Ðức Thế Tôn đã
dày
công giảng dạy bằng nhiều phương cách khác nhau, vẫn được lưu
truyền trọn
vẹn. Giáo pháp, hay những lời dạy của Ðức Thế Tôn, được gìn giữ
đầy đủ
trong ba tạng: Luật, Kinh và Thắng pháp. Ðó là kho tàng Pháp Bảo.
Giáo pháp này có đặc tính gìn giữ, bảo vệ, nâng đỡ những chúng
sinh
thực hành đúng lời dạy, không để rơi vào khổ cảnh. Giáo pháp đem
ánh sáng
đến người tối tăm mê muội, giúp phân biệt điều phải lẽ quấy, đường
chánh
nẻo tà. Giáo pháp chỉ rõ định luật "nghiệp báo - tái sinh" để giúp
chúng
sinh dựa theo đó sửa mình, dọn đường tiến đến những cảnh giới nhàn
lạc,
hạnh phúc. Hơn nữa, nếu thực hành đúng mức, Giáo pháp sẽ đưa ta
thoát ra
khỏi mọi hình thức khổ đau của vòng luân hồi, đến trạng thái tịch
tịnh
trường cửu. Ðó là nơi nương tựa chu toàn.
Câu kinh để tán dương Ân Ðức Pháp Bảo (Dhamma Guṇa) mà
người
Phật tử hàng ngày đọc tụng có ý nghĩa như sau: "Giáo pháp do
Đức Thế
Tôn thuyết giảng toàn hảo, thiết thực hiện tại, trổ quả tức thời,
mời đến
để thấy, có khả năng hướng thượng, được bậc thiện trí tự mình
chứng biết".
- Giáo pháp Do Ðức Thế Tôn Thuyết Giảng Toàn Hảo (Svākkhāto
bhagavatā dhammo). Toàn thể Giáo pháp được Ðức Thế Tôn truyền
dạy một
cách toàn hảo bởi vì toàn hảo ở đoạn đầu, toàn hảo ở đoạn giữa và
toàn hảo
ở đoạn cuối. Và bởi vì Giáo pháp mở đường đưa đến đời sống trong
sạch toàn
hảo.
Hiểu theo một cách khác, toàn thể Giáo pháp hoàn toàn tốt đẹp ở
đoạn
đầu là "Giới", vì giới đem lại trạng thái an lành; hoàn toàn tốt
đẹp ở
đoạn giữa là "Ðịnh" (tức là thiền Chỉ-Quán) vì Định đem lại tình
trạng an
lạc tự tại và trí tuệ minh sát; và hoàn toàn tốt đẹp tốt đẹp ở
đoạn cuối
là Ðạo Quả và Niết Bàn.
Thêm vào đó, Tam Tạng Pháp Bảo, từ tạng Luật đến tạng Kinh và
tạng
Thắng pháp, nếu phân tích từng phần, đoạn nào cũng toàn hảo vì
đoạn nào
cũng nhằm đưa đến giải thoát.
- Thiết Thực Hiện Tại (Sandiṭṭhiko), có nghĩa là
khi đã
thực hành đầy đủ, hành giả thấy được kết quả rõ ràng, hiển nhiên,
ngay
trong hiện tại. Khi vị ấy hoàn tất cuộc hành trình trên Con Ðường,
đương
nhiên hành giả đến nơi tuyệt đối an lành. Và trạng thái tuyệt đối
an lành
này chính hành giả tự tạo cho mình, không phải do ai ban bố.
Sở dĩ phàm nhân chúng ta còn đau khổ là vì chúng ta còn chứa
chấp trong
tâm nhiều bợn nhơ như tham, sân, si, ganh tỵ, ngã mạn, tà kiến, và
vì
chúng ta bị màn vô minh che lấp nên không thấy được sự thật. Chúng
ta thấy
giả tưởng thực, thấy vô thường biến đổi ngỡ là thường còn, thấy
đau khổ
tưởng hạnh phúc, và chạy theo cố rượt bắt cho được cái huyền ảo,
không
thực có. Kết quả hiển nhiên phải là thất bại và từ đó sinh ra bất
mãn, bất
toại nguyện, đau khổ. Bậc Thánh Nhân đã thanh lọc mọi bợn nhơ -
thô kịch
và vi tế - đã khai triển trí tuệ minh quán. Lúc ấy, không cần có
ai ban
thưởng, hoát nhiên vị ấy thấy rõ, trực nhận thực tướng của vạn
pháp, chứng
ngộ Ðạo Quả.
- Trổ Quả Tức Thời (Akāliko), không đợi thì
giờ, có nghĩa là
khi đắc Ðạo rồi thì Quả tức khắc trổ liền sau đó. Hạng phàm nhân,
khi có
hành động thiện hay bất thiện thì hành động này là nhân. Nhân đã
gieo, quả
sẽ trổ, sớm hay muộn, trong kiếp hiện tiền hay trong một kiếp nào ở
thời
vị lai. Ðó là quả tại thế (vipāka). Còn Quả ở đây thuộc về
siêu thế
pháp, Quả (phala) của Ðạo (magga). Ðạo là chập tâm
của hành
giả lúc bước vào dòng giải thoát. Khi Ðạo phát sinh vừa chấm dứt
thì tức
khắc liền sau đó Quả phát sinh. Vì lẽ ấy, một trong các đặc
tính
của Giáo pháp là khi đến mức Ðạo rồi Quả liền trổ sinh, không đợi
thì giờ.
- Mời Ðến Để Thấy (Ehipassiko), có nghĩa là
xứng đáng để mời
người khác đến xem. Tại sao? Vì bên trong Giáo pháp có chứa
đựng
nội dung phong phú, và vì Giáo pháp đưa đến lối sống tinh khiết
trong
sạch. Nếu người kia không có gì trong tay, hay trong tay có nắm
những vật
bẩn thỉu ắt không nói rằng trong tay mình có vòng vàng châu báu và
sẽ
không mời ai đến xem. Nơi đây, trong Giáo pháp này, chắc chắn và
rõ ràng
có chín pháp siêu thế (bốn Ðạo, bốn Quả, và Niết Bàn) và có đời
sống tuyệt
đối trong sạch, nên xứng đáng để mời đến để xem, để quan sát.
- Có Khả Năng Hướng Thượng (Opanayiko), đây
là Pháp dẫn dắt
chúng sinh, đưa đến giải thoát tối thượng là Niết Bàn.
- Được Bậc Thiện Trí Tự Mình Chứng Biết (Paccattaṁ
veditabbo viññūhī’ti). Trên con đường dẫn đến Niết Bàn, chỉ có
bậc
thiện trí mới có thể thấu đạt Giáo pháp, hạng cuồng si không thể
hiểu
được. Nên ghi nhận rằng nơi đây, thấu đạt Giáo pháp có nghĩa là
chứng ngộ,
thấu hiểu bằng minh, chứ không phải hiểu biết ở tầng lớp tri thức,
lý luận
sách vở. Và mỗi cá nhân chỉ có thể tự mình chứng ngộ.
Trên đây là những ân đức (guṇa) của Pháp Bảo. Người nào
đã thấu
hiểu những đặc tính và thấm nhuần ý nghĩa của Pháp Bảo thì sẽ cảm
thấy quý
mến, kính mộ, tôn sùng những lời vàng ngọc ấy. Niềm tin của người
ấy ngày
càng vững chắc. Từ lý trí đến cảm tính, người ấy vững lòng đặt
trọn cuộc
sống của mình dưới sự hướng dẫn và bảo bọc của Giáo pháp.
Từ tận đáy lòng, người ấy thành tâm tự nguyện:
"Dhammaṁ saranaṁ gacchāmi"
- Con xin về nương tựa nơi Giáo pháp.
3) Quy Y Tăng Bảo
Giữa khu rừng rậm mênh mông của những kiếp sinh tồn trong vòng
luân
hồi, giữa cảnh đôn đáo chạy tới chạy lui để tìm con đường thoát ra
khỏi
những hiểm họa rùng rợn của khu rừng ấy, Ngài Bồ-tát đã nỗ lực
trong nhiều
kiếp sống để thực chứng Con Ðường Giải Thoát. Trong kiếp cuối
cùng, khi đã
đến mức tận cùng của Con Ðường, chứng ngộ Ðạo Quả Vô Thượng, Chánh
Ðẳng
Chánh Giác, Chánh Biến Tri, Đức Phật không quản ngại công lao, đi
từ làng
này đến làng khác, từ vùng nọ đến vùng kia, đi trên những lộ lớn
và các
nẻo nhỏ, cùng khắp miền Bắc xứ Ấn Ðộ, để truyền bá bức thông điệp
từ bi và
trí tuệ, đem sự an lành đến toàn thể chúng sinh.
Trong những năm đầu tiên sau khi Thành Ðạo, Ngài gửi sáu mươi
vị đệ tử
A-la-hán đi hoằng pháp với những lời nhắn nhủ như sau:
"Này các Tỳ khưu, quý vị đã thoát khỏi các sự trói buộc
thuộc về cõi
trời và loài người. Này các Tỳ khưu, hãy cất bước du hành vì lợi
ích của
nhiều người, vì an lạc của nhiều người, vì lòng thương xót thế
gian, vì sự
tiến hóa, sự lợi ích, sự an vui của chư thiên và nhân loại, chớ đi
hai
người chung một đường. Này các Tỳ khưu, hãy thuyết giảng Giáo pháp
toàn
hảo ở đoạn đầu, toàn hảo ở đoạn giữa, và toàn hảo ở đoạn kết, có ý
nghĩa,
có văn tự. Hãy quảng bá đời sống thiêng liêng cao thượng, toàn
thiện và
thanh tịnh.
"Có những chúng sinh ít bị ô nhiễm, do không nghe
Giáo pháp họ sẽ bị
thoái hóa; nhưng nếu hiểu được Giáo pháp, họ sẽ thăng tiến" (Đại
Phẩm,
Luật Tạng).
Như vậy, chức vụ căn bản của chư vị A-la-hán, những bậc Thánh
đã thành
tựu mục tiêu giải thoát, là nâng đỡ đời sống đạo đức của người
khác, bằng
cách nêu gương lành trong sạch và truyền dạy Giáo pháp.
Ðức Bổn Sư là người khám phá ra và soi sáng Con Ðường. Giáo
pháp, những
lời dạy của Ngài, là Con Ðường. Con Ðường vẫn còn đó, nhưng nếu
không có
người đi, lâu ngày chồi cây sẽ mọc lên trở lại và sẽ lấp mất con
đường đó.
Lại nữa, tuy có Con Ðường nhưng nếu không ai chỉ dẫn, ắt ta sẽ đi
lạc nẻo.
Chư Thánh Tăng là những vị đã noi theo bước chân của Ðức Bổn Sư đi
trên
Con Ðường và, đúng theo tôn chỉ "tự giác giác tha"của Phật giáo,
các Ngài
sẵn sàng và hoan hỷ hướng dẫn những ai có quyết tâm bước theo chân
mình.
Câu kinh đọc tụng để tán dương ân đức Tăng Bảo có ý nghĩa như
sau:
"Chúng Tăng đệ tử Thanh văn của Đức Thế Tôn là bậc Thiện hạnh;
chúng
Tăng đệ tử Thanh văn của Đức Thế Tôn là bậc Trực hạnh; chúng Tăng
đệ tử
Thanh văn của Đức Thế Tôn là bậc Như lý hạnh; chúng Tăng đệ tử
Thanh văn
của Đức Thế Tôn là bậc Chân chánh hạnh. Chúng Tăng đệ tử Thanh văn
của Đức
Thế Tôn nếu tính đôi thì có bốn, nếu tính riêng rẽ thì có tám.
Chúng Tăng
đệ tử Thanh văn của Đức Thế Tôn đáng được thọ lãnh lễ vật, đáng
được
nghênh tiếp, đáng được cúng dường, đáng được chấp tay chào, đáng
là phước
điền vô thượng ở trên đời."
- Chúng Tăng Đệ Tử Thanh Văn Của Đức Thế Tôn Là Bậc
Thiện Hạnh
(Supaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho). Các vị này có phẩm hạnh
toàn hảo
hay thiện hạnh (supaṭipanno), vì các ngài đi vào con đường
chân
chánh, con đường thẳng tiến không trở đi trở lại, con đường thích
ứng với
Chân Lý, con đường hợp với Giáo pháp mà Ðức Thế Tôn đã giảng giải
một cách
toàn hảo.
- Chúng Tăng Đệ Tử Thanh Văn Của Đức Thế Tôn Là Bậc Trực
Hạnh
(Ujupaṭipanno bhavagato sāvakasaṅgho) vì các ngài đi vào
con đường
ngay thẳng, không quanh co, không xiêng vẹo, con đường chánh đáng,
đúng
thật là con đường.
Con đường của các Ngài là ngay thẳng vì đi ở khoảng giữa (trung
đạo),
lánh xa hai cực đoan lợi dưỡng và khổ hạnh, lánh xa những quanh co
xiên
vẹo của thân, khẩu, ý. Con đường ấy là chánh đáng vì là con đường
của chư
vị A-la-hán. Ðó đúng thật là Con Ðường vì dẫn ngay đến giải thoát,
Niết
Bàn.
- Chúng Tăng Đệ Tử Thanh Văn Của Đức Thế Tôn Là Bậc Như Lý
Hạnh
(Ñāyapaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho) vì các Ngài tận lực
đi suốt
ba giai đoạn Giới, Ðịnh, Tuệ của Con Ðường.
- Chúng Tăng Đệ Tử Thanh Văn Của Đức Thế Tôn Là Bậc Chân
Chánh Hạnh
(Sāmīcipaṭi panno bhagavato sāvakasaṅgho) vì các
Ngài chuyên
cần tiến bước trên con đường dẫn thoát ra khỏi mọi hình
thức đau
khổ.
- Chúng Tăng Đệ Tử Thanh Văn Của Đức Thế Tôn Nếu Tính
Ðôi Thì Có Bốn Và
Nếu Tính Riêng Rẽ Thì Có Tám (Yadidaṁ cattāri purisayugāni
aṭṭha
purisa-puggalā esa bhagavato sāvakasaṅgho). Có bốn Ðạo: Dự Lưu
Ðạo,
Nhất Lai Ðạo, Bất Lai Ðạo và A-la-hán Ðạo, và có bốn Quả là Dự Lưu
Quả,
Nhất Lai Quả, Bất Lai Quả và A-la-hán Quả. Nếu tính đôi theo Ðạo
và Quả
thì có bốn đôi. Nếu tính riêng rẽ thì có tám bậc hay còn gọi là
tám chúng.
- Xứng Ðáng Được Thọ Lãnh Lễ Vật (Āhuneyyo). Những
lễ vật
được đề cập đến ở đây là bốn vật dụng cần thiết trong đời sống:
vật thực,
y phục, thuốc men, và chỗ ở. Chư Thánh Tăng là những vị giới đức
trong
sạch, xứng đáng thọ lãnh các lễ vật mà người dâng có thể đi từ
phương xa
đến, hoặc đã dày công tạo nên, và dâng cúng một cách thành kính.
- Xứng Ðáng Được Nghênh Tiếp (Pāhuneyyo). Sự
tiếp đãi nồng
hậu mà người thí chủ thường dành để đón mừng những khách quý hay
thân bằng
quyến thuộc từ những nơi xa xôi đến, chư Thánh Tăng là
những vị
xứng đáng thọ lãnh sự tiếp đón nồng hậu ấy.
- Xứng Ðáng Được Cúng Dường (Dakkhi ṇeyyo)
trong ý nghĩa là
các Ngài giúp cho các lễ vật cúng dường ấy trở nên trong sạch và
có khả
năng tạo nhiều quả phúc.
- Xứng Ðáng Được Chấp Tay Chào (Añjalikara-ṇīyo)
vì các Ngài
có nhiều đức hạnh thanh cao trong sạch.
- Xứng Ðáng Là Phước Ðiền Vô Thượng Ở Trên Đời (Anuttaraṁ
puññakkhettaṁ lokasā’ti), trong ý nghĩa các Ngài là ruộng đất
vô
thượng để mọi người gieo nhân phước báu.
Như thế, chư Thánh Tăng chắc chắn là nơi nương tựa chu toàn.
Khi hiểu
rõ như vậy, chúng ta đặt trọn niềm tin, hướng về Tăng Bảo và tự
nguyện:
Saṅghaṁ saranaṁ gacchāmi
- Con xin về nương tựa nơi Tăng Đoàn.
*
Ba câu nguyện quy y Tam Bảo bắt nguồn từ thời Đức Phật còn tại
thế, và
thường được các vị cư sĩ ngoại đạo thốt ra sau khi được Ngài giảng
dạy,
hiểu rõ ràng những lợi ích cao quý của Giáo pháp, xin trở thành
Phật tử,
và tự nguyện hành trì theo Con Đường mà Ngài hoằng truyền. Ba câu
nguyện
này thường được ghi ở đoạn cuối của nhiều bài giảng trong Kinh
Tạng, trong
chương đầu của Đại Phẩm (Luật Tạng), và ghi lại trong tập Tiểu
Tụng, thuộc
Tiểu Bộ Kinh:
Buddhaṁ saranaṁ gacchāmi
Dhammaṁ saranaṁ gacchāmi
Saṅghaṁ saranaṁ gacchāmi
Dutiyampi Buddhaṁ saranaṁ gacchāmi
Dutiyampi Dhammaṁ saranaṁ gacchāmi
Dutiyampi Saṅghaṁ saranaṁ gacchāmi
Tatiyampi Buddhaṁ saranaṁ gacchāmi
Tatiyampi Dhammaṁ saranaṁ gacchāmi
Tatiyampi Saṅghaṁ saranaṁ gacchāmi
Có nghĩa là:
Con xin về nương tựa nơi Ðức Phật
Con xin về nương tựa nơi Giáo pháp
Con xin về nương tựa nơi Tăng Đoàn
Lần thứ hai, con xin về nương tựa nơi Ðức Phật
Lần thứ hai, con xin về nương tựa nơi Giáo pháp
Lần thứ hai, con xin về nương tựa nơi Tăng Đoàn
Lần thứ ba, con xin về nương tựa nơi Ðức Phật.
Lần thứ ba, con xin về nương tựa nơi Giáo pháp
Lần thứ ba, con xin về nương tựa nơi Tăng Đoàn
Về sau này, trong truyền thống Phật giáo Bắc Tông, ba câu
nguyện Tam
Quy nêu trên được sửa đổi, với thêm các ý nghĩa khác. Tuy nhiên,
hàng Phật
tử trong truyền thống Phật giáo Nam Tông vẫn tôn trọng, gìn giữ và
tụng
đọc nguyên vẹn ba câu nguyện đó, bằng tiếng Pāli nguyên thủy và có
thể
tiếp theo là lời dịch bằng ngôn ngữ địa phương. Lời nguyện này
thường được
tụng đọc thường xuyên, hằng ngày, tại nhà riêng, cũng như tại
chùa, và
trong các buổi sinh hoạt Phật giáo.
Đôi khi, một người mới vào đạo được mời tham dự lễ Quy Y với
một vị tu
sĩ có uy tín, và xin vị ấy đặt cho một pháp danh. Đây là điều rất
tốt, có
tác động tâm lý lâu dài, giúp tăng trưởng niềm tín thành nơi người
Phật
tử. Tuy nhiên, đó chỉ là một ước lệ quảng bá trong một số cộng
đồng Phật
giáo, không phải là một điều bắt buộc cần thiết và cũng không hoàn
toàn
phổ thông trong các cộng đồng Phật giáo khác. Điều quan trọng cần
ghi nhớ
ở đây là tinh thần tự nguyện của mỗi cá nhân trong quyết định nhận
Tam Bảo
làm nơi nương tựa tâm linh, mà trong đó, Tăng Bảo là đoàn thể các
vị
Thánh, tức là những vị đã nhập dòng giải thoát (bốn đôi, tám
chúng) trong
hàng xuất gia lẫn tại gia. Vai trò của vị tu sĩ trong buổi lễ Quy Y
chỉ là
để chứng minh lòng thành tâm tự nguyện xin nương tựa nơi Tam Bảo
của người
Phật tử.
*
Khi tự nguyện bước theo dấu chân Ðức Phật, hành theo những lời
dạy của
Ngài và đặt mình dưới sự dẫn dắt của chư Thánh Tăng, người Phật tử
phải
biết tự nỗ lực tu tập, bởi vì Ðức Phật dạy rằng:
"Tự mình làm điều ác,
Tự mình làm nhiễm ô,
Tự mình không làm ác,
Tự mình làm thanh tịnh.
Tịnh, không tịnh tự mình,
Không ai thanh tịnh ai."
(Pháp Cú, câu 165)
Ðức Phật là vị Tôn Sư có tâm từ vô lượng, tâm bi vô biên, nhưng
Ngài
chỉ có thể tế độ chúng ta bằng cách khám phá và soi sáng Con
Đường. Chính
ta phải tự đặt chân lên con đường và tiến bước, chính ta phải lãnh
lấy
trách nhiệm thanh lọc thân tâm của mình. Dù là một vị Phật đại từ
đại bi
có rất nhiều quyền năng, Ngài không thể rửa gội bợn nhơ của ai chỉ
vì
người này có đức tin nơi Ngài và van vái nguyện cầu. Ðức Phật dạy:
"Quý
vị phải cố gắng, chư Phật chỉ là những vị Thầy chỉ đường."
Ðức Phật là tinh hoa của nhân loại. Chúng ta là những người
tình nguyện
bước theo dấu chân Ngài. Trước kim thân Phật chúng ta kính cẩn
đảnh lễ. Ðó
là hình thức tôn kính của người Phật tử. Ðó không phải là "đức tin
mù
quáng" mà người đời thường hiểu, không phải chỉ là nhắm mắt tin
suông,
không căn cứ trên suy luận, trên thực tế của đời sống. Niềm tin
nơi Tam
Bảo, saddhā, trái lại, là tín nhiệm, là lòng thành kính
phát sinh
từ tâm trí xuyên qua sự hiểu biết, khi ta nhận thức được giá trị
của đức
hạnh tự chế ngự, tự kiểm soát, của lòng hy sinh cao cả, khi ta cảm
nhận
được tâm Từ, tâm Bi mà Ðức Phật ban rải cho tất cả chúng ta, và
khi ta
nhận thức được chân giá trị của phần di sản quý báu mà Ðức Phật để
lại cho
chúng ta, một bảo vật vô giá, Giáo pháp của Ngài.
Có người xem Phật giáo là một hệ thống
triết học. Ðối với người khác,
đó là một hệ thống luân lý. Cũng có người chủ trương rằng Phật
giáo là một
tôn giáo. Dù nhãn hiệu nào mà người ta có thể gắn vào giáo pháp do
Ðức
Phật truyền giảng, Phật giáo là một lối sống bao hàm trọn vẹn các
lãnh vực
tôn giáo, luân lý và triết học, một lối sống có khả năng thanh lọc
tâm và
phát triển trí đến trạng thái cao thượng nhất mà con người có thể
tiến đạt
đến. Ðây không phải là giáo lý để làm đề tài tranh luận, cũng
không phải
một học thuyết để nghiên cứu học hỏi suông, nhằm thỏa mãn tri
thức. Chính
Ðức Phật gọi giáo lý này là "Dhamma Vinaya", Giáo pháp -
Giới Luật,
và Ngài luôn luôn nhấn mạnh đến sắc thái thực dụng của giáo pháp
đó.