-05-
An bình không
lay
chuyển
Unshakeabke peace
Thiền sư Ajahn
Chah
Thiện Nhựt dịch
Bình Anson hiệu đính
*
Mục lục
Lý thuyết và thực tế.
Giới, Định, Tuệ.
Các nguy cơ của chấp thủ.
An bình không lay chuyển.
Quyền năng của Định lực.
Tu tập một cách tự nhiên.
Thay đổi cách nhìn.
Đi theo Trung đạo.
Dốc lòng tu tập.
Tôn trọng truyền thống.
Trau dồi pháp hành thiền.Đối
chiếu thuật ngữ |
Biên tập từ một bài pháp thoại của ngài Thiền sư Ajahn Chah
giảng cho
một vị tỳ khưu học giả đến thăm Ngài, tại chùa Wat Pah Pong,
tỉnh Ubon
Rachathani, Thái Lan.
Toàn bộ lý
do vì sao phải học tập về Pháp
(Dhamma), những lời dạy của Đức Phật, là để tầm cầu một con
đường
vượt qua khổ não, đạt đến an bình và hạnh phúc. Cho dù chúng ta
học về các
hiện tượng vật lý hay tâm linh, tâm (citta) và các tâm sở
(cetasika),
chỉ khi nào chúng ta lấy sự giải thoát khỏi mọi phiền não làm mục
đích tối
hậu thì chúng ta mới đi đúng con đường. Chúng ta phải thật sự
thông hiểu
nguyên nhân và điều kiện đưa đến sự hiện hữu của mọi phiền não.
Xin hãy hiểu
thật rõ ràng rằng khi tâm được tĩnh lặng, thì đó là tình
trạng tự nhiên, bình thường của tâm. Hễ tâm vừa khởi động lên, tức
thì nó
trở nên bị điều kiện hóa [1]. Khi tâm bị sự vật nào thu hút, thì
tâm ấy bị
điều kiện hóa. Khi sự hiềm ghét khởi lên, tâm bị điều kiện hóa. Ý
muốn di
chuyển từ nơi này đến nơi khác, cũng khởi lên do sự điều kiện hóa.
Nếu sự
hay biết của chúng ta không theo kịp các sự biến chuyển lay động
của tâm
linh, thì tâm tư sẽ đuổi theo các sự biến chuyển đó và do đó mà bị
điều
kiện hóa vì chúng. Khi nào tâm chuyển động, vào lúc đó, tâm ấy trở
thành
một thực tại qui ước.
Cho nên Đức
Phật dạy chúng ta phải nên quán chiếu các sự biến chuyển
lay động đó của tâm. Mỗi khi tâm di động, nó trở nên bất ổn và vô
thường
(anicca), bất toại nguyện (dukkha, khổ não), và
không
thể lấy đó làm một tự ngã được (anattā, vô ngã). Vô thường,
khổ, vô
ngã là ba đặc tính phổ quát của tất cả các pháp hữu vi [2]. Đức
Phật dạy
chúng ta phải quan sát và quán chiếu các biến động của tâm.
Đối với Lý
Duyên Sinh (paticcasamuppāda), ta cũng nên học tập
như thế: vô minh (avijja) là nguyên nhân và điều
kiện khởi
sinh các hành nghiệp [3]; các hành là nhân và duyên khởi
sinh các
thức (viññāna); các thức là nhân và duyên khởi sinh
danh (nāma)
và sắc (rūpa); v.v... như ta đã từng học trong kinh điển.
Đức Phật
đã tách riêng ra từng mấu chốt trong chuỗi dài mười hai nhân duyên
để
chúng ta dễ học. Đây là sự mô tả chính xác về thực tại. Nhưng khi
tiến
trình các sự kiện ấy thật sự diễn ra trong đời sống, các nhà học
giả không
có đủ khả năng để theo dõi đúng vào lúc chúng xảy ra. Cũng như ta
đang từ
trên ngọn cây cao bị rơi xuống đất. Chúng ta không biết rõ được
khi rơi
xuống, chúng ta đã xuyên qua bao nhiêu cành lá. Cùng thế ấy, khi
tâm bất
thần va chạm vào một đối tượng, nếu có sự thỏa thích trong đó, thì
tâm
liền bám theo và tạo trạng thái vui vẻ. Tâm ấy chỉ biết đến sự vui
vẻ đó
mà không thể biết đến chuỗi dài các nhân duyên đưa đến trạng thái
vui vẻ
ấy. Tiến trình các sự kiện đã xảy ra đúng với những gì được mô tả
trong lý
thuyết, nhưng đồng thời nó vượt quá giới hạn của lý thuyết đó.
Không có gì
cụ thể rõ ràng khi nói: "Đây là vô minh. Đây là những hành
nghiệp, và đó là thức,..." Tiến trình nhân duyên không cho các học
giả có
cơ hội để đọc ra một danh sách các sự kiện khi chúng xảy ra. Mặc
dù Đức
Phật đã phân tích tỉ mỉ và giải thích rõ ràng các chập tâm, nhưng
đối với
tôi, tiến trình đó giống với sự kiện từ trên cây bị rơi xuống. Khi
chúng
ta rớt phịch xuống đất rồi, chúng ta không kịp phỏng tính đã té
cao từ bao
nhiêu mét nữa. Điều mà chúng ta biết chắc là thân ta đã chạm mặt
đất, và
đau quá!
Tâm cũng như
thế ấy. Khi tâm rơi vào một sự việc nào đó, điều mà chúng
ta hay biết được là nỗi đau đớn. Sự thống khổ, đau đớn, ưu sầu, và
chán
nản đó đã từ đâu mà đến đây? Chúng không đến từ lý thuyết trong
sách vở.
Không thấy có chỗ nào đã viết rõ các chi tiết của nỗi thống khổ
của chúng
ta. Sự đau khổ của chúng ta không liên quan chính xác với lý
thuyết, nhưng
cả hai, sự đau khổ và lý thuyết, lại cùng đi chung một con đường.
Sự
nghiên cứu qua sách vở không thể theo kịp với thực tại được. Vì lẽ
đó, Đức
Phật đã dạy cần phải đào luyện sự hiểu biết thật rõ ràng về chính
chúng
ta. Bất cứ điều gì khởi sinh lên, điều đó đều khởi sinh trong sự
hay biết
đó. Khi sự hay biết này, đã hay biết được đúng với sự thật, thì
tâm và các
tâm sở [4] được nhận ra rõ ràng rằng chúng không phải là của ta.
Một cách
rốt ráo, tất cả những hiện tượng đó cần phải được dẹp bỏ qua và
vứt đi như
rác rưởi. Chúng ta chớ nên bám níu vào và gán cho chúng một ý
nghĩa nào
cả.
Chú thích:
[1] Bị thay đổi theo ảnh hưởng của
các điều kiện, các điều kiện này còn
được gọi là chư hành, sankhāra.
[2] Các sự vật bị điều kiện hóa, tức là bị biến đổi theo ảnh hưởng
của các
điều kiện hiện có mặt.
[3] Các hành vi cố ý đã tạo nên nghiệp lực.
[4] Các yếu tố của tâm.
*
1. Lý thuyết và thực tế
Đức Phật dạy về tâm và các tâm sở,
nhưng không phải để cho chúng ta bám
chặt lấy các ý niệm đó. Ý định duy nhất của Ngài là giúp chúng ta
nhận
chân ra được chúng (tâm và tâm sở) đều vô thường, bất toại nguyện
và vô
ngã. Rồi thì hãy buông bỏ chúng, gạt chúng qua một bên. Hãy hay
biết và
hiểu rõ chúng khi chúng khởi sinh lên. Tâm này đã bị điều kiện hóa
từ lâu.
Tâm ấy đã được tập tành và chịu sự điều kiện hóa để quay cuồng và
xa rời
khỏi tình trạng của sự hay biết thuần tịnh. Khi tâm ấy quay cuồng,
nó tạo
nên các hiện tượng bị điều kiện hóa, rồi các hiện tượng ấy trở lại
ảnh
hưởng đến tâm thêm nữa, khiến cho sự biến chuyển cứ tiếp tục mãi.
Tiến
trình đó khởi sinh lên các điều thiện, điều ác, và các sự vật khác
nữa
dưới ánh mặt trời này. Đức Phật dạy ta phải nên từ bỏ hết chúng
đi. Tuy
nhiên, ngay buổi đầu, các bạn còn phải tập làm quen với lý thuyết,
rồi mới
có thể buông bỏ nó vào một giai đoạn sau. Đó là một tiến trình tự
nhiên.
Tâm chỉ là như thế đó. Các tâm sở cũng chỉ là như thế đó.
Hãy lấy một
thí dụ, về Bát Chánh Đạo chẳng hạn. Khi trí tuệ (paññā,
bát-nhã) quán sát sự vật một cách đúng đắn với minh quán,
Chánh Kiến
khởi lên và đưa đến Chánh Tư duy, Chánh Ngữ, Chánh Mạng, và các
chi kế
tiếp. Điều này có liên hệ đến các tình trạng tâm lý đã khởi lên từ
giác
niệm thuần tịnh. Giác niệm đó cũng như một ngọn đèn soi sáng trong
đêm tối
cho con đường phía trước. Nếu sự hiểu biết đúng đắn, nghĩa là phù
hợp với
chân lý, nó sẽ tỏa lan và soi chiếu cho mỗi bước đi khác trên
đường Bát
Chánh.
Bất cứ điều
gì mà chúng ta thể nghiệm, điều ấy cũng khởi lên trong phạm
vi của sự hiểu biết này. Sự hiểu biết không thể có nếu tâm không
hiện hữu.
Tất cả là những hiện tượng của tâm. Như Đức Phật có nói, tâm chỉ
giản dị
là tâm. Tâm không phải là một chúng sinh, không phải là một người,
một tự
ngã, hoặc là chính bạn. Tâm không phải là chúng ta, cũng không
phải là
chúng nó. Pháp (Dhamma) chỉ giản dị là Pháp. Nó là một tiến
trình
tự nhiên, vô ngã. Nó không thuộc về chúng ta, hay bất cứ ai khác.
Nó không
phải là một vật. Bất cứ những gì mà một cá nhân thể nghiệm đều rơi
vào
trong năm loại căn bản này (khandas, năm uẩn): sắc, thọ,
tưởng,
hành và thức. Đức Phật dạy chúng ta nên buông bỏ hết chúng.
Pháp hành
thiền cũng tựa như một thanh gỗ. Minh quán (Vipassanā)
ở đầu này của thanh gỗ, còn An chỉ (Samatha) thì ở đầu kia.
Khi
chúng ta cầm thanh gỗ lên, có phải một đầu hay là hai đầu cùng
được nâng
lên? Dĩ nhiên, khi cầm thanh gỗ lên thì hai đầu đều được cất lên
cả. Đầu
nào là minh quán, và đầu nào là an chỉ? Chỗ nào là minh quán tận
cùng và
chỗ nào là an chỉ bắt đầu? Cả hai đều là tâm cả. Khi tâm trở nên
an tịnh,
thì sự an định sẽ khởi lên ngay bước đầu từ nơi tịch tĩnh, an chỉ (samatha).
Chúng ta gom và hợp nhất tâm lại trong những trạng thái an định (samādhi).
Tuy nhiên, khi sự an bình và ổn cố của samādhi phai nhạt
dần, khổ
sở sẽ khởi lên thay thế. Tại sao vậy? Bởi vì sự an bình do thiền
an chỉ
đưa đến vẫn còn căn cứ trên sự bám níu. Sự bám níu này có thể là
một
nguyên nhân gây ra đau khổ. Tịch tĩnh còn chưa phải là bước cuối
của con
đường. Đức Phật đã nhìn thấy điều đó, do chính kinh nghiệm của
Ngài, sự an
định của tâm như thế vẫn còn chưa phải là cứu cánh. Các nguyên
nhân nằm
bên dưới tiến trình của sự hiện hữu (bhava) vẫn chưa được
đoạn diệt
(nirodha). Các điều kiện của sự tái sinh vẫn còn đó. Công
phu hành
trì của Ngài vẫn chưa đạt đến mức toàn hảo. Tại sao? Bởi vì vẫn
còn khổ
não. Do đó, dựa trên sự an định của tịch tĩnh, Ngài tiếp tục quán
chiếu,
điều tra, và phân tích bản chất hữu vi của thực tại cho đến khi
Ngài đã
giải thoát khỏi mọi sự ràng buộc, ngay cả sự ràng buộc vào tịch
tĩnh. Tịch
tĩnh vẫn còn là một phần của thế giới hữu vi và thực tại ước định.
Bám vào
loại an định đó là bám vào thực tại ước định, và cho đến khi nào
chúng ta
còn bám vào đó, chúng ta vẫn còn sa lầy trong hiện hữu và tái
sinh. Hân
hoan trong sự an định của tịch tĩnh sẽ đưa đến hiện hữu và tái
sinh kế
tiếp. Một khi tâm bất an và chao động đã lắng dịu xuống rồi, con
người
thường hay bám níu vào sự yên tịnh tiếp theo đó.
Thế nên Đức
Phật mới quan sát các nguyên nhân và điều kiện nằm bên dưới
sự hiện hữu và tái sinh. Cho đến khi nào Ngài còn chưa thâm nhập
hoàn toàn
vào vấn đề và hiểu rõ ràng được Chân Lý, Ngài vẫn tiếp tục thẩm
sát càng
lúc càng thâm sâu hơn, với một tâm tư an định, chiếu rọi vào tất
cả mọi sự
vật, an lành hay xáo động, mỗi khi chúng khởi sinh lên. Ngài tiếp
tục thẩm
sát cho đến khi Ngài thấy thật rõ ràng, minh bạch rằng, muôn pháp
khi khởi
lên, hiện hữu thì cũng tựa như một hòn sắt nóng đang bị nung đỏ.
Năm uẩn
(sắc, thọ tưởng, hành, thức) của chúng sinh là hòn sắt nóng đỏ.
Khi một
hòn sắt nung nóng đỏ, còn có chỗ nào cho ta cầm mà không bị phỏng
tay
chăng? Có chỗ nào nơi hòn sắt nóng đỏ đó còn dịu mát chăng? Thử sờ
vào bên
trên, bên dưới hoặc hai bên hông mà thấy được một chỗ còn nguội
lạnh
chăng? Không thể được. Hòn sắt nung đỏ đã hoàn toàn nóng cháy.
Chúng ta
không thể nào bám vào sự an tịnh. Nếu tự đồng hóa với sự an tịnh
đó, rồi
phỏng đoán rằng cũng có kẻ đang được yên ổn và tịch tĩnh, đó là vô
tình
củng cố thêm ý nghĩ sai lầm rằng có một linh hồn riêng biệt, một
tự ngã
độc lập. Ý tưởng về tự ngã chỉ là một phần của thực tại qui ước.
Khi nghĩ
rằng, "Tôi bình yên, Tôi xao động, Tôi tốt, Tôi xấu, Tôi sung
sướng, Tôi
đau buồn", chúng ta càng bị vướng vào hiện hữu và tái sinh. Lại
càng thêm
khổ sở. Khi hạnh phúc tàn phai, chúng ta đau khổ. Khi sự khổ sở
biến mất,
chúng ta có hạnh phúc trở lại. Vướng mãi trong vòng lẩn quẩn đó,
ta trồi
lên thụt xuống triền miên giữa thiên đường và địa ngục.
Trước khi
giác ngộ, Đức Phật nhận thấy điều này trong chính tâm của
Ngài. Ngài biết rõ rằng các điều kiện của sự hiện hữu và tái sinh
vẫn chưa
tận diệt hết. Công việc của Ngài vẫn chưa hoàn tất. Chú tâm vào
tính duyên
sinh của cuộc đời, Ngài quán chiếu: "Do nguyên nhân này mà có sự
sinh; do
sự sinh này mà có sự chết, và tất cả các sự biến chuyển này đến và
đi."
Thế là Đức Phật nắm lấy các chủ đề đó để quán chiếu hầu thông hiểu
sự thật
về năm uẩn. Tất cả mọi sự vật tâm linh hay vật chất, mọi sự việc
được quan
niệm hay suy tư đến, đều do duyên sinh, không có một ngoại lệ nào.
Một khi
Ngài đã hiểu rõ như thế, Ngài dạy chúng ta nên đặt chúng xuống.
Một khi
Ngài đã hiểu rõ như thế, Ngài dạy chúng ta nên buông bỏ hết chúng.
Ngài
khuyến khích mọi người nên thông hiểu cho phù hợp với Chân Lý. Nếu
không
như thế, chúng ta sẽ khổ sở. Chúng ta không đủ khả năng để vứt bỏ
các sự
vật đó. Tuy nhiên, một khi chúng ta thấy rõ vấn đề này, chúng ta
sẽ nhìn
nhận rằng các sự vật đó làm mê hoặc chúng ta. Như Đức Phật có nói,
"Tâm
không có thực chất, nó không phải một vật nào cả."
Tâm không
phải sinh ra là thuộc về một ai. Tâm không chết đi như bất cứ
ai. Tâm ấy tự do, chiếu sáng rạng ngời, và không vướng mắc vào bất
cứ vấn
đề nào cả. Lý do các vấn đề khó khăn khởi lên là vì tâm ấy bị che
mờ bởi
các sự vật bị điều kiện hóa, bị vẩn đục vì quan niệm sai lầm về tự
ngã.
Bởi thế, Đức Phật dạy ta phải nên quan sát tâm ấy. Ngay tại buổi
đầu, đã
có gì ở đấy? Thực sự, không có gì cả. Tâm ấy không khởi lên cùng
với các
pháp hữu vi, và tâm ấy cũng không diệt mất theo các pháp hữu vi
đó. Khi
gặp một sự việc gì thiện lành, tâm ấy không thay đổi để trở thành
thiện
lành. Khi gặp một sự việc xấu ác, tâm ấy cũng không trở thành xấu
ác. Tâm
ấy như thế đó, khi có sự minh quán nhìn rõ ràng vào bản thể của
chính
mình, có sự thông hiểu rằng đây vốn là một tình trạng vô thực
chất.
Trí tuệ minh
quán của Đức Phật nhìn thấy muôn pháp đều vô thường,
bất toại nguyện và vô ngã. Ngài muốn mọi người chúng ta
phải thông
hiểu hoàn toàn theo đường lối đó. Do đó, sự "hay biết" đã biết
thật phù
hợp với Chân Lý. Khi sự "hay biết" đó biết đến niềm an lạc hay nỗi
sầu bi,
thì nó vẫn giữ được sự thản nhiên, bất động. Tình cảm an lạc là
một hình
thức của sự sinh ra. Khuynh hướng trở nên buồn bã là một hình thức
của sự
chết đi. Khi có sự chết, tất sẽ có sự sinh; và những gì sinh ra
rồi sẽ
chết đi. Khởi sinh rồi tận diệt, cứ mãi vướng vào vòng lẩn quẩn
của sự
hiện hữu. Một khi tâm tư của hành giả đã đạt đến tình trạng hiểu
biết như
thế đó, thì không còn sót lại chút nghi ngờ nào về sự trở thành và
tái
sinh nữa cả. Không còn cần phải hỏi lại ai nữa cả.
Đức Phật
thẩm sát đầy đủ hết tất cả các pháp hữu vi và đã buông bỏ được
chúng. Năm uẩn cũng được buông bỏ, và sự "hay biết" chỉ đơn thuần
là một
quan sát viên vô tư. Nếu Ngài thể nghiệm điều chi tích cực, Ngài
không vì
thế mà trở thành tích cực. Ngài chỉ đơn thuần quan sát và tỉnh
giác. Nếu
Ngài thể nghiệm điều chi tiêu cực, Ngài không hề trở thành tiêu
cực. Và
tại sao lại như vậy? Bởi vì tâm tư Ngài đã giải thoát khỏi các
nhân duyên
ấy. Ngài đã thấm nhập vào chân lý. Nhân duyên đưa đến tái sinh
không còn
hiện hữu nữa. Đó là sự "hay biết" chắc chắn và đáng tin cậy. Đó là
một tâm
tư thật sự hoàn toàn an định. Đó là những gì không hề được sinh
ra, không
già lão, không bệnh hoạn, và không hề chết đi. Đó cũng không phải
là
nguyên nhân hoặc hậu quả, cũng không tùy thuộc vào nhân và quả;
hoàn toàn
độc lập đối với tiến trình duyên sinh. Các nguyên nhân bấy giờ đã
chấm
dứt, và không còn sót lại một duyên nào nữa. Tâm tư ấy vượt qua sự
sinh và
sự chết, vượt qua an lạc lẫn ưu bi, cả thiện lẫn ác. Còn có thể
nói gì hơn
nữa? Nó vượt qua mọi giới hạn của ngôn từ để mô tả nó. Tất cả các
điều
kiện hỗ trợ đã chấm dứt, và nỗ lực nào để mô tả nó cũng sẽ chỉ đưa
đến sự
bám thủ. Ngôn từ được dùng bấy giờ chỉ trở thành một tràng lý
thuyết của
tâm tư mà thôi.
Các mô tả lý
thuyết về tâm và cách vận hành của tâm tuy chính xác nhưng
Đức Phật lại xem loại hiểu biết đó tương đối vô dụng. Chúng ta
dùng trí
thức để hiểu biết một điều gì, rồi tin tưởng vào đó, nhưng đấy
không có
chút ích lợi thực sự nào. Kiến thức đó không đưa đến an định. Sự
hiểu biết
của Đức Phật đưa đến sự buông bỏ. Kết quả là sự xả ly. Bởi vì
chính cái
tâm đã dẫn ta nhúng tay vào cả hai, điều phải và điều trái. Nếu
khá khôn
ngoan, chúng ta sẽ chọn điều phải. Nếu quá khờ khạo, chúng ta sẽ
dính dấp
đến điều quấy. Tâm ấy là tâm thế gian, và đức Thế tôn đã dùng các
sự vật
của thế gian này để quan sát chính thế gian đó. Biết được rõ ràng
thế gian
này đúng như thật nó là như thế, Ngài được tôn xưng là bậc "Thế
gian
giải", nghĩa là bậc đã hiểu được thế gian này rất rõ ràng và minh
bạch.
Trở lại với
vấn đề an chỉ (samatha) và minh quán (vipassanā),
điều quan trọng nhất là phải phát triển các trạng thái đó ngay
trong chính
tâm của chúng ta. Chỉ khi nào chúng ta thật sự phát triển chúng
nơi ta thì
chúng ta mới hiểu biết rõ thực sự chúng là như thế nào. Chúng ta
cố tìm
học những gì trong sách vở nói về các yếu tố của tâm, nhưng loại
kiến thức
trí năng này lại không có ích lợi chi cho việc cắt đứt hẳn các ham
muốn vị
kỷ, sân hận và si mê. Chúng ta nghiên cứu lý thuyết về tham, sân,
si, giản
dị chỉ mô tả các đặc tính khác nhau của các lậu hoặc tinh thần đó:
"Ham
muốn ích kỷ có nghĩa là như thế này; giận hờn mang ý nghĩa như thế
kia; si
mê được định nghĩa như thế nọ." Khi chỉ hiểu biết chúng qua các
đặc tính
lý thuyết đó, chúng ta có thể thuyết giảng về chúng, nhưng chỉ
trên bình
diện này thôi. Chúng ta thông minh và hiểu biết như thế, nhưng khi
các lậu
hoặc đó thực sự khởi lên trong tâm chúng ta, chúng có hoàn toàn
giống hệt
như trong lý thuyết không? Thí dụ như, khi chúng ta gặp phải việc
gì bất
như ý, chúng ta có phản ứng chống lại và trở nên cau có chăng?
Chúng ta có
bám chặt lấy nó không? Hay là chúng ta buông bỏ, cho qua đi? Nếu
sự hiềm
ghét nổi lên và chúng ta thấy được như thế, chúng ta có còn ôm ấp
sự hiềm
ghét đó mãi chăng? Hoặc là khi chúng ta đã nhận diện rõ ra sự hiềm
ghét
rồi, chúng ta có lập tức buông bỏ nó không? Nếu tự xét mình khi có
điều
không vừa ý mà nổi lên sự hiềm ghét và cố giữ sự hiềm ghét đó mãi,
tốt hơn
là ta nên quay về học tập lại nữa. Bởi vì sự cố chấp đó không phải
là thái
độ đúng đắn. Sự thực tập vẫn chưa được hoàn hảo. Hễ khi đã hoàn
hảo rồi
thì sự buông bỏ tự nhiên xảy ra. Các bạn hãy nhìn lại sự việc dưới
ánh
sáng này.
Chúng ta
phải thành thực nhìn sâu vào chính tâm của chúng ta, nếu chúng
ta muốn thể nghiệm được các lợi lạc của sự thực tập. Cố gắng mô tả
các
tình trạng tâm lý, qua các tâm sở khác nhau và các đặc tính của
chúng,
chưa phải là sự thực tập đầy đủ. Còn nhiều việc khác cần làm hơn
thế nữa.
Nếu cần học tập các điều ấy, bạn hãy tìm hiểu chúng một cách tuyệt
đối,
với sự sáng tỏ rõ ràng và sự hiểu biết thâm sâu. Thiếu sự trong
sáng của
minh quán, làm sao ta hoàn tất được việc học tập? Chúng ta không
bao giờ
học tập cho xong cả.
Thực tập
Chánh Pháp vì thế mà quan trọng vô cùng. Khi tôi thực hành, đó
là tôi đang học tập. Tôi không biết gì về các tâm sở, các yếu tố
tâm lý
của tâm cả. Tôi chỉ quan sát phẩm chất của sự hiểu biết. Nếu một
tư tưởng
khởi lên, tôi liền tự hỏi tại sao. Nếu một ý hờn giận nổi lên, tôi
tự hỏi
tại sao. Nếu một ý yêu thương sinh ra, tôi tự hỏi tại sao. Đó là
phương
cách mà tôi theo. Cho dù có đặt tên các ý đó là tư tưởng, là tâm
sở, là
yếu tố tâm lý, là gì gì đi nữa, cũng không sao. Chỉ cần đi thật
sâu vào
điểm đó cho đến khi nào các cảm xúc thương hay ghét đó hoàn toàn
biến mất
khỏi tâm. Khi tôi có đủ khả năng để chặn dừng sự yêu hay ghét,
trong bất
cứ trường hợp nào, tôi mới có thể vượt thoát khỏi sự đau khổ. Rồi
thì đâu
cần việc gì xảy ra thêm; tâm và trí đã được giải thoát và thoải
mái. Không
có gì còn lưu lại. Tất cả đều dừng đứng lại.
Xin hãy thực
tập như thế. Nếu có ai muốn thuyết giảng về lý thuyết, thì
đó là việc của họ. Nhưng dù có tranh luận đến bao nhiêu đi nữa,
thì sự
thực tập cũng chỉ gom lại ở một điểm duy nhất tại đây. Khi sự việc
nào
khởi lên, thì nó khởi lên ngay tại đây. Dù nhiều hay ít, nó cũng
bắt nguồn
từ ngay nơi đây. Khi nó chấm dứt, sự chấm dứt cũng xảy ra ngay tại
đây.
Còn chỗ nào khác nữa sao? Đức Phật gọi điểm tại đây là sự "hiểu
biết". Khi
sự "hiểu biết" đó biết được sự vật chính xác, phù hợp với Chân Lý,
thì
chúng ta thông hiểu được ý nghĩa của Tâm. Sự vật luôn luôn lừa gạt
không
ngừng. Khi ta học tập về chúng, chúng luôn dối gạt ta. Tôi còn
phải nói
cách nào nữa đây? Mặc dù bạn biết chúng, bạn vẫn bị mê hoặc vì
chúng, ngay
tại nơi bạn biết đến chúng. Đó là thực trạng. Vấn đế là như thế
này: ý
định của Đức Phật không phải là muốn ta biết các sự vật được gọi
tên gì.
Mục đích giáo pháp của Ngài là dạy ta hãy suy ngẫm để tìm ra con
đường
giúp chúng ta thoát ra khỏi các ràng buộc của vạn pháp, xuyên qua
sự truy
tầm các nguyên nhân sâu xa nằm ẩn bên dưới.
*
2. Giới, Định, Tuệ
Tôi thực tập Chánh Pháp mà không
biết chi nhiều. Tôi chỉ biết rằng con
đường giải thoát bắt đầu bằng Giới (Sīla). Giới là
bước đầu
tuyệt đẹp của con đường Đạo. Sự an định sâu xa của Định (Samādhi)
là khoảng giữa tuyệt đẹp. Trí Tuệ (Paññā, Bát-nhã), là đoạn
cuối
tuyệt đẹp. Mặc dù Giới-Định-Tuệ phân ra làm ba phương diện trong
việc tu
tập, nhưng càng nhìn sâu vào chúng, ta càng thấy cả ba đức tính ấy
phối
hợp lại với nhau. Để trì giới, bạn phải là người có trí tuệ. Ta
thường
khuyên mọi người phải theo đúng các tiêu chuẩn đạo đức, trước hết
là tuân
theo năm điều học, để giới đức được vững chắc. Tuy nhiên, sự hoàn
hảo của
giới đức cần phải có rất nhiều trí tuệ. Ta phải giữ gìn lời nói,
canh
chừng các hành động và phân tích các hậu quả của chúng. Tất cả các
điều đó
là công việc của trí tuệ. Ta phải dựa trên trí tuệ mà đào luyện
giới đức.
Theo lý
thuyết, giới đi đầu, kế đến định, rồi sau đến tuệ; nhưng khi
tôi quán sát, tôi nhận thấy Trí tuệ là viên đá nền móng của mọi
phương
diện khác của sự thực tập. Để có thể hiểu rõ tận tường các hậu quả
của lời
chúng ta nói và việc chúng ta làm - nhất là các hậu quả tai hại -
ta cần
phải nương theo trí tuệ để soi đường và canh phòng, trong việc
thẩm sát
tiến trình nhân quả. Điều này giúp ta thanh lọc được các hành động
và lời
nói. Một khi ta đã quen phân biệt được thái độ đạo đức với hành vi
bất
chánh, ta sẽ thấy được chỗ nào cần phải thực tập. Ta sẽ buông bỏ
điều giả
dối và đào luyện điều chân chánh. Ta từ bỏ các điều ác và phát
triển các
điều thiện. Đó là Giới (Sīla). Khi ta làm
được như
thế luôn, tâm trở nên vững chắc và cương quyết. Một cái tâm cương
quyết và
không lay động, thì không hề lo lắng, hối hận hay mê mờ trong lời
nói hay
trong động tác. Đó là Định (Samādhi).
Tâm đó ổn cố
và thuần nhất, trở thành một nguồn năng lực mạnh mẽ thứ
hai khi chúng ta thực tập theo Chánh Pháp, giúp ta quán chiếu sâu
xa vào
hình sắc, âm thanh, v.v. đang được thể nghiệm. Một khi tâm đã an
định
trong sự tỉnh thức vững chắc, ta có thể bước vào sự suy tầm bền bỉ
về thực
tại của sắc thân, cảm giác, tri giác, tư tưởng, ý thức, với các
hình sắc,
âm thanh, hương, vị, xúc chạm trên thân cùng các đối tượng của
tâm. Khi
chúng liên tục phát sinh, ta cũng liên tục suy tầm chúng với một
quyết tâm
không để đánh mất sự tỉnh giác. Nhờ đó mà ta mới hiểu biết được
các sự
kiện đó thật sự như thế nào. Các sự kiện đó khởi lên hiện hữu theo
đúng
với chân lý thiên nhiên của chính chúng. Khi sự hiểu biết của ta
ngày càng
thâm sâu, trí tuệ liền khởi sinh. Một khi đã có sự thông hiểu sáng
tỏ về
sự vật thực sự là như thế nào, đúng theo Chân lý, thì các tri giác
cũ của
ta bị bứng tận gốc rễ và, rồi đó, các kiến thức bị ý niệm hóa
trước kia
nay liền biến dạng để trở thành trí tuệ. Điều đó cho thấy rõ
phương thức
mà Giới, Định, Tuệ hòa hợp lại với nhau và tác động như là một.
Khi trí tuệ
tăng trưởng về dũng lực và vô úy (không sợ hãi) thì định
lực khởi lên trở thành vững chắc hơn. Định lực càng kiên cố, giới
đức càng
ổn định. Giới đức càng hoàn hảo, lại nuôi dưỡng định lực thêm mạnh
mẽ, và
định lực thêm phần dũng mãnh sẽ đưa đến một trí tuệ trưởng thành.
Cả ba
phương diện của sự tập luyện cùng ăn khớp với nhau và tác động hỗ
tương
nhau. Phối hợp lại, cả ba lập thành Bát Chánh Đạo, con đường tu
tập của
Đức Phật. Một khi Giới, Định, Tuệ đã đạt đến cao điểm, Bát Chánh
Đạo có đủ
dũng lực quét sạch các lậu hoặc còn đang che mờ sự thanh tịnh của
tâm. Khi
tham dục, sân hận và si mê phát khởi, Bát Chánh Đạo là thanh bảo
kiếm chém
chúng ngã xuống ngay tại lộ trình của chúng.
Khuôn khổ để
thực hành Chánh Pháp là Tứ Diệu Đế: (1) Khổ (dukkha),
(2) Tập, nguồn gốc của Khổ (samudaya), (3) Diệt, chấm
dứt Khổ (nirodha), (4) Đạo, con đường Tám Chánh đưa đến sự
tận diệt
khổ (magga). Bát Chánh Đạo gồm có Giới, Định, Tuệ, và đó là
khuôn
khổ để đào luyện tâm ý. Ý nghĩa thực sự của Giới Định Tuệ không
thể tìm
thấy nơi danh xưng, mà lại ẩn tàng vào nơi thâm sâu của tâm trí.
Ba môn
học Giới, Định, Tuệ là như thế đấy; chúng xoay quanh nhau liên
tục. Bát
Chánh Đạo bao trùm khắp các hình sắc, âm thanh, mùi, vị, xúc chạm
vào
thân, hoặc các đối tượng nào khác khởi lên. Tuy nhiên, nếu các yếu
tố của
Bát Chánh Đạo còn yếu ớt và rụt rè, thì các lậu hoặc sẽ xâm chiếm
tâm trí
ta. Nếu Bát Chánh Đạo dũng mãnh và can đảm, nó sẽ chinh phục và
tiêu diệt
các lậu hoặc. Nếu các lậu hoặc phiền não còn mạnh mẽ và gan lì,
trong khi
Bát Chánh Đạo yếu ớt và bạc nhược, thì các lậu hoặc đó sẽ ngự trị
lên Bát
Chánh Đạo. Chúng chế ngự tâm trí ta. Nếu sự hiểu biết không đủ
nhanh nhẹn
và lanh lợi khi các hình sắc, cảm giác, tri giác và tư tưởng đang
khởi
lên, thì các đối tượng này sẽ chiếm đoạt và tàn phá chúng ta. Bát
Chánh
Đạo và các lậu hoặc cùng đi song song với nhau. Trong khi sự thực
tập theo
Chánh Pháp được phát triển trong tâm, hai lực lượng này tranh chấp
nhau
từng bước một trên con đường tu hành. Đó cũng tựa như có hai người
đang
cãi vã nhau bên trong tâm trí, nhưng đó chỉ là sự kình chống giữa
Bát
Chánh Đạo và các lậu hoặc, để dành quyền ngự trị lên tâm. Bát
Chánh Đạo
nuôi dưỡng và hướng dẫn khả năng quán chiếu của ta. Cho đến khi
nào ta vẫn
còn đủ khả năng để quán chiếu chính xác, các lậu hoặc sẽ bị thất
thế và
rút lui dần. Nhưng nếu tâm ta lỏng lẻo, mỗi khi các lậu hoặc chỉnh
trang
và củng cố lực lượng lại thì Bát Chánh đạo sẽ bị đánh tan, phải
nhường
chỗ, rút lui. Hai bên đối phương cứ tranh chấp mãi cho đến khi có
một kẻ
chiến thắng và lúc đó, mọi việc được an bài.
Nếu ta chú
tâm vào nỗ lực phát triển theo đường lối Chánh Pháp, lần lần
các lậu hoặc sẽ bị quét sạch vĩnh viễn. Một khi đã được đào luyện
hoàn
toàn rồi, bốn Chân Lý Cao Thượng sẽ an trú trong tâm ta. Dưới bất
cứ hình
thức nào mà hoạn khổ có mặt, hoạn khổ đó cũng có một nguyên nhân
tạo ra sự
hiện hữu của nó. Đó là Chân Lý thứ hai. Và nguyên nhân ấy là gì?
Giới lỏng
lẻo, Định yếu ớt, Tuệ lờ mờ. Khi Bát Chánh Đạo không bền vững, các
lậu
hoặc ngự trị lên tâm trí. Khi chúng ngự trị, Chân Lý thứ hai liền
khởi lên
hoạt động và tạo ra các loại hoạn khổ. Một khi chúng ta bị khổ,
các đức
tánh có khả năng dập tắt được sự khổ liền biến đi mất. Các điều
kiện làm
khởi sinh lên Bát Chánh Đạo là Giới, Định và Tuệ. Khi ba môn này
đạt đến
dũng lực trọn vẹn thì Bát Chánh Đạo tiến lên không bị ngưng trệ,
khuất
phục được sự bám thủ và đeo níu đã khiến ta phải phiền muộn, lo
âu. Khổ
không thể khởi phát được, vì Bát Chánh Đạo đang dẹp tan các lậu
hoặc.
Chính ngay tại điểm này mà sự chấm dứt khổ bắt đầu. Tại sao Bát
Chánh Đạo
đủ sức mang đến sự chấm dứt khổ? Bởi vì Giới, Định và Tuệ đã đạt
đến cao
điểm của sự hoàn hảo, và Bát Chánh Đạo đã gia tăng tốc lực đến cực
điểm
nên không thể nào bị ngăn dừng lại được. Tất cả đều cùng xảy ra
ngay tại
đây. Tôi muốn nói rằng, những ai đã thực tập đúng như thế, thì các
ý kiến
lý thuyết về tâm trí không thể hiện khởi lên trong khung cảnh này.
Nếu
được giải thoát khỏi các ý kiến đó, tâm trí liền trở nên vững chắc
và đáng
tin cậy nhất. Và kể từ nay, dù tâm trí ấy chọn theo lối nào, chúng
ta
không còn cần phải thúc dục nó hơn nữa để tiếp tục thẳng tiến mãi.
Bạn hãy nhìn
đến lá cây xoài. Lá đó ra sao? Chỉ cần quan sát một chiếc
lá, là biết được cả muôn ngàn chiếc lá khác. Chỉ cần nhìn kỹ một
chiếc lá
thôi. Các lá khác cũng đều giống như thế. Với cây xoài cũng như
thế. Ta
chỉ cần quan sát một thân cây xoài là biết được các đặc tính của
tất cả
các cây xoài. Chỉ cần nhìn kỹ một thân cây xoài thôi. Mọi cây xoài
khác
cũng không có gì sai biệt quan trọng cả. Nếu ta biết được một, ta
sẽ biết
hết tất cả. Đó là lời Đức Phật đã dạy.
Giới-Định-Tuệ
là con đường của Đức Phật. Nhưng con đường đó chưa phải
là cốt tủy của Chánh Pháp. Bát Chánh Đạo, tự nó, không phải là cứu
cánh,
không phải là mục tiêu tối hậu của Đức Thế Tôn. Nhưng nó là con
đường đi
vào nội tâm. Đó cũng như các bạn đi từ thành phố Bangkok đến tu
viện Wat
Nong Pah Pong này. Không phải vì đường xá mà bạn đã bỏ công đi
tìm. Điều
mà bạn muốn là đi đến tu viện, nhưng bạn cần con đường đó để đi
đến đây.
Con đường bạn vượt qua không phải là tu viện, nó chỉ là phương
cách để đi
đến đây. Nhưng nếu bạn muốn đến được tu viện, bạn phải đi theo con
đường
đó. Giới, Định, và Tuệ, cũng như thế. Chúng ta có thể bảo rằng cả
ba không
phải là cốt tủy của Chánh Pháp, nhưng chúng là con đường đưa ta
đến đây.
Khi đã thuần thục về Giới, Định, Tuệ rồi, thì kết quả sẽ là tâm tư
được an
hòa thật thâm sâu. Đó là mức đến nơi. Khi ta đạt đến sự an định đó
rồi,
ngay cả khi nghe một tiếng động lớn, tâm tư vẫn giữ sự điềm tĩnh.
Một khi
ta đã đạt được an định đó, thì không còn gì cần phải làm thêm nữa.
Đức
Phật dạy phải buông bỏ tất cả. Dầu cho có việc gì xảy ra chăng
nữa, cũng
không có chi để lo lắng cả. Bấy giờ chúng ta mới thực sự tự mình
biết được
mọi sự việc. Chúng ta không còn chỉ biết tin suông, theo những gì
kẻ khác
nói.
Nguyên tắc
căn bản của Phật giáo là sự rỗng vắng của tất cả hiện tượng.
Nó không tùy thuộc vào sự nhiệm mầu của các loại thần thông, các
khả năng
dị thường, hoặc bất cứ những gì huyền bí và lạ lùng. Đức Phật
không nhấn
mạnh đến tầm mức quan trọng của các việc đó. Tuy nhiên, các quyền
năng này
vẫn có thật, và có thể tập luyện được, nhưng khía cạnh này của
Giáo pháp
lại có tính cách làm mê hoặc, cho nên, Đức Phật không khuyến khích
sự tập
luyện đó. Ngài chỉ ngợi khen các bậc thánh nhân đã tự mình giải
thoát ra
khỏi mọi hoạn khổ, phiền não.
Để thực hiện
sự giải thoát mọi khổ não, cần phải tập luyện với các khí
cụ cùng vật trang bị để hoàn thành công việc, đó là từ bi, giới
hạnh, định
lực và trí tuệ. Chúng ta cần phải nhận lấy chúng và theo đó mà tập
luyện.
Cùng phối hợp lại, chúng lập thành con đường Đạo hướng về nội tâm,
và Trí
tuệ là bước đầu tiên. Con đường Đạo ấy không thể nào trưởng thành
được,
nếu tâm trí còn bị các lậu hoặc che phủ kín, nhưng nếu chúng ta
cương
quyết và dũng mãnh thì con đường Đạo sẽ loại trừ các ô trược đó.
Tuy
nhiên, nếu các lậu hoặc tỏ ra lì lợm và mạnh mẽ, chúng sẽ phá tan
con
đường Đạo. Hành trì theo Chánh Pháp giản dị chỉ là sự tranh đấu
không
ngừng của hai lực lượng đối nghịch đó, cho đến khi nào đạt đến mức
cuối
cùng của con đường Đạo.
*
3. Các nguy cơ của chấp thủ
Công phu tu tập thường phải chịu
nhiều thử thách gian nan. Cần phải có
lòng kiên trì, kham nhẫn và chịu đựng mọi thiếu thốn. Ta cần phải
tự mình
làm lấy, tự mình thể nghiệm lấy, và tự mình thực hiện lấy. Tuy
nhiên, các
học giả thường hay bị lầm lẫn. Thí dụ như khi ngồi thiền, vừa được
chút ít
an ổn thì họ liền khởi lên nghĩ rằng: "À! Đây chắc là Sơ thiền
rồi!" Tâm
trí họ đã hoạt động như thế đó. Và một khi các tư tưởng đó khởi
sinh lên,
tức thì sự an tịnh mà họ đang thể nghiệm liền bị lay chuyển. Không
bao
lâu, họ lại bắt đầu tưởng rằng có lẽ họ đã đạt đến Nhị thiền. Các
bạn đừng
nên suy nghĩ và ước đoán như thế. Không có một bản cáo thị nào
thông báo
cho ta biết ở giai tầng nào của thiền-na mà ta đang thể nghiệm. Sự
thật
lại hoàn toàn khác hẳn. Không có gì giống với các bản chỉ đường
cho các
bạn, "Đây là hướng đi về Wat Nong Pah Pong" cả. Đó không phải là
điều mà
tôi tìm đọc thấy trong tâm trí. Không có chút gì để thông báo, cáo
tri cả.
Mặc dù có
nhiều vị học giả uyên thâm đã viết nhiều bản tường trình mô
tả Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền và Tứ thiền, nhưng những gì được
viết ra
đó hoàn toàn là những tài liệu, chi tiết về bên ngoài. Khi tâm tư
đang đi
vào các tình trạng an định thâm sâu, tâm tư ấy không biết đến
những gì đã
được viết sẵn. Tâm ấy biết, nhưng điều mà tâm ấy biết, không phải
cùng một
thứ với lý thuyết đã đọc được. Nếu các học giả chụp lấy các lý
thuyết và
mang chúng vào trong sự thiền quán của họ, ngồi và ngẫm nghĩ:
"Hừm! Cái gì
đây? Phải là Sơ thiền đó chăng?" Đấy! Sự an định vừa bị lay chuyển
rồi, và
họ không thể nghiệm được chút gì có giá trị thực sự. Tại sao lại
như vậy?
Bởi vì đó là ý mong cầu, và khi đã có khát vọng, thì điều gì sẽ
xảy ra?
Tâm liền rút lui khỏi việc hành thiền. Bởi vậy cho nên tất cả
chúng ta cần
phải vứt bỏ sự suy nghĩ và ước đoán như thế. Bạn hãy dẹp bỏ chúng
trọn vẹn
đi. Hãy dùng lấy sắc thân, lời nói và tâm tư làm đề tài khảo sát
để tu
tập. Hãy quan sát các hoạt động của tâm nhưng đừng mang các sách
vở viết
về Chánh pháp vào trong đó với bạn. Nếu không, mọi việc sẽ trở nên
rối
ren, bởi vì không có gì trong sách lại tương ứng đúng với Sự Thật
mà muôn
sự vật đang là như thế.
Những người
học nhiều quá, đầy ắp các kiến thức lý thuyết, thường không
thành công trong việc thực tập Chánh Pháp. Họ bị sa lầy ở giai
đoạn sưu
tầm tài liệu. Sự thật là không thể đo lường được tâm trí bằng các
tiêu
chuẩn ngoại tại. Nếu tâm trí trở nên an tịnh, chỉ nên để cho nó an
tịnh.
Các giai tầng thâm sâu của sự an định quả thật là có. Riêng cá
nhân tôi,
trước kia, tôi không biết chi nhiều về lý thuyết thực hành. Tôi đã
là tỳ
khưu từ hơn ba năm mà vẫn còn một số lớn các câu hỏi về định lực
thực sự
ra làm sao. Tôi cứ suy nghĩ mãi về điều đó và cố gắng tìm hiểu
trong khi
tôi hành thiền, nhưng tâm tôi lại càng bất an và xao lãng hơn lúc
trước!
Số lượng các sự suy nghĩ thật sự đã gia tăng lên nhiều. Khi tôi
không hành
thiền, thì tôi lại an tịnh hơn. Trời! Như thế, có khó khăn và bực
bội
chăng? Nhưng mặc dù gặp nhiều trở ngại, tôi vẫn cứ tiếp tục. Khi
tôi không
cố làm điều chi đặc biệt hơn, tâm trí tôi lại tương đối thoải mái.
Nhưng
khi nào tôi quyết tâm làm cho tâm trí tôi qui nhất lại trong định
lực (samādhi),
thì tâm ấy lại vượt ra khỏi vòng kiểm soát. Tôi tự hỏi, "Điều gì
đang xảy
ra thế? Tại sao lại như vậy?"
Sau này, tôi
mới nhận thức ra hành thiền có thể đem ra so sánh với tiến
trình hơi thở. Nếu tôi quyết tâm ép cho hơi thở trở nên cạn, sâu,
hoặc
bình thường, thì rất khó mà làm được như thế. Tuy nhiên, nếu ta đi
tản bộ
và không để ý đến các luồng hơi thở đang thở ra, thở vào, thì lại
rất
thoải mái, thư giãn. Tôi chợt nghĩ: "À! Có lẽ đây là đường lối có
hiệu quả
đấy!" Khi một người đi tới, đi lui bình thường suốt ngày, không cố
tâm chú
ý gì đến hơi thở, thì hơi thở có làm cho người ấy khổ sở không?
Không, anh
ta cảm thấy thư thái. Nhưng khi tôi ngồi xuống với lời nguyện
quyết tâm
làm cho tâm được an tịnh, tức thời sự bám chặt và đeo níu liền len
vào.
Khi tôi thử điều chỉnh hơi thở cho sâu hoặc cạn, thì việc đó chỉ
làm cho
tôi thêm căng thẳng. Tại sao vậy? Bởi vì cái ý chí, mà tôi đang
dùng đây,
bị nhuốm bẩn vì sự bám chặt và đeo níu. Tôi còn chưa hiểu được
điều gì
đang xảy ra đó. Tất cả sự cản trở, thất bại và khó nhọc đó đã nổi
lên chỉ
vì tôi đã đưa lòng mong cầu vào trong việc hành thiền.
*
4. An bình không lay chuyển
Lần nọ, tôi đến ở tại một tu viện
trong rừng cách làng xóm chừng nửa
dặm. Vào một đêm, dân làng tổ chức một cuộc hội hè rất ồn ào,
trong khi
tôi đang ngồi tham thiền. Lúc ấy vào độ mười một giờ đêm, và tôi
đang có
cảm giác lạ thường. Suốt từ trưa đến giờ, tôi có cảm giác lạ như
thế. Tâm
tôi thật yên tịnh. Hầu như không có tư tưởng nào cả. Tôi cảm thấy
thư giãn
và thoải mái. Tôi cất bước đi kinh hành cho đến khi tôi thấm mệt
và quay
vào ngồi xuống trong chòi lá. Khi ngồi xuống, vừa mới xếp chân
lại, thì lạ
lùng thay, tâm tôi đi vào một trạng thái an định thâm sâu. Sự kiện
này tự
nó khởi lên như thế. Khi tôi đã ngồi yên, tâm trở nên thực sự an
định. Tâm
ấy kiên cố như phiến đá. Không phải là tôi không còn nghe tiếng ồn
ào của
dân làng đang ca, múa nữa - tôi vẫn nghe - nhưng tôi đã có thể
ngăn bít
các âm thanh đó hoàn toàn.
Lạ lùng! Khi
tôi không lưu ý đến tiếng động, bấy giờ hoàn toàn im lặng,
tôi không nghe gì cả. Nhưng nếu tôi muốn nghe tiếng, tôi vẫn có
thể nghe
nó mà không xem nó như một sự quấy động. Tựa hồ như có hai đối
tượng trong
tâm tôi, đang được đặt kề cận nhau, nhưng không chạm vào nhau. Tôi
có thể
thấy rằng tâm và đối tượng hay biết của nó, đang rời nhau và khác
biệt
nhau, giống như cái ống nhổ và cái ấm nước đây. Thế là tôi hiểu
ngay: khi
tâm đang qui nhất vào định lực, nếu bạn muốn hướng sự chú tâm ra
ngoài thì
bạn có thể nghe; nhưng nếu bạn để cho tâm an trú trong sự rỗng
vắng của
nó, thì có sự im lặng hoàn toàn. Khi tiếng động được nghe đến, tôi
có thể
thấy rằng sự hay biết và tiếng động khác nhau rất rõ ràng. Tôi
quán chiếu:
"Nếu đây còn chưa phải là đúng hướng, thì còn đường lối nào nữa?"
Đấy
chính là đường hướng rồi. Cả hai sự việc đó - tiếng động và sự hay
biết có
tiếng động - hoàn toàn tách rời nhau ra. Tôi tiếp tục suy cứu thêm
như
thế, cho đến khi sự thông hiểu của tôi càng đi sâu thêm: "À! Đây
là điều
quan trọng. Khi cảm nhận liên tục của hiện tượng bị cắt đứt, kết
quả sẽ là
sự an định." Cái ảo giác trước kia về sự liên tục (santati)
nay trở
thành sự an định của tâm (santi). Tôi tiếp tục ngồi thiền,
nỗ lực
đi sâu vào mức thiền. Lúc bấy giờ, tâm chỉ chú mục chiếu rọi vào
hành
thiền, thờ ơ đối với mọi việc khác. Nếu tôi ngưng hành thiền tại
thời điểm
này, thì đó chỉ là vì công phu ấy đã hoàn tất. Nếu tôi ngưng nghỉ
ngay lúc
này, hẳn không phải vì lười biếng, mệt mỏi, hay cảm thấy bực bội.
Không
phải thế. Tất cả các phiền não đó đều vắng mặt trong tâm tôi. Chỉ
có sự
quân bình hoàn toàn nơi nội tâm và tâm bình thản - vừa đúng như
thế.
Sau rốt, tôi
tạm nghỉ, nhưng chỉ có tư thế ngồi là thay đổi. Tâm tôi
vẫn chuyên nhất, không xao động và không mệt mỏi. Tôi kéo chiếc
gối nằm,
định nghỉ ngơi một chút. Tôi vừa nghiêng mình, tâm tôi vẫn giữ yên
sự an
định như tự nãy giờ. Rồi đó, vừa trước khi đầu tôi chạm vào gối,
thì sự
hay biết của tâm liền trôi chảy ngược vào bên trong. Tôi không
hiểu nó
trôi chảy về đâu, nhưng nó cứ trôi chảy càng lúc càng thâm sâu
hơn. Cũng
tựa như một dòng điện đang chảy về cái nút bấm. Khi nó chạm vào
nút bấm,
toàn thân tôi nổ bùng, vang lên một tiếng "Ầm!" Lúc ấy, sự hay
biết thật
hết sức là sáng suốt và tế nhị. Khi giây phút đó trải qua, tâm
được thoát
ra để đi vào càng sâu hơn. Tâm cứ đi sâu vào, cho đến một điểm
không còn
có gì nữa cả. Tuyệt đối không có sự việc gì từ thế giới bên ngoài
có thể
tới nơi đây được. Không có gì có thể đạt tới chỗ ấy được. Sau khi
an trú
bên trong một thời gian, tâm được buông ra để trôi chảy ngược ra
ngoài.
Tuy nhiên, khi tôi nói tâm ấy được buông ra, tôi không có ý muốn
nói rằng
chính tôi đã khiến tâm ấy trôi ngược ra. Tôi chỉ là một quan sát
viên, chỉ
hay biết và chứng kiến mà thôi. Tâm từ từ trở ra ngoài, càng lúc
càng
nhiều hơn, cho đến khi nó trở lại "bình thường".
Khi tình
trạng ý thức của tôi đã trở lại bình thường, thì một câu hỏi
khởi lên: "Cái gì vậy?" Câu trả lời đến ngay: "Các sự việc đó, tự
chúng đã
xảy đến như thế. Ông không cần phải tìm kiếm một sự giải thích
nào." Câu
trả lời ấy cũng đủ làm tâm tôi thỏa mãn.
Sau đó một
thời gian ngắn, tâm tôi lại bắt đầu trôi chảy vào bên trong.
Tôi không có một cố gắng ý thức nào để hướng dẫn tâm tôi cả. Tâm
ấy, tự
nó, khởi bước lên. Tâm ấy càng lúc càng đi sâu vào bên trong, và
lại chạm
vào cái nút bấm. Lần này thân thể tôi bị lay động đến tận các bộ
phận vi
tế nhất. Lại lần nữa, tâm được buông ra để đi sâu, thật sâu, vào
bên trong
nó. Một sự im lặng hoàn toàn. Lần này lại còn thâm sâu hơn lần
trước.
Tuyệt đối không có gì ở bên ngoài lọt vào đến đấy được. Tâm trú
tại đây
một thời gian, lâu chừng nào cũng tùy theo ý nó muốn, rồi sau đó
nó trở
lùi ra bên ngoài. Vào lúc đó, tâm di chuyển, tự nó, theo tốc độ
của chính
nó. Tôi không hề ảnh hưởng đến nó, để hướng dẫn nó phải theo bất
cứ hướng
nào, để trôi vào trong hay hướng ra bên ngoài cả. Tôi chỉ giản dị
là người
đang quan sát và hay biết mà thôi.
Lại một lần
nữa, tâm tôi trở lại tình trạng ý thức bình thường và tôi
không hề lấy làm lạ hoặc ức đoán điều gì cả. Tôi càng tiếp tục
quán chiếu
thì tâm tôi lại một lần nữa đi sâu vào bên trong. Lần này, toàn
thể vũ trụ
bị chấn động và tan rả ra từng mảnh vụn thật nhỏ. Mặt đất, núi
non, đồng
ruộng, rừng rú - toàn thể thế giới - tan rã vào nguyên tố không
gian. Dân
chúng đã biến mất. Tất cả đều mất dạng. Lần thứ ba này, tuyệt đối
không có
gì còn sót lại cả.
Tâm, đang
nghiêng sâu vào bên trong, an trú lại đó, lâu chừng nào tùy ý
nó muốn. Tôi không thể nói là tôi đã hiểu rõ ràng làm cách nào mà
nó trụ
được lại tại đó. Thật là khó mô tả lại những gì đã xảy ra. Không
có gì có
thể dùng để so sánh được. Mọi thí dụ đều không thích nghi. Lần
này, tâm
lưu lại bên trong càng lâu hơn những lần trước; và chỉ sau một
thời gian
dài nó mới ra khỏi tình trạng đó. Khi tôi nói nó ra khỏi, tôi
không hề có
ý muốn nói rằng tôi đã khiến tâm ra khỏi, hoặc là tôi đã kiểm soát
được
những gì đang xảy ra. Tâm tự nó đã hành động như thế. Tôi chỉ giản
dị là
một quan sát viên. Sau cùng, tâm cũng trở lại tình trạng bình
thường. Bạn
có cách nào để đặt tên cho những gì đã xảy ra trong ba lần đó
chăng? Ai
biết được! Dùng danh từ nào để gắn một nhãn hiệu lên đó?
*
5. Quyền năng của Định lực
Tất cả những gì mà tôi vừa kể lại,
có liên quan đến tâm đang theo đúng
con đường tự nhiên của nó. Đó không phải là một sự mô tả lý thuyết
về tâm
hoặc các trạng thái tâm. Bạn không cần phải mô tả dài dòng. Khi có
đủ niềm
tin hoặc tự tín, bạn sẽ đi đến đấy, và sẽ thực sự làm được như
thế. Đây
không phải chuyện đùa, mà là chuyện sống chết. Khi sự tu tập của
bạn đã
đến giai đoạn tôi vừa nêu ra, thì sau đó toàn thể cả thế giới đều
đảo lộn
ngược lại hết. Sự hiểu biết của bạn về thực tại sẽ hoàn toàn khác
hẳn
trước. Các quan kiến của bạn thay đổi hẳn. Nếu có ai thấy bạn vào
lúc đó,
họ có thể tưởng là bạn đã mất trí. Nếu kinh nghiệm này xảy ra cho
người
nào chưa nắm vững sự hiểu biết về chính mình, thì người ấy có thể
trở
thành điên loạn, vì chưa từng trải qua một tình huống tương tự như
thế.
Nhìn những người chung quanh, bạn thấy họ có vẻ khác hơn lúc
trước. Nhưng
bạn không phải là người duy nhất nhận thấy được điều này. Tuyệt
đối, mọi
sự việc đều thay đổi. Tư tưởng bạn cũng biến thái: bạn nay nghĩ
theo một
đường này, kẻ khác lại nghĩ theo một nẻo nọ. Họ bảo sự việc theo
cách này,
còn bạn thì nói theo cách kia. Họ bước xuống bậc thềm này, bạn leo
lên nấc
thang khác. Bạn không còn giống những người khác. Cách thể nghiệm
muôn
việc như thế chẳng những không suy giảm mà cứ tiếp tục mãi. Hãy
thử một
lần xem sao. Nếu mọi việc xảy ra đúng như tôi đã mô tả, thì bạn
không cần
phải đi tìm kiếm ở đâu cho xa. Bạn chỉ cần quay nhìn vào chính tâm
của
bạn. Tâm này trung thành, can đảm, dũng mãnh và không hề lay
chuyển. Đây
là quyền năng của tâm, là nguồn năng luợng và sức mạnh. Tâm có
tiềm năng
dũng mãnh, đó là quyền năng và sức mạnh của Định (Samādhi).
Tại điểm
này, tâm đã rút ra được năng lực và sự thanh tịnh từ định lực.
Định lực ở mức độ này là định lực ở bậc tối hậu. Tâm đạt đến đỉnh
cao nhất
của định lực; đó không phải mức định nhất thời (sát-na định). Nếu
bạn muốn
chuyển sang qua thiền minh quán (vipassana) từ nơi điểm
này, sự
quán chiếu sẽ không bị gián đoạn và đem lại nhiều minh triết. Hoặc
bạn
dùng năng lực được tập trung đó vào công việc khác, như thi triển
thần
thông, thực hiện các kỳ công mầu nhiệm, hay bất cứ việc gì mà bạn
muốn.
Các tu sĩ khổ hạnh và các ẩn sĩ dùng năng lượng của định lực để
tạo ra
nước thánh, hay bùa, chú. Các việc đó đều có thể thực hành được ở
giai
đoạn này, và cũng đem lại chút lợi lạc theo ý nghĩa riêng; nhưng
lợi lạc
đó cũng giống như ảnh hưởng của rượu: bạn uống vào, rồi bạn sẽ
say.
Giai tầng
này của định lực là một chỗ dừng nghỉ. Đức Phật cũng ngừng
lại và nghỉ ngơi tại đây. Định lực đó là cơ sở căn bản của suy
niệm và
minh quán.Tuy nhiên, cũng chưa cần thiết phải đạt tới mức định lực
thâm
sâu này để quan sát các tình trạng ở quanh ta; vậy ta nên tiếp tục
quán
chiếu miên mật về tiến trình nhân duyên và hậu quả. Để làm công
việc đó,
ta dùng tâm thanh tịnh và an định để phân tích các hình sắc, âm
thanh,
hương, vị, cảm xúc thể chất, tư tưởng và các trạng thái tâm - vui,
buồn,
tiêu cực, tích cực - mà chính ta đang thể nghiệm. Quan sát mọi sự
vật. Đó
cũng tựa như có kẻ nào đang trèo lên cây xoài, rung mạnh các nhánh
cây,
còn ta thì đang đứng dưới gốc, chờ trái rụng xuống mà nhặt.Trái
nào úng
thối thì ta bỏ đi. Chỉ nhặt các trái xoài chín ngon thôi. Cũng
không cực
nhọc gì, bởi vì ta không cần trèo lên cây, mà chỉ đơn giản đứng
dưới đất
chờ nhặt trái.
Bạn hiểu
được ý nghĩa của thí dụ trên đây không? Mọi sự vật nào được
thể nghiệm với một tâm an định sẽ đem lại một sự hiểu biết sâu
rộng. Ta
không cần hý luận giải thích dài dòng về những gì đang được thể
nghiệm. Sự
giàu có, danh vọng, chê trách, khen ngợi, hạnh phúc và khổ sở, tự
chúng,
chúng sẽ đến. Nhưng chúng ta thì an nhiên. Chúng ta có trí tuệ. Kể
cũng
vui đó chứ! Vui vì cứ ngồi sàng sẩy rồi lựa chọn mỗi thứ riêng ra.
Những
gì mà kẻ khác gọi là tốt, xấu, thiện, ác, tại đây, ở kia, hạnh
phúc, khổ
sở, hoặc gì gì nữa - tất cả được đưa vào để làm lợi ích cho ta.
Người phải
trèo lên cây xoài và rung mạnh cành lá để trái xoài rụng xuống.
Còn ta, ta
cứ an nhiên đứng dưới đất, thích thú nhặt trái, mà không phải sợ
hãi gì.
Có gì mà phải sợ chứ? Kẻ khác đã rung cây để trái rơi rụng xuống
đất cho
ta. Giàu có, danh vọng, ngợi khen, chỉ trích, hạnh phúc, khổ sở,
và tất cả
những thứ còn lại, chẳng qua là những trái xoài chín đang rơi
xuống, và ta
thẩm định chúng với một tâm tư thanh thản. Rồi ta sẽ biết được
trái nào
ngon và trái nào úng thối.
*
6. Tu tập một cách tự nhiên
Khi chúng ta bắt đầu dùng tâm an
định và thanh thản đã phát triển được
trong khi hành thiền để quán soi vạn pháp, trí tuệ liền khởi sinh.
Đó là
điều mà tôi gọi là Trí tuệ. Đó cũng là Minh quán (Vipassanā).
Đó
không phải là những gì được tạo lập, hoặc được phân giải. Nếu ta
có trí
tuệ, sự minh quán sẽ tự nhiên phát triển. Ta không cần phải định
danh cho
những gì đang xảy ra. Nếu chỉ có chút trí tuệ sáng tỏ, ta gọi đó
là "minh
quán nhỏ". Khi thấy được rõ ràng hơn một ít, ta gọi đó là "minh
quán trung
bình". Còn nếu sự hiểu biết hoàn toàn phù hợp Chân Lý, thì ta gọi
đó là
"minh quán tối hậu". Riêng cá nhân tôi, tôi lại thích dùng danh từ
Trí Tuệ
(Paññā, Bát-nhã) hơn là danh từ Minh Quán (Vipassanā).
Nếu nghĩ rằng thỉnh thoảng ta phải ngồi xuống và thực tập Thiền
Minh quán,
thì ta sẽ gặp nhiều khó khăn. Trí tuệ phải phát xuất từ sự an định
và yên
tịnh. Toàn bộ tiến trình đó, tự nó, diễn ra một cách tự nhiên. Ta
không
thể thúc dục nó được.
Đức Phật có
dạy rằng tiến trình đó trưởng thành theo tốc độ của nó. Đạt
tới mức độ thực tập này rồi, ta cứ để nó phát triển phù hợp theo
các khả
năng nội tại của ta, các năng khiếu tinh thần và các công đức mà
ta tích
lũy được trong thời gian qua. Nhưng ta không bao giờ ngừng nghỉ nỗ
lực
trong việc thực tập. Còn sự tiến bộ có nhanh hay chậm, điều đó
ngoài vòng
kiểm soát của ta. Cũng như việc trồng cây. Cây tự biết nó phải lớn
nhanh
như thế nào. Nếu ta muốn làm cho nó lớn nhanh hơn lên, thì đó chỉ
là một
ảo vọng. Còn nếu ta muốn nó lớn chậm lại, điều ấy cũng là ảo vọng.
Nếu ta
thật sự tu tập, kết quả sẽ xảy đến - giống như trồng cây. Thí dụ
như ta
muốn trồng một bụi ớt. Trách nhiệm của ta là phải đào một lỗ,
trồng cây ớt
con, tưới nước, bón phân và chăm sóc. Đó là công việc của ta, chỉ
có bấy
nhiêu thôi. Rồi chúng ta hãy vững niềm tin. Cây ớt có lớn lên hay
không,
là tùy nơi nó. Đó không phải là công việc của ta. Ta không thể nào
kéo cho
nó dài thêm lên và làm cho nó lớn nhanh được. Thể thức hành động
của thiên
nhiên là như thế đó. Trách nhiệm của ta là tưới nước và bón phân
cho cây.
Thực tập Chánh Pháp theo đường hướng như thế sẽ làm cho tâm ta
được thoải
mái.
Nếu ta được
giác ngộ ngay trong đời này, điều đó rất tốt. Nếu ta còn
phải chờ đến kiếp sau, cũng không hề chi. Ta có niềm tin vững chắc
nơi
Chánh Pháp. Ta tiến bộ mau hay chậm là tùy thuộc vào các khả năng
nội tại
của ta, năng khiếu tinh thần và công đức mà ta đã tích tụ được cho
đến
nay. Thực tập như thế làm cho tâm ta thoải mái. Cũng như ta dùng
chiếc xe
ngựa. Ta không đặt chiếc xe trước con ngựa. Hoặc là, tựa như cày
ruộng mà
lại bước đi trước con trâu. Điều tôi muốn nói ở đây là tâm hay
vượt đi qua
trước nó. Nó nôn nóng muốn có kết quả nhanh. Đó không phải là
đường lối
phải để tu hành. Đừng bước đi trước mặt con trâu. Bạn phải bước
theo sau
con trâu.
Cũng tựa như
cây ớt mà ta chăm sóc. Tưới nước và bón phân cho nó, rồi
cây ớt sẽ làm công việc của nó là hút lấy các chất bổ dưỡng. Khi
có sâu
rầy đến cắn phá, ta đuổi chúng đi. Chỉ cần làm như thế cũng đủ
khiến cho
cây ớt tự nó lớn lên tốt đẹp, và khi nó lớn lên tốt đẹp như thế,
cũng đừng
thúc hối nó sớm trổ hoa khi ta nghĩ là nó phải trổ ra hoa. Đó
không phải
là việc của ta, điều đó chỉ gây ra nhiều phiền não vô ích. Hãy để
cho tự
nó trổ hoa. Và khi bông hoa đua nở, cũng đừng đòi hỏi phải có trái
ngay.
Đừng ép buộc. Điều đó chỉ tạo thêm phiền não! Một khi đã thấy rõ
điều đó
rồi thì ta sẽ biết đâu là trách nhiệm của ta, đâu không phải là
nhiệm vụ
của mình. Ai có phận sự nấy để hoàn tất. Tâm biết nhiệm vụ của nó
trong
các công tác cần phải thi hành. Nếu tâm không hiểu rõ nhiệm vụ của
nó, nó
sẽ cố thúc dục cây ớt có trái ngay khi vừa được trồng xuống đất.
Tâm sẽ
đòi hỏi cây ớt phải lớn lên, đơm hoa, kết trái ngay trong một
ngày.
Đây cũng chỉ
là Chân Lý Cao Sang thứ hai: lòng khát vọng là nguyên nhân
để khổ sở, phiền não sinh khởi. Nếu ta biết được Chân lý đó và suy
ngẫm
nó, ta sẽ thông hiểu rằng, cố mà thúc dục cho mau có kết quả trong
việc
thực tập Chánh Pháp cũng chỉ là một ảo vọng mà thôi. Thật là sai
lầm. Biết
sự việc tiến hành theo cách đó, ta buông bỏ và để cho sự việc cứ
trưởng
thành phù hợp với khả năng nội tại của ta, năng khiếu tinh thần và
công
đức mà ta tích lũy được. Ta vẫn tiếp tục làm phần nhiệm vụ của ta.
Đừng lo
lắng rằng sẽ mất nhiều thì giờ. Ngay cả phải mất trăm, ngàn kiếp
để được
giác ngộ, thì có sao đâu?! Cho dù có phải trải qua nhiều kiếp
sống, ta chỉ
cần tiếp tục tu tập với tâm thoải mái, thư thả với nhịp độ bước đi
của
mình. Một khi tâm ta đã vào dòng Thánh giải thoát, không còn gì
phải sợ
hãi nữa. Tâm đó vượt qua mọi hành vi xấu ác, dù vi tế. Đức Phật
nói rằng
tâm của vị Dự Lưu (Sotāpanna, Tu-đà-hoàn), bậc đã đạt đến
giai đoạn
thứ nhất của sự giác ngộ, là đã nhập vào dòng Chánh Pháp xuôi chảy
đến
Niết-bàn. Các vị này không bao giờ bị sa vào các đọa xứ, hay rơi
xuống địa
ngục nữa. Làm sao các vị ấy lại rơi vào địa ngục được, khi tâm đã
buông bỏ
các điều xấu ác? Các vị ấy đã nhìn thấy rõ sự nguy hiểm của việc
tạo
nghiệp xấu. Ngay cả khi bạn cố gắng buộc các vị ấy làm điều gì bất
thiện,
các vị ấy cũng không thể nào làm như thế được, cho nên không còn
cơ hội để
rơi xuống địa ngục hay sa vào các cảnh giới thấp hèn nữa. Tâm của
các vị
ấy trôi chảy theo dòng nước Chánh Pháp.
Một khi bạn
đã nhập vào dòng rồi, bạn sẽ biết thế nào là trách vụ của
bạn. Bạn hiểu rõ các công việc sắp đến còn phải làm. Bạn biết cách
tu tập
theo Chánh Pháp. Bạn biết lúc nào phải nỗ lực, và lúc nào nên thư
giãn.
Bạn rõ biết thân và tâm của bạn, tiến trình vật lý và tâm lý này,
và bạn
từ khước những gì phải từ khước, luôn luôn xả bỏ mà không còn do
dự hay
nghi ngờ gì cả.
*
7. Thay đổi cách nhìn
Trong cuộc đời tu hành, tôi không
chủ ý luyện tập thuần thục nhiều đề
mục. Chỉ cần một đề mục thôi. Tôi thanh lọc tâm này. Ví như ta
đang nhìn
thân thể của người nào đó. Nếu thấy bị thân ấy lôi cuốn, ta tức
thời phân
tích nó. Hãy nhìn thật kỹ: tóc, lông, móng, răng, da (kesa,
loma, naka,
danta, taco) - đây cũng là đề mục thiền quán cho các vị tu sĩ
mới thọ
giới. Đức Phật dạy chúng ta nên quán chiếu nhiều lần và thật tường
tận các
bộ phận đó của thân thể. Nhìn chúng riêng rẻ, tách rời chúng ra,
lột hết
lớp da và đốt chúng cháy hết. Đó là cách cần phải làm. Kiên trì
quán chiếu
mãi như thế, cho đến khi nào mức thiền quán được an lập và không
bị lay
chuyển. Hãy nhìn bất cứ ai, cũng bằng phương cách ấy. Thí dụ như,
vào mỗi
buổi sáng khi chư tăng vào làng khất thực, bất cứ ai mà họ trông
thấy - dù
đó là một vị tăng khác hay một người dân làng - các vị tỳ khưu
cũng thấy
người ấy như là một tử thi biết đi, đang lê lết trên khoảng đường
trước
mặt họ. Luôn luôn chú tâm vào tri giác đó. Đó là cách cần phải nỗ
lực; nó
giúp cho tâm được phát triển chín chắn. Khi gặp một người phụ nữ
mà bạn
thấy thật hấp dẫn, hãy tưởng tượng đó là một thây ma biết đi, thân
thể
nàng tanh tưởi và nặc mùi thối rữa. Hãy nhìn thấy mọi người như
thế. Và
đừng để họ đến gần bạn quá! Đừng để sự say đắm dai dẳng trong tâm
bạn. Nếu
bạn cảm nhận kẻ khác như tanh tưởi và thối rữa, tôi có thể quả
quyết với
bạn rằng sự say đắm không dằng dai được lâu. Hãy quán chiếu cho
đến khi
nào bạn đã chắc chắn về những gì bạn nhìn thấy, cho đến khi bạn đã
thuần
thục. Dù bạn lang thang theo con đường nào, bạn cũng không lạc
lối. Hãy
đặt tâm trọn vẹn vào việc hành thiền đó. Mỗi khi bạn nhìn đến ai,
đó không
khác chi là nhìn vào một tử thi. Dù là đàn ông hay đàn bà, hãy cứ
nhìn
người ấy như một thân đã chết. Và cũng chớ quên là bạn nhìn chính
bạn cũng
là một tử thi. Cuối cùng đó là tất cả những gì còn lại. Hãy cố
gắng tập
cách nhìn như thế đó cho thật tỉ mỉ. Hãy tập luyện phương cách đó
cho đến
khi nào nó trở nên một phần của tâm trí bạn. Tôi cam đoan là bạn
sẽ có
nhiều thích thú - nếu bạn thực sự tập luyện như thế. Nhưng nếu bạn
cứ bận
rộn tìm đọc trong sách, bạn sẽ gặp nhiều khó khăn với nó. Bạn cần
phải
thực tập nó. Và phải tập luyện với tất cả tấm lòng chân thành. Tập
mãi cho
đến khi nào công phu thiền quán đó trở thành một phần của đời bạn.
Hãy lấy
sự nhận thức Chân lý làm mục tiêu của bạn. Khi ước nguyện muốn
vượt thoát
khỏi khổ não là lý do khích tấn bạn tu tập, thì bạn sẽ đi đúng
đường lối.
Vào thời
buổi này, có rất nhiều người giảng dạy Minh quán (Vipassanā)
và cả một danh sách dài gồm đủ các loại kỹ thuật thiền quán. Tôi
muốn nói
điều này: thực tập Minh quán không phải là chuyện dễ. Chúng ta
không thể
nhảy thẳng ngay vào trong đó. Không thể thực tập Minh quán thành
công
được, nếu ta không bắt đầu từ một tiêu chuẩn cao về giới hạnh. Bạn
hãy tự
nhận định điều đó. Kỹ luật đạo đức và các học giới rất cần thiết,
bởi vì
nếu tâm ý, hành động và lời nói không trong sạch, thì ta không bao
giờ đủ
sức đứng vững một mình. Hành thiền mà không có giới đức thì cũng
như bỏ
qua một đoạn quan trọng của con Đường. Cùng thế ấy, đôi khi bạn
nghe nói,
"Chúng ta không cần phát triển sự an tịnh; hãy bỏ qua giai đoạn đó
và đi
thẳng vào hành thiền Minh quán." Những người cẩu thả ham đi đường
tắt
thường nói như thế. Họ bảo, chẳng cần bận tâm với giới hạnh. Thọ
trì và
thanh tịnh hóa giới hạnh là cả một thử thách, không phải chuyện
đùa giỡn.
Nếu ta có thể bỏ qua được tất cả các lời dạy về giới hạnh, mọi
việc rồi ra
sẽ dễ dàng lắm, phải không? Bất cứ lúc nào gặp khó khăn, giản dị
là ta cứ
tránh né bằng cách bỏ qua nó đi. Dĩ nhiên, ai ai cũng thích bỏ qua
các
điều khó.
Một dạo nọ,
một vị tỳ khưu có nói với tôi rằng ông ấy là một thiền giả
chân chánh. Ông xin phép lưu trú ở đây với tôi, và hỏi thăm thời
khóa cùng
các tiêu chuẩn về kỷ luật tu viện. Tôi giải thích cho ông biết, ở
tu viện
này, chúng tôi tuân theo Giới Luật (Vinaya) của Đức Phật
đặt ra, và
nếu ông muốn ở lại thì phải từ bỏ tất cả tiền bạc và vật dụng tiếp
tế
riêng của ông. Ông ta bảo tôi rằng sự tu tập của ông là "không
chấp thủ
vào mọi qui ước". Tôi đáp rằng, tôi vẫn chưa hiểu ông ấy muốn nói
gì. Ông
ta hỏi lại: "Có thể nào tôi được ở đây và vẫn giữ tiền bạc riêng
của tôi,
vì tôi không bao giờ dính mắc vào đó? Tiền bạc cũng chỉ là một qui
ước."
Tôi trả lời: "Vâng, không thành vấn đề! Nếu ông có thể ăn muối mà
không
thấy mặn, thì ông có thể dùng tiền bạc mà không chấp thủ vào đó."
Ông ta
chỉ ăn nói lăng nhăng! Thật ra, ông ta quá dể duôi và không biết
tuân theo
các chi tiết trong Giới luật (Vinaya). Này bạn, đó không
phải là
chuyện dễ. "Khi ông có thể ăn muối và thành thật bảo với tôi rằng
ông
không thấy mặn, thì tôi sẽ tin lời ông. Nhưng nếu ông bảo ông
không thấy
mặn, tôi sẽ đưa ngay cho ông một bao muối để ăn. Cứ ăn thử đi.
Thật tình
ông không thấy mặn sao? Không chấp thủ vào các qui ước, đó chỉ là
một lời
xảo ngôn. Nếu ông cứ tiếp tục nói như thế, thì ông không thể ở đây
với tôi
được." Rồi ông ta bỏ đi nơi khác.
Chúng ta cần
phải giữ giới luật và tu tập giới đức. Tu sĩ phải hành trì
hạnh Đầu đà (Dhutanga) và cư sĩ tại gia phải giữ cho tròn
Năm Giới.
Bạn hãy vươn lên tới mức không thể chê trách được trong lời nói và
việc
làm. Ta phải ráng tận sức mình để vun trồng thiện căn và tiếp tục
làm mãi
như thế.
Khi bắt đầu
vun trồng sự an tịnh của thiền An chỉ (samatha),
đừng để vướng vào lỗi lầm là tập một vài lần rồi bỏ cuộc, bởi vì
tâm vẫn
chưa được an định. Như thế là không đúng với đường lối tu tập. Bạn
phải tu
tập hành thiền qua một thời gian dài. Tại sao lại phải tập lâu như
thế?
Bạn hãy nghĩ lại cho kỹ. Đã bao nhiêu năm rồi bạn đã để cho tâm đi
lang
thang? Đã bao nhiêu năm rồi bạn chưa biết tập hành thiền An chỉ?
Mỗi khi
tâm ra lệnh cho ta đi theo nó vào một ngõ nào đặc biệt, tức thời
ta vội
nghe theo ngay. Một vài tháng hành thiền không thể đủ để làm cho
tâm lang
thang ấy lắng dịu lại, để nó ngừng lại, để nó đứng yên. Hãy suy
xét điều
đó.
Khi quyết
tâm tập luyện cho tâm an định trước mọi tình huống, xin bạn
hãy hiểu cho rằng, vào buổi đầu, khi cảm xúc phiền não xảy đến,
thì tâm
không thể nào an định được. Tâm sẽ bị xao lãng và vượt ngoài sự
kiểm soát.
Tại sao? Bởi vì có sự khát vọng, mong cầu. Ta không muốn tâm ta
phải suy
nghĩ. Ta không muốn thể nghiệm bất cứ tình cảm rối rắm nào. "Không
mong
muốn" là một khát vọng, khát vọng đòi hỏi sự bất hiện hữu. Ta càng
khát
vọng không muốn thể nghiệm sự việc gì, thì ta lại càng mời sự việc
đó đến
nhanh với ta. "Tôi không muốn các sự việc đó, cớ sao chúng lại cứ
tìm đến
với tôi mãi? Tôi không muốn chuyện đó xảy ra như thế này, sao nó
lại đến
như vậy?" Cứ như thế đấy. Ta khát vọng muốn sự việc được hiện hữu
theo một
cách riêng, bởi vì ta không hiểu được chính tâm ta. Phải mất một
giời gian
rất lâu trước khi ta nhận thức được rằng, cứ đeo đuổi với sự việc
như thế
là sai lầm. Sau cùng, khi ta xét kỹ lại, ta mới thấy rằng, "Sự
việc đó đến
đây được, chỉ vì ta đã mời nó đến."
Khát vọng
không muốn thể nghiệm sự việc gì, khát vọng muốn được an
tịnh, khát vọng muốn không bị quấy rầy hay xao động - tất cả đều
là khát
vọng. Đấy là một hòn sắt nung nóng đỏ hực. Nhưng cũng không sao.
Chỉ cần
quay về tiếp tục tu tập. Mỗi khi ta thể nghiệm một khí sắc hay là
một tình
cảm, ta hãy quan sát chúng, dựa theo các đặc tính vô thường, bất
toại
nguyện và vô ngã, và xếp chúng vào một trong ba đặc tính đó. Rồi
ngẫm nghĩ
và thẩm sát: các tình cảm phiền não đó hầu hết đều có sự tư duy
quá độ đi
kèm theo. Tư duy lẽo đẽo theo sau cảm tính. Tư duy và trí tuệ là
hai sự
kiện khác nhau. Tư duy chỉ giản dị là phản ứng đối với cảm tính và
rồi cứ
theo sau nó mãi, không thấy ngừng lại ở đâu. Còn nếu trí tuệ đang
khởi
động, thì nó sẽ khiến tâm dừng lại, ở yên đấy. Tâm dừng lại và
không đi
đâu nữa. Giản dị chỉ có sự hay biết và ghi nhận những gì đang được
thể
nghiệm: khi tình cảm này đến, tâm như thế này; khi cảm tính kia
đến, tâm
như thế nọ. Ta nuôi dưỡng sự nhận biết đó.
Sau cùng, ta
nhận thấy rõ: "À! Tất cả sự tư duy đó, cái tên ưa bàn
chuyện phiếm đó, cái kẻ hay lo lắng và phán đoán đó - đều là sự vô
nghĩa,
không có thực chất gì cả. Nó là vô thường, bất toại nguyện và
không phải
là Ta, mà cũng không phải Của Ta." Hãy xếp nó vào một trong ba
loại đặc
tính phổ quát đó, và dập tắt ngay sự khởi dậy. Bạn cắt đứt được
ngay tại
nguồn gốc. Sau này, khi ta ngồi xuống để hành thiền, nó lại trồi
lên nữa.
Hãy cẩn thận canh chừng nó. Hãy dò dẫm, rình mò nó.
Hãy lấy thí
dụ việc nuôi trâu.Trâu ưa ăn mạ non, phải không? Tâm bạn
cũng như con trâu. Các tình cảm phiền não được ví với mạ non. Sự
hay biết
là người nông phu. Thực tập Chánh Pháp cũng giống như thế đó.
Không khác
chi cả. Bạn hãy tự mình so sánh lấy. Khi nuôi trâu, bạn sẽ phải
làm gì?
Bạn thả nó ra, để nó đi tự do, nhưng bạn để mắt canh chừng nó. Nếu
nó mon
men đến gần cánh đồng có mạ non, bạn hét to lên. Khi trâu nghe, nó
sẽ lùi
lại, đi chỗ khác. Nhưng nếu trâu của bạn thuộc loại cứng đầu,
không thèm
để ý đến lời la hét cảnh cáo, thì bạn phải cầm roi quất vào lưng
nó một
cái đét. Thế là nó không còn dám đến gần đồng mạ non. Nhưng bạn
đừng lơ
đểnh, ngủ trưa. Nếu bạn ngã lưng và đánh một giấc, mạ non trên
cánh đồng
sẽ đi vào lịch sử! Thực tập theo Chánh Pháp thì cũng như thế: bạn
canh
chừng tâm của bạn; sự hay biết sẽ chăm sóc tâm bạn.
"Những ai
cẩn thận canh chừng tâm sẽ được thoát khỏi cạm bẫy của Ma
vương (Mara)." Tuy nhiên, cái tâm hay biết đó cũng là tâm,
vậy thì
ai đã theo dõi và quan sát tâm? Ý kiến này có thể làm bạn rối rắm
vô cùng.
Tâm là một sự việc, sự hay biết lại là một sự việc khác; và tuy
vậy sự hay
biết đó lại bắt nguồn tại chính nơi tâm ấy. Biết được tâm có nghĩa
là gì?
Khi chạm trán với tình cảm, khí sắc, thì ra sao? Khi các tình cảm
phiền
não vắng bặt, thì như thế nào? Cái gì biết được các sự kiện trên
xảy ra
như thế nào, cái đó được gọi là "sự hay biết". Sự hay biết rất bén
nhạy
theo sát tâm, và chính từ nơi sự hay biết đó mà trí tuệ khởi sinh
ra. Tâm
là cái gì đã suy nghĩ, tư duy và vướng víu vào các tình cảm, hết
tình cảm
này đến tình cảm khác - giống in hệt như con trâu của ta. Hễ nó
lang thang
đi đâu, hãy có mắt canh chừng nó. Làm sao mà nó vọt đi khỏi? Nếu
nó bén
mảng đến gần ruộng mạ non, hãy hét to lên. Nếu nó chẳng chịu nghe,
cầm roi
đánh nó. "Đét!" Đó là cách mà bạn đánh bại được sự khát
vọng.
Tập luyện
tâm cũng không khác chi mấy. Khi tâm thể nghiệm một cảm tính
và tức khắc bám vào đó, đó là lúc mà sự hay biết có công việc phải
dạy
tâm. Hãy quán sát cảm tính đó, xem nó tốt hay xấu. Giải thích cho
tâm biết
nguyên nhân và hậu quả diễn ra như thế nào. Và khi tâm ấy lại bám
vào một
sự kiện khác mà nó cho rằng đáng quí mến, sự hay biết lại cũng
phải dạy
tâm nữa, giải thích cho tâm biết nguyên nhân và hậu quả ra sao,
mãi cho
đến khi nào tâm đủ sức vứt bỏ sự kiện ấy xuống. Điều này đưa đến
sự an
tịnh cho tâm. Sau khi đã nhận thấy ra tâm đang bám níu vào sự việc
gì đó,
và sự bám níu vốn, tự bản chất, là một điều bất hảo, bấy giờ tự
nhiên và
giản dị, tâm dừng lại. Nó không còn bị các sự việc đó quấy rối
nữa, bởi vì
nó luôn luôn bị ngăn chặn bởi một hàng rào quở mắng và khiển
trách. Hãy
chặn đứng sự khát vọng của tâm với quyết chí mãnh liệt. Hãy thách
thức sự
khát vọng đến tận cốt lõi, cho đến khi nào lời giáo huấn đã thấm
nhập vào
tâm. Đó là cách mà bạn huấn luyện tâm.
Khi tôi vào
rừng để ẩn cư, thực tập hành thiền, tôi đã tập luyện như
thế. Khi đào tạo các đệ tử, tôi cũng dạy họ tập luyện như thế. Bởi
vì tôi
muốn chính họ nhìn thấy Chân Lý, hơn là đọc những gì đã viết trong
kinh
điển. Tôi muốn họ thấy rõ tâm của họ được giải thoát khỏi sự tư
duy theo
khái niệm. Khi sự giải thoát xảy ra, thì bạn biết; và khi nó chưa
xảy ra,
thì bạn hãy quán soi tiến trình theo đó sự vật này làm nguyên nhân
và tạo
ra sự vật khác. Quán chiếu cho đến khi nào bạn biết và hiểu điều
đó thật
tận tường. Một khi được ta thấm nhập sâu vào nó với sự minh triết,
thì tự
nó, nó rã rời ra. Khi một sự việc gì đến ngăn trở bạn và bám chặt
lấy, bạn
hãy thẩm cứu ngay. Đừng bỏ dở, cứ tiếp tục thẩm cứu cho đến khi
nào nó nới
lỏng và buông lơi sự bấu níu ra. Hãy thẩm cứu thật nhiều lần, ngay
tại
đây. Đó là cách mà chính tôi đã áp dụng trong việc tập luyện, bởi
vì Đức
Phật có dạy rằng, chính tự ta, ta phải biết lấy. Và tất cả các bậc
hiền
trí, cũng vậy, tự chính họ, họ biết đến Chân Lý. Bạn cần phải khám
phá ra
điều đó ngay tại nơi sâu thẩm nhất trong chính tâm của bạn. Bạn
phải biết
lấy chính bạn.
Nếu bạn tin
chắc vào những gì bạn biết và có lòng tự tín, bạn sẽ cảm
thấy thư giãn khi có người chỉ trích hay khen ngợi bạn. Dầu ai có
nói gì
đi nữa, bạn cũng vẫn thoải mái. Tại sao? Bởi vì bạn tự biết mình.
Nếu ai
có lời ca tụng tâng bốc bạn, mà bạn biết mình chưa xứng đáng, thì
bạn có
vội tin theo không? Dĩ nhiên là không. Bạn chỉ lo tiếp tục tu tập
theo
Chánh Pháp. Khi kẻ nào còn chưa tin chắc vào những gì họ đang
biết, lại
được kẻ khác khen tặng, thì họ bị dính mắc vào đó, khiến cho tri
giác của
họ trở nên méo mó. Cùng thế ấy, khi có ai chỉ trích bạn, bạn hãy
nhìn kỹ
và quan sát chính bạn. "Không, những gì họ nói còn chưa đúng sự
thật. Họ
buộc tội ta là đã sai lầm, nhưng thật sự ta không có điều gì quấy.
Sự phê
phán của họ không có giá trị gì." Nếu trường hợp đó đúng, thì cần
gì phải
giận họ? Lời họ không đúng sự thật. Tuy nhiên, nếu ta có lỗi giống
như lời
họ buộc tội, thì sự kết án ấy đúng đắn. Nếu thật như vậy, thì sao
lại giận
họ? Nếu bạn đủ sức để suy nghĩ như thế, thì cuộc đời sẽ được thoải
mái,
không còn chút nào phiền muộn. Rồi thì mọi việc sẽ êm thắm. Rồi
thì tất cả
sẽ là Chánh Pháp. Đó là cách mà tôi đã tu tập.
*
8. Đi theo Trung đạo
Đây là con đường thẳng và ngắn
nhất. Bạn có thể đến đây và tranh luận
với tôi về các điểm trong Chánh Pháp, nhưng tôi không tham gia
đâu. Thay
vì cãi lại, tôi chỉ tặng bạn vài tư tưởng để bạn suy xét. Xin bạn
hãy
thông hiểu lời Đức Phật dạy: nên buông bỏ tất cả. Buông bỏ trong
sự hay
biết và tỉnh giác. Nếu không có giác niệm, thì việc buông bỏ đó
cũng như
việc buông bỏ không ý thức của loại trâu bò. Nếu bạn không đặt hết
tâm trí
vào đó, việc buông bỏ vẫn chưa đúng đắn. Bạn buông bỏ vì bạn hiểu
biết
được thực tại qui ước. Đó là sự không chấp thủ. Đức Phật đã dạy,
ngay tại
các giai đoạn đầu của sự tu tập theo Chánh Pháp, cần phải nỗ lực
thật mạnh
mẽ, phát triển sự việc thật tường tận, và trì giữ cho thật nhiều.
Trì giữ
vào Đức Phật. Trì giữ vào Chánh Pháp. Trì giữ vào Tăng Đoàn. Trì
giữ thật
sâu xa và vững chắc. Đó là lời Đức Phật dạy. Trì giữ với lòng chân
thành,
khắng khít và nắm giữ cho thật chặt chẽ.
Trong sự tìm
kiếm của chính tôi, tôi đã thử qua hầu hết mọi phương cách
của pháp hành thiền. Tôi hy sinh đời tôi cho Chánh Pháp, bởi vì
tôi đặt
trọn niềm tin vào sự giác ngộ là việc có thật, cùng con Đường tiến
đến đó.
Các sự việc này chắc chắn có thật, đúng như lời Đức Phật nói.
Nhưng thực
hiện được các sự việc đó, thì cần phải thực tập, và thực tập cho
đúng
cách. Nó đòi hỏi bạn phải thúc đẩy mình đến tận bờ ranh của năng
lực. Nó
đòi hỏi lòng can đảm để tu luyện, để tư duy, và để chuyển hóa tận
căn gốc.
Nó đòi hỏi sự can đảm để thật sự làm những gì cần phải làm. Và bạn
phải
làm như thế nào? Luyện tâm mình. Tư tưởng trong đầu ta xúi ta theo
nẻo
này, trong khi Đức Phật dạy ta theo ngõ khác. Tại sao cần phải tập
luyện?
Bởi vì phiền não đã đóng cứng và che phủ tâm. Đó là tình trạng của
tâm
chưa chuyển hóa qua tu tập. Tâm ấy không đáng cho ta nương tựa,
vậy bạn
đừng tin tưởng vào nó. Nó không có đức hạnh gì. Làm sao ta có thể
đặt tín
nhiệm vào một cái tâm không thanh tịnh và trong sáng? Vì thế, Đức
Phật
cảnh cáo chúng ta đừng tin tưởng vào cái tâm còn lậu hoặc. Lúc
đầu, tâm
chỉ là người đi làm công cho lậu hoặc, nhưng về sau, khi cả hai,
chủ và
tớ, hợp tác với nhau qua một thời gian dài, thì tâm lại trở nên
xấu xa, hư
hỏng để trở thành lậu hoặc luôn. Đó là lý do tại sao Đức Phật dạy
ta chớ
nên tin tưởng vào tâm ta.
Nếu ta nhìn
kỹ vào kỷ luật huân tập trong tu viện này, ta sẽ thấy toàn
bộ công việc chỉ là sự luyện tập về tâm. Và bất kỳ lúc nào ta
luyện tâm,
ta cũng cảm thấy nóng nảy và bị quấy rầy. Vừa khi ta nghe bực bội
và cảm
thấy bị quấy rầy, ta liền khởi lên lời than trách. "Ôi! Sự tập
luyện này
khó khăn quá sức tưởng tượng! Thật không thể làm được!" Nhưng Đức
Phật lại
không nghĩ như thế. Ngài xem khi sự tập luyện đem lại cho ta bực
bội và va
chạm, điều đó có nghĩa là ta đang đi đúng đường lối. Còn ta, ta
lại không
nghĩ như thế. Ta nghĩ rằng đó là dấu hiệu có điều gì bất ổn đây.
Sự hiểu
lầm đó đã khiến cho sự luyện tập được xem như quá nặng nhọc. Lúc
đầu, ta
cảm thấy nóng nảy và bị quấy rầy, ta tưởng đâu là mình đi sai
đường. Ai
cũng muốn cảm thấy khoan khoái, nhưng họ lại không quan tâm đến
chỗ đúng
hay là sai. Khi ta chống cự lại cốt lõi của các lậu hoặc và thách
thức
lòng khát vọng của ta, thì thế nào ta cũng cảm thấy khổ sở. Ta
nóng lên,
bứt rứt và bực bội, rồi bỏ cuộc. Ta tưởng đâu mình đã đi sai
đường. Tuy
nhiên, Đức Phật lại nghĩ chúng ta đang đi đúng đường. Ta đang
đương đầu
với lậu hoặc, và những gì nóng nảy và bứt rứt là chính các lậu
hoặc. Nhưng
ta lại nghĩ chính chúng ta đang nóng nảy và bứt rứt. Đức Phật dạy,
chính
các lậu hoặc đang bị quấy động lên và trở nên bứt rứt. Điều đó xảy
ra cho
tất cả mọi người.
Vì thế, sự
luyện tập theo Chánh Pháp đòi hỏi nhiều nỗ lực. Thiên hạ
không chịu quan sát sự vật kỹ lưỡng và rõ ràng. Một cách tổng
quát, họ lạc
mất Con Đường, hoặc là nghiêng về sự tự dễ dãi với chính mình,
hoặc là
chọn lấy sự tự hành xác. Họ bị kẹt cứng vào hai cực đoan đó. Một
mặt, họ
thích dễ dãi chạy theo các ham muốn của tâm. Có điều gì họ thích,
họ liền
làm ngay. Họ muốn ngồi cho thoải mái. Họ thích nằm dài và duỗi ra
trong
tiện nghi. Đây là nghĩa của sự tự dễ dãi mà tôi muốn nói: ôm ghì
chặt lấy
cảm giác muốn được khoan khoái. Với sự tự dễ dãi, làm sao mà sự
luyện tập
theo Chánh Pháp có tiến bộ được?
Nếu ta dứt
sự tự dễ dãi muốn có tiện nghi, hưởng nhục cảm và khoan
khoái, ta sẽ trở nên bực bội. Ta bực bội rồi tức giận, và vì đó mà
thấy
khổ sở. Đây là đi lạc đường, rẽ sang nẻo tự hành xác. Đây không
phải là
đường lối của vị hiền trí an hòa, cũng không phải là đường lối của
người
an định. Đức Phật cảnh cáo, không nên rơi vào hai ngõ rẽ của sự tự
dễ dãi
và tự hành xác. Khi thể nghiệm việc vui thích, bạn chỉ cần biết,
với chánh
niệm, rằng đang có điều ấy. Khi thể nghiệm sự sân giận, ác ý và
cau có,
hãy hiểu biết rằng đó là bạn không theo đúng bước chân của Đức
Phật. Đây
không phải là con đường của các người đi tìm sự an định, mà là lối
đi của
bọn phàm phu trong làng. Một vị tỳ khưu an định không hề đi theo
các con
đường đó. Vị này cứ ngay chính giữa mà bước đi, với sự tự dễ dãi
để ở phía
bên trái và sự tự hành xác để ở phía bên mặt. Đấy mới là sự luyện
tập đúng
đắn theo Chánh Pháp.
Nếu bạn muốn
chọn sự tập luyện trong tu viện, bạn phải đi theo Trung
Đạo, không để khích động vì hạnh phúc hay khổ sở. Hãy đặt chúng
xuống bên
cạnh. Nhưng chúng dường như đang đấm đá chúng ta từ mọi phía.
Trước, chúng
đá ta bên hông này, "Úi!"; rồi lại đạp ta bên hông kia, "Úi!" Ta
có cảm
tưởng như bị cái dùi đánh lên mõ gỗ, lúc bên này, lúc bên kia.
Trung Đạo
là phải buông bỏ cả khổ sở lẫn hạnh phúc, và sự thực tập đúng đắn
là ngay
tại chính giữa. Khi sự khát vọng hạnh phúc khởi lên, và ta không
thỏa mãn
nó, ta cảm thấy đau khổ.
Bước theo
Trung Đạo của Đức Phật thật khó nhọc và đầy thách thức. Chỉ
có hai cực đoan tốt và xấu đó. Nếu ta tin vào những gì chúng nói
với ta,
thì ta lại phải tuân theo lệnh chúng. Nếu nổi lên cơn giận đối với
ai, ta
liền chạy đi kiếm cây gậy để tấn công kẻ ấy. Không có sự nhẫn nhục
để chịu
đựng. Nếu thương ai, ta muốn đến vuốt ve người ấy từ đầu đến chân.
Tôi nói
đúng không? Cả hai đường rẽ đó đều hoàn toàn sai lối Trung Đạo. Đó
không
phải là lời Đức Phật khuyến khích. Ngài dạy chúng phải từ từ buông
các sự
việc đó xuống. Sự thực tập của Ngài là con đường đưa ta thoát ra
khỏi sự
hiện hữu, tránh xa sự tái sinh - một con đường giải thoát khỏi sự
trở
thành, sự sinh, hạnh phúc, khổ sở, thiện và ác.
Những ai còn
khát vọng hiện hữu, đều mù quáng không trông thấy những gì
ở ngay chính giữa. Họ lọt khỏi con đường Trung Đạo; từ bờ hạnh
phúc bên
này họ vượt lướt ngang qua khoảng giữa để đến ngay bờ bất toại
nguyện và
cáu kỉnh bên kia. Họ luôn luôn nhảy bỏ khoảng giữa. Nơi linh
thiêng này,
họ không thể nhìn thấy được, cứ nhảy vọt qua, vọt lại hai bên bờ.
Họ không
chịu an trú ở đó, nơi mà không còn sự hiện hữu, và không có sự
sinh. Họ
không ưa nơi ấy nên không chịu lưu lại. Hoặc là họ bước ra khỏi
nhà để bị
chó cắn, hoặc là họ bay bổng lên cao để bị diều hâu mổ. Đó là sự
hiện hữu.
Nhân loại mù
quáng, không thấy những gì đã giải thoát khỏi sự hiện hữu,
không còn tái sinh nữa. Tâm con người mù quáng đối với điều ấy,
cho nên đã
biết bao nhiêu lần được đối diện mà vẫn bỏ qua vì không thấy.
Trung Đạo
của Thế tôn, con đường chân chánh của sự thực tập theo Chánh Pháp,
vượt
qua hiện hữu và tái sinh. Tâm trí nào đã vượt qua khỏi cả thiện
lẫn ác thì
được giải thoát. Đây là con đường của bậc hiền trí an định. Nếu
không dấn
bước theo đường ấy, ta không thể nào trở thành bậc hiền trí an
định được.
Sự an định đó không hề có cơ hội để nở hoa. Tại sao? Bởi vì còn sự
hiện
hữu và sự tái sinh. Bởi vì còn sinh và tử. Con đường của Đức Phật
không
còn sinh tử; không thấp mà cũng không cao; không hạnh phúc mà cũng
không
khổ sở; không thiện mà cũng không ác. Đây là con đường thẳng tắp,
con
đường an định và ổn cố. Con đường đó an hòa, vắng bóng cả đau khổ
và sung
sướng; vắng bóng cả hạnh phúc và ưu bi. Đây là cách thực tập theo
Chánh
Pháp. Thể nghiệm được điều đó, tâm có thể dừng yên lại. Tâm ấy
không còn
đặt câu hỏi. Không còn cần phải đi tìm câu trả lời nữa. Đấy! Thế
mới biết
tại sao Đức Phật bảo, Chánh Pháp là điều mà bậc hiền trí tự mình
biết một
cách trực tiếp. Không cần phải đi hỏi ai khác nữa. Tự ta, ta hiểu
thật rõ
ràng, không còn nghi ngờ nào về Chân Lý của muôn sự vật đúng theo
lời Đức
Phật đã dạy.
*
9. Dốc lòng tu tập
Tôi vừa kể lại các mẩu chuyện ngắn
về việc tôi đã tu tập như thế nào.
Tôi không có nhiều kiến thức. Tôi không học nhiều. Điều mà tôi học
là tâm
và trí này của tôi, và tôi đã học theo đường lối tự nhiên qua kinh
nghiệm,
mò mẫm. Khi tôi thích điều gì, tôi liền quan sát sự việc gì đã xảy
ra như
thế nào và điều ấy sẽ đưa tới đâu. Không thể nào tránh khỏi được,
thế nào
việc đó cũng kéo tôi vào một khổ sở xa xăm nào đó. Sự tu tập của
tôi là tự
mình quan sát lấy chính mình. Khi sự hiểu biết và minh quán từ từ
được
thâm sâu, tôi mới biết được chính tôi.
Bạn phải dốc
lòng tu tập! Nếu bạn muốn thực tập Chánh Pháp, xin bạn
đừng suy nghĩ nhiều quá. Nếu bạn đang hành thiền và nhận thấy mình
đang cố
gắng để đạt kết quả đặc biệt nào, thì tốt hơn bạn ngưng lại. Khi
tâm bạn
đã lắng yên lại để trở nên an định, rồi bạn lại nghĩ: "Đấy, đấy!
Chính nó
đấy, phải không?", thì bạn cũng nên ngừng lại. Hãy lấy tất cả các
kiến
thức phân tích và lý thuyết của bạn đem gói lại hết và cất kỹ vào
trong
hộc tủ. Và đừng đem nó ra để tranh luận hay giảng dạy. Đó không
phải là
loại kiến thức đã đi sâu vào bên trong. Chúng là loại kiến thức
khác.
Khi thực tại
của một sự việc nào được thấy đến, nó không giống với
những gì đã được viết ra để mô tả. Thí dụ như, ta viết ra chữ "ham
muốn
nhục cảm". Khi ham muốn nhục cảm thực sự đang tràn ngập tâm,
thì không
thể nào các chữ viết đó chuyên chở được đúng nguyên ý nghĩa như
thực tại
cả. Đối với sự "giận" cũng lại như thế. Ta có thể viết lên bảng
đen chữ
"giận", nhưng khi ta thực sự sân giận, thì kinh nghiệm lại
không giống
như thế. Ta không thể đọc thật nhanh cho kịp chữ ấy, và tâm đã bị
cơn giận
dữ nhận chìm rồi.
Đây là điểm
vô cùng quan trọng. Các lời dạy về lý thuyết thật là chính
xác, nhưng đưa được chúng vào tâm mới là điều quan yếu. Chúng cần
phải
được "nội trú hóa". Nếu Chánh Pháp không được mang vào trong tâm,
thì
Chánh Pháp chưa được biết thực sự. Chánh Pháp chưa được thấy thực
sự. Tôi
cũng đã trải qua như thế. Tôi không học nhiều, tôi chỉ học đủ để
dự các kỳ
thi về Căn bản Phật học. Một hôm tôi có duyên may được nghe một vị
thiền
sư thuyết pháp. Trong lúc lắng nghe, vài tư tưởng bất kính nổi
lên. Lúc
đó, tôi chưa biết cách nghe một bài pháp cho có ích lợi. Tôi không
hiểu vị
thiền sư du tăng đó đã nói những gì. Vị ấy giảng dạy như thể là
khởi từ sự
kinh nghiệm bản thân trực tiếp của mình và tựa như vị ấy đang đi
tìm chân
lý vậy.
Một thời
gian sau, khi tôi thu thập được vài kinh nghiệm đầu tay về sự
tu tập, tôi mới tự thấy được sự thật của những gì mà vị thiền sư
kia đã
dạy. Tôi mới hiểu ra được cách phải hiểu như thế nào. Trí tuệ liền
khởi
lên theo sau đó. Chánh Pháp bắt đầu bắt rễ trong chính tâm trí
tôi. Phải
mất một thời gian rất dài, rất lâu, trước khi tôi nhận thức được
rằng tất
cả những gì mà vị du tăng kia đã giảng dạy đều bắt nguồn từ nơi
kinh
nghiệm của chính ông, chứ không phải phát xuất từ sách vở. Vị ấy
đã nói,
dựa theo sự hiểu biết và minh quán của chính ông. Khi chính tôi
dấn bước
trên Con Đường, tôi mới gặp mọi chi tiết mà vị ấy đã mô tả, và tôi
phải
nhìn nhận rằng ông đã nói đúng. Rồi cứ thế mà tôi tiếp tục.
Bạn phải tận
lực tu tập theo pháp hành. Cho dù nó có an hòa hay không,
bạn cũng đừng lo ngại gì ở thời điểm này. Điều quan trọng ưu tiên
hàng đầu
là bạn phải bắt đầu tu tập và gieo các nhân duyên cho sự giải
thoát về sau
này. Nếu bạn thật sự gia công tu tập, bạn không cần lo âu về kết
quả. Đừng
lo lắng khi bạn chưa thấy kết quả. Lo lắng thì không được yên ổn.
Tuy
nhiên, nếu bạn không chịu ra sức công phu, thì làm sao bạn có kết
quả? Bạn
hy vọng thấy được gì? Chỉ kẻ nào chịu khó tìm tòi thì kẻ ấy mới
khám phá
ra. Ai có ăn thì người ấy no. Muôn sự vật quanh ta đều dối gạt ta.
Nhận
thức điều ấy cả mười lần, cũng vẫn còn tốt. Nhưng mà "lão cuội sói
đầu"
kia cứ nhai đi nhai lại các mẩu chuyện cổ và các lời dối trá mãi.
Nếu ta
biết lão ấy nói dóc, thì cũng không quá tệ, nhưng mà còn rất lâu,
thật là
lâu, ta mới biết ra được như thế. Lão già cứ tìm đến và cố lừa
phỉnh ta
với sự man trá hoài hoài.
Hành trì
Pháp có nghĩa là trì giữ giới hạnh, phát triển định lực và đào
luyện trí tuệ nơi tâm ta. Ghi nhớ và suy ngẫm về Tam Bảo: Đức
Phật, Giáo
pháp và Tăng Đoàn. Tuyệt đối từ bỏ mọi sự vật, không chừa một
ngoại lệ
nào. Công phu tu tập của chính ta là những nguyên nhân và điều
kiện để
chín muồi ngay trong đời này. Vậy thì, bạn phải thành tâm nỗ lực.
Ngay cả khi
ta ngồi hành thiền trên ghế, ta cũng vẫn có thể tập chú
tâm. Lúc đầu, ta không cần phải chú tâm đến nhiều thứ - chỉ cần
chú tâm
đến hơi thở của ta. Nếu ta muốn, ta có thể lập đi lập lại các chữ
"Buddho" (Phật), "Dhammo" (Pháp), hay "Sangho"
(Tăng)
cùng một lượt với mỗi hơi thở. Trong khi chú tâm, đừng tìm cách
kiểm soát
hơi thở. Nếu hơi thở xem thấy như nhọc mệt hay thiếu khoan khoái,
điều đó
cho biết rằng ta còn tập chưa đúng cách. Khi nào ta còn chưa thoải
mái với
hơi thở, thì hơi thở xem như quá cạn hoặc quá sâu, quá tế nhị hoặc
quá thô
phù. Tuy nhiên một khi đã thư giãn với hơi thở, thấy nó thích thú
và khoan
khoái, nghe được rõ ràng mỗi hơi thở vào và mỗi hơi thở ra, thì ta
đang
hiểu đúng cách phải làm như thế nào. Nếu không làm đúng cách, ta
sẽ lạc
mất hơi thở. Khi việc này xảy ra, nên tạm ngưng trong một chốc,
rồi chú
tâm lại vào chánh niệm.
Nếu trong
khi hành thiền, bạn thấy có sự thúc dục muốn thể nghiệm các
hiện tượng tâm linh, hoặc tâm trí trở nên chiếu rạng ngời sáng,
hoặc bạn
thấy hình ảnh các cung điện trên cõi Trời, v.v., thì cũng không
cần phải
lo sợ. Chỉ cần nhận biết những gì bạn đang thể nghiệm và tiếp tục
hành
thiền. Đôi khi, sau một lúc, hơi thở dường như chậm lại rồi ngừng.
Bạn có
cảm giác như hơi thở đã biến mất và bạn hoảng hốt lên. Đừng lo
lắng, không
có chi đáng sợ hãi cả. Đó là trí bạn tưởng rằng hơi thở đang
ngừng. Thật
ra, hơi thở vẫn còn đó, nhưng nó trở nên tế nhị hơn mức bình
thường. Không
bao lâu, nó sẽ trở lại trạng thái bình thường.
Trong buổi
đầu, chỉ cần tập trung vào việc làm cho tâm trở nên yên tịnh
và an định. Dù ngồi trên ghế, ngồi trong xe, trên thuyền, hoặc bất
cứ nơi
nào bạn đang có mặt, bạn cũng phải thành thạo trong việc đưa tâm
vào an
định theo ý mình muốn. Khi bạn lên xe lửa và ngồi xuống ghế, lập
tức đưa
tâm vào tình trạng an định. Bất kỳ ở đâu, bạn cũng vẫn có thể hành
thiền.
Mức độ thành thạo của bạn chứng tỏ rằng bạn đã quen thuộc với Con
Đường.
Rồi thì bạn bắt đầu thẩm tra. Hãy dùng sức mạnh của tâm an định mà
thẩm
tra những gì bạn thể nghiệm. Có lúc, đó là những gì bạn thấy; có
lúc, đó
là những gì bạn nghe, ngửi, nếm, cảm xúc trong thân thể, hoặc nghĩ
ngợi
hay cảm nhận trong tâm. Các kinh nghiệm về giác quan dù xảy ra
dưới hình
thức nào - có đáng thích thú hay không - bạn cứ nắm lấy để quán
chiếu. Chỉ
giản dị nhận biết về những gì bạn đang thể nghiệm. Đừng áp đặt một
ý nghĩa
nào, hoặc một sự giải thích nào, lên trên các đối tượng của sự
nhận biết
về giác quan đó. Nếu nó tốt, cứ hay biết là nó tốt. Nếu nó xấu, cứ
hay
biết là nó xấu. Đây là một thực tại qui ước. Thiện hay ác, chúng
đều vô
thường, bất toại nguyện và vô ngã. Chúng không đáng tin cậy. Không
có chi
nơi chúng đáng cho ta chụp lấy và đeo níu cả. Nếu bạn có thể duy
trì được
sự tu tập an định và thẩm tra này, thì trí tuệ tự động sẽ khởi
sinh. Những
gì được cảm nhận và thể nghiệm đều rơi vào ba cái hố vô thường,
bất toại
nguyện và vô ngã. Đây là hành thiền Minh quán (Vipassanā).
Tâm đã
an định rồi, và nếu khi nào các tâm trạng bất tịnh có khởi lên,
bạn cứ
quẳng chúng vào một trong ba cái hố rác đó. Đây là cốt tủy của
Minh quán (Vipassanā):
vứt bỏ tất cả vào vô thường, bất toại nguyện và vô ngã. Tốt, xấu,
ghê tởm,
hoặc là gì đi nữa, cũng cứ liệng xuống đó. Không bao lâu, sự thông
hiểu và
tuệ minh quán sẽ nở hoa ngay giữa ba đặc tính phổ quát - đó là tuệ
minh
quán còn yếu ớt. Vào những bước đầu, trí tuệ vẫn còn yếu, nhưng
bạn nên
gắng duy trì sự tập luyện này cho bền bỉ. Khó mà diễn tả ra thành
lời,
nhưng cũng tựa như có người muốn biết tôi, người ấy phải đến đây
và sống ở
đây. Qua tiếp xúc hàng ngày, chúng ta sẽ biết nhau nhiều hơn.
*
10. Tôn trọng truyền thống
Đã đến lúc ta phải bắt đầu hành
thiền. Hành thiền để thông hiểu, để
buông xả, để vứt bỏ, và để được an định.
Ngày trước,
tôi là một du tăng. Tôi đi bộ tìm gặp các thiền sư và tìm
sự tịch liêu hiu quạnh. Tôi đi nhiều nơi, không phải là để thuyết
pháp.
Tôi đến để nghe các buổi pháp thoại của các bậc đại sư đương thời.
Tôi
không đến để dạy cho các Ngài. Tôi lắng nghe bất cứ điều gì các
Ngài giảng
dạy. Ngay cả khi các vị tu sĩ, trẻ và thấp hạ, nói với tôi thế nào
là
Chánh Pháp, tôi cũng kiên nhẫn lắng nghe. Tuy nhiên, tôi ít khi
tham gia
tranh luận về Chánh Pháp. Tôi không thấy có lý do gì mà mình lại
phải dính
dấp vào các cuộc tranh luận dài dòng. Bất cứ lời dạy nào tôi chấp
nhận,
tôi đều thực hành ngay, theo chiều hướng đưa đến sự xả ly và buông
bỏ. Ta
không cần phải là những học giả về kinh điển. Mỗi ngày ta mỗi già
nua, thế
mà mỗi ngày ta lại cứ vồ lấy một ảo ảnh, bỏ mất sự vật chân thật.
Thực
hành Pháp là điều khác hẳn với việc nghiên cứu Pháp.
Tôi không
chỉ trích bất cứ một pháp hành thiền hay một phương cách hành
thiền nào cả. Khi ta thông hiểu rõ mục đích thực sự của của các
pháp thiền
đó, chúng không có gì sai lầm. Tuy nhiên, nếu người nào tự gọi
mình là
thiền giả Phật giáo, mà không tuân thủ đúng theo các giới luật (Vinaya),
theo ý tôi, người ấy sẽ không bao giờ thành công. Tại sao? Bởi vì
người ấy
cố tình bỏ qua một đoạn hết sức thiết yếu của Con Đường. Bỏ qua
giới hạnh,
thì định lực và trí tuệ không khởi động được. Vài người có thể bảo
bạn
không cần bám víu vào sự an định của pháp hành thiền An chỉ (Samatha):
"Đừng bận tâm với thiền An chỉ, cứ tiến thẳng đến trí tuệ và thực
tập
thiền Minh quán (Vipassanā)". Theo tôi, nếu chúng ta đi
theo lối
tắt tiến thẳng vào thiền Minh quán, rồi ra, ta sẽ thấy không thể
nào hoàn
tất trọn vẹn cuộc hành trình của ta.
Đừng bỏ qua
phương thức và kỹ thuật hành thiền của các vị đại sư lỗi
lạc trong truyền thống Sơn Lâm như các Ngài Ajahn Sao, Mun,
Taungrut và
Upali. Con đường các Ngài chỉ dạy rất đáng tin cậy và đúng với sự
thật -
nếu ta làm y theo cách thức mà các Ngài đã làm. Nếu theo đúng bước
chân
của các Ngài, ta sẽ đắc được tuệ minh quán thực sự. Ngài Ajahn Sao
nghiêm
trì giới luật mà không ai có thể chê trách. Ngài không bảo ta nên
bỏ qua
giới luật. Nếu các vị đại sư của truyền thống Sơn Lâm đó đã khuyến
nhủ
thực tập hành thiền và tuân thủ qui luật tu viện theo một cách đặc
biệt
nào, thì vì sự tôn kính sâu xa đến các Ngài, ta nên vâng theo lời
dạy. Nếu
các Ngài bảo làm như thế, ta phải làm như thế. Nếu các Ngài bảo
ngưng lại
vì đó là điều sai lầm, thì ta dừng lại. Ta tuân theo vì lòng tín
phục. Ta
tuân theo với sự thành khẩn và quyết tâm, không lung lay. Ta tuân
theo cho
đến khi nào ta thấy được Chánh Pháp trong tâm mình, cho đến khi
nào ta hợp
làm một với Chánh Pháp. Đó là lời dạy của các bậc đại sư theo
truyền thống
Sơn Lâm. Đệ tử của các Ngài, vì thế mà rất tôn quí, nể sợ và kính
ái các
Ngài, bởi vì nhờ theo đúng bước chân của các Ngài mà họ thấy được
những gì
các vị Thầy đã thấy.
Hãy tập thử
một lần đi. Làm theo đúng như lời tôi nói. Nếu bạn thật tâm
thực hành, bạn sẽ thấy được Chánh Pháp, bạn sẽ hòa làm một với
Chánh Pháp.
Nếu bạn thực sự khởi công tìm tòi, thì có gì ngăn trở bạn? Các lậu
hoặc
của tâm trí sẽ bị đánh bại nếu bạn đối địch chúng với một chiến
lược đúng
đắn: tập tánh xả ly buông bỏ, từ tốn trong lời nói, vui lòng với
sự ít ỏi,
và từ bỏ các lập trường và quan điểm bắt nguồn từ lòng tự mãn và
kiêu mạn.
Bạn chịu khó, kiên nhẫn lắng nghe mọi người, khi họ nói đúng và
ngay cả
khi họ nói sai. Tôi cam đoan là bạn có thể làm được như thế, nếu
bạn thật
lòng muốn tu tập. Tuy nhiên, các nhà học giả ít khi chịu đem Chánh
Pháp ra
thực hành. Cũng có vài người, nhưng chỉ là số ít. Thật đáng tiếc.
Bạn đã
chịu khó đến đây để thăm viếng, đó là điều đáng khen ngợi. Điều đó
chứng
tỏ bạn có sức mạnh nội tâm. Có vài tu viện khuyến khích sự nghiên
cứu, học
kinh điển. Ở đó, các vị tỳ khưu cứ học và học, học hoài mà không
thấy bao
giờ mới xong; nhưng họ không hề chịu cắt đứt những gì cần phải cắt
đứt. Họ
chỉ học chữ "an định" mà thôi. Nhưng nếu bạn có thể ngừng lại bất
động,
bạn sẽ khám phá ra được một chút gì có giá trị thực sự. Đó là cách
mà bạn
phải nghiên cứu, tìm tòi. Sự tìm tòi đó thực sự có giá trị và hoàn
toàn
bất động. Nó đi thẳng vào cốt lõi của những gì mà bạn đã đọc qua.
Nếu các
học giả không thực tập hành thiền, kiến thức của họ chứa rất ít sự
hiểu
biết. Một khi họ chịu đem ra thực hành các lời dạy về những gì họ
đã học
được, thì các điều ấy sẽ trở nên rõ ràng, sáng tỏ.
Vậy hãy bắt
đầu thực tập đi. Hãy phát triển loại hiểu biết đó. Hãy thử
vào rừng sống, ngụ trong các cốc nhỏ. Thử tập qua lối tu tập này
một thời
gian, và trắc nghiệm lấy chính mình, như thế còn nhiều giá trị hơn
là lối
đọc sách. Rồi thì bạn sẽ có sự tranh luận với chính mình. Trong
khi ta
quán sát tâm thì dường như nó đang buông bỏ và an trú trong trạng
thái tự
nhiên của nó. Khi nó lăn tăn gợn sóng rời khỏi chỗ ổn định đó, thì
tình
trạng tự nhiên khoác lấy các hình thức tư tưởng, khái niệm, và
tiến trình
điều kiện hóa của các hành uẩn (sankhāra) được phát động.
Hãy hết
sức cẩn thận và canh chừng thật kỹ lưỡng tiến trình điều kiện hóa
đó. Khi
nó khởi động lên và xa rời tình trạng tự nhiên, thì sự thực tập
theo Chánh
Pháp không còn theo đúng đường lối nữa. Hoặc nó rẽ sang sự tự dễ
dãi, hoặc
nó ngã theo sự tự hành xác. Ghi nhận ngay tại đó. Đó là điều đã
làm khởi
lên màng lưới của sự điều kiện hóa tinh thần. Nếu tình trạng tâm
đang tốt,
nó sẽ tạo nên sự điều kiện hóa tích cực. Nếu tình trạng ấy xấu, sự
điều
kiện hóa trở nên tiêu cực. Tất cả các sự việc đó đều bắt nguồn
trong chính
tâm của bạn.
Này bạn, kể
cũng vui thú lắm khi ta quan sát kỹ lưỡng cái tâm đang hoạt
động. Tôi có thể thích thú ngồi kể lại chuyện đó trọn cả ngày. Khi
bạn rõ
được lề lối của tâm, bạn sẽ thấy nó diễn tiến ra sao và bằng cách
nào mà
tâm bị các ô nhiễm tác động. Tôi thấy tâm cũng như một điểm duy
nhất. Các
tâm sở là những người khách đến viếng thăm điểm đó. Đôi khi, kẻ
này đến
viếng, đôi khi, kẻ nọ đến thăm. Họ vào trong phòng tiếp khách. Bạn
tập cho
tâm biết canh phòng và nhận biết họ với cặp mắt tỉnh thức thật
linh động.
Đây là cách bạn chăm sóc đến tâm trí bạn. Mỗi khi khách tới, bạn
xua họ đi
chỗ khác. Nếu bạn cấm khách vào, thì họ sẽ đến ngồi lên chỗ nào?
Chỉ có
một chỗ ngồi, và bạn đang ngồi ở đó. Bạn hãy ngồi suốt ngày trên
điểm đó.
Đây chính sự
tỉnh thức kiên cố và không lay chuyển của Đức Phật, đang
canh phòng và bảo vệ tâm trí. Bạn đang ngồi ngay tại đây. Kể từ
khi lọt
lòng mẹ đến nay, mỗi người khách đến thăm bạn cũng đến tại đây.
Dầu họ có
thường đến viếng hay không, mỗi lần đến, họ cũng đến tại đây, ngay
chỗ
này. Biết được tất cả khách đến, sự tỉnh thức của Đức Phật ngồi
một mình
tại đây, kiên trì và không hề lay chuyển. Các khách đó lặn lội đến
đây để
tìm cách gây ảnh hưởng, để điều kiện hóa và để lung lạc tâm bạn
theo nhiều
cách. Khi họ làm cho tâm bạn bị vướng vít vào các vấn đề của họ,
tức thì
các trạng thái tâm liền khởi lên. Cho dù đó là vấn đề gì đi nữa,
hay nó có
đưa đi đến đâu, bạn cũng cứ quên phứt nó đi - không có gì đáng
quan ngại.
Chỉ cần biết khách là ai khi họ đến. Một khi họ đã ghé vào, họ
thấy chỉ có
một ghế, và cho đến chừng nào mà bạn vẫn còn an tọa trên đó, họ
còn tìm
đâu ra chỗ ngồi? Lần khác, họ lại đến, vẫn không có ghế trống. Bất
kể bao
nhiêu lần các vị khách lắm lời đó chường mặt đến, họ cũng gặp bạn
ngồi tại
chỗ ấy. Bạn không nhúc nhích rời khỏi ghế đó. Bạn thử đoán xem còn
trong
bao lâu nữa các bọn khách đó chịu đựng được tình trạng như thế?
Chỉ cần
nói chuyện với họ, bạn sẽ biết rõ được họ thật kỹ càng. Bất cứ ai,
bất cứ
sự việc gì mà bạn biết đến kể từ khi bạn bắt đầu kinh nghiệm về
thế giới
này, đều đến viếng bạn. Chỉ cần quan sát và tỉnh thức ngay đây
cũng đủ để
thấy được toàn bộ Chánh Pháp. Bạn thảo luận, quan sát và quán
chiếu một
mình bạn.
Đó là cách
thảo luận về Chánh Pháp. Tôi không biết nói gì khác hơn. Tôi
có thể tiếp tục nói mãi như thế này, nhưng rốt cuộc rồi thì chỉ là
nói và
nghe mà thôi. Tôi khuyên bạn nên dấn bước thực sự vào việc thực
tập.
*
11. Trau dồi pháp hành thiền
Nếu bạn tự quán nhìn, bạn sẽ gặp
được vài kinh nghiệm. Đã có Con Đường
để dẫn dắt bạn. Trong khi bạn tu tập, tình thế có thể thay đổi và
bạn điều
chỉnh pháp hành của mình để ứng phó với các vấn đề khó khăn xảy
đến. Có
thể cũng còn khá lâu nữa bạn mới nhìn thấy một bảng chỉ đường rõ
rệt. Nếu
bạn muốn đi cùng một Con Đường mà tôi đã đi, cuộc hành trình nhất
định
phải bắt đầu ngay trong tâm bạn. Nếu không, bạn sẽ gặp rất nhiều
trở ngại.
Đó cũng như
đang nghe một âm thanh. Sự nghe là một việc, còn âm thanh
là một việc khác, và ta hay biết rõ cả hai việc đó mà không kết
hợp dự cố
ấy. Ta dựa vào thiên nhiên để cung cấp cho ta các nguyên liệu dùng
trong
việc suy tầm, tìm đến Chân Lý. Sau cùng, tâm, tự nó, chia cắt và
phân tích
các hiện tượng. Nói cách giản dị, tâm không để dính dấp vào đó.
Khi tai
bắt được tiếng, bạn hãy quan sát xem những gì xảy ra trong tâm
trí. Tâm
trí có bị ràng buộc, vướng vít vào và bị lôi léo đi không? Tâm trí
đó có
bị kích thích không? Ít nhất cũng nên biết đến chừng đó. Khi âm
thanh được
ghi nhận, nó không quấy rầy đến tâm trí. Đang ở tại đây, ta nắm
lấy các sự
vật gần và trong tầm tay, hơn là các sự vật ở xa tít. Ngay cả khi
ta muốn
trốn tránh âm thanh, ta cũng không thoát khỏi nó Ngõ thoát có thể
tìm thấy
là sự luyện tập tâm cho vững vàng trước tiếng động. Hãy đặt âm
thanh
xuống. Âm thanh mà ta buông bỏ đó, ta vẫn còn nghe đến. Ta nghe,
nhưng ta
buông bỏ, bởi vì ta đã đặt nó xuống rồi. Đó không phải là ta đã
mạnh bạo
tách rời sự nghe và âm thanh ra. Chúng tự động tách nhau ra, do
bởi sự
khước từ và buông bỏ. Ngay cả khi ta muốn bám vào một âm thanh,
thì tâm ta
cũng không muốn bám. Bởi vì một khi ta đã thông hiểu bản chất thật
sự của
hình sắc, âm thanh, hương, vị, và các thứ khác, tâm thấy thật rõ,
với trí
tuệ minh quán, rằng tất cả những gì được cảm nhận, không có ngoại
lệ nào,
cũng rơi vào phạm vi của ba đặc tính phổ quát về vô thường, bất
toại
nguyện và vô ngã.
Cứ mỗi khi
ta nghe một âm thanh, thì âm thanh ấy được hiểu ra theo ngôn
từ của ba đặc tính phổ quát. Khi có sự xúc chạm giữa tiếng động
với tai,
ta có nghe, nhưng như thể ta không nghe được gì. Điều đó không có
nghĩa là
tâm không còn hoạt động nữa. Sự tỉnh thức và tâm quấn lấy nhau và
hòa hợp
nhau lại để theo dõi lẫn nhau luôn luôn không dừng nghỉ. Khi tâm
được tập
luyện đến mức đó, bất kỳ đang theo con đuờng nào, ta vẫn có thể
suy tầm,
nghiên cứu. Ta đào luyện sự phân tích các hiện tượng, một yếu tố
quan
trọng trong việc giác ngộ, và sự phân tích đó cứ tiến triển mãi
theo xung
lực của chính nó.
Hãy thảo
luận về Chánh Pháp với chính mình. Phát hiện và giải tỏa các
cảm giác, ký ức, tri giác, tư duy, ý định, và ý thức. Không có gì
có thể
xúc chạm đến chúng khi tự chúng, chúng tiếp tục thi hành nhiệm vụ.
Đối với
những bậc đã điều phục tâm xong, thì tiến trình suy tư và nghiên
cứu cứ tự
động trôi chảy đi. Không còn cần phải cố ý hướng dẫn nữa. Cho dù
tâm có
nghiêng về bất cứ địa hạt nào, sự quán soi cũng thích ứng tức
thời.
Khi sự luyện
tập Chánh Pháp đã đạt đến mức đó rồi, ta có được một lợi
lạc ngoài lề cũng khá lý thú. Trong giấc ngủ, các tật ngáy, mơ,
nghiến
răng, lăn qua lật lại sẽ chấm dứt. Ngay sau một giấc ngủ mê và
lâu, khi
được đánh thức, cũng không cảm thấy ngầy ngật. Ta cảm thấy sung
mãn và
linh hoạt như thể là vẫn tỉnh thức suốt cả thời gian đó. Trước
kia, tôi
ngủ hay ngáy, nhưng một khi tâm trí đã được sự tỉnh thức trong mọi
thời,
thì tật ngáy chấm dứt. Làm sao mà ngáy được khi ta còn tỉnh thức?
Chỉ có
tấm thân là ngừng lại và đi ngủ. Tâm hoàn toàn tỉnh thức ngày và
đêm, trọn
24 giờ. Đây là sự tỉnh tức thuần tịnh và cao tột của Đức Phật, bậc
Chánh
Biến Tri, Bậc Giác Ngộ, Bậc Đại Quang, Đại Hoan Hỷ. Sự tỉnh thức
trong
sáng đó không hề "đi ngủ". Năng lực của nó tự bảo dưỡng lấy và
không hề
"buồn ngủ" hay trì độn lại cả. Đến mức này, ta có thể hoạt động
liên tiếp
hai ba ngày không nghỉ. Khi thân thể bắt đầu có dấu hiệu quá mệt
mỏi, ta
ngồi xuống hành thiền và lập tức đi vào định lực thâm sâu chừng
năm hay
mười phút. Khi ra khỏi tình trạng đó, ta cảm thấy tươi mát và tăng
thêm
sinh lực, như thể là ta đã ngủ trọn đêm. Nếu ta vượt khỏi sự bận
tâm về
thân thể, thì việc ngủ nghê chỉ có chút ít tầm quan trọng. Ta dùng
các
biện pháp thích nghi để chăm sóc thân thể, nhưng ta không quá lo
âu về
tình trạng sức khoẻ. Cứ để thân thể đi theo định luật tự nhiên của
nó. Ta
không cần bảo cho thân thể biết nó phải làm gì. Nó tự bảo nó. Đó
cũng như
là đang có người thúc đẩy ta, thúc giục ta nên nỗ lực thêm. Ngay
cả khi ta
cảm thấy lười biếng, cũng có một tiếng nói ở bên trong luôn luôn
làm khơi
dậy sự mẫn cán của ta. Không thể có trì trệ ở thời điểm này, bởi
vì nỗ lực
và tiến bộ đã gia tăng tốc độ, không dừng lại được nữa. Bạn hãy tự
kiểm
điểm lại điều đó. Bạn đã nghiên cứu và học tập khá lâu rồi. Bây
giờ là lúc
bạn nên nghiên cứu và học tập về chính bạn.
Trong các
giai đoạn đầu của sự thực tập theo Chánh Pháp, sống ẩn cư là
việc quan trọng hàng đầu. Khi bạn sống biệt cư một mình, bạn sẽ
nhớ lời
của Ngài Trưởng lão Xá-lợi-phất (Sariputta): "Sự biệt cư
thể chất
là nguyên nhân và điều kiện để khởi sinh sự biệt cư tinh thần, và
các tình
trạng định lực thâm sâu thoát khỏi sự xúc chạm giác quan bên
ngoài. Sự
biệt cư của tâm, đến lượt nó, là nguyên nhân và điều kiện cho sự
cô lập
các lậu hoặc tinh thần, tức là sự giác ngộ." Thế mà vẫn có những
người vẫn
cho rằng sự độc cư không mấy quan trọng: "Nếu tâm an định, thì ở
vào nơi
nào cũng không hề gì." Điều đó đúng, nhưng trong các giai đoạn đầu
tiên,
ta phải nhớ rằng, sự biệt cư về thân thể trong một môi trường
thích nghi
cần phải thực hiện trước. Hôm nay, hoặc vài ngày nữa, bạn nên tìm
đến một
nghĩa trang trong vùng rừng rú quạnh quẽ. Hãy thử nghiệm lối sống
một
mình. Hoặc tìm đến một đỉnh núi cao có vẻ kinh sợ nào đó. Hãy đi
tìm sống
một mình. Được không? Bạn sẽ có nhiều điều lý thú suốt cả đêm. Và
chỉ lúc
ấy bạn mới biết chính bạn. Ngay cả tôi, có lúc tôi nghĩ rằng sống
biệt cư
về thể chất cũng không quan trọng mấy. Nhưng một khi tôi thực sự
sống như
thế ấy rồi, tôi mới nghĩ lại những lời Đức Phật đã dạy. Đức Thế
tôn khuyến
nhủ các đệ tử của Ngài nên đến thực tập tại các vùng vắng vẻ, xa
cách hẳn
xã hội. Vào buổi đầu, sự ẩn cư tạo thành cơ sở cho tâm được biệt
trú bên
trong, và sự biệt trú ấy sẽ hỗ trợ cho sự viễn ly, không thể lay
chuyển,
để rời khỏi các lậu hoặc.
Thí dụ như,
bạn là một cư sĩ, có nhà cửa và một gia đình. Bạn sống biệt
cư cách nào đây? Khi bạn về nhà, vừa bước chân qua khỏi ngưỡng
cửa, bạn đã
va chạm vào sự rối loạn và rắc rối rồi. Không có sự biệt cư nào về
thể
chất cả. Thế nên, bạn tìm về một nơi ẩn náu vắng vẻ và một khung
cảnh hoàn
toàn khác trước. Bạn cần phải hiểu rõ tầm quan trọng của việc biệt
cư thể
chất và sự đơn độc, ở những giai đoạn sơ khởi của việc thực hành
Chánh
Pháp. Kế đó, bạn tìm đến một vị thiền sư để nghe lời chỉ dạy. Vị
ấy sẽ
hướng dẫn bạn, cố vấn cho bạn những điểm nào mà sự thông hiểu của
bạn còn
sai, bởi vì chính tại bạn hiểu lầm rằng bạn đã đi đúng. Ngay chỗ
bạn sai,
bạn lại chắc chắn là mình đúng. Một khi nghe vị thiền sư giải
thích, bạn
mới hiểu được những gì đã sai: chính tại nơi mà vị thiền sư bảo
với bạn là
sai, lại là nơi mà trước kia bạn đã tưởng mình đúng.
Qua những gì
tôi nghe thấy được, có rất nhiều tu sĩ học giả Phật giáo
đã tìm tòi và nghiên cứu chiếu theo các kinh điển. Không thấy có
lý do nào
khiến ta không nên thử thể nghiệm qua. Khi đến lúc phải mở sách ra
đọc và
học tập, ta học được một cách thức. Nhưng khi ra tay lên để chiến
đấu, ta
sẽ tranh đấu theo một cách thức khác, có thể không liên can gì đến
lý
thuyết. Khi một chiến sĩ lâm trận và chiến đấu đúng theo những gì
đã đọc,
có thể anh ta sẽ không địch lại đối thủ. Khi thật sự đánh nhau,
người
chiến sĩ phải đấu theo một chiến thuật vượt khỏi lý thuyết. Chuyện
thật là
như thế. Lời Đức Phật đã dạy trong kinh điển cũng chỉ là sách chỉ
nam kèm
thí dụ để noi theo, nhưng nếu chỉ nghiên cứu suông, có thể đưa tới
sự dễ
duôi.
Con đường
của các bậc đại sư thuộc truyền thống Sơn Lâm là con đường xả
ly. Trên Con Đường ấy, chỉ có sự từ bỏ. Ta nhổ tận gốc các quan
kiến bắt
nguồn từ sự tự xem mình là quan trọng. Ta bứng hết rễ cái cốt lõi
của quan
niệm về tự ngã. Tôi cam đoan với các bạn, sự thực tập này sẽ thách
thức
bạn đến tận cốt tủy, nhưng dù cho khó khăn đến mấy đi nữa, xin
cũng đừng
phế bỏ các lời dạy của các đại sư Sơn Lâm. Thiếu sự hướng dẫn đúng
đắn,
tâm và định lực (samādhi) sẽ rất mê mờ. Nhiều sự kiện đáng
lẽ không
nên xảy ra lại khởi lên. Bao giờ tôi cũng đương đầu với chúng một
cách
thận trọng. Khi tôi còn là một tỳ khưu trẻ, vừa khởi tập trong vài
năm
đầu, tôi không thể tin cậy vào tâm tôi. Tuy nhiên, một khi tôi
thâu đắc
được kinh nghiệm rộng rãi và có thể hoàn toàn tin cậy vào việc
luyện tâm,
thì không còn gì gây nên vấn đề khó khăn nữa cả. Ngay khi những
hiện tượng
bất thường khởi lên, tôi cứ để yên chúng đó. Nếu ta được dấu hiệu
nào mách
bảo cho cách vận hành của chúng, thì tự chúng, chúng ngưng ngay.
Tất cả
đều là nhiên liệu cho trí tuệ. Cùng với thời gian, ta sẽ cảm thấy
được
thoải mái.
Trong việc
hành thiền, nhiều sự việc thông thường không có gì sai nhưng
lại cũng có thể trở thành sai. Thí dụ như, ta ngồi xếp chân với
quyết tâm:
"Nào! Lần này không có yếu ớt hèn nhát nữa, ta sẽ quyết tập trung
tâm ý
đây. Hãy xem ta!" Thực tập theo cách đó làm sao mà được việc! Mỗi
khi tôi
theo cách đó, sự hành thiền của tôi không đi đến đâu. Nhưng người
ta lại
thích làm bộ tịch "anh hùng rơm" như thế! Theo tôi thấy, sự hành
thiền tự
nó phát triển theo nhịp điệu của nó. Nhiều đêm khi tôi bắt đầu
ngồi hành
thiền, tôi nghĩ thầm với tôi: "Được rồi! Đêm nay, ta không nhúc
nhích khỏi
chỗ này cho tới ít nhất là một giờ khuya." Mặc dù chỉ với tư tưởng
đó, tôi
đã tạo nghiệp (kamma) xấu rồi, bởi vì không bao lâu cơn đau
đã nổi
lên khắp mình, tràn ngập, cho đến lúc tôi tưởng như sắp chết. Tuy
nhiên,
vào dịp khác, khi sự hành thiền tiến triển tốt, tôi không có hạn
định
trước thời gian phải ngồi. Tôi không đặt mục tiêu vào bảy giờ, tám
giờ,
hay bất cứ giờ nào, nhưng cứ việc ngồi thẳng, vững chải, tiếp tục
mãi,
buông lơi mọi việc với tâm xả. Đừng cố ép sự hành thiền. Đừng
cưỡng bách
tâm với các đòi hỏi không thiết thực, như là phải vào ngay trong
Định (Samādhi);
nếu không, bạn sẽ thấy tâm trở nên xao động và không thể đoán
trước được,
khác hơn bình thường. Chỉ nên để cho tâm trí được thư giãn, khoan
khoái và
thoải mái.
Hãy để cho
hơi thở ra vào trôi chảy dễ dàng, theo nhịp độ đúng đắn:
không quá ngắn mà không quá dài. Đừng khiến hơi thở phải có gì đặc
biệt.
Hãy để thân thể thư giãn, khoan khoái và thoải mái. Rồi cứ tiếp
tục luôn
như thế. Tâm bạn sẽ hỏi bạn: "Ta sẽ ngồi hành thiền lâu tới chừng
nào? Ta
sẽ nghỉ vào giờ nào?" Tâm cứ theo lải nhải không ngừng, thế là bạn
phải
khiển trách nó: "Nè bạn, để tôi yên chớ!" Cái tên hay hỏi han cần
phải
được chế phục thường xuyên, bởi vì đó không là gì khác hơn các lậu
hoặc
phiền não đến quấy rối bạn. Đừng thèm quan tâm đến nó. Bạn phải
cứng cỏi
với nó. "Dù ta muốn nghỉ sớm hay là ngồi đến khuya, điều đó có ăn
nhập gì
đến mi! Nếu ta muốn ngồi trọn đêm, quan hệ gì đến ai, sao cứ chõ
mũi vào
việc hành thiền của ta?" Bạn phải xua đuổi tên tò mò ấy như thế.
Rồi bạn
mới có thể tiếp tục hành thiền lâu đến chừng nào mà bạn muốn, theo
các cảm
nhận thoải mái của chính bạn.
Khi bạn để
cho tâm được thư giãn và thoải mái, nó sẽ trở nên an định.
Thể nghiệm điều này, bạn sẽ nhận chân ra sức mạnh của sự bám chặt.
Khi bạn
có thể ngồi lâu, thật lâu trong một thời gian dài, quá nửa đêm,
khoan
khoái và thư giãn, bạn sẽ hiểu được ý nghĩa tổng quát của sự hành
thiền.
Bạn sẽ hiểu đuợc sự bám chặt và đeo níu đã thực sự làm ô nhiễm tâm
như thế
nào.
Vài người
đốt cây nhang để trước mặt, khi họ ngồi hành thiền, và nguyện
rằng: "Tôi sẽ không đứng dậy trước khi cây nhang tàn rụi." Rồi họ
ngồi.
Sau một lúc tưởng đâu chừng một giờ, họ mở mắt ra và thấy mới vừa
có năm
phút trôi qua. Họ đăm đăm nhìn cây nhang, ngao ngán cớ sao cây
nhang lại
dài quá! Họ nhắm mắt lại và tiếp tục. Không bao lâu, mắt họ lại mở
ra lần
nữa, để xem cây nhang đã cháy đến đâu rồi. Các người đó hành thiền
không
đi đến đâu. Đừng làm như họ. Ngồi đó mà cứ mơ tưởng đến cây nhang:
"Không
biết cây nhang đã tàn rụi chưa!", sự hành thiền như vậy có tiến
tới chút
nào đâu. Đừng quan tâm đến các việc ấy. Tâm không cần làm việc gì
đặc biệt
cả.
Nếu ta muốn
quyết tâm nhận tu tập tâm trong sự hành thiền, thì đừng để
cho lậu hoặc khát vọng biết được các thể lệ cuộc đấu hoặc mục
tiêu. Nó sẽ
hỏi: "Ngài sẽ hành thiền như thế nào? Ngài muốn làm tới đâu? Ngài
ngồi lâu
đến chừng nào?" Khát vọng cứ đến quấy rầy mãi cho tới khi nào ta
đưa ra
một thỏa ước. Một khi ta tuyên bố sẽ ngồi đến quá nửa đêm, lập tức
nó bắt
đầu đến quấy rối làm ta bực tức. Chưa được một giờ trôi qua mà ta
đã cảm
thấy bất an và nóng nảy đến mức không ngồi tiếp được nữa. Rồi có
thêm
nhiều chướng ngại khác đến tấn công, khi ta tự quở trách nặng:
"Tuyệt
vọng! Ngồi hoài như vầy sẽ chết đi mất! Đã nói rằng sẽ khiến tâm
vào Định
không lay động, cớ sao nó vẫn còn đi lang thang khắp chốn thế kia,
không
đáng tin cậy chút nào cả? Đã nguyện rồi, sao lại không giữ đúng
lời?" Các
tư tưởng tự giảm giá trị và ưu sầu mất tinh thần kéo đến công kích
tâm,
khiến ta rơi vào sự tự oán trách. Không có ai ở đó để đổ lỗi, hay
để hờn
trách, nên mọi việc càng tồi tệ hơn. Một khi đã thề thốt, tất phải
giữ.
Hoặc làm tròn lời nguyện, hay là chết trong khi làm. Nếu ta đã
nguyện ngồi
trong một thời gian nào đó, thì ta không nên nuốt lời và nghỉ tập.
Tuy
nhiên, chỉ cần tập luyện từ từ và phát triển. Không cần phải thề
thốt long
trọng. Hãy gắng luyện tâm đều đặc và bền bỉ. Đôi khi, sự hành
thiền được
êm thắm, và các chỗ đau nhức, không thoải mái sẽ dần dần biến mất.
Đau nơi
mắt cá và đầu gối, tự nó, sẽ chấm dứt.
Một khi ta
cố ra tay đào luyện sự hành thiền, nếu có những hình ảnh dị
thường, ảo ảnh, tri giác, bắt đầu khởi lên, việc trước nhất là
phải kiểm
soát lại tình trạng tâm mình. Đừng bỏ qua nguyên tắc căn bản này.
Những
hình ảnh đó khởi lên được là vì tâm đang tương đối an định. Đừng
khao khát
mong chúng hiện lên, và cũng đừng khao khát mong chúng không khởi
lên. Nếu
chúng đã khởi, thì hãy quan sát chúng, nhưng đừng để chúng làm ta
mê mờ.
Chỉ cần nhớ, chúng không phải là của ta. Chúng đều vô thường, bất
toại
nguyện và vô ngã, như bất cứ các sự việc gì khác.
Ngay cả khi
chúng có thật, cũng đừng trú lại đó hoặc để ý nhiều đến
chúng. Nếu chúng ngoan cố không chịu mờ tan đi, thì hãy đưa chánh
niệm rọi
chiếu vào hơi thở càng mạnh hơn. Hít vào ít nhất ba hơi dài và sâu
và từ
từ thở ra cho thật hết sạch. Cách này rất có hiệu quả. Rồi trở về
đề mục
chính.
Chớ để bị ám
ảnh vì các hiện tượng đó. Chúng không có chi hơn những gì
chúng đang là như thế, và chúng lại có tiềm năng làm mê mờ ta.
Hoặc ta
thích chúng và yêu chúng, hoặc tâm ta bị đầu độc bởi sự sợ hãi.
Chúng
không đáng tin cậy: có thể chúng không thật có, hoặc chúng chỉ
hiện ra như
thế. Khi bạn có kinh nghiệm về chúng, bạn đừng cố tìm hiểu ý nghĩa
của
chúng, cũng đừng dự phóng một ý nghĩa nào lên chúng cả. Hãy nhớ
rằng chúng
không phải của ta, vậy chớ chạy theo các hình ảnh, ảo giác
đó. Thay
vì thế, nên lập tức quay về kiểm điểm lại tâm trạng hiện tại của
mình. Đó
là một qui tắc căn cứ trên kinh nghiệm và thực hành của chúng ta.
Nếu ta
bỏ qua qui tắc căn bản này và để mình bị lôi cuốn vào việc tin
tưởng những
gì đang thấy, thì ta sẽ quên mất mình đi, rồi bắt đầu bập bẹ, ấp
úng, hoặc
có thể phát cuồng. Ta có thể làm mất đi trí óc sáng suốt cho đến
nỗi không
còn có thể giao tiếp với người khác ở cấp độ bình thường. Hãy đặt
sự tin
tưởng vào tâm của chính mình. Dẫu có điều gì xảy ra đi nữa, cứ
tiếp tục
quan sát tâm trí mình. Các kinh nghiệm dị thường xảy ra trong khi
hành
thiền cũng có thể mang lợi ích cho người có trí tuệ, nhưng lại
nguy hiểm
cho kẻ thiếu sự sáng suốt. Bất cứ gì xảy ra cũng đừng tỏ ra quá
phấn khởi
hay hoảng hốt. Kinh nghiệm đến, cứ đến.
Một cách
khác để thực hành Chánh Pháp là quán soi và khảo trạch những
gì ta thấy, làm, và thể nghiệm. Đừng nên bao giờ phế bỏ sự hành
thiền. Khi
tọa thiền, hoặc đi kinh hành xong, vài người nghĩ rằng đã đến lúc
ngừng
lại và nghỉ ngơi. Họ thôi, không chiếu rọi tâm họ đến các đối
tượng hành
thiền hoặc các đề mục quán chiếu. Họ hoàn toàn bỏ rơi sự hành
thiền. Bạn
không nên thực tập như thế. Bất cứ những gì bạn thấy, hãy tra cứu
cho ra
chúng thật sự là gì. Quán soi đến các người hiền thiện trên thế
giới. Quán
soi cả những người xấu ác nữa. Hãy nhìn thật kỹ vào những người
giàu có và
đầy quyền thế, những người kém may mắn và nghèo khổ. Khi bạn thấy
một đứa
trẻ, một cụ già, hoặc một vị phụ nữ, hay là một bậc nam nhi, hãy
tìm hiểu
kỹ ý nghĩa của tuổi đời. Tất cả đều là nhiên liệu cho sự tra cứu.
Đó là
cách thức mà bạn đào luyện tâm trí.
Sự quán soi
đưa đến Chánh Pháp là sự quán soi về lý duyên sinh, về tiến
trình của nhân quả, dưới mọi hình thức khác biệt của chúng: cả lớn
lẫn
nhỏ, trắng và đen, tốt và xấu. Tóm lại, tất cả. Khi bạn tư duy,
bạn hãy
nhận chân đó như là một tư tưởng và quán chiếu đến nó để thấy ra
đó chỉ
giản dị là tư tưởng, không hơn không kém. Tất cả những sự việc đó
đều đi
hướng về "nghĩa trang" của sự vô thường, bất toại nguyện và vô
ngã; vậy
nên bạn chớ có ôm chặt lấy và và đeo níu bất cứ sự việc nào đó cả.
Đó là
nơi hỏa táng của tất cả mọi hiện tượng. Bạn hãy chôn chúng đi,
thiêu chúng
đi, thì mới thể nghiệm được Chân Lý.
Có được tuệ
quán về vô thường có nghĩa là không để cho ta bị đau khổ.
Đây cũng là vấn đề phải tra cứu bằng trí tuệ. Thí dụ như, ta có
được cái
gì mà ta xem như tốt và đáng thích thú, thì ta vui mừng. Hãy nhìn
thật kỹ
và thật lâu về chỗ tốt cùng sự thích thú đó. Lắm lúc, sau khi đã
được cái
đó trong một thời gian dài, ta thấy chán ngán. Ta muốn đem cho,
hoặc bán
đi. Nếu không có ai muốn mua, ta sẵn sàng vứt nó đi. Tại sao? Lý
do nào đã
thúc đẩy hành động như thế? Bởi vì muôn sự vật đều vô thường, bất
toại
nguyện và vô ngã, đó là lý do tại sao. Nếu ta không bán được, hoặc
ngay cả
không vứt nó đi được, ta bắt đầu thấy khổ rồi. Toàn bộ vấn đề chỉ
giản dị
là như thế. Và một khi thông hiểu đầy đủ được một biến cố, thì dù
có bao
nhiêu vấn đề tương tự khác, thì cũng vẫn được hiểu theo lối đó.
Như ta
thường nói, "Biết được một, tất biết cả mười."
Đôi khi, ta
thấy những sự việc ta không thích. Vài lúc, ta nghe tiếng
động khó chịu và trở nên bực bội. Hãy quan sát điều này và ghi nhớ
nó. Bởi
vì trong một tương lai nào đó, ta lại thích tiếng động đó. Rất có
thể
trong tương lai gần đây, ta trở lại thích chính các việc mà đã có
thời ta
ghét bỏ. Mọi việc đều có thể như thế cả. Rồi thì ta thấy được thật
rõ ràng
với trí minh triết rằng: "À há! Mọi sự vật đều vô thường, không
thể làm ta
thỏa mãn hoàn toàn, đều là vô ngã cả." Hãy vứt chúng xuống đáy mồ
tập thể
của ba đặc tính phổ quát ngay đi. Sự đeo níu vào các sự vật mà ta
có được,
lấy được, và ta đang đồng hóa với chúng, sẽ chấm dứt ngay. Ta sẽ
nhìn thấy
ra mọi sự vật nơi bản thể của chúng, cũng đều như nhau cả. Và rồi,
mọi sư
vật mà ta đang thể nghiệm đều giúp ta có được tuệ quán nơi Chánh
Pháp.
*
Những gì tôi vừa nói qua trên đây chỉ giản dị là
để bạn nghe và suy nghĩ mà thôi. Đó chỉ là lời nói, thế thôi. Khi
có ai
đến gặp tôi, thì tôi nói. Các loại đề tài đó không phải là những
sự việc
mà ta cần ngồi lại quanh đây để nói nhảm nhí hằng giờ. Chỉ
cần thực
hành thôi! Cứ lăn vào đó và làm đi. Cũng như thể ta mời
bạn bè
cùng đi đến nơi nào đó. Ta mời họ. Ta được họ trả lời. Rồi thì
chúng ta
lên đường, có gì đâu mà phải ồn ào náo động lên. Chúng ta nói
chừng ấy
cũng đủ rồi, và cứ để yên đó. Tôi đã nói cho bạn biết vài điều về
pháp
hành thiền mà tôi đã thực tập. Nhưng, bạn biết không, có thể tôi
đã nói
sai. Công việc của bạn là thẩm tra và, tự chính bạn, bạn phải tìm
xem điều
tôi đã nói có đúng hay không.
Thiện Nhựt phỏng dịch,
Montreal, Canada, tháng 3-2004
Bình Anson hiệu đính,
Perth, Tây Úc, tháng 5-2005
-ooOoo-
Thuật ngữ đối
chiếu
Arahat,
the Worthy One |
A-la-hán,
Ứng
cúng |
Awareness |
Giác
niệm, tỉnh
giác |
Bhava,
becoming |
Hữu, hiện
hữu |
Bhavana,
mind training |
Tu tâm,
tu tiến |
Dependent
origination (paticca samuppāda) |
Lý duyên
sinh, lý
duyên khởi. |
Defilement
(kilesa) |
Lậu hoặc,
điều ô
nhiễm trong tâm |
Dhamma |
Pháp,
Giáo Pháp |
Dhutanga |
Hạnh Đầu
đà |
Dukkha,
suffering, unsatisfactoriness |
Khổ,
phiền não,
bất toại ý |
Enlightenment |
Giác ngộ |
Forest
tradition |
Truyền
thống Sơn
Lâm |
Happiness |
Hạnh phúc |
Jhāna |
Thiền-na,
tầng
thiền định |
Kamma |
Nghiệp |
Khanda;
5
khandas (5 aggregates): body, feeling,
perception,
volition, consciousness |
Uẩn; 5
uẩn: sắc,
thọ, tưởng, hành, thức |
Mara |
Ma vương |
Mind (citta) |
Tâm, tâm
vương |
Mind
moment |
Chập tâm,
sát-na
tâm |
Mind's
psychological factor (cetasika) |
Yếu tố
tâm lý,
tâm sở |
Momentary
concentration (khanika samādhi) |
Định nhất
thời,
định từng chập, sát-na định |
Nirodha,
cessation |
Diệt |
Peace |
An bình,
an định,
bình an |
Sankhāra |
Hành huẩn |
Samādhi |
Định, tâm
định,
tam-ma-đề, tam-muội |
Samatha |
An chỉ,
tịnh chỉ |
Sīla,
morality, virtue |
Giới,
giới đức,
giới hạnh |
Sotāpanna,
Stream enterer |
Tu-đà-hoàn,
Dự
lưu |
Still |
Tĩnh lặng |
Unshakeable
peace |
An bình
không lay
chuyển, an bình ổn cố |
Vinaya |
Luật,
giới luật |
Vipassanā |
Minh
quán, minh
sát |
Wisdom (paññā) |
Trí tuệ,
Tuệ
(bát-nhã) |
-ooOoo-