08
PHẬT
PHÁP LÀ THUỐC TRỊ TÂM BỆNH
CHO CHÚNG SANH
Giảng tại Thiền
viện
Quảng Ðức (Văn phòng II) - 2000.
Cùng
tất cả Tăng Ni giảng sư, hôm nay tôi được Ban Hoằng Pháp
mời giảng giải cho quý vị một buổi. Ðối với tôi giảng
giải là trách nhiệm của người tu sĩ, chứ không phải việc
bên ngoài. Lúc nào đủ duyên, tôi rất sẵn lòng, trừ trường
hợp đặc biệt không thể đến được thì thôi.
Hôm nay tôi nói chuyện với tất
cả Tăng Ni đề tài: Phật pháp là thuốc trị tâm bệnh
cho chúng sanh. Ðề tài này thật ra rất rộng, bởi
vì nó bao gồm toàn bộ giáo lý Ðại thừa cũng như Tiểu
thừa của Phật giáo. Nhưng có thể tùy theo hoàn cảnh, thời
gian tôi nói được bao nhiêu hay bấy nhiêu, quý vị theo đó
lãnh hội được chừng nào tốt chừng ấy.
Trong kinh Phật thường dạy pháp
của Phật là thuốc trị lành tâm bệnh của chúng sanh. Nếu
chúng sanh có bệnh gì thì Phật dùng thuốc ấy để trị.
Như vậy chúng sanh có bao nhiêu bệnh, Phật có bấy nhiêu thứ
thuốc. Chúng sanh có tám muôn bốn ngàn phiền não trần lao
thì Phật cũng có tám muôn bốn ngàn pháp môn.
Bởi vì để đối trị bệnh của
chúng sanh nên Phật mới nói ra tất cả pháp, với mục đích
dạy chúng ta học và tu. Khi tu học xong chúng ta đem pháp ấy
tiếp tục chỉ dạy cho những người khác, đó là con đường
hoằng pháp lợi sinh. Nói hoằng pháp lợi sinh, nhưng thực
nghĩa của nó là dạy phương pháp cho chúng sanh trị lành tất
cả tâm bệnh của họ thôi.
Thuốc của Phật trị cho chúng
sanh hết bệnh và sống hoài không chết. Vì vậy nhập Niết-bàn
gọi là vô sanh, mà không sanh thì làm gì có tử? Như vậy
tu theo Phật để đi đến chỗ cứu kính là giải thoát sanh
tử, vượt lên trên dòng sanh tử. Uống thuốc của đức Phật,
chúng ta sống được bao nhiêu tuổi? Vô lượng tuổi, không
thể tính đếm được. Nên nói đức Phật là Vua thầy thuốc
(Vô thượng y vương). Ðó là nghĩa thứ nhất.
Nghĩa thứ hai, thầy thuốc thế
gian trị bệnh cho người nhưng tới khi mình bệnh thì trị
không được, phải nhờ bác sĩ khác trị. Ðức Phật thì
ngược lại, Ngài tu để trị lành tất cả bệnh của mình
rồi, sau đó mới trị bệnh cho người khác. Ðó là Ngài dạy
pháp tu để chúng ta biết trị những tâm bệnh cho chúng ta.
Nhờ trị tâm bệnh được lành nên chúng ta mới khỏi dòng
luân hồi sanh tử.
Chúng ta thấy Phật dạy mình
làm, dạy mình tu những gì Ngài đã đạt được. Ngài đã
thoát khỏi sanh tử, nên mới dạy chúng ta tu để ra khỏi
sanh tử. Rõ ràng Ngài đã tự cứu và cứu chúng sanh, còn
thầy thuốc ở thế gian đã tự cứu không được, mà cứu
người thì có giới hạn nào thôi. Như vậy khả năng của
Phật xứng đáng là vua thầy thuốc rồi.
Phật là vua thầy thuốc, bây giờ
quý vị là giảng sư thì quý vị sẽ là gì đây? Là một
người quảng cáo thuốc của đức Phật hay là con vua thầy
thuốc, cháu vua thầy thuốc? Là con cháu ông Vua thầy thuốc,
chớ không phải thầy thuốc thường đâu. Như vậy quý vị
mới thấy tầm vóc quan trọng của một người tu.
Tôi trước kia cũng từng làm
giảng
sư, giảng nơi này, nơi kia. Thời từ năm 1954 cho tới 1963 là
những năm chúng tôi nằm trong Ban Hoằng Pháp Giáo hội Phật
giáo miền Nam. Thật ra khoảng thời gian đó, chúng tôi đang
học tại Ấn Quang, nhưng Hòa thượng Trưởng Ban Hoằng Pháp
là Thầy của chúng tôi, bắt chúng tôi đi giảng khi còn học
Trung học năm thứ hai, thứ ba. Một năm học có ba đợt nghỉ,
đợt tết nghỉ một tháng, đợt đầu hạ nghỉ một tháng,
đợt cuối hạ nghỉ một tháng. Mỗi tháng nghỉ đi giảng
hết ba tuần, thành ra còn có mười ngày thôi. Tùy theo sự
phân bổ của Ban Hoằng Pháp, chỗ nào cần thì chúng tôi
đi. Nhớ lúc đó bốn huynh đệ chúng tôi trong Ban Hoằng
Pháp, tôi là một, thầy Huyền Vi là hai, thầy Thiền Ðịnh
là ba, thầy Từ Thông là bốn, thường được mời đi giảng
nhất.
Khi đi hoằng pháp, mỗi người có
một sở trường, không ai giống ai cả. Nên bây giờ giảng
cho lớp giảng sư, tôi thấy rằng không thể nào đem một
khả năng riêng, một nghệ thuật riêng của từng cá nhân,
truyền đạt cho quý vị mà gọi là đủ được. Thời chúng
tôi, thầy Huyền Vi giảng là ăn khách nhất, Vì sao? Vì thầy
có những ưu điểm:
1- Thầy khéo chọc cười. Khi
giảng
mà thấy người ta hơi thiu thiu thì thầy kiếm chuyện nói
cho người ta cười rộ lên, nhờ thế mà hết buồn ngủ,
nên rất nhiều người thích. Ðó là ưu điểm thứ nhứt.
2- Thầy có tài viết chữ Hán bằng
tay trái. Khi nào cần dẫn danh từ chữ Hán, thầy bước xuống
bảng cầm phấn viết bằng tay trái, lúc đó người ta chú
ý theo dõi và rất thích thú. Ðó là ưu điểm thứ hai.
3- Thầy chịu khó học ngoại ngữ,
nhất là tiếng Phạn. Ví dụ nói Bồ-đề thì thầy thuộc
chữ Bồ-đề, tiếng Phạn viết như thế nào. Thầy còn học
cả chữ Anh, chữ Pháp nữa. Khi giảng tới từ đó, thầy
nói chữ Phạn, rồi nói chữ Anh, chữ Pháp; người ta nghe
say mê. Ðó là ưu điểm thứ ba.
Ba sở trường của thầy Huyền
Vi, tôi không được cái nào hết. Tôi không có tài chọc cười,
tôi không biết viết tay trái và tôi cũng không học tiếng
Anh, tiếng Pháp nữa. Nên tôi thua thầy những điểm đó.
Thầy Từ Thông thì có sở trường
vẽ. Thầy nói con cò, liền quẹt quẹt vài cái là nhìn thấy
con cò, nên người ta cũng chú ý. Riêng tôi, tôi không có sở
trường nào cả. Tôi chỉ đào sâu vào đề tài mình giảng,
cố gắng hết lòng cho người nghe lãnh hội vậy thôi. Nên
so với quý thầy, tôi thuộc hạng trung bình.
Khi đi giảng, Giáo hội lại
thường
phân công đi chung hai, ba người. Người nào giảng ăn khách
thì được mời hoài, còn người giảng dở thì có mặt
mình cũng coi như bị quên. Vì vậy đi chung với người giảng
giỏi buồn lắm. Nhưng tôi với thầy Huyền Vi có cái duyên
đặc biệt, thầy giảng ăn khách nhưng có ai hỏi thì thầy
để tôi trả lời. Thành ra hai chúng tôi hỗ tương nhau
cũng được.
Như tôi đã nói, thời gian đi
giảng
thật ra là thời gian cắm đầu học ở trường. Học xong rồi
đi giảng nên không có thì giờ tu. Thưa thật ngay cả hai thời
công phu cũng không tu đủ nữa. Bởi vì học đâu có thì giờ
mà tu. Cho nên thời gian đi giảng thấy Phật tử nghe vui, mình
cũng mừng. Nhưng có một lần chúng tôi giảng Phật Học Phổ
Thông khóa II ở Rạch Giá, Phật tử đông lắm. Tôi còn nhớ
rõ, kỳ đó chúng tôi giảng về quả vị tu chứng của Tứ
quả Thanh văn. Giảng xong, về chỗ nghỉ. Tôi và thầy Huyền
Vi đang ngồi uống nước, thì có một Phật tử tới đảnh
lễ hết sức tha thiết, ông nói:
- Quý thầy giảng về quả vị tu
chứng của Tứ quả Thanh văn, tụi con nghe rất hay. Nhưng
thưa thầy, thầy đã chứng được quả nào rồi?
Tôi ngẩn ngơ, không biết nói sao. Lúc đó thầy Huyền Vi
lanh miệng hơn tôi, liền trả lời:
- Ðạo hữu không biết sao, trong
nhà Phật thường nói ai tu chứng thì nấy biết, như uống
nước lạnh nóng tự biết, làm sao nói được?
Nghe vậy, Phật tử ấy không hỏi
nữa. Nhưng kể từ đó tôi thật áy náy, không hài lòng về
mình chút nào cả. Tôi thấy mình chỉ là người quảng cáo
thuốc của Phật, chớ thực sự không phải thầy thuốc
con.
Từ đó tôi cứ ôm ấp một nỗi
buồn trong lòng. Cho tới sau này khi mở Phật Học Viện Huệ
Nghiêm, tôi tự hứa với lòng rằng dạy một khóa cho anh em
ra trường rồi, tôi sẽ xin nghỉ để tu một chút. Chớ thực
ra thời gian qua vừa học, vừa đi dạy không có thì giờ
tu. Nên mãn khóa của anh em ở Huệ Nghiêm và quý cô ở Dược
Sư rồi, tôi xin phép nghỉ, giao lại cho thầy Bửu Huệ
trông nôm trường, tôi lên núi Vũng Tàu để tu.
Tôi tự nghĩ tất cả những nỗi
niềm khắc khoải của mình, nói thì hay mà hỏi đến việc
tu thì không biết, không có gì cả, như vậy quả tang mình
chỉ là một tay quảng cáo thôi. Phật nói pháp này hay,
pháp kia hay mình đều biết hết, nhưng hỏi thầy có lành bệnh
chưa thì lắc đầu không dám nói. Ðó là một khuyết điểm
lớn mà tôi tự thấy. Nhưng vì hoàn cảnh ngày xưa, Phật
pháp quá cần nên chúng tôi không dám từ chối. Mấy huynh
đệ hiện nay có lẽ khỏe hơn, lúc nào học xong rồi mới
đi giảng. Hoặc ai muốn chuyên tu một thời gian cũng có thể
được.
Từ khi nhập thất tu và tu có
được chút ít tiến, tôi mới thấy vui, thấy hài lòng phần
nào. Những gì mình nói được, mình cũng biết rõ, nắm chắc
không nghi ngờ nữa. Cho nên ngày xưa tôi giảng thường thôi,
không ăn khách lắm, nhưng tu một thời gian rồi giảng trở
lại, thì Phật tử tới rất đông. Như vậy sau này Phật tử
tới đông, không phải tôi có nghệ thuật nói hay, chọc cười
khéo mà chẳng qua là tôi tu, tôi biết được lẽ thật của
đạo ra sao thì chỉ dẫn cho mọi người cùng tu theo như vậy,
nên họ chịu nghe.
Người ta chịu nghe là đến với
mình, mình biết dạy họ giáo lý và biết chỉ phương pháp
cho họ tu, nên họ mới hoan hỷ. Chớ nếu nghe rồi về, khi
hỏi cách tu lại không biết, như vậy Phật pháp đối với
họ không hữu hiệu. Mà đã không hữu hiệu thì người ta
theo làm gì nữa.
Như năm 1964 tôi có mặt trong kỳ
Ðại hội Phật giáo năm ấy, tôi đề nghị với quý Hòa
thượng rằng, Phật giáo Việt Nam có ba tông phái chánh là
Thiền, Tịnh, Mật. Nhưng bây giờ không có tông phái nào đủ
cơ sở để hướng dẫn cho Tăng Ni, Phật tử tu. Vậy xin quý
Hòa thượng cho thành lập Thiền viện, Tịnh viện, Mật viện;
mỗi nơi có một phương pháp chuyên môn để tu hành.
Như thế khi giảng sư đi giảng,
ai muốn tu Thiền thì giới thiệu tới Thiền viện, ai muốn
tu Tịnh giới thiệu tới Tịnh viện, ai muốn tu Mật giới
thiệu tới Mật viện. Bởi khi giảng, giảng sư chỉ quảng
cáo thuốc thôi, ai muốn mua thuốc phải đến xí nghiệp sản
xuất thuốc mới mua được. Chúng ta phải có chỗ để giới
thiệu, hành giả muốn tu theo pháp môn nào thì đến nơi đó,
sẽ được chỉ dẫn cặn kẽ hơn.
Nhìn lại Phật giáo chúng ta
không có chỗ nào chuyên hết. Mình nói pháp đó hay lắm,
cao siêu lắm, nhưng Phật tử hỏi tu làm sao, thầy dạy cụ
thể cách thức thực tập thì thầy cũng ngẩn ngơ. Như vậy
có phải là một khuyết điểm lớn trong tổ chức của mình
không?
Bởi vậy thời của tôi, tôi thấy
rất rõ một số cư sĩ học Phật cũng kha khá như ông Nhuận
Chưởng, ông Minh Ðăng... các đạo hữu học cũng lâu ở
Ấn Quang, có thể giảng được. Vậy mà sau này, ông Nhuận
Chưởng thì theo ông địa, bà mẫu nào đó. Còn ông Minh
Quang bỏ Phật giáo, tu theo đạo Ba Hai bên Ấn Ðộ. Tại
sao vậy?
Mới nhìn chúng ta nghĩ những
người
đó phản bội, nhưng sự thực không phải vậy. Vì họ đã
hiểu phần lý thuyết rồi, họ chỉ cần tu thôi, nhưng ai dạy
họ tu đây? Chùa nào cũng tu một cách chung chung, không có
chỗ chuyên môn, không có nơi nghiên cứu và thực tập đến
nơi đến chốn, thì làm sao chúng ta giới thiệu cho họ tu?
Mà không có nơi tu tức là không đáp ứng được nhu cầu tâm
linh của họ. Do đó, buộc lòng họ phải đi tìm nơi này kiếm
nơi nọ, vô tình lạc vào những nẻo tà. Ðó là một khuyết
điểm lớn của Phật giáo chúng ta.
Cho nên khi chuyên tu, tôi mới
thấy
được lợi ích lớn lao của đạo. Vì sở trường của tôi
tu Thiền nên tôi thành lập các Thiền viện. Còn Tịnh viện
và Mật viện, tôi chưa thấy được mô hình nào cụ thể,
đi vào chuyên môn của pháp ấy một cách rõ ràng cả.
Như vậy một giảng sư chỉ nói
pháp cho Phật tử nghe, hiểu nhưng bản thân chưa có điều
kiện thực hành, thì tự nhiên mình chỉ là một quảng cáo
viên thôi, đâu phải thầy thuốc chính hiệu. Giá trị Phật
pháp sẽ được mở rộng hay bị tiêu mòn? Ðó là vấn đề
mà tôi muốn đặt ra cho tất cả quý huynh đệ hiểu và nghĩ
tới tương lai của Phật giáo.
Chúng ta tu Phật, nhất là những
thầy thuốc con phải biết những điều gì?
- Một là phải biết thuốc.
- Hai là phải biết bệnh.
- Ba là phải biết liều lượng cho người uống khỏi bệnh.
Ngày xưa Tôn giả A Nan tuy ở gần
đức Phật, nhưng công phu tu tập vẫn chưa xong. Một hôm
có hai người đệ tử đến xin Ngài hướng dẫn tu. Ngài
dạy người thợ rèn quán bất tịnh, người giữ mồ mã
quán sổ tức. Hai ông tu một thời gian, không có kết quả
gì hết. Họ đến bạch với Ngài: "Con tu lâu quá mà
không có kết quả, như vậy là tại sao?" Ngài lúng
túng không biết lý do, nên cầu cứu với Phật:
- Bạch Thế Tôn, con có hai người
đệ tử xin dạy pháp tu, một người con dạy quán sổ tức,
một người con dạy quán bất tịnh mà họ tu hoài không có
kết quả. Xin Thế Tôn dạy con phải làm thế nào để giúp
cho họ tu có kết quả.
Phật hỏi:
- Người ông dạy quán bất tịnh
làm nghề gì?
- Bạch Thế Tôn, họ làm thợ
rèn.
Hỏi:
- Người ông dạy quán sổ tức
làm nghề gì?
- Bạch Thế Tôn, họ làm nghề giữ
mồ mả.
Phật nói:
- Ông dạy như vậy là sai rồi.
Người giữ mồ mả ở nghĩa địa xem thấy thây ma hoài, dạy
quán bất tịnh mới thành công. Còn người thợ rèn thổi
ống bễ phì phịch phì phịch, dạy quán sổ tức mới
thành công.
Nghe nói vậy Ngài biết mình dạy
sai, nên trở về dạy hai người đệ tử đúng như lời Phật
dạy. Thời gian sau, hai người ấy vui mừng thưa: "Con vâng
lời Thầy dạy nên tu rất có kết quả".
Ðó, thầy thuốc mà không biết
bệnh,
trường hợp nào nên uống thuốc gì, nếu dạy sai đi thì
không có kết quả. Ðến trường hợp uống thuốc lặm nữa.
Uống thuốc lặm là như đức Phật dạy các thầy Tỳ-kheo
quán bất tịnh, khi quán bất tịnh các thầy thấy thân nhớp
nhúa, gớm đến không thể sống nổi, nên huynh đệ rủ
nhau cùng cắt cổ chết hết. Ðến ngày Bố-tát Phật thấy
chỉ còn bảy tám người, Ngài hỏi nguyên do, mới hay sự
việc trên. Phật liền quở:
- Ta dạy quán bất tịnh là cốt
để trị bệnh đắm sắc, chứ không phải quán bất tịnh
để tự tử. Tu mà tự tử là sai lầm rồi.
Vì vậy trong kinh nói sau khi
quán
bất tịnh, thấy nhờm gớm thân này đến rởn óc thì phải
dừng, quay sang quán tịnh. Ðó là trị bệnh mà uống quá liều
thì cũng chết. Chúng ta là thầy thuốc phải biết thuốc,
biết bệnh và biết liều lượng cho uống thì bệnh mới
lành. Nếu không biết những điều đó thì chẳng những trị
không lành bệnh mà có khi còn tai hại hơn nữa.
Tôi xin hỏi các thầy thuốc con
ở đây, như có người mắc bệnh tham đến xin điều trị,
quý vị dạy phương thuốc nào? Ðó là thực nghiệm mà
chúng ta phải biết. Ðã là thầy thuốc thì phải biết thuốc,
biết cách trị bệnh cho có hiệu quả. Khi người ta khai bệnh
tham, chúng ta đừng vội dạy pháp liền. Bởi vì tham có tới
năm thứ thông dụng: tham tài, tham sắc, tham danh, tham thực,
tham thùy hoặc tham sắc, tham thinh, tham hương, tham vị, tham
xúc. Trong năm cái tham đó, dùng thuốc khác nhau hay là cùng
một thứ? Ðiểm này thầy thuốc cần phải biết.
Người tham tài muốn có tiền của
nhiều, tới xin thầy dạy phương pháp tu cho hết tham thì
chúng ta phải dạy pháp bố thí. Bố thí là sao? Như gia đình
mình mỗi tháng có một triệu đồng đủ sống, bây giờ
tháng này làm được một triệu hai, như vậy là dư hai
trăm. Một triệu đã đủ sống, còn dư mà muốn để dành
là tham. Nếu dư hai trăm để dành, tháng sau dư hai trăm
cũng để dành nữa, tích lũy như vậy đó là tham. Muốn dứt
lòng tham thì dư hai trăm, tìm xem ai nghèo đói giúp họ, đó
gọi là bố thí. Dư hai trăm liền bố thí thì còn tham
không? Hết tham. Như vậy bố thí là trừ bệnh xan tham.
Pháp nào trị bệnh nấy rõ ràng.
Nếu người khai bị bệnh tham sắc
dục thì chúng ta dạy quán bất tịnh để trị. Khi quán
sát thân này thấy ba mươi sáu vật trong thân đều nhơ nhớp.
Hoặc như thân người chết rã rời, nhớp nhúa, quán như vậy
sẽ hết bệnh tham dục. Nhớ tới thân đã gớm còn đắm sắc
gì nữa?
Nếu người bị bệnh tham danh,
chúng
ta dùng hai phương thuốc trị mới lành. Phương thuốc thứ
nhất là quán vô thường, nghĩa là danh được rồi sẽ mất
chứ không còn hoài. Ví dụ như người đắc cử một chức
vụ nào đó, khi mãn nhiệm kỳ bốn năm tám năm rồi cũng
trở lại thường dân, chứ đâu ngồi mãi chiếc ghế đó
được. Như vậy giành giựt nhau, tranh đấu nhau để có một
chút chức tước, nhưng chức tước đó được rồi sẽ mất.
Vì mất nên nói không lâu dài. Ðã không lâu dài thì tội
gì mình phải khổ, phải lo. Ðó là thang thuốc quán vô thường,
nhưng một thang này thôi thì chưa đủ hiệu nghiệm, phải
thêm thang thuốc quán khổ nữa.
Khổ là sao? Ðức Phật dạy người
hiếu danh khi chưa được thì chạy chọt, tìm cách cho được
nên khổ. Khi được rồi thì sợ mất nên cũng khổ. Khi đã
mất càng buồn rầu càng thêm khổ. Như vậy chưa được khổ,
được rồi khổ và mất cũng khổ. Ba thời, trước khổ,
giữa khổ, sau cũng khổ. Xét như vậy thì hết tham danh.
Nếu người bị bệnh tham ăn, chúng
ta dùng thuốc gì để trị? Bệnh này rất phổ biến. Bởi
vì ai cũng thích được ăn ngon, ăn nhiều. Nên muốn trị bệnh
tham ăn phải dùng pháp quán bất tịnh. Tại sao phải quán bất
tịnh? Vì khi thức ăn còn ở ngoài, trước mắt trước
mũi, mình ngửi nghe thơm tho nhưng khi nhai nuốt tới cổ rồi
thì nó còn ngon, còn thơm nữa không? Nếu tới bao tử mà
bao tử không chịu chứa, bắt phải ụa ra. Khi ụa ra có gớm
không? Nếu nó sạch, nó quý thì trong ngoài gì cũng sạch,
cũng quý. Tại sao trong bụng mình mửa ra thì gớm thôi là gớm.
Còn như tiêu hóa được, xuống dưới rồi cho ra cửa sau có
gớm không? Rất là gớm. Như vậy nếu nó sạch thì trước,
giữa, sau đều sạch. Ðằng này chỉ một chút bên ngoài
thôi, vô tới bên trong là bắt đầu nhớp nhúa, rồi khi trả
ra cũng nhớp chớ đâu phải sạch. Cái không sạch mà tại
sao mình tham? Ðó, như vậy nghĩ tới nhơ nhớp mà bớt bệnh
tham ăn.
Ðồng thời phải nghĩ tham ăn là
gốc của khổ vô thường. Tại sao? Bởi vì nuốt vô khỏi
cổ thì tất cả thức ăn mất hết, chỉ ngon có mấy phút
thôi. Nói mấy phút là nhiều đó, chớ còn thật ra một miếng
ăn ngon chỉ có mấy giây đồng hồ. Cái ngon đó không thật,
chỉ giả tạm, qua rồi mất. Nó là vô thường, vô thường
thì có gì mà mình phải tham? Như vậy nhờ quán thức ăn bất
tịnh, vô thường nên trị được bệnh tham ăn.
Nếu người bị bệnh tham ngủ, dùng
thuốc gì để trị? Tham ngủ là gốc của si mê, lười biếng.
Nên muốn trị bệnh này phải lấy cây roi tinh tấn mà đánh
nó. Nghĩa là khi nghe tiếng kẻng phải trổi dậy liền, nếu
chần chờ là lười biếng. Người như vậy rất xấu hổ,
không nên, phải thức đúng giờ giấc để tu tập. Do đó
phải thúc nó bằng roi tinh tấn, kêu dậy lo tu. Chỉ có tinh
tấn mới đuổi được con ma tham ngủ thôi.
Ðồng thời trong nhà Phật cũng
dạy
lấy thuốc vô thường để trị bệnh tham ngủ. Bởi vì cuộc
đời chúng ta không lâu dài, vô thường, không đoán định
được. Bao nhiêu tuổi mất, không ai biết được. Một ngày
qua tức tuổi thọ giảm một phần. Như vậy nếu để ngày
này trôi qua, ngày kia trôi qua thì đời tu của mình còn có
giá trị gì? Muốn sống có ý nghĩa, chúng ta phải nhớ đời
là vô thường, ngày nào còn sống thì chúng ta cố gắng tu
ngày ấy.
Như trong kinh có câu: "Thị nhựt
dĩ quá, mạng diệc tùy giảm, như thiểu thủy ngư, tư hữu
hà lạc. Ðại chúng đương cần tinh tấn, như cứu đầu
nhiên. Ðản niệm vô thường, thận vật phóng dật."
Nghĩa là ngày nay đã qua, mạng theo đó mà giảm, như cá cạn
nước, không có gì vui hết. Ðại chúng cần phải tinh tấn
tu, như cứu lửa cháy đầu. Chỉ nhớ nghĩ vô thường, dè
dặt chớ buông lung!. Ðó, là dùng thuốc quán vô thường để
thúc đẩy mình. Nhờ thế trị được bệnh tham ngủ.
Ðó là những phương thuốc trị
bệnh tham.
Bây giờ có người bị bệnh sân
đến xin thuốc, chúng ta sẽ dạy họ trị bằng cách nào?
Trong nhà Phật dạy rất đầy đủ, người bệnh sân phải
dùng thuốc nhẫn nhục và từ bi để trị.
Muốn nhẫn nhục phải làm sao?
Khi người ta chọc mình nổi tức lên, muốn nhịn được họ
chúng ta phải đọc câu này: "Nhịn là khôn, nói là dại",
nhắc đi nhắc lại chừng một chục lần thì hết nói. Hết
nói thì tránh được lỗi sân hận. Vì khi nổi nóng thì thường
nói bậy, làm khổ người ta. Nói bằng lời chưa đã thì tới
tay chân. Cho nên vừa sửa soạn nói thì tự nhắc mình:
"Nhịn là khôn, nói là dại", từ từ sự nóng
giận chìm xuống. Nhưng chìm xuống chứ chưa hết gốc đâu,
lâu lâu nhớ lại cũng nổi giận nữa. Nên phải dùng quán
từ bi để trị cho dứt gốc.
Quán từ bi là thương từ người
thân như cha mẹ, anh em cho tới người sơ như những kẻ lạ
và cuối cùng là người thù, mình đều thương hết. Chừng
nào thương được người thù thì không còn sân nữa. Ðó
là bứng tận gốc.
Như vậy mỗi một bệnh, chúng ta
phải dùng một hoặc hai pháp hỗ tương để trị thì bệnh
mới lành. Bệnh nào dạy pháp ấy, trị được lành thì bệnh
nhân mới được an lạc. Còn mình dạy nhiều pháp nhưng ai
muốn tu gì thì tu, chứ mình không chỉ rõ pháp nào trị bệnh
ấy, thì việc tu sẽ không đến nơi đến chốn. Ðó là
tôi nói đại lược về bổn phận của một ông thầy thuốc.
Kế đây tôi nói thêm, một vị
giảng sư còn phải nắm vững hai yếu tố. Hai yếu tố ấy
là gì? Một là khế lý, hai là khế cơ. Khi giảng phải
hợp với chánh pháp là khế lý, hợp với trình độ của
người đương thời là khế cơ. Có khi chúng ta soạn bài giảng
cao, nhưng tới chỗ giảng thấy toàn căn cơ thấp thì chúng
ta phải hạ xuống cho hợp với căn cơ của họ. Ngược lại,
nếu mình soạn bài thấp mà tới chỗ giảng thấy toàn căn
cơ cao, thì mình phải nâng nội dung bài giảng lên cho phù hợp.
Vì vậy hai yếu tố khế lý, khế cơ là tối quan trọng đối
với một giảng sư. Giảng sư mà không biết điều này thì
dễ thất bại. Ðó là điều quý vị cần nhớ.
Khi nói đến khế cơ thì phải thấy
được hai phần: một là thời cơ, hai là căn cơ. Thời cơ
tức là thời điểm mình giảng trong hoàn cảnh xã hội như
thế nào, thích hợp hay không? Căn cơ là trình độ người
nghe tới đâu, phải nói cho khế hợp. Ðược vậy mới gọi
là người lịch lãm trong việc giảng dạy. Nói thế để quý
vị thấy hoàn cảnh là yếu tố cần thiết cho chúng ta nhận
xét và ứng dụng một cách thích hợp cho sự tu hành.
Về thời cơ, chúng ta cứ nhìn
suốt
chiều dài lịch sử Phật giáo Việt Nam, bắt đầu từ thế
kỷ thứ thứ hai mãi tới bây giờ gần hai mươi thế kỷ.
Nhưng từ thế kỷ thứ chín, thứ mười là thời Việt Nam
giành độc lập từ tay người Trung Hoa. Thời đó, Phật
giáo Việt Nam chủ yếu là tu Thiền. Thiền theo hai hệ: Hệ
của ngài Tỳ Ni Ða Lưu Chi và hệ của ngài Vô Ngôn Thông.
Hai hệ đó truyền sang Việt Nam thì các nơi đều lấy Thiền
làm nền tảng cho việc tu hành. Nên các nhà sư giúp cho đất
nước được độc lập toàn là Thiền sư, như Thiền sư Vạn
Hạnh, Thiền sư Khuông Việt... Các Ngài đảm đang trách nhiệm
hướng dẫn cho triều đình sống và trị nước hợp với
đạo lý. Ðến hai tông phái Lâm Tế và Tào Ðộng từ Trung
Hoa truyền sang Việt Nam vào thế kỷ thứ 18, 19 cũng tu Thiền.
Như vậy từ trước mãi cho đến thế kỷ 19, Phật giáo Việt
Nam gần như là Phật giáo tu Thiền.
Nhưng tới thời Pháp thuộc, trong
thế kỷ 20 thì không tìm ra được người tu Thiền. Tại
sao như vậy? Ðiều đó cũng dễ hiểu thôi. Bởi vì cuối
thế kỷ 20 là thế kỷ chúng ta bị Pháp cai trị, nền độc
lập của xứ sở không còn. Nếu còn chỉ ẩn kín nơi một
số người làm cách mạng. Vì vậy đa số đều thất vọng
khi thấy mình bị làm tôi đòi, nô lệ. Mà đã nô lệ thì
tu Thiền không thể thích hợp được. Cho nên từ đó trở
về sau các bậc Tôn túc đã khéo léo, chuyển từ pháp Thiền
qua pháp Tịnh độ.
Như vậy pháp tu Tịnh độ lúc đó
tương ứng với hoàn cảnh đất nước bị Pháp cai trị. Bởi
vì bản thân người dân không có gì vui, mà luôn cảm thấy
mình bị nô lệ nên buồn chán. Tụng kinh Di Ðà thấy cõi Cực
Lạc ở Tây phương rất vui đẹp, nên ai cũng mong mỏi được
sống trong cảnh an lạc đó cả. Vì vậy pháp môn niệm Phật
cầu vãng sanh thích hợp với hoàn cảnh lúc đó. Các Ngài dạy
tu Tịnh độ đều được mọi người hưởng ứng tu theo. Lý
do ấy rất rõ ràng.
Nhưng tới ngày nay, đất nước
đã hoàn toàn độc lập, chúng ta thấy tu Thiền thích hợp
trở lại. Quý vị đừng nghĩ tôi tu Thiền nên chủ quan cho
rằng Thiền là hay hơn cả. Tôi nhắc lại cho quý vị nhớ,
nhà nước hiện giờ luôn nhắc nhở toàn dân phải xây dựng
lại nền văn hóa mang bản sắc dân tộc của mình. Muốn
cho văn hóa Việt Nam thể hiện đầy đủ bản sắc dân tộc
thì Phật giáo chúng ta phải làm sao? Nếu chúng ta giữ như
ngày xưa, tối thì Tịnh độ niệm Phật tụng kinh Di Ðà,
khuya thì trì chú Lăng Nghiêm. Như vậy có thích hợp với bản
sắc dân tộc không? Vì tụng kinh Di Ðà bằng chữ Hán rồi
trì chú bằng chữ Phạn. Hai ngôn ngữ đó người Việt Nam
nghe không ai hiểu cả.
Như vậy người Việt Nam tu và dạy
cho Phật tử mình tu mà không ai hiểu gì hết, thế là sao?
Ðiều đó hết sức vô lý. Nếu chúng ta muốn thích ứng,
hài hòa giữa đời với đạo thì phải có pháp tu thích hợp
với hoàn cảnh xã hội hiện tại. Nhất là giảng sư đi đâu
cũng nói, cũng chỉ cho người ta cái gì đúng, cái gì sai,
cái gì hợp, cái gì không hợp v.v... mà bản thân chúng ta
thì không có đường lối tu thích hợp.
Như bây giờ chúng ta tu hay dạy
người tu, mà pháp môn ấy không thích ứng với bản sắc
dân tộc, tinh thần dân tộc hay văn hóa dân tộc thì đó
là không hợp thời rồi. Cho nên thay vì tụng hai thời Tịnh
độ và trì chú Lăng Nghiêm, chúng tôi chỉ dạy Phật tử tụng
sám hối sáu căn của vua Trần Thái Tông soạn. Như vậy có
phải gần với dân tộc hơn không? Vì đó là nghi thức của
người Việt Nam soạn. Một bài sám hối mang tính chất
hoàn toàn của người Việt Nam. Còn các bài sám hối khác,
văn tuy hay nhưng là của người Trung Hoa soạn ra, làm sao gần
gũi với người Việt Nam được.
Kế đó, chúng tôi chủ trương khôi
phục Thiền tông đời Trần. Năm ra Bắc, tôi được Viện
Hán Nôm mời nói chuyện ba buổi. Trong ba buổi nói chuyện
ấy, quý vị có đặt một câu hỏi: Nếu nói Thiền Việt
Nam thì phải có những nét khác Thiền Trung Quốc, Thiền Nhật
Bổn, Thiền Ấn Ðộ... Như vậy thì thế nào là chỗ đặc
thù của Thiền Việt Nam?
Ở đây, tôi xin đi xa một chút
cho quý vị hiểu rõ. Ngày nay chúng ta nghe gọi Phật giáo Việt
Nam, trong đó Phật giáo là chung còn Việt Nam là riêng. Phật
giáo là chung, gốc đó không sai nhưng ngọn có sai biệt
chút ít, điều này không thể tránh khỏi. Như vậy Phật giáo
Việt Nam với Phật giáo Trung Hoa, Phật giáo Nhật Bổn, Phật
giáo Thái Lan v.v... mỗi nơi đương nhiên phải có nét riêng
khác. Gốc đạo lý thì không hai nhưng ứng dụng tu hành cho
phù hợp với từng dân tộc thì có sai biệt. Cho nên câu hỏi
Thiền tông Việt Nam so với Thiền Nhật Bản, Trung Hoa, Ấn
Ðộ sai biệt ở chỗ nào, không phải là vấn đề đơn giản.
Trong phạm vi bài này, tôi không
thể nói đầy đủ hết được, nên chỉ tóm lược cho quý
vị có khái niệm thôi. Ðặc thù Phật giáo Thiền tông ở
Ấn Ðộ là lý luận rất siêu thoát, rất tinh vi. Còn Trung
Quốc, họ luôn quan niệm và tự hào mình là một nước nằm
giữa thế giới nên có nền văn hóa cổ xưa nhất trần
gian. Cho nên Thiền tông Trung Quốc, nhất là cuối đời Ðường
sang đời Tống, có những biến chế, sáng tạo một cách đặc
biệt. Như ở Ấn Ðộ thì lý luận khúc chiết, còn Trung Quốc
thì Thiền được thể hiện bằng đánh, bằng hét v.v...
Chúng ta nghe Tổ Hoàng Bá hay đánh, Tổ Lâm Tế hay hét cho tới
ngài Ðức Sơn thì ăn gậy v.v... là những điểm đặc biệt
của Thiền Trung Quốc.
Thiền tông Nhật Bổn thì sao?
Không đánh, không hét như Trung Quốc mà Nhật Bổn nặng về
nghệ thuật. Cho nên Phật giáo ở đây đều biến thành nghệ
thuật hết, như nghệ thuật bắn cung, nghệ thuật đánh kiếm,
nghệ thuật đánh võ. Vì vậy về võ thì gọi là Nhu đạo,
về kiếm gọi là Kiếm đạo, về trà gọi là Trà đạo.
Ðó là những sai biệt của Thiền
tông Ấn Ðộ, Trung Hoa, Nhật Bổn. Còn Việt Nam chúng ta
thì sao, có gì đặc biệt?
Thiền tới Việt Nam là một nước
nhược tiểu, cho nên lúc nào cũng có tính chất khiêm nhường.
Nhưng người đã lãnh hội được Thiền thì có cảm hứng
đặc biệt. Bởi có cảm hứng cộng với bản tính người
Việt Nam thông minh tế nhị, nên Thiền Việt Nam trở thành
thi vị. Quý vị đọc lại sử của Thiền sư Việt Nam, sẽ
thấy đa số các Ngài thích nói kệ, nói thi chớ không đánh,
không hét.
Như tôi đã nói, chủ trương của
chúng tôi là khôi phục Thiền tông đời Trần. Nếu nói
theo sử Phật giáo của dân tộc ta thì từ thế kỷ thứ 6
thứ 7 có Thiền Tỳ Ni Ða Lưu Chi. Ngài Tỳ Ni Ða Lưu Chi là
người Ấn truyền Thiền sang Việt Nam. Tới thế kỷ thứ 8
thứ 9 có Thiền của ngài Vô Ngôn Thông là người Hoa truyền
sang nước ta. Ðến thế kỷ 12, 13 tức đời nhà Trần, thì
vua Trần Nhân Tông đi tu lập ra hệ phái Trúc Lâm Yên Tử,
Ngài là Sơ Tổ.
Ngài đã thu nhặt tinh hoa những
hệ
Thiền trước kết tụ lại thành Thiền Việt Nam, lấy tên
là Thiền Trúc Lâm Yên Tử. Như vậy Sơ Tổ dòng thiền này
là người Việt Nam, một ông vua Việt Nam. Nói tới khôi phục
Thiền tông đời Trần, tức là khôi phục Thiền tông Việt
Nam. Dòng Thiền này rất gần gũi với chúng ta, vì nó mang
tính dân tộc, mang bản sắc Việt Nam. Ðó là ý nghĩa tôi
nói khôi phục Thiền tông Việt Nam.
Thêm một vấn đề nữa trên phương
diện thời cơ. Như khi tôi lập Thiền viện Thường Chiếu
cho Tăng Ni tu, đồng thời tôi cũng lập Tuệ Tĩnh Ðường hốt
thuốc miễn phí cho dân. Bởi vì theo hoàn cảnh riêng biệt
của mỗi địa phương mà chúng ta có những phương tiện giáo
hóa khác nhau. Ở Thường Chiếu chung quanh là dân nghèo,
chúng tôi lập Tuệ Tĩnh Ðường để vừa tu, vừa giúp đỡ
đồng bào. Ðó là việc thích hợp với hoàn cảnh nơi đây,
nên được mọi người hưởng ứng. Vì thế việc giáo hóa
sẽ có nhiều thuận lợi.
Ðến khi lập Thiền viện Trúc
Lâm, tôi không mở Tuệ Tĩnh Ðường nữa mà tạo cảnh quan
đẹp cho khách du lịch đến viếng. Như vậy tùy điều kiện
ở mỗi nơi mà tôi làm việc này hay việc nọ. Ở chỗ dân
nghèo cần thuốc men thì có Tuệ Tĩnh đường. Còn Ðà Lạt
là thành phố du lịch, cần thu hút được khách du lịch
thì dân ở đó mới có phương tiện sống. Như vậy chúng
ta tạo duyên để người ta tới đông, dân ở đó mới có
phương tiện làm ăn sinh sống. Ðây cũng là cách để giúp
cho dân nơi này. Thành ra tùy thời, tùy căn cơ mà chúng ta
có những việc làm khác nhau. Cốt làm sao cho thích ứng với
hoàn cảnh của xã hội hiện tại, vừa lợi đạo vừa ích
đời.
Ðó là tôi nói đại khái để chúng
ta thấy người truyền đạo, giáo hóa phải biết thời biết
cơ, ứng dụng cho thích hợp. Như Phật dạy tùy hoàn cảnh,
vua chúa Ngài nói khác, dân dã Ngài nói khác, làm sao cho người
nghe thu nhặt được kết quả tốt. Như vậy việc giáo hóa
mới đem lợi ích lại cho mọi người.
Như thời hiện tại này và tương
lai mai sau, chúng ta thấy truyền bá Tịnh độ là thích hợp
hay truyền bá Thiền thích hợp? Ðó là vấn đề tôi muốn
đặt ra cho tất cả huynh đệ nhìn kỹ, xét kỹ. Nói thế
tôi phải đi xa hơn một chút.
Thuở còn nhỏ, tôi biết nước
Việt Nam chỉ có một trường Ðại học Y Khoa đặt ở Hà
Nội. Miền Trung không có trường học công lập. Miền Nam,
ở Sài Gòn chỉ có trường Pétrus Ký (nam) với trường Gia
Long (nữ). Các tỉnh thì Mỹ Tho có trường trung học Nguyễn
Ðình Chiểu, Cần Thơ có trường trung học Ba-Sắc. Ở tại
Huyện, ngày xưa gọi là Quận chỉ có trường Tiểu học từ
lớp Năm tới lớp Nhứt (bây giờ gọi là lớp Một tới lớp
Năm). Ở Xã chỉ có trường dạy từ lớp Một tới lớp Ba
thôi, không có hơn nữa. Ngoài ra tất cả trường tư thục
thì do nhà dòng lập ra, chứ nhà nước chỉ có mấy trường
thôi. Như vậy dân trí của mình thời xưa như thế nào? Có
thể nói hầu hết tới 90% người dốt hoặc chỉ được gọi
là biết chữ, còn trí thức có 10% thôi. Mà 10% trí thức đó,
đa số học ở các trường dòng, trường của mấy Ma-sơ.
Như vậy giới trí thức nghiêng về Công giáo, còn Phật
giáo chẳng có bao nhiêu.
Trong hoàn cảnh như thế, nếu đạo
Phật không dạy tu Tịnh độ thì đâu ai hiểu gì về Phật
pháp mà tu. Cho nên chỉ có pháp môn Tịnh độ là thích hợp
trong thời đó. Nhưng tới thời này, quý vị nhìn lại xem nước
ta có bao nhiêu trường Ðại học? Từ Bắc chí Nam có rất
nhiều trường Ðại học. Ở mỗi Tỉnh cũng có Ðại học
hoặc hai ba Tỉnh có một trường Ðại học. Tại Thủ đô
Hà Nội có ba, bốn trường Ðại học rồi Thành phố Hồ
Chí Minh cũng nhiều trường Ðại học. Các trường Trung học
thì tại Xã cũng có nữa.
Như vậy con em chúng ta mai kia
sẽ
dốt như mình hồi trước hay là giỏi hơn, trí tuệ hơn? Nếu
dốt hơn thì mình dạy pháp đơn giản nó mới hiểu, mới
tu được. Còn nếu thông minh hơn, giỏi hơn mình thì dạy
như vậy nó không chấp nhận đâu. Chúng ta phải thấy được
điều đó.
Tôi nói hơi xa một chút, như năm
tôi sang Pháp gần cuối mùa hè. Vừa tới Paris, thầy Nhất
Hạnh điện thoại mời tôi xuống nói chuyện ở làng Hồng.
Khi xuống, lớp học hè của thầy sắp mãn, số người ngoại
quốc tham dự đến hai ngàn mấy trăm người. Hôm đó thầy
mời tôi giảng. Tôi cười nói:
- Tôi chỉ biết tiếng Việt Nam
thôi, thầy bắt tôi giảng cho người ngoại quốc, làm sao
tôi giảng được.
Thầy bảo rằng:
- Thầy đừng ngại, cứ giảng. Nếu
người nói tiếng Pháp họ sẽ ngồi một cụm, người nói
tiếng Anh ngồi một cụm. Mỗi người có mang sẵn ống
nghe, thầy giảng bằng tiếng Việt, dưới đó có người dịch
ra ngay cho từng nhóm của họ. Tất cả đều được nghe rõ
ràng, thầy không phải sợ.
Thành ra tôi nói tới đâu người
ta nghe tới đó, chớ không có kiểu nói một câu, rồi ngồi
chờ thông dịch viên dịch, xong mới nói câu nữa. Giảng kiểu
đó thì buồn chết.
Hôm đó tôi giảng về đề tài
Phật giáo Việt Nam. Tôi đề cao tinh thần của người phụ
nữ Việt Nam, nhất là người phụ nữ Phật giáo. Vì Phật
giáo Việt Nam từ Bắc chí Nam gần như 80% chùa đều
thờ đức Quan Âm. Hoặc thờ trong chùa hoặc thờ lộ
thiên. Như vậy Việt Nam rất tôn trọng phái nữ, vì đức
tính tốt của người nữ là nhẫn nhục và từ bi. Tôi kể
chùa ngoài Bắc, chùa nào cũng có thờ ông thiện, ông ác.
Ông thiện thờ thì phải, sao lại thờ ông ác?
Nhân đó, tôi mới giải thích rằng
ở Việt Nam sự tu hành luôn luôn có hai mặt; một mặt thì
giúp đỡ khuyến khích tiến lên, còn một mặt thì phải răn
đe dọa nạt cho người ta sợ. Với người hiền lành thì
khuyến khích giúp đỡ cho họ tiến, với người hung dữ phải
răn đe dọa nạt cho họ bỏ thói xấu. Cả hai mặt đều là
Bồ-tát hết. Nói thế để người ngoại quốc thấy được
cái hay của Phật giáo Việt Nam.
Giới trí thức Tây phương muốn
tu Thiền, ham tu Thiền; còn giới trí thức Việt Nam có muốn
tu Thiền không? Cũng muốn tu Thiền. Thiền lại là sở trường
của Phật giáo Việt Nam từ thuở tổ tiên của chúng ta. Vậy
mà chúng ta không khai thác sở trường của mình, để nó
chìm vào quên lãng thì như vậy mình có lỗi không? Chính
vì lẽ đó mà tôi chủ trương khôi phục Thiền tông Việt
Nam. Khi tôi chủ trương làm việc này, ít ai vui vẻ chấp nhận.
Nhưng vì tôi thấy cơ duyên của Phật giáo đến lúc phải
như vậy, không thể khác hơn được. Bởi vì trong thời đại
ngày nay, chỉ có tu Thiền là thích ứng với người trí thức
trong cũng như ngoài nước.
Ngày xưa ông bà chúng ta ít học,
cho nên dạy những gì cao xa không hiểu, buộc lòng phải dạy
tu Tịnh độ. Các Ngài bảo cứ niệm Phật đi, niệm rồi
Phật sẽ đón về bên đó sung sướng lắm, không như ở đây.
Do dễ hiểu nên dễ chấp nhận, vì vậy người thời đó
hoan hỷ tu theo. Nhưng bây giờ con cháu chúng ta khôn hơn chúng
ta nhiều. Nó lý luận và hấp thụ nền văn minh của khoa học
hiện đại, mà đã khoa học thì phải thực tế, phải được
chứng minh cụ thể, chớ không nói suông được.
Thí dụ như khi ra Bắc, tôi thấy
các chùa viết sớ bằng chữ Hán rồi đội trên đầu Phật
tử, cúng vái. Tôi đặt câu hỏi, không biết đức Phật
người Tàu hay người Ấn? Nếu Phật người Ấn mà viết
chữ Hán, thì phải có thư ký dịch ra Phật mới hiểu được
chớ. Còn nếu Phật có tha tâm thông, biết đủ hết tất cả
các tiếng thì mình cứ lòng thành viết chữ Việt, Ngài đọc
sẽ hiểu và sẽ thông cảm ngay, cực khổ gì phải viết chữ
Hán cho khó khăn vậy. Chuyện đó thật làm sao đâu!
Như vậy mai chiều con em mình có
chịu tin, chịu nghe, chịu làm những điều như vậy không?
Ðó là những việc mà người tu sĩ Phật giáo chúng ta, nhất
là quý vị giảng sư phải am hiểu, phải phân định cho rõ
ràng, chính chắn. Cái gì thích hợp với hoàn cảnh, thích hợp
với thời đại, thích hợp với căn cơ của chúng sanh thì
mình khuyến khích, mình phổ biến. Còn cái gì không thích hợp
thì mình phải gác qua, phải xét nét và giải thích cho mọi
người cùng hiểu kỹ càng. Nếu không như thế vô tình
mình làm cho Phật giáo ngày càng bị quên lãng, càng bị chối
bỏ. Ðây là điều mà tôi thấy cần phải nói cho tất cả
hiểu, thông cảm.
Gần đây ở Việt Nam chúng ta,
người
ngoại quốc tới xin tập tu ở Thiền viện khá nhiều. Như
vậy họ sang Việt Nam và muốn nghiên cứu Thiền, muốn tu
Thiền thì nơi nào dạy Thiền họ mới tới, còn không dạy
Thiền họ sẽ không tới. Ðó là điều dĩ nhiên thôi. Nên
pháp môn được nhiều người đương thời trông cậy, mong
chờ mà mình không biết, không dạy cho họ tu thì thật là
uổng.
Hồi tôi còn dạy tại Vạn Hạnh,
có dự một buổi hội thảo. Ðến giờ nghỉ giải lao, có
một Giáo sư dạy trường Ðại học Tổng Hợp đến gần
than với tôi: "Thưa thầy, tôi đang gặp một vấn đề
nan giải". Tôi hỏi: "Giáo sư gặp vấn đề gì nan
giải quá vậy?" Ông mới kể: Ông là Giáo sư trường
Ðại học Tổng Hợp, là trưởng khoa Văn. Mới đây, bên Ðức
vừa gửi thư mời ông qua dự hội thảo về Phật giáo đời
Trần. Ông nói: "Thưa thầy, tôi chưa nghiên cứu gì về
vấn đề này cả".
Quý vị thấy rõ ràng người Tây
phương mà còn chú ý tới Phật giáo đời Trần của chúng
ta như vậy. Trong khi đó người Việt Nam lại hết sức lơ
là, không để ý tới gì cả. Nhất là giới tu sĩ, không cần
biết Phật giáo nước nhà như thế nào, có những điểm gì
đặc biệt. Như vậy chúng ta có đáng trách không? Nếu ra
ngoại quốc, bị người ta hỏi Phật giáo đời Trần như
thế nào, những gì ưu, những gì khuyết mình đều không biết,
có phải xấu hổ không?
Cho nên là giảng sư thì quý vị
phải nghiên cứu, phải hiểu cho rõ tương lai Phật giáo của
chúng ta như thế nào, nên truyền giáo làm sao cho thích ứng,
cho phù hợp thời đại. Có vậy mới mong nối nắm được
mạng mạch của Phật pháp. Bằng không, chính là chúng ta tự
làm cho đạo pháp đi vào suy vi vậy.
Mong rằng quý vị giảng sư cố
gắng
tìm hiểu nghiên cứu cho kỹ, để giảng dạy cho mọi người
biết bệnh, biết thuốc trị. Tôi xin nhắc lại lần nữa,
chúng ta là người quảng cáo đạo Phật hay là ông thầy
thuốc nhỏ, đệ tử đệ tôn của Vua thầy thuốc? Quý vị
chịu làm gì? Chịu làm quảng cáo hay chịu làm thầy thuốc
con? Nếu là thầy thuốc con thì phải học thuốc, học cách
trị bệnh y như cha mình, để làm sao cho mọi người được
lành bệnh. Ðó mới đúng là con Vua thầy thuốc.
Tôi hy vọng buổi nói chuyện hôm
nay sẽ đem lại nhiều lợi ích cho tất cả quý vị, trên bước
đường tu đạo cũng như hành đạo của mình.
-ooOoo-