-02-
Năm học giới
Viết dựa theo tập sách "Tam Quy, Ngũ Giới"
của Bác Phạm Kim Khánh.
Nền tảng của giáo lý Phật Pháp là Giới.
Trì Giới là nghiêm chỉnh tự khép mình vào khuôn khổ kỷ cương. Phạn
ngữ
Sīla, hay Giới, là tác phong đạo đức và luân lý biểu hiện qua
hành
động và lời nói. Giới được xem là những quy luật tu học, những
hướng dẫn
giúp ta thanh lọc tâm ý. Trong Phật giáo, Giới không phải là những
điều
răn cấm do một đấng thiêng liêng tối cao nào đó đặt ra. Ðức Phật
không bao
giờ ra lệnh, bắt buộc hàng đệ tử phải làm điều này, hay ngăn cấm
không cho
làm điều kia. Thay vì răn cấm, Ðức Phật giảng dạy định luật "nhân
quả" và
khuyên bảo chúng sinh nên sống hòa hợp với lý "nghiệp báo". Ngài
đặt ra
những nguyên tắc giúp chúng sinh nương theo đó để trau giồi đạo
hạnh và
tiến hóa. Người Phật tử không bị ép buộc phải tuân hành những điều
"răn
cấm", mà trái lại, hoàn toàn có tự do chọn lựa con đường của mình.
Ngài
dạy rằng chư Phật chỉ là những vị đạo sư đã tìm ra con đường đưa
đến giải
thoát, đã thành công thực hiện con đường đó, và có lòng từ bi chỉ
dẫn cho
những ai sẵn sàng bước theo dấu chân của các Ngài.
Trong Bát Chánh Đạo - con đường giải thoát gồm tám yếu tố chân
chánh,
Giới có liên quan đến những lời không nên nói, những việc không
nên làm và
những nghề không nên theo đuổi (Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh
Mạng). Còn
năm yếu tố kia được xếp vào nhóm Định (Chánh Tinh tấn, Chánh Niệm,
Chánh
Định) và nhóm Tuệ (Chánh Kiến, Chánh Tư Duy). Người cư sĩ tại gia
hành trì
năm giới căn bản là: không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm,
không
vọng ngữ, và không dùng chất say. Đức Phật dạy:
"Ai mà có thói sát sinh,
Nói năng gian dối, tánh tình tà dâm,
Say sưa, trộm cắp, hư thân,
Sống đời như thế trầm luân vô vàn.
Xem như ngay cõi nhân gian,
Tự đào bỏ mất thiện căn của mình".
(Pháp Cú, 246-247)
"Tự đào bỏ mất thiện căn của mình" có nghĩa là bám chặt, dính
mắc vào
kiếp sống sinh tử luân hồi, không bao giờ thoát ra khỏi thế gian
đầy đau
khổ này. Ðức Phật dạy chúng ta nên cố tránh những hành động tạo
nghiệp bất
thiện kể trên, để làm cho tâm được trong sạch, phát triển trí tuệ
để thoát
ra khỏi vòng luân hồi.
*
Người Phật tử thuần thành thường xuyên tụng niệm câu kinh thọ
trì năm
giới - bằng tiếng Pāli và tiếng Việt - để tự nhắc mình những quy
tắc tu
tập, và quyết tâm điều hướng cuộc sống vào khuôn khổ của giới
hạnh. Năm
câu tụng Pāli có cùng chung cụm từ "veramaṇī sikkhāpadaṁ
samādiyāmi"
nghĩa là "tôi nguyện tuân giữ điều học là tránh không làm
...",
và được tóm lược như sau:
1. Pāṇātipātā veramaṇī sikkhāpadaṁ samā diyāmi -
Con xin vâng giữ điều
học là cố ý tránh xa sự sát sinh.
Không sát sinh là không cố ý cắt đứt, ngăn chặn, tiêu diệt, hay
làm trở
ngại sức tiến triển của luồng sống hay năng lực đời sống, không
cho nó
liên tục trôi chảy. Không sát sinh cũng hàm ý là không làm tổn
thương sự
sống của bất luận sinh vật nào, cũng không sai khiến, xúi giục, dụ
dỗ
người khác làm những điều này. Trong hình thức thô sơ nhất, hành
động sát
sinh gồm đủ năm yếu tố: có một sinh vật đang sống, có sự hiểu biết
rằng
con vật ấy đang sống, cố ý cắt đứt sự sống của sinh vật ấy, chú
tâm cố
gắng làm cho con vật chết, và chính hành động giết hại.
Ðức Phật dạy:
"Sợ thay gậy gộc, gươm đao,
Yêu thương mầm sống, khát khao cuộc đời.
Suy lòng mình ra lòng người,
Chớ nên giết hại hoặc xui giết người."
(Pháp Cú, 130)
Khi bình giảng về hạnh Trì Giới Ba-la-mật (Sīla Parami)
trong
quyển "Đức Phật và Phật Pháp", Hòa thượng Nārada viết:
"Mọi người đều quý trọng đời sống của mình. Không ai có quyền
cướp sự
sống của kẻ khác. Bồ-tát rải tâm Từ đến tất cả chúng sinh, cho đến
những
con vật bé nhỏ đang bò dưới chân, và không khi nào sát hại hoặc
làm tổn
thương một sinh vật nào.
"Con người vốn sẵn có một thú tính xúi giục giết hại những
chúng sinh
khác để ăn thịt mà không chút xót thương. Cũng có khi người ta sát
sinh để
giải trí, như săn bắn hay đi câu. Dù để nuôi sống thân mạng hay để
tìm thú
vui, không có lý do nào chánh đáng để giết một sinh linh hoặc làm
cách nào
khác cho một sinh linh bị giết. Có những phương pháp tàn nhẫn, ghê
tởm,
cũng có những phương pháp mà người ta gọi là "nhân đạo" để sát
sinh. Nhưng
làm đau khổ một chúng sinh khác là thiếu lòng từ ái. Giết một con
thú đã
là hành động bất chánh, nói chi đến giết một người, mặc dù nhiều
lý do đã
được viện ra gọi là chánh đáng, có khi gọi là cao quý, để con
người tàn
sát con người."
2. Adinnādānā veramaṇī sikkhāpadaṁ samā diyāmi - Con xin vâng
giữ điều
học là cố ý tránh xa sự trộm cắp.
Không trộm cắp, tức không cố ý lấy, hoặc nhờ người khác lấy vật
có chủ
mà không được cho đến mình. Ðức Phật dạy: "Người ấy cố tránh
lấy vật gì
không được cho đến mình, những gì - dù ở giữa rừng hoang hay trong
xóm
làng - thuộc quyền sở hữu của người khác, người ấy không nên lấy
với dụng
ý đem về làm của riêng." (Tăng Chi, X. 176)
"Lấy một vật gì không được cho đến mình" ở đây có thể bao gồm
nhiều
hình thức như: trộm cắp, lén lút lấy của người; công khai lấy của
người
bằng vũ lực hoặc bằng cách hăm dọa; gian lận, giả dối tráo trở,
lường gạt,
v.v... Tất cả những hình thức trên đều là trộm cắp. Loại tâm nằm
phía sau
hành động trộm cắp, tức là tác ý thúc đẩy, đưa mình đến hành động
phạm
giới thường là tâm tham, nhưng cũng có thể là tâm sân, và trong
mọi trường
hợp, đều có tâm si.
Người thanh tịnh trì giới lánh xa mọi hình thức trộm cắp, dù là
trộm
cắp hiển nhiên, lộ liễu, hay trộm cắp vi tế, kín đáo, ẩn núp dưới
một hình
thức nào khác. Người ấy luôn luôn cố gắng phát triển những đức
tính thanh
bạch, liêm khiết, chân thật và chánh trực. Chẳng những không lấy
của người
mà còn cố gắng mở rộng tâm quảng đại bố thí, đem của mình ra hiến
tặng cho
người khác.
3. Kāmesu micchācārā veramaṇī sikhāpadaṁ samādiyāmi - Con xin
vâng giữ
điều học là cố ý tránh xa sự tà dâm.
Không tà dâm là gìn giữ đời sống gia đình trong sạch, không
lang chạ
phóng túng. Ðức Phật dạy: "Người giới đức trong sạch cố tránh
tà hạnh
và cố gắng tự chế. Người ấy không lăng loàn lang chạ với người còn
sống
dưới sự bảo bọc của cha, mẹ, anh, chị, hay họ hàng, với người đã
có chồng
hay vợ, với người đã hứa hôn, hoặc với người mà xã hội không cho
phép."
(Tăng Chi, X. 176)
Về phương diện luân lý, giới này nhằm bảo vệ hạnh phúc gia
đình, không
để cho người ngoài xâm phạm vào tình trạng an lạc trong nhà, tạo
niềm tín
cẩn lẫn nhau, và gia tăng tình nghĩa vợ chồng. Về mặt đạo đức,
giới này
giúp làm giảm thiểu năng lực tự nhiên có chiều hướng lan rộng của
dục vọng
và mặt khác, tăng trưởng đức hạnh từ khước và tự chế của lối sống
thanh
cao.
4. Musāvādā veramaṇī sikkhāpadaṁ samā diyāmi - Con xin vâng giữ
điều
học là cố ý tránh xa sự vọng ngữ.
Không vọng ngữ, tức không nói lời giả dối sai quấy, không tạo
khẩu
nghiệp bất thiện, luôn luôn có lời nói chân chánh và đồng thời
trau giồi
khẩu nghiệp thiện.
Thông thường chúng ta có khuynh hướng xem nhẹ khẩu nghiệp, vì
hậu quả
của lời nói thường không biểu hiện mạnh mẽ tức khắc như thân
nghiệp. Nhưng
nếu chịu khó bình tâm suy tư, chúng ta nhận thức được rằng lời nói
có tầm
ảnh hưởng rất quan trọng và khả năng tạo hậu quả vô cùng to tát,
trong
việc thiện cũng như trong điều bất thiện. Lời nói có thể khơi dậy
lòng căm
thù, tiêu diệt đời sống, gây chiến tranh, mà cũng có khả năng mở
mang trí
tuệ, hàn gắn chia rẽ và đem lại thanh bình an lạc.
Từ ngàn xưa, lời nói vẫn được xem như lưỡi dao bén cả hai bề mà
người
sử dụng cần phải hết sức thận trọng. Ngày nay, với sự tiến bộ của
những
phương tiện truyền thông, hậu quả của lời nói - tốt cũng như xấu -
trổ
sinh càng nhanh chóng và sâu xa không thể lường. Nếu con người có
thể kiểm
soát được cái lưỡi không xương của mình thì nhân loại chẳng những
tránh
được bao nhiêu phiền phức rối ren đau khổ, mà đời sống trên thế
gian này
cũng được tốt đẹp, thoải mái dễ chịu, đáng sống.
Có bốn loại khẩu nghiệp bất thiện là nói dối, nói đâm thọc, nói
thô lỗ
cộc cằn, và nói nhảm nhí. Như vậy, không vọng ngữ là không nói
dối, không
nói đâm thọc, không nói lời thô lỗ và không nói lời nhảm nhí vô
ích.
a) Không nói dối, mà luôn luôn nói lời chân thật. Ðức Phật dạy:
"Ở
đây, người trì giới không nói lời giả dối. Người ấy nói lời chân
thật, tận
tâm sống chân thật, chắc chắn, đáng được tín cẩn, không làm cho
người khác
hiểu sai sự thật. Giữa buổi họp hay giữa đám đông, trong giới thân
bằng
quyến thuộc hay ngoài xã hội, hoặc trước triều đình khi được gọi
làm nhân
chứng cho một việc gì, người ấy sẽ nói "tôi không biết" nếu thật
sự không
biết; và nếu biết, người ấy nói "tôi biết". Người ấy nói "tôi
không thấy
gì" nếu thật sự không thấy, và nói "tôi thấy", nếu thật sự thấy.
Như vậy
người ấy không bao giờ nói lời giả dối vì lợi ích cho mình, vì lợi
ích cho
một người thân, hoặc vì bất cứ lợi ích nào". (Tăng Chi, X.176)
b) Không nói đâm thọc, mà luôn luôn nói lời hòa thuận. Ðức Phật
dạy:
"Người trì giới này không dùng lời lẽ có tính cách đâm thọc. Ðiều
gì nghe
ở đây, người ấy không lặp lại nơi khác nhằm tạo chia rẽ. Ðiều gì
nghe ở
nơi khác, người ấy không lặp lại ở đây nhằm tạo chia rẽ. Người ấy
có tinh
thần đoàn kết những ai chia rẽ, và khuyến khích những ai đoàn kết.
Không
khí thuận hòa là niềm vui của người ấy. Người ấy hoan hỷ thỏa
thích và
phấn khởi trong sự hòa hợp và, bằng lời nói, cố gắng gieo trồng
mầm mống
thuận hòa". (Tăng Chi, X.176)
c) Không nói thô lỗ cộc cằn, mà luôn luôn nói lời thanh tao nhã
nhặn.
Ðức Phật dạy: "Người trì giới này không nói những lời thô lỗ
cộc cằn.
Người ấy chỉ thốt ra những lời dịu hiền, thanh nhã, dễ mến, những
lời
thành thật và lễ độ, thân hữu và làm vui lòng nhiều người." (Tăng
Chi,
X.176)
Và:
"Đừng nên mở miệng nói câu,
Cộc cằn, ác độc khiến đau lòng người,
Người ta cũng nói trả thôi,
Những lời độc địa muôn đời khổ thay!
Lời qua tiếng lại đắng cay,
Như bao dao gậy phạt ngay thân mình."
(Pháp Cú, 133)
d) Không nói nhảm nhí, mà chỉ nói những lời hữu ích. Ðức Phật
dạy:
"Người trì giới này không nói lời nhảm nhí vô ích. Người ấy nói
đúng lúc,
đúng như sự việc xảy ra, nói những lời hữu ích, nói về Giáo pháp
và Giới
Luật. Lời nói của người ấy là một kho tàng, thốt ra đúng lúc, hữu
lý, hòa
nhã, và đầy ý nghĩa." (Tăng Chi, X.176)
Lời nói nhảm ắt vô ý nghĩa, nông cạn, và không dẫn đến lợi ích
nào.
Những lời lẽ như thế ấy chỉ khơi động vọng tâm, Ðức Phật khuyên
nên hạn
chế những ngôn từ thuộc loại này. Lời nói phải là cẩn ngôn, phải
được chọn
lọc, và chỉ nói những lời thích hợp với Giáo pháp. Ngài dạy: "Này
chư
Tỳ khưu, khi quý vị tụ họp đông đảo thì chỉ có hai việc nên làm:
hoặc thảo
luận về Giáo pháp, hoặc giữ sự im lặng cao thượng." (Trung Bộ,
26)
Người nghiêm túc trì giới không vọng ngữ là người không nói lời
nhảm
nhí vô ích. Không phải nói nhiều mà chứng tỏ rằng mình học rộng
biết xa.
Cũng không phải nói nhiều mà tạo nhiều lợi ích cho mình hoặc cho
người
khác. Ngài dạy:
"Dù ngàn lời nói với nhau,
Nếu đều vô nghĩa, ích đâu cho đời!
Chẳng bằng chỉ nói một lời,
Đầy đủ nghĩa lý, mọi người mừng thay!
Nghe xong, tâm tịnh lạc ngay."
(Pháp Cú, 100)
5. Surāmerayāmajjapamādaṭṭhāna veramaṇī sikkhāpadaṁ samādiyāmi -
Con
xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự dể duôi uống rượu và các
chất
say.
"Không dùng chất say" là không uống rượu và không dùng bất luận
chất
say nào, như ma túy chẳng hạn, có thể làm cho trí não lu mờ, mất
sáng
suốt. Mặc dù uống chút rượu không đến đỗi là một tệ hại trọng đại,
nhưng
trong đa số các trường hợp, người uống rượu không biết đến lúc nào
phải
ngừng, và khi đã quá chén rồi thì mất lý trí, không còn kiểm soát
được lời
nói và hành động của họ. Từ đó, người say sưa có thể phạm bất cứ
giới nào
khác mà bình thường họ vẫn cố gắng gìn giữ.
*
Trên đây là năm giới căn bản mà mỗi người Phật tử tự nguyện
nghiêm trì.
Người giữ gìn trong sạch năm giới này là một phước lành cho những
ai sống
quanh người ấy, mà cũng tạo thiện nghiệp cho chính mình. Người ấy
sẽ tái
sinh vào những cảnh giới nhàn lạc và thọ hưởng quả lành.
Tuy nhiên, đó chưa phải là mục tiêu cứu cánh của người tu Phật,
vì vẫn
chưa thoát ra khỏi những kiếp sống trong vòng luân hồi, mà chỉ thọ
hưởng
những phần thưởng thu nhặt trên con đường hành trì đưa đến Niết
Bàn. Giới
chỉ là phương tiện để thành đạt mục tiêu. Mục tiêu tối hậu là Giải
Thoát.
Toàn thể giáo huấn mà Ðức Thế Tôn truyền dạy đều chỉ nhằm vào mục
tiêu
Giải Thoát. Trong bài kinh Uposatha, Phật Tự Thuyết V.51, Ðức Phật
tuyên
bố: "Cũng như các biển lớn chỉ có một vị là vị mặn, Giáo pháp
của Ta
chỉ có một vị là vị Giải Thoát".
Dù là bài kinh dài hay ngắn, dù là những lời dạy cho hàng sơ cơ
hay
những giáo huấn cao thâm, tất cả đều nhằm vào mục tiêu duy nhất là
giải
thoát ra khỏi mọi hình thức khổ đau của kiếp sống vô thường và vô
ngã. Tuy
nhiên, không thể có sự bỗng nhiên giải thoát, hay giải thoát từng
đoàn
từng nhóm, mà chỉ có công phu chuyên cần tu tập của từng cá nhân,
và do
công phu tu tập cá nhân ấy, mỗi người đần dần tiến đến sự giải
thoát cho
riêng mình. Ðức Thế Tôn dạy tiếp:
"Cũng như các biển lớn tuần tự thuận xuôi, tuần tự thuận hướng,
tuần tự
sâu dần, không có thình lình như một vực thẳm; Giáo pháp và Giới
Luật này
có các công phu tu tập tuần tự đưa đến các tiến triển tuần tự, các
quả dị
thục tuần tự, không có sự bỗng nhiên giác ngộ".
Năm giới căn bản là nền tảng của Giáo pháp. Dựa trên căn bản
vững chắc
đó, người Phật tử thuần thành nỗ lực và kiên trì tuần tự tu tiến.
*
Nghiêm túc trì giới còn có nghĩa là bố thí vô úy - bố thí sự an
toàn,
tình trạng không lo sợ đến cho người khác. Không ai thích sống
chung với
những người ăn nói giả dối, thô lỗ cộc cằn, với hạng người sát
sinh, trộm
cắp, lăng loàn, say sưa hư hỏng. Gần họ, ta không cảm thấy an
toàn, phải
luôn luôn lo sợ, lúc nào cũng phải đề phòng. Trái lại, ta thích ở
gần
những người có giới đức, vì những người này không làm cho mình lo
âu, sợ
sệt. Người giữ giới trong sạch mang đến trạng thái an toàn cho
những ai
sống quanh mình. Người giữ tròn đủ năm học giới là người "đem
sự không
sợ hãi cho vô lượng chúng sanh, đem sự không hận thù cho vô lượng
chúng
sanh, đem sự không hại cho vô lượng chúng sanh", và đó là "nguồn
nước công đức, nguồn nước thiện, món ăn cho an lạc, làm nhân sanh
Thiên,
quả dị thục an lạc, đưa đến cõi trời, dẫn đến khả ái, khả hỷ, khả
ý, hạnh
phúc, an lạc." (Tăng Chi, VIII.39)
Có sách giải thích từ sīla - giới là đồng nghĩa với samadhāna
- hòa điệu, điều hòa, nhịp nhàng hòa hợp. Ðây là lối sống hòa điệu
với
chính mình và với người khác. Người giữ giới là người không bao
giờ làm
tổn thương sự sống của bất luận chúng sinh nào mà luôn luôn nâng
đỡ, giúp
cho luồng sống của mọi chúng sinh trôi chảy dễ dàng. Người ấy
không trộm
cắp mà luôn luôn mở rộng tâm quảng đại bố thí. Người ấy không lang
chạ
phóng túng mà luôn luôn có đời sống gia đình trong sạch. Người ấy
luôn
luôn chân thật, luôn luôn thanh nhã, luôn luôn có lời nói hữu ích
và đem
lại tinh thần hòa hợp. Người ấy không bao giờ say sưa mà lúc nào
cũng bình
tỉnh sáng suốt. Người như thế chắc chắn tạo được một cuộc sống
hiền hòa
trong gia đình, đem lại sự hòa hợp trong giao tiếp giữa người với
người
trong một xã hội mà quyền lợi cá nhân có nhiều khác biệt, đôi khi
còn đối
nghịch. Về phương diện tâm lý, người nghiêm trì giới luật tránh
cho mình
những xung đột tâm trí do tội lỗi gây nên - những nỗi khổ não khi
bị lương
tâm cắn rứt - và nhờ đó, tâm trí được thăng bằng, an lạc.
Tóm lại, người Phật tử nghiêm trì giới
luật qua
hai mặt: thụ động và chủ động. Về mặt thụ động, trì giới là không
tạo
nghiệp ác qua lời nói lẫn hành động, và ngăn chặn các tư tưởng uế
trược
tội lỗi trong tâm ý. Về mặt chủ động, trì giới là tạo thêm nghiệp
thiện,
phát triển tâm ý tốt lành, nhằm tạo điều kiện và hoàn cảnh thuận
lợi, hỗ
trợ ta trên con đường đưa đến giác ngộ giải thoát.