10
NGỖNG
CHÚA UỐNG SỮA CHỪA NƯỚC
Giảng tại Thiền
viện
Trúc Lâm - 2000
Tôi
có một câu chuyện muốn nói cho quý vị nghe. Chuyện này cũng
với tinh thần chỉ Ông chủ chứ không có gì lạ.
Một sáng, khi xả thiền ra tôi
có tuyên bố với một số người rằng: "Tôi quả thực
là con ngỗng chúa biết uống sữa, lọc nước chừa lại".
Câu nói đó quý vị nghe lạ đời phải không? Ðây là câu
nói của các Thiền sư Trung Hoa thời xưa. Lúc trước tôi học
tôi tu, đọc câu đó tôi cũng biết nhưng biết hơi ngờ ngờ.
Bây giờ đem một bát sữa lại bảo chúng ta uống, chúng ta
khôn hơn con ngỗng, nhưng chúng ta có lọc riêng sữa một
bên nước một bên, để uống sữa chừa nước lại không?
Huống là con ngỗng khờ hơn mình tại sao nó biết lọc sữa
uống, còn nước chừa lại.
Như vậy tại sao Thiền sư lại nói
như con ngỗng chúa uống sữa, lọc nước chừa lại. Quý vị
thử nghiệm xem uống sữa lọc nước lại là gì? Cái gì
là sữa, cái gì là nước? Nếu mình không biết rõ cái gì
là sữa, cái gì là nước thì thôi cứ uống hết cho rồi.
Uống cạn ly cạn bát, chứ không có cách nào khác. Vậy muốn
lọc sữa chừa nước lại thì phải lọc bằng cách nào?
Dùng phương tiện gì để lọc? Ðó là một vấn đề nan giải.
Ngày xưa tôi hiểu rõ rằng, sữa
là chỉ cho cái chân thật của mình, nước là chỉ cho cái
giả dối. Cái thật giả nó lẫn nhau, khó mà lừa lọc được.
Hiểu vậy thì được rồi, nhưng bảo phải lọc cái này bỏ
cái kia thì thật là khó vô cùng. Nói khó nhưng không ngờ
nó lại dễ. Khi thấy nó rồi thì rất là dễ.
Tôi xin hỏi lại, chúng ta ngồi
thiền để làm gì? Là tập làm con ngỗng chúa lọc sữa uống
chừa nước lại đó. Vậy thì cái gì là sữa để uống, cái
gì là nước để chừa lại? Hiểu thì hiểu, nhưng nói ra
thì nói không được. Nói không được và làm cũng chưa
được luôn. Bởi vậy nên rồi chúng ta trở thành ngỗng
con, chứ không phải ngỗng chúa.
Khi nhìn thấy cái đó rồi, tôi
mới
thông cảm ngày xưa trong kinh dạy các vị A-la-hán có hai
thân: Một là còn thân xác thịt này mà đã ở trong Niết-bàn
gọi là Hữu dư y Niết-bàn. Hai là thân xác thịt này hoại
diệt đi, hoàn toàn nhập Niết-bàn gọi là Vô dư y Niết-bàn.
Sau khi thân hoại diệt nhập Niết-bàn thì chúng ta dễ hiểu,
vì Niết-bàn là vô sanh. Còn thân này đi đứng là còn sống,
còn sống là còn sanh, sao lại được Niết-bàn? Ðó là điều
tôi thắc mắc. Bởi vì Niết-bàn, nghĩa chánh là vô sanh.
Ðó là một nghi vấn tôi thầm đặt ra mà chưa tự giải đáp
thỏa đáng. Nhưng khi hiểu được con ngỗng chúa uống sữa,
chừa nước lại thì tôi liền hiểu qua nghĩa Hữu dư y Niết-bàn
của các vị A-la-hán.
Chỗ này tôi sẽ nói chậm, từ từ
để cho quý vị vừa nghe vừa gẫm, mới thấy rõ được lẽ
thật. Tất cả chúng ta tu ai cũng sợ vọng tưởng dấy khởi,
cho nên vọng khởi là liền bỏ, liền dẹp. Khi bỏ dẹp rồi,
lúc đó nói mình không còn vọng tưởng. Nhưng chú thứ hai
thứ ba trồi lên rồi bỏ dẹp, ... cứ làm như vậy suốt
buổi có mệt không? Quả là còn nhọc hơn mấy người nông
phu cuốc đất ngoài đồng nữa, phải không? Ra đồng cuốc
đất, dỡ cuốc lên cuốc xuống, làm mệt đứng chống cuốc
thở, ngó trời ngó mây chơi. Còn mình ngồi đó, một giờ
hai giờ có dám nghỉ không? Lúc nào cũng phải dòm chừng, cứ
hết chú này tới chú khác trồi lên liên miên. Một hai giờ
đồng hồ không nghỉ chút nào hết.
Như vậy người tu mới nhìn qua
thấy thảnh thơi quá, ngồi lim dim đó thôi, không có gì
quan trọng. Mà thực là đổ mồ hôi hột, không có chút
rãnh rỗi, nhàn hạ. Bởi vì chúng ta quen nhìn mọi sự vật
bên ngoài theo lối hình thức phân biệt tướng mạo, vì vậy
cái gì có hình tướng, cái gì có phân biệt thì chúng ta hiểu
nhận, còn cái gì không hình tướng, chúng ta lại không biết.
Ai cũng nói tâm là cái biết của
mình, là phần tinh thần của mình. Như vậy khi khởi nghĩ
phân biệt hơn thua, phải quấy, tốt xấu là chân hay giả?
Ðến lúc những thứ đó lặng xuống thì cái chân cũng lặng
xuống mất tiêu phải không? Ðó là chỗ mà lâu nay chúng ta
không biết. Không biết uống sữa chừa nước lại là vậy.
Tôi nói xa như người tu Thoại
đầu.
Thoại đầu là gì? Thoại là câu nói, đầu là ở trước câu
nói. Thí dụ như khởi niệm "trước khi cha mẹ chưa
sanh, ta là gì?", thì từ "trước khi cha mẹ chưa
sanh" là thoại, khi chưa khởi câu đó là đầu. Nên sau
này các Thiền sư thường nói chúng ta khán thoại vĩ, chứ
không phải khán thoại đầu. Vĩ là đuôi, đuôi câu nói.
Khán đuôi câu nói, chứ không khán được đầu câu nói. Cứ
nhớ "trước khi cha mẹ chưa sanh ta là gì?", mà
không thấy được cái trước khi khởi câu nói. Chưa thấy
cái trước khi khởi câu, đó là chưa khán tới thoại đầu.
Chúng ta ngồi thiền chỉ biết
vọng
tưởng. Thấy vọng tưởng sinh, vọng tưởng diệt, chứ không
biết cái đầu, trước khi vọng tưởng khởi hay là cái cuối,
sau khi vọng tưởng lặng. Như vậy trước khi vọng tưởng
dấy lên là cái gì? Sau khi vọng tưởng diệt là cái gì? Bởi
khi vọng dấy lên chúng ta nhớ "có vọng, buông!".
Buông cái này lặng rồi, một lát cái khác dấy lên. Vọng
trước lặng, cái khoảng trống trước khi qua vọng thứ
hai, là cái gì? Chúng ta chỉ nhớ vọng tưởng lặng, vọng
tưởng sanh thành ra cứ đánh lộn hoài, nhọc nhằn quá phải
không? Còn cái khoảng giữa khi nó lặng rồi, mà chưa có
cái thứ hai dấy lên, là gì? Ðó là chỗ mà chúng ta quên.
Khi vọng tưởng thứ nhất lặng,
chừng một giây hay hai giây mới thấy vọng tưởng thứ hai
dấy lên, thì khoảng trống giữa cái thứ nhất với cái thứ
hai đó, chúng ta hữu tri hay vô tri? Hữu tri tức là có tâm.
Vọng tưởng dấy lên thì có suy nghĩ, cái suy nghĩ đó là
cái biết động. Mỗi một niệm dấy lên là động, động
là tướng sinh diệt. Khi nó lặng, khoảng giữa này không
có dài, nhưng vẫn có một khoảng giữa trước khi niệm thứ
hai dấy lên. Khoảng giữa đó, nếu không có tri thì niệm
thứ hai dấy lên mình không thấy. Nhưng niệm thứ hai vừa
trồi đầu lên, mình thấy liền, như vậy trong khoảng giữa
đó mình có tri hay vô tri? Có tri. Cái tri của khoảng giữa
đó là cái tri sinh diệt hay cái tri bất sinh bất diệt? Có
tướng mạo gì không?
Khi chúng ta khởi nghĩ nhớ ba,
nhớ
má, thì hình bóng ba má hiện ra. Ta liền nói "vọng,
buông!" Buông thì nó lặng xuống, im lìm được một chút
lại dấy lên nhớ chú, nhớ bác. Khi đó hình dáng chú, bác
hiện ra. Như vậy khoảng giữa này biết mà không có bóng
dáng, không có dấy niệm. Vậy khoảng giữa đó là cái gì?
Ðó, tôi muốn chỉ cho tường tận chỗ này. Nếu không nói
tường tận, quý vị sẽ không hiểu được. Cứ nghĩ rằng
hôm nay tôi ngồi một giờ đồng hồ thấy cả trăm vọng
tưởng. Chỉ thấy vọng tưởng thôi, mà không thấy cái gì
khác. Như vậy là quên sữa mà chỉ uống nước.
Bây giờ chúng ta phải nhìn lại
cho kỹ, khoảng giữa của hai niệm có một khoảng, nhiều
khi được một giây hai giây, hoặc một phút hai phút, sau đó
mới có niệm thứ hai. Vậy một hai phút đó là một hai
phút chúng ta đang sống với cái gì? Biết mà không khởi động
là cái gì? Là cái biết không sinh diệt. Dấy niệm là cái
biết sinh diệt. Cái biết sinh diệt vùng lên mình thấy, rồi
nó lặng đi. Khoảng trống đó không có niệm sinh diệt,
thì đó là khoảng trống của cái không sinh diệt. Bởi vì
khoảng trống đó mình vẫn biết mà. Mình biết mà không
có dấy động, biết mà không có bóng dáng, thì cái biết
đó thuộc cái không sinh diệt.
Như vậy ngồi hai tiếng đồng hồ,
giả sử quý vị có hai trăm lần vọng tưởng, nếu quý vị
tỉnh thì trong hai trăm lần vọng tưởng đó, cho mất đi một
tiếng đồng hồ, còn lại một tiếng lặng lẽ đó, quý vị
đang làm gì? Ðang ở đâu? Chỗ này phải nhìn cho thật sâu
mới biết hết giá trị của nó. Như vậy trong một trăm lần
vọng tưởng mất một giờ động, nhưng cũng có một giờ
tịnh, phải không? Một giờ tịnh là không mê. Vừa dấy niệm
chúng ta liền thấy, đó là yên tịnh trong cái rõ ràng thường
biết. Góp lại từng chặng từng chặng rõ ràng thường biết
đó được một giờ, như vậy buổi ngồi thiền đó hữu
ích hay vô ích? Tối thiểu chúng ta cũng được một giờ yên
tịnh. Ðằng này chúng ta cứ nhớ một trăm lần vọng tưởng
mà bỏ quên cái khoảng lặng quý giá đó. Vì vậy, cứ nghĩ
buổi ngồi thiền hôm nay vô ích quá. Lát nghĩ cái này, lát
nghĩ cái kia. Một lát mới nghĩ, thì khoảng giữa "một
lát" đó cộng lại xem bao nhiêu? Ðiều nay nếu không giải
thích quý vị cứ lầm, cứ ngỡ rằng mình tu sao chỉ thấy
toàn vọng tưởng, vô ích quá!
Ðang trên đường tu mà muốn được
rỗng rang, sạch làu làu, không còn gì hết sao được. Phải
chia chớ! Chia cho vọng một chút phần. Vậy mới tu. Tu là
đang giành cái nào nhiều, cái nào ít. Hoặc là vọng tưởng
nhiều thì khoảng yên lặng ít; hoặc là khoảng yên lặng
nhiều thì vọng tưởng ít, đi từ từ như vậy. Vậy chúng
ta xác nhận lại một lần nữa xem khoảng không có vọng tưởng
là cái gì?
Ở đây, tôi chưa cắt nghĩa thẳng
mà tôi dẫn chuyện vòng vo tam quốc một chút. Ngày xưa Tổ
Huệ Khả than với Tổ Bồ-đề-đạt-ma:
- Tâm con không an, nhờ Hòa
thượng
dạy pháp an tâm.
Tổ Bồ-đề đạt-ma bảo:
- Ðem tâm ra ta an cho!.
Ngài Huệ Khả sực tìm. Lúc trước,
Ngài nhớ nó chạy lăng xăng hoài sao bây giờ dòm lại nó mất
tiêu. Khi đó, Ngài bạch với Tổ rằng:
- Bạch Hòa thượng, con tìm tâm
không được.
Tổ Ðạt-ma bảo:
- Ta đã an tâm cho ngươi rồi.
Ngay đó Tổ Huệ Khả nhận ra, biết
được đường vào. Biết được đường vào, nhưng phải
trải qua thời gian khá dài tu tập.
Một hôm Tổ Huệ Khả thưa:
- Bạch Hòa thượng hiện nay con
bặt
hết các duyên.
Tổ Ðạt-ma bảo:
- Coi chừng rơi vào không.
Ngài nói:
- Rõ ràng thường biết làm sao
không được.
Tổ Ðạt-ma liền nói:
- Ông như thế, ta như thế, chư
Phật cũng như thế.
Nghĩa là sao? Nghĩa là bặt hết
các duyên mà rõ ràng thường biết thì ông được như vậy,
ta được như vậy, chư Phật cũng được như vậy. Chư Phật
được như vậy nên các Ngài thành Phật. Bây giờ ta được
như vậy rồi ta cũng sẽ thành Phật, ông được như vậy
ông cũng sẽ thành Phật. Vậy chỗ rõ ràng thường biết đó
tên gì?
Trên đường tu, nhiều khi chúng
ta mắc kẹt ở ngôn ngữ, văn tự, mà không thấy được bản
chất thực, giá trị thực của sự tu. Bây giờ chúng ta phải
thấy giá trị thực của nó. Hiện giờ chúng ta ngồi thiền,
dấy niệm liền biết, không dấy niệm cũng biết. Giữa hai
niệm dấy lên chúng ta đều biết. Chính khoảng giữa rõ
ràng thường biết đó, Tổ Huệ Khả nói bặt hết các
duyên.
Chúng ta chỉ mới bặt được mười
phần trăm, hai chục phần trăm hoặc năm chục phần trăm các
duyên thôi. Như vậy so với Tổ, chúng ta còn cách xa nhiều,
nhưng cũng có một phút, hai phút bặt các duyên rồi. Chỗ bặt
hết các duyên ấy gọi là gì? Gọi là gì mà chư Phật như
vậy, Tổ như vậy, chúng ta cũng như vậy? Chính cái không
thể gọi đó nên có rất nhiều tên gọi. Ông chủ cũng là
một tên gọi. Ông chủ không có hình dáng. Khách lên thì
có hình dáng, mà chủ thì không có hình dáng. Bởi không
hình dáng cho nên khó nhận. Còn khách lên thấy có hình
dáng nên dễ nhận. Vì vậy suốt mấy giờ ngồi thiền,
chúng ta chỉ thấy khách chớ không thấy chủ. Ðó là vì
chúng ta sơ suất. Nếu chúng ta nhìn kỹ, niệm dấy lên là
khách, khi nó lặng xuống thì ông chủ ngồi sờ sờ đó. Nhưng
tại vì ổng ngồi trong màn, khuất đi nên khó thấy.
Niệm khởi là duyên, nếu hết
các duyên mà rõ ràng thường biết thì chỗ đó chính là chỗ
Tổ Bồ-đề-đạt-ma ấn chứng cho Tổ Huệ Khả. Ấn chứng
bằng cách "ông như thế, ta như thế", tức ta và
ông không khác nhau. Con dấu thế nào in xuống giấy trắng
hiện ra thế ấy, không sai chạy, gọi là ấn chứng. Chẳng
những ông như thế ta như thế mà chư Phật cũng như thế
luôn. Ba bốn con dấu giống hệt nhau. Ðó là ấn chứng sâu
đậm. Hiểu cho tới nơi rồi chúng ta mới thấy cái giá trị
của sự tu.
Khi khách dấy lên chúng ta thấy,
khách lặng chúng ta nói không thấy. Chúng ta không thấy là
không thấy khách, chớ không phải không cái thấy. Ai thấy
khách? Ai thấy không khách? Ông chủ chớ ai. Như vậy niệm
lặng tức là ông chủ sờ sờ. Vì ông chủ thấy lúc này
nó lặng nè, khách ra khỏi nhà rồi. Như vậy có vắng ông
chủ lúc nào đâu.
Vậy mà chúng ta cứ than "ngồi
thiền sao cứ loạn hoài!" Tuy loạn hoài nhưng ông chủ
vẫn ngồi đó chớ đâu. Nếu không quên ông chủ, thì nó
loạn cười với nó chơi "mấy chú hề mà". Cái thật
sờ sờ ở đây thấy mấy chú đang diễn trò. Tu như vậy mới
thật là hữu hiệu. Người không biết tu thì sự tu của
mình cảm thấy như vô ích. Năm ngoái ngồi cũng vọng tưởng,
năm nay ngồi cũng vọng tưởng, chắc năm mười năm nữa
cũng vọng tưởng! Tu như vậy buồn chết.
Phải thấy năm ngoái trong một
giờ
bao nhiêu lần vọng tưởng, năm nay một giờ bao nhiêu lần
vọng tưởng. Nó thưa từ từ. Mà thưa vọng tưởng từ từ,
thì ông chủ hiện ngày càng rõ hơn, phải không? Vọng tưởng
càng vắng, ông chủ càng hiện sờ sờ, chứ có thiếu chỗ
nào. Nghiệm cho chín chắn mới thấy giá trị của sự tu,
còn nghiệm chưa chín chắn thì chỉ thấy vọng tưởng chớ
không thấy gì nữa hết. Tu như vậy tức là vô ích rồi.
Cứ thế mà thấy tới thấy lui,
ông chủ không vắng mặt lúc nào hết. Cho nên trong nhà thiền
quở trách không cho chúng ta ngủ, vì ngủ thì hết thấy.
Thà là thức, dù nó chạy lên chạy xuống nhưng quan trọng
là mình vẫn thấy nó, thì không mất ông chủ. Nếu nó lặng
mà không biết gì hết thì mất ông chủ. Nên Phật nói khi
chúng ta ngủ như đi vào hang quỷ. Vọng tưởng tuy nó điên
đảo một chút nhưng ông chủ vẫn có mặt đó để quán
sát nó. Còn vào hang quỷ thì thôi hết thấy ai, khách không
mà chủ cũng không luôn. Vì vậy khi vọng tưởng, không ai
đánh, không ai véo tai; nhưng ngủ gục là bị đánh, bị
véo tai. Bởi vì lúc đó ta quên mất ông chủ rồi. Mất cả
chủ khách thì phải kêu dậy, chứ không thì đi sâu vào
trong hang quỷ tối sao! Hiểu cho thật kỹ chúng ta mới thấy
ý nghĩa, giá trị của người tu thiền.
Như vậy quý vị nhớ lại, ở trước
tôi nói con ngỗng uống sữa chừa nước lại. Cũng vậy nội
tâm chúng ta giống như một bát chứa sữa nước lẫn lộn.
Bây giờ chúng ta phải lọc bỏ nước, uống sữa thôi. Nước
là cái gì? Là các chú vọng tưởng. Chú nào tới mình đều
loại ra, không theo. Loại ra rồi, lúc đó mình đang làm gì?
Ðang uống sữa. Vậy mà quý vị không biết, cứ than hoài,
tu sao thấy vọng không. Nếu hết vọng không biết gì nữa,
đó là không biết uống sữa. Dù đã loại nước ra rồi
nhưng tới sữa không biết uống, thành con ngỗng đói kêu
la om sòm.
Sữa hiện khi nước bị loại.
Cũng như khi vọng tưởng lặng thì cái hiện tiền đó là
mình, chứ ai? Mình hiện tiền, hay nói cách khác là ông chủ
hiện tiền, thấy rõ, nghe rõ, biết rõ, không có nghi ngờ
gì hết. Thấy, nghe, biết mà không có một bóng dáng, không
có một khởi nghĩ. Cái biết đó thuộc loại gì? Nếu so với
cái biết có hình có bóng thì nó thế nào? Có hình có bóng
là vọng. Vọng là động là sinh diệt là nhân tạo nghiệp
sinh tử. Còn cái biết này lặng lẽ không hình không bóng,
mà rõ ràng thường biết. Cái rõ ràng thường biết là
nhân gì? Là nhân vô sinh, tức là Niết-bàn.
Như vậy chúng ta ngồi thiền vắng
vọng tưởng một phút, hai phút, ba phút... thời gian đó
chúng ta đang ở trong cái gì? Ðang ngồi trong Niết-bàn, phải
không? Cho nên các vị A-la-hán khi còn thân này, các Ngài
sinh hoạt bình thường nhưng không có niệm duyên theo cảnh.
Vì thế nói các Ngài đang ở trong Hữu dư y Niết-bàn. Bởi
Niết- bàn là vô sanh. Còn niệm là còn sanh. Dứt niệm mà hằng
tri giác, đó là vô sanh, là Niết-bàn.
Chúng ta cứ ngỡ rằng vào Niết
bàn là vào một cảnh giới rực rỡ, có đủ thứ sung sướng,
tươi đẹp... Tưởng Niết-bàn như vậy là Niết-bàn tưởng
tượng. Niết-bàn là vô sanh, vô sanh mà hằng tri hằng
giác, chứ không phải vô sanh mà vô tri vô giác. Cái hằng
tri hằng giác đó cũng gọi là Phật tánh. Như vậy được
cái vô sanh hằng tri giác đó là nhập được Phật tánh của
mình. Nếu nhập được Phật tánh của mình thì gọi là Phật
chứ gì! Chúng ta cứ mong thành Phật được ngồi trên tòa
sen có hào quang rực rỡ, ông Phật đó là ông Phật gì?
Ông Phật đó là ông Phật sinh tử, hoặc là báo thân, hoặc
là hóa thân. Phật Pháp thân thì không có hình tướng.
Như vậy chúng ta có tu sẽ được
kết quả rất cụ thể, còn người không biết tu hết nghĩ
chuyện này đến nghĩ chuyện nọ liên miên. Trong khi cái biết
thầm lặng luôn ở bên mình thì lại không hay, không nhớ tới.
Do không nhận được cái hằng tri hằng giác thầm lặng ấy,
nên chỉ nghĩ hơn nghĩ thua, nghĩ phải nghĩ quấy, cho đó
là tâm. Chấp giữ khư khư thân sinh diệt và tâm sinh diệt
là mình thì trách gì không đi trong luân hồi muôn kiếp sao
được. Bởi cho cái sinh diệt là mình nên vừa mất cái
sinh diệt này liền ôm cái sinh diệt khác, cứ liên miên như
vậy, nên đi trong luân hồi vô số kiếp.
Nếu bây giờ biết rõ thân này
là vô thường sinh diệt, tâm phân biệt hơn thua phải quấy
cũng vô thường sinh diệt; chỉ có cái hằng tri hằng giác,
không hình không tướng đó mới thật là mình. Cái đó có
bị lửa đốt cháy không? Không. Vì vậy nên nói hoa sen
trong lò lửa.
Nói thân vô thường vì thân bị
lửa vô thường thiêu đốt, cháy mòn dần. Thí dụ như một
cây củi tươi, đút vô lò lửa. Ban đầu củi tươi cháy chậm,
lần lần củi khô cháy nhanh hơn, cuối cùng nó bắt cháy hết.
Cũng như vậy, hồi ta sinh ra đến lớn lên năm mười tuổi,
đầu tóc xanh. Năm tháng chất chồng, lửa vô thường đốt
riết bây giờ đầu bạc trắng. Hồi xưa mặt mày no đầy,
bây giờ bắt đầu nhăn nheo. Nó hiện tướng khô đó, khô
rồi thì tới cháy rụi. Rõ ràng chúng ta mang thân vô thường,
bị lửa vô thường đốt cháy. Có khi nó cháy gấp, có khi
nó cháy muộn, nhưng nhất định phải cháy.
Song trong cái vô thường đó,
ngầm
có một cái chân thường, tức là cái không có hình tướng,
hằng giác hằng tri. Không hình tướng nên đâu bị vô thường,
hằng giác hằng tri nên đâu phải là không. Trong nhà Phật
nói chỗ đó "không phải có, không phải không" (phi
hữu, phi vô). Bởi vì nó không phải có theo hình tướng vô
thường, không phải không vì nó hằng giác hằng tri.
Trên đường tu chúng ta nghiệm,
nhận kỹ mới thấy, từng phút từng giây chúng ta đang tiến
chứ không phải là vô ích. Nhưng vì lâu nay không ai giảng
trạch cho mình biết, cứ cho rằng ngồi thiền phải yên, phải
lặng; mà sao mình ngồi vọng tưởng hoài, chưa yên chưa lặng
nên coi như mình tu chưa có kết quả. Năm năm, mười năm nhìn
lại thấy cũng còn vọng tưởng, bèn than: "Ôi, mười
năm rồi mà tu vẫn không có kết quả gì!", nên thối Bồ
đề tâm.
Nếu quý vị ngồi thiền từ đầu
giờ đến cuối giờ, chịu khó để ý ngày nay nghĩ mười
lần, ngày mai còn chín lần, ngày khác còn tám lần... Như vậy
là đã thấy bước tiến của mình. Niệm khởi và vô thường
là điên đảo. Qua những cái đó chúng ta có những phút
giây sống với cái chơn thường. Từ niệm điên đảo mà
thức tỉnh, chúng ta sống lại với cái bình lặng vô thượng
chánh giác. Như vậy là mình có giác, chứ đâu phải hoàn
toàn mê.
Giả sử chúng ta còn vọng tưởng
mà ông chủ vẫn hiện tiền hoài thì có thiệt thòi gì đâu.
Mỗi niệm dấy lên ông chủ thấy quở nó, nó liền mất.
Lát sau nó dấy lên niệm khác, ông chủ thấy lại quở nó,
nó liền mất. Cứ như vậy, trong nhà có khách bước vô, chủ
chào hỏi, xong khách bước ra. Ðến người khác bước vô,
chủ cũng chào hỏi... Cả ngày khách tới lui tấp nập, nhưng
ông chủ vẫn có mặt để chào hỏi khách thì có thiệt
thòi gì đâu! Chỉ sợ không có ông chủ, khách vô làm quyền
ở trong nhà thì mới nguy. Chứ còn trong nhà có chủ, khách
bước vô, chủ chào rồi đưa ra. Như vậy ông chủ có thiếu
vắng lúc nào đâu?
Vậy mà nhiều người than thở
hoài,
"tu lâu mà không có kết quả", vì quên ông chủ của
chính mình. Nên biết giờ ngồi thiền không phải thiệt
thòi, mà chẳng những giờ ngồi thiền thôi, cho tới giờ
đi tưới hoa, nhổ cỏ, nấu cơm, lặt rau v.v... quý vị cũng
biết rõ từng niệm khởi. Ðó là quý vị không thiếu ông
chủ. Ông chủ vừa thấy dấy nghĩ liền đuổi đi, như vậy
có gì mất mát đâu? Nếu giờ nào cũng có ông chủ, tức
là giờ nào mình cũng có ông Phật. Tuy tu chưa thành Phật,
mà lúc nào cũng có Phật hộ cho mình. Ðó là Phật luôn
luôn gia hộ cho mình không bị mấy đứa phàm tục chen vô.
Ngược lại cứ dong ruổi, thả
trâu chạy cùng đường cùng xá, chiều lại thắp hương cầu
Phật phù hộ cho con, mà không chịu nhận ông Phật thường
trực gia hộ bên mình. Ðó là lối tu quên gốc chạy theo ngọn
ngành. Cái gốc đó không xa, ở gần bên mình. Nên chúng ta
thường hay nói tu là cốt trở về cố hương. Cố hương
ở đâu? Nếu nghĩ cố hương cách đây chừng năm trăm hay một
ngàn cây số là sai lầm. Chúng ta phải nhớ cố hương ở
ngay dưới gót chân mình chứ không ở đâu xa hết. Chúng ta
đang đứng trên cố hương mà quên mình đang đứng trên cố
hương, cứ nhìn đằng này đằng kia kiếm tìm cố hương.
Ðang đứng trên đất cố hương, mà cứ nhìn ra ngoài nên
nói quê hương xa mù, không biết ở đâu.
Như vậy mới thấy chúng ta hết
sức điên đảo. Cái thật hiện tiền lại quên, chỉ đuổi
theo cái tưởng tượng, cái mình ước mơ. Bây giờ muốn trở
về cố hương, chúng ta phải làm sao? Chúng ta phải chịu
khó nhìn xuống chân mình thì thấy chớ gì. Vì muốn cho
quý vị thấy cố hương nên tôi mới khuyên mỗi khuya mỗi
tối, quý vị ngồi nhòm xuống một chút. Ðừng nhìn đi xa,
nhìn xa thì quên bẳng quê mình. Nhìn xuống để thấy mình
đang ngồi, đang đứng tại quê hương cũ của mình. Ðó là
chúng ta tỉnh, chúng ta giác. Còn nếu quên, chạy đi tìm đầu
này góc nọ là chúng ta mê. Quên là mê. Mê cố hương hiện
tiền nên chạy tìm nơi nọ nơi kia. Tất cả chúng tu hành
là quay lại, nhận thẳng nơi mình, chứ không có ở đâu
xa.
Trở lại đề tài tôi nêu ở trước
là con ngỗng chúa chỉ uống sữa chừa nước. Chỗ rõ ràng
thường biết không dấy niệm là sữa. Niệm khởi sinh diệt
là nước. Nếu chúng ta ngồi thiền hoặc đi lại, mà cứ
nhìn nhận cái rõ ràng thường biết, không chạy theo cảnh
bên ngoài, gọi là biết uống sữa chừa nước lại. Ðó,
chúng ta đang làm một công tác lọc lừa, cái gì không phải
thật mình thì loại ra; còn ông chủ thật thì mình nhận
và sống với ông chủ. Ðó chính là công phu tu của mình. Nếu
một giờ không có vọng tưởng, hằng tri hằng giác, thì giờ
đó gọi là giờ Niết-bàn.
Như vậy ngay nơi thân phàm tục
này cũng vẫn có Niết-bàn. Nhưng Niết-bàn đó chưa trọn vẹn,
chỉ là Niết-bàn từng chặng, từng khoảng thôi. Lát thì
sinh tử, lát thì Niết-bàn, còn chập chờn chứ chưa hoàn tất
Niết-bàn. Chừng nào như Tổ Huệ Khả, mọi duyên đều sạch,
không còn một niệm nào nữa, lúc đó chúng ta vẫn sống, vẫn
đi lại, mọi công tác chúng ta vẫn làm mà tâm hằng giác,
hằng thanh tịnh, đó là Hữu dư y Niết-bàn. Như vậy Niết-bàn
xa không? Kiếm ở đâu? Chúng ta có quyền được Niết-bàn
không? Có ai không có quyền đó không?
Lâu nay chúng ta cứ nghĩ Phật,
Bồ-tát
mới có Niết-bàn, còn mình là phàm phu ngu si nên vô phần.
Bởi vì chúng ta cứ ngỡ Niết-bàn chỉ có, khi tu đến hoàn
toàn viên mãn. Chúng ta biết mình có nhân Niết-bàn rồi,
thì quả Niết-bàn sớm chầy gì cũng sẽ được. Như vậy
ai cũng có khả năng, ai cũng có thể tu được quả Niết-bàn.
Nên khi tôi thấy rõ việc này rồi, tôi cười vì hồi xưa
đến giờ chúng ta cứ nghĩ rằng sữa với nước đã hòa rồi
thì không tài nào lọc được, phải không? Nhưng bây giờ
có thể lọc được thì mình là ngỗng chúa rồi. Ngỗng
chúa này đang uống sữa lọc nước, chứ không phải đã uống
xong.
Như vậy quý vị cũng đang tập làm
ngỗng chúa đó, chứ đâu phải chuyện thường. Khi niệm khởi
là sanh tử, khi lặng lẽ hằng tri là vô sanh. Sanh tử với
vô sanh ở cạnh bên, một giờ ngồi thiền ít ra cũng được
phân nửa thời gian của vô sanh. Như vậy có buổi nào quý
vị không có Niết-bàn đâu. Ngày nào cũng có Niết-bàn nhưng
nhiều ít vậy thôi. Do đó trên đường tu không có chuyện
luống công vô ích mà chỉ vì chúng ta không nhận ra.
Tôi nhắc lại câu hỏi của ngài
Thạch Cựu: Bồ-tát Ðịa Tạng tay cầm viên ngọc để làm
gì? Bởi vì chúng ta cứ nghĩ Bồ-tát Ðịa Tạng mới có
viên ngọc, còn mình vô phần. Cho nên Ngài đặt câu hỏi lại
để cho chúng ta tỉnh, biết rằng mình cũng có ngọc. Chư Bồ-tát
có Niết-bàn, mình cũng có Niết-bàn, chứ không phải mình
vô phần. Chỉ vì mình không khéo, không nhận rồi cảm thấy
vô phần. Vô phần là tại có của mà không dám nhận, nên
thành kẻ cùng tử lang thang. Nếu nhận ra có ngọc báu đầy
kho thì mình là con trưởng giả, là phú gia rồi. Một bên
có mà quên thì thành cùng tử, một bên có mà nhớ thì
thành trưởng giả.
Bây giờ quý vị ưng làm gì? Ưng
làm cùng tử lang thang hay làm trưởng giả? Chúng ta hiện giờ
chắc cũng thấy mình là con trưởng giả, có nhiều của
chôn cất kỹ, chỉ tại chưa bới lên thôi. Mai kia bới lên
mình cũng sẽ là trưởng giả, chứ không nghèo nàn như người
ta tưởng nữa. Ý nghĩa này rất rõ ràng.
Tôi nói câu chuyện con ngỗng
chúa biết uống sữa chừa nước lại để giúp quý vị có
thêm kinh nghiệm trong việc tu hành. Mong rằng tất cả sẽ
là những con ngỗng chúa biết uống sữa chừa nước lại
như thế.
-ooOoo-