06
TỪ
BI VÀ TRÍ TUỆ
Giảng tại Trường
hạ
Ðại Tòng Lâm - 1999
Lâu
lắm chúng tôi không có cơ hội về giảng cũng như nhắc nhở
sự tu hành cho toàn thể chư Tăng Ni ở khu Ðại Tòng Lâm.
Hôm nay được ban tổ chức trường hạ Ðại Tòng Lâm mời
về thăm và nói chuyện với tất cả Tăng Ni và Phật tử nơi
đây, tôi liền hoan hỉ chấp nhận.
Ðối với chúng tôi Ðại Tòng
Lâm là nơi mà tôi cảm thấy mình có một trọng trách, hoặc
nhiều hoặc ít cùng chung lo với quí thầy ở đây. Vì trước
kia Hòa thượng Giám đốc và Phó giám đốc ở Ấn Quang,
khi thành lập được khu Ðại Tòng Lâm thì chúng tôi có mặt
bên cạnh, vâng lời dạy của các ngài phụ giúp phần nào
đối với cơ sở này. Giờ đây hai Hòa thượng đã theo Phật,
chúng tôi những người còn sót lại tự nhiên cảm thấy bổn
phận phải làm sao duy trì gìn giữ ngôi Ðại Tòng Lâm này
đúng như sở nguyện của hai Hòa thượng. Tất cả những vị
ở Ðại Tòng Lâm, hoặc là trường Trung cấp, hoặc là trường
Cao cấp, hoặc các Thiền viện do chúng tôi thành lập trong
khu vực này đều là Tăng Ni chung của Ðại Tòng Lâm, mà cũng
là của Phật giáo Việt Nam, chúng ta không thể tách riêng
biệt được. Vì vậy khi cần, chúng tôi sẵn sàng đến để
nhắc nhở Tăng Ni, Phật tử hiểu biết tu hành cho đúng với
chánh pháp.
Mùa an cư này chư Tăng chư Ni về
đây an cư là cơ hội tốt để Ðại Tòng Lâm càng ngày
càng phồn thịnh hơn, sự tu hành càng tinh tiến hơn, đó
là điều hết sức quí báu. Vì vậy tôi nghĩ không thể
nào chỉ nói suông, tán thán một cách tổng quát như vậy mà
cần phải đi sâu vào vấn đề đạo lý, để cho Tăng Ni và
tất cả quí vị nghe hiểu có kinh nghiệm thêm trên đường
tu hành. Ðó mới là điều quí giá. Vấn đề tôi nói hôm
nay là hai vấn đề tối hệ trọng của những người tu Phật,
đó là trí tuệ và từ bi.
Như chúng ta đã biết đạo Phật
là đạo giác ngộ. Ðức Phật ngồi thiền định dưới cội
bồ-đề mà được giác ngộ. Ngài đi giáo hóa khắp nơi để
truyền đạo giác ngộ này. Nhưng sao chúng ta không gọi là
đạo giác ngộ mà gọi là đạo Phật. Phật nguyên tiếng
Phạn là Buddha, Bud là giác, dha là người.
Người giác ngộ đi truyền bá đạo giác ngộ. Nhưng nếu
giải nghĩa chữ Phật là giác ngộ thì sợ người ta hiểu
lầm. Bởi có những người làm ăn bất chánh không lương
thiện, khi có ai nhắc nhở dạy bảo, họ bỏ điều bất chánh
trở thành người lương thiện thì người ta sẽ nói anh ấy
đã giác ngộ rồi. Giác ngộ đó chỉ có nghĩa là bỏ cái
xấu, cái dở để trở thành người tốt thôi. Nếu hiểu
đạo Phật theo nghĩa giác ngộ như vậy thì đánh giá quá
thấp đạo Phật, làm mất giá trị siêu thoát của đạo Phật.
Bởi vậy trong nhà Phật để nguyên từ "Phật".
Nói Phật chắc quí vị sẽ có
nghi. Tại sao bây giờ chúng ta nói đức Phật mà hồi xưa
ông bà tổ tiên chúng ta lại nói là Bụt. Như vậy nói Bụt
trúng hay nói Phật trúng? Từ Bụt cho chúng ta thấy đạo Phật
được trực tiếp truyền vào Việt Nam từ những vị Sư
Ấn Ðộ. Ngày xưa ở miền Bắc vùng Luy Lâu rất phồn thịnh,
các sư người Ấn theo tàu buôn đến đó truyền bá.
Các ngài trực tiếp dạy người dân biết đạo Phật, và
đức Phật được gọi là Bụt. Bụt nguyên là Bud, đọc
trại đi một tí thành Bụt. Ðọc Bụt nghe gần hơn, còn đọc
Phật nghe xa quá. Vậy đạo Phật có mặt trên đất nước
Việt Nam gốc từ người Ấn truyền sang, chớ không phải từ
Trung Hoa truyền sang buổi đầu.
Tại sao bây giờ chúng ta đọc là
Phật? Ở Trung Hoa từ đời Tống đến đời Minh có in những
Tạng kinh dịch từ chữ Phạn, chữ Pali ra chữ Hán rồi tặng
cho Việt Nam. Ðời Trần được tặng một Tạng kinh và sau
này chúng ta cũng có thỉnh thêm những Tạng kinh từ Trung
Hoa. Chữ Buddha người Trung Hoa dịch gồm một bên chữ
nhân đứng, một bên chữ phất. Như vậy Phật
là phát sanh từ chữ Hán mà ta đọc theo âm Việt Nam là Phật
hay Phật-đà.
Nói đến đạo Phật là nói đến
sự giác ngộ viên mãn tuyệt cùng, chớ không phải sự
giác ngộ thông thường của thế gian, vì e người ta hiểu
lầm nên để nguyên âm là Phật, chớ không nói là giác ngộ.
Giờ đây chúng ta học Phật phải dùng những từ gần thời
hiện tại như giác ngộ, trí tuệ để dễ thâm nhập hơn.
Vì vậy chúng ta phải hiểu tường
tận gốc của đạo Phật là giác ngộ viên mãn. Nên người
tu Phật lúc nào cũng phải thuộc lòng Phật là tự giác,
giác tha, giác hạnh viên mãn. Nói đến Phật là nói đến sự
giác ngộ viên mãn, tức giác ngộ tròn đầy không thiếu
khuyết một góc cạnh nào.
Chúng ta học Phật, tu Phật là tu
theo đạo giác ngộ. Mà đạo giác ngộ dĩ nhiên trí tuệ
là căn bản không thể nào thiếu được. Người tu theo Phật
dù xuất gia hay tại gia cũng phải mở sáng con mắt trí tuệ.
Chúng ta hãy xét lại xem từ ngày phát tâm tu theo Phật đến
giờ đã mở sáng trí tuệ được nhiều hay ít? Có người
khi nghe đến trí tuệ dường như sợ nên thường xưng Ngu
tăng hay Phàm tăng như để nói lên sự khiêm nhường, họ
ít nói đến sự giác ngộ. Mà chưa giác ngộ thì chưa phải
tu theo đạo Phật. Ở đây, tôi không nói đến giác ngộ
mà chỉ nói trí tuệ. Bởi vì trí tuệ mở màn cho giác ngộ
cứu kính.
Chúng ta nhớ lời Phật dạy, người
tu phải tự giác và giác tha. Tự giác là mở sáng trí tuệ
của mình. Giác tha là đem trí tuệ đó đánh thức, cảnh tỉnh
mọi người cùng giác ngộ. Tự giác là việc của mình.
Giác tha là giúp cho người. Giúp cho người là lòng từ bi.
Cho nên có giác ngộ rồi mới có từ bi. Chưa giác ngộ mà
nói đến từ bi, chỉ là từ bi gượng thôi.
Nếu một vị Tăng đã thấy bổn
phận mình phải truyền bá chánh pháp, phải thực hành hạnh
từ bi mà không chịu tu, không thức tỉnh, không chịu giác
ngộ thì chẳng biết vị ấy sẽ thực hành hạnh từ bi bằng
cách nào? Chẳng lẽ chúng ta đi đắp đất, cuốc đường
hay hốt rác cho thiên hạ. Từ bi như vậy người phàm tục
cũng làm được mà. Vậy từ bi trong đạo Phật là thế
nào? Tôi sẽ nói rõ hơn vấn đề này ở phần sau.
Bây giờ trở lại phần trí tuệ.
Trí tuệ mà Phật dạy cho Tăng Ni là ba môn tuệ học: Văn
tuệ, Tư tuệ và Tu tuệ.
Văn Tuệ là như thế nào?
Chúng ta đến với đạo, tự mình làm sao giác được. Nên
phải nhờ những người đi trước như bậc thầy, các hàng
Tôn túc đã tu, đã học, đã mở được đôi phần trí tuệ
hướng dẫn, chỉ dạy cho chúng ta từ từ mở con mắt trí
tuệ. Nhờ lắng nghe những lời chỉ dẫn, giảng dạy ấy
mà chúng ta mở được con mắt trí tuệ của mình là Văn tuệ.
Người tu cất thất ở riêng, không học hành gì hết chắc
chắn sẽ không có Văn tuệ. Không có Văn tuệ mà tu thì chỉ
là tu mù. Những người tu này khi chỉ dạy cho kẻ khác thì
cũng chỉ dạy một cách mù quáng mà thôi. Trong kinh Phật
nói: "Một người mù dẫn một đám mù, người mù đi
trước sụp hầm, những kẻ mù theo sau cũng té xuống hầm
luôn." Người học Phật mà thiếu Văn tuệ không thể
được.
Trong kinh A-hàm Phật dạy: Người
cư sĩ đến chùa đầu tiên phải gặp Tăng Ni. Gặp Tăng Ni
để thưa hỏi Phật pháp chớ không phải để cúng cầu an
cầu siêu, như vậy là Văn tuệ. Sau khi nghe chư Tăng Ni dạy
Phật pháp rồi phải suy gẫm lời thầy dạy có đúng với
kinh Phật không, có đúng với lẽ thật chân lý không? Nếu
đúng mới tin, còn dạy sai dạy lầm thì không tin. Cho nên Tư
tuệ hết sức thiết yếu. Sau khi suy tư nghiệm thấy đúng
kinh Phật, đúng chân lý rồi mới tu. Phật dạy cư sĩ còn
như vậy huống là tu sĩ xuất gia mà lại thiếu Văn, Tư,
Tu. Thế mà có nhiều tu sĩ cứ tự tu không cần học với
ai cả thì thật sự hết sức sai lầm.
Tư Tuệ là như thế nào?
Phật dạy chúng ta nghe rồi phải suy gẫm, suy gẫm đó
chính là tư duy, phải là chánh tư duy. Nếu nghe dạy chúng
ta tin mà không hiểu, thì tin đó chưa phải là chánh. Cần
phải suy gẫm cho đúng, hiểu cho đúng mới gọi là chánh.
Hồi xưa lúc còn làm Tăng sinh,
tôi
cũng học như quí vị. Những gì tôi không hiểu thì tôi hay
nghi, nghi thì phải tra tìm. Những năm Sơ đẳng, tôi học
lý nhân quả luân hồi kỹ lắm, nhưng khi học cổ sử Ấn
Ðộ tôi thấy lý nghiệp báo luân hồi không phải mới có
từ thời đức Phật, mà đã có từ thời Áo nghĩa thư của
Ấn Ðộ, tức trước Phật cả mấy trăm năm. Biết được
vậy tôi rất buồn, tôi nghĩ Phật đã giác ngộ rồi sao
không lựa điều gì mới, mà lại lấy cái cũ của người
ta đem ra dạy mình.
Có lần tôi đọc cuốn sách của
một số học giả phê bình rằng: "Ðạo Phật ăn cắp
lý nghiệp báo của Áo nghĩa thư làm của mình." Ðọc
đến đó tôi thấy xót quá, khó chịu quá. Ðức Phật của
mình sao lôi thôi vậy, của người ăn cắp đem làm của
mình thì thật là buồn. Lâu nay chúng ta tin rằng đức Phật
giác ngộ viên mãn thì những gì Phật dạy đều từ trí tuệ
giác ngộ của Ngài lưu xuất. Thế sao lại ăn cắp của
người ta đem làm của mình, tôi không bằng lòng như vậy.
Khi lên Trung đẳng, rồi Cao đẳng
tôi đã tra hết các bộ kinh A-hàm trong Hán tạng. Ðọc một
lần chưa thấm, đọc hai lần rồi ba lần, tôi có nguồn an
ủi. Trong một bài kinh đức Phật dạy: "Khi Ngài chứng
được Thiên nhãn minh rồi, nhìn lại thấy chúng sanh bị
nghiệp dẫn luân hồi sanh tử giống như người đứng trên
lầu cao nhìn xuống ngã tư đường, thấy kẻ đi đường này,
người đi đường kia một cách rõ ràng không nghi." Như
vậy sở dĩ Phật nói luân hồi nhân quả hay nghiệp dẫn
luân hồi là Ngài thấy rõ ràng, chớ không phải ăn cắp
như người ta nói xấu.
Rồi lần lần tôi lại thấy ra,
trong Áo nghĩa thư có nói về nghiệp báo luân hồi nhưng
chưa phân tích rõ ràng. Nên khi đạo Bà-la-môn kế thừa
tinh thần của Áo nghĩa thư, mới đặt ra bốn giai cấp.
Trong đó Bà-la-môn được sanh ra từ đầu của Phạm Thiên
nên được kính trọng nhất, còn các giai cấp khác được
sanh từ ngực, từ bụng, từ bàn chân nên không được kính
trọng bằng. Sự phân chia giai cấp này khiến người dân
càng khổ, đó là điều thứ nhất.
Ðiều thứ hai, dù họ nói nghiệp
báo luân hồi nhưng phải nhờ các vị Bà-la-môn cầu cúng
thì mới hết nghiệp hết tội. Hoặc phải mở những hội
tế đàn nào là trâu, dê cúng cho nhiều thì mới hết tội.
Cả hai điều này đều bị Phật bác hết. Về mặt giai cấp,
Phật bảo không có giai cấp khi mọi người máu cùng đỏ và
nước mắt cùng mặn như nhau, nên mọi người đều bình đẳng.
Kinh kể hôm nọ Phật ở trong rừng với đệ tử, một số
thầy Bà-la-môn đến hỏi Phật:
- Thưa ngài Cù-đàm, đệ tử Ngài
chết Ngài cầu cho họ sanh về cõi lành được không?
Phật không trả lời mà chỉ hỏi
lại:
- Ðệ tử các ông chết các ông
cầu cho họ sanh về cõi lành được không?
Các vị Bà-la-môn đáp:
- Ðược.
Lúc đó Phật nói thí dụ:
- Như nơi một giếng sâu, có
người
ôm cục đá bỏ xuống giếng rồi nhờ các ngài cầu cho nó
nổi, đừng chìm được không?
Các vị Bà-la-môn đều lắc đầu,
Phật hỏi tiếp:
- Có người cầm chai dầu đổ xuống
giếng, rồi nhờ các ngài cầu cho dầu chìm xuống đáy giếng
được không?
Các vị Bà-la-môn cũng lắc đầu,
Phật nói:
- Cũng vậy, người làm nghiệp
lành sẽ sanh cõi lành giống như dầu nhẹ nổi lên, dầu
các vị có ác ý cầu cho xuống địa ngục họ cũng không
xuống. Ngược lại người làm dữ phải đi xuống giống
như đá, dầu các vị có thiện cảm chấp tay cầu nguyện cũng
không nổi lên được.
Vậy đức Phật chấp nhận cầu
nguyện hay chấp nhận nghiệp? Nghiệp lành, nghiệp dữ đưa
mình lên hoặc lôi mình xuống, chớ không phải cầu nguyện
mà được lên hoặc xuống. Ðức Phật thấy rõ về nghiệp,
cho nên Ngài biết manh mối nào đưa chúng sanh tới cõi
lành, manh mối nào đưa chúng sanh tới cõi dữ.
Trong nhà Phật dạy chúng ta có
Ngũ
thừa là: Nhân thừa, Thiên thừa, Thanh văn thừa, Duyên giác
thừa và Bồ-tát thừa. Nhân thừa là sanh trở lại làm người,
Phật dạy tu giữ năm giới. Năm giới nếu giữ toàn vẹn bảo
đảm người đó đời này làm người, đời sau chết trở
lại làm người. Tu Thập thiện, sau khi mạng chung sẽ sanh lên
cõi trời. Mỗi một nhân đưa tới một quả, Phật thấy
tường tận rõ ràng như thế. Còn Áo nghĩa thư của Bà-la-môn
giáo nói nghiệp báo không phân biệt rành rõ, chưa biết cái
gì nhân cái gì quả nên chưa thấu đáo. Do đó nên biết Phật
nói nghiệp, nói luân hồi là vì Ngài thấy tường tận, chớ
không phải ăn cắp của người làm của mình. Khi thấy rõ
như vậy, tôi không còn nghi, không còn mặc cảm nữa.
Ông Galilée vào thế kỷ thứ mười
tám phát minh ra trái đất quay xung quanh mặt trời. Ai nói
sao ông vẫn nhất định là trái đất quay xung quanh mặt trời,
chớ không phải mặt trời quay xung quanh trái đất. Từ thế
kỷ mười tám tới bây giờ, có nhiều nhà khoa học nổi
danh nhưng không ai bác bỏ thuyết của ông cả. Bởi vì người
trước phát minh đúng thì người sau cũng lấy cái đó làm
chuẩn, rồi tùy phát minh thêm điểm nào hay thì càng tốt hơn.
Như ngày nay các nhà thiên văn suy ngẫm trái đất quay như vậy,
khi nó bị khuất thì có nhật thực, nguyệt thực nên họ
ghi ra. Ðó là bổ túc thêm cho đầy đủ, chớ không phải
cái trước đúng mà người sau dám sửa. Cái gì là chân lý
rồi, người sau cũng phải thừa nhận.
Ðức Phật rất khoa học, từ thời
Áo nghĩa thư đã có thuyết nghiệp, luân hồi. Sau Ngài tu thấy
điều đó đúng nên cũng thừa nhận. Nhưng khác hơn là
Ngài vạch rõ từng phần chi tiết, thế nào là nhân, thế
nào là quả, Ngài phân tích rành cho chúng ta. Ðó là tinh thần
khoa học chớ không phải học lóm. Từ đó về sau tôi mới
hài lòng, đức Phật không phải dở như người ta nói.
Nói về lý nghiệp báo luân hồi,
sau khi suy tư kỹ càng, tôi thấy đó là một chân lý không
chối cãi được. Ai có nói gì cũng không lay chuyển được
tôi, vì đó là một sự thật. Tại sao tôi tin như vậy? Bởi
kinh nghiệm từ những việc bên ngoài, cho tới bản thân
mình tôi thấy rõ như vậy.
Luân hồi là gì? Luân là bánh xe,
hồi là xoay tròn. Bánh xe xoay tròn lên xuống, lên xuống cứ
đảo đi lộn lại hoài. Ðối với ngoại vật, chúng ta đặt
câu hỏi trái đất có xoay tròn không? Trái đất cứ xoay tròn,
xoay tròn, vậy nên trái đất luân hồi. Ðến con người, chúng
ta thấy máu từ tim chạy ra các mạch, rồi từ các mạch trở
về tim, cứ như vậy đảo đi lộn lại hoài, đó là luân hồi.
Rõ ràng con người đang luân hồi, quả đất đang luân hồi,
vậy chết có luân hồi không? Tôi nói hai phần:
1- Vật chất: Thân chúng
ta
gồm tứ đại tức bốn chất đất, nước, gió, lửa hợp
thành. Những gì là đất? Tóc, lông, gân, móng, da, thịt, răng,
xương... những thứ cứng là đất. Những gì là nước? Mồ
hôi, máu mủ tức chất ướt là nước. Những gì là gió? Hơi
thở vào ra, vào ra là gió. Những gì là lửa? Hơi ấm trong
người là lửa, cầm hai tay chà một hồi ấm lên, đó là
phát ra lửa.
Ðất nước gió lửa sẵn trong
con người chúng ta, khi chết bốn thứ đó đi đâu? Nhẹ nhất
là hơi thở, lúc sống hít vô trả ra, khi trả ra mà không
hít lại là chết. Vậy chúng ta trả ra chớ không phải hết,
không phải mất. Thứ hai là hơi ấm trong người, chúng ta
chết rồi nó cũng tan vào hư không, theo luồng hơi ấm trong
nắng trong lửa, trở về với lửa. Ðến đất, nước khi
chết thân này nứt nẻ nước tuôn ra, rồi tới đất rã. Nước
theo mạch chảy đi khắp nơi cũng không mất, đất cũng trả
về đất không mất. Như vậy tứ đại mất đi chỉ mất cái
giả tướng duyên hợp, chớ bản chất nó đâu có mất.
2- Tinh thần: Tứ đại
không
mất thì tinh thần có mất được không? Tinh thần đi theo
nghiệp duyên của nó. Ví dụ nước từ thể lỏng đổ vào
trong nồi nấu, nước sôi bốc hơi rồi cạn. Nước cạn
người ta nói hết nước, nhưng thật ra nước bốc thành hơi
bay lên, gặp lạnh đọng lại thành nước rơi trở xuống.
Hoặc lấy một ly nước để trong tủ lạnh thì nó sẽ đặc
thành thể cứng. Như vậy nước không mất mà có thể chuyển
biến từ thể lỏng thành hơi hoặc thể rắn. Nước để
ở nhiệt độ vừa chừng, không nóng quá, không lạnh quá
thì nước còn hoài.
Cũng vậy người tu có duyên lành
nhiều, nghiệp lành nhiều khi nhắm mắt sẽ đưa tới cõi
lành, tức lên. Ngược lại nghiệp dữ nhiều sẽ đưa tới
chỗ dữ, tức xuống. Nếu tư cách con người tốt, vị lai
trở lại làm người, như nước giữ quân bình không lạnh
nóng thì ở thể lỏng hoài. Phật dạy Nhân thừa là do giữ
đúng năm giới nên đời này làm người đời sau cũng được
làm người. Như nước y nguyên nhiệt độ đừng cao đừng
thấp thì bao nhiêu nước còn nguyên bấy nhiêu. Ðó là một
lẽ thật không nghi ngờ gì.
Chúng ta khi ra đời còn trẻ,
đáng
lẽ ham danh lợi tài sắc ở thế gian, nhưng tại sao lại
ham tu? Như vậy do trong nghiệp từ quá khứ của chúng ta
còn lưu lại. Như tôi khi chưa đi tu, mỗi lần qua chùa nghe
tiếng chuông, thấy xôn xao trong lòng quá. Cái gì làm cho
mình bất an, nếu không phải là chủng tử trước kia?
Mỗi khi chúng ta ra đời, nghiệp
từ quá khứ còn lưu lại trong con người hiện tại chớ không
phải mất. Nếu chúng ta nhìn vào một lớp học thì biết
rõ sự sai biệt, người giỏi về văn, người giỏi về toán
v.v... Thầy cô dạy như nhau nhưng điểm riêng biệt của mỗi
học trò lại khác. Ðiểm đó ở đâu ra? Chẳng qua chủng tử
từ quá khứ còn lưu lại nơi mỗi người, nên không ai giống
ai. Nếu nói do thầy cô dạy mới biết, thì tại sao không
biết như nhau mà lại có sự sai lệch. Rõ ràng do chủng tử
từ quá khứ chớ không phải ngẫu nhiên. Như những vị thần
đồng chưa học mà đã biết, đâu do ai dạy. Ðó là chủng
tử quá khứ còn nguyên vẹn chưa mất nên ra đời nhớ lại
liền. Vậy luân hồi là một lẽ thật, không phải là một
nghi vấn nữa.
Khi học Phật, chúng ta cần phải
suy tư, chớ không chỉ nghe bao nhiêu biết bao nhiêu thôi. Phải
tìm, phải gẫm cho tới nơi tới chốn, như vậy chúng ta mới
đủ lòng tin Phật. Do đó Tư tuệ là một điều hết sức
thiết yếu.
Tu Tuệ là như thế nào?
Tư chí lý rồi đến tu rất dễ, không còn nghi ngờ gì nữa.
Nhờ nghe hiểu, suy gẫm và biết cách ứng dụng những pháp
mình đã học được vào đời sống tu hành, thấy có lợi
ích. Ðây chính là Tu tuệ. Ba vấn đề Văn, Tư, Tu đều là
trí tuệ. Trí tuệ từ thầy ban cho, trí tuệ do mình suy gẫm,
trí tuệ do mình cố gắng thực hành, cho nên ba Tuệ học
ấy không thể thiếu được.
Nhà Phật nói trí tuệ có hai
phần:
Một là Hữu sư trí, tức trí học nơi thầy như Văn Tư Tu.
Hai là Vô sư trí, tức trí sẵn có của mình, không do học.
Ðó là Tam vô lậu học, tức ba môn học giải thoát Giới,
Ðịnh, Tuệ. Giới là đức hạnh, Ðịnh là thiền định,
Tuệ là trí tuệ. Nhờ giữ được giới nên thiền định
không bị xao xuyến. Vì vậy giới trước rồi định sau. Nhờ
thiền định nên Trí vô sư phát sanh là tuệ.
Tại sao thiền định được Trí
vô sư? Khi thiền không nghĩ gì cả nên được định, được
định nên trí sáng giác ngộ, đó là trí không thầy. Trong
kinh có kể lại: Ðức Phật sau khi thành Phật rồi, Ngài
tuyên bố ta học đạo không thầy. Bởi vì bốn mươi chín
ngày đêm ngồi dưới cội bồ-đề Ngài không học với ai
cả, mà nhờ định nên được giác ngộ. Vì vậy nói Ngài
học đạo không có thầy.
Phật giác ngộ viên mãn Trí vô
sư,
ngày nay chúng ta tu muốn giải thoát sanh tử cũng phải đi tới
Trí vô sư đó, nên nói Giới, Ðịnh, Tuệ là ba pháp môn tu
được giải thoát. Chữ Vô lậu là không còn rơi, không
còn rớt lại Tam giới nên gọi là giải thoát sanh tử. Như
vậy người học Phật phải đủ trí tuệ, từ Hữu sư trí
rồi tiến tới Vô sư trí. Hữu sư trí là nhờ học, Vô sư
trí là nhờ tu. Ðó là hai phần hết sức rõ ràng.
Ðiều hệ trọng thứ hai là
Từ bi. Bởi vì chúng ta không có quyền nghĩ mình tu
để hưởng an lạc một mình. Tại sao? Ðức Phật ngày xưa
chủ trương đi khất thực là vì sao? Khất thực tức là
gieo duyên với chúng sanh. Tôi nói là lãnh nợ của chúng
sanh. Nếu chúng ta tu mà đối với mọi người không có
liên hệ, không trao qua đổi lại thì không có gì dính
dáng. Mà không có dính dáng thì giáo hóa họ không được,
nên Phật dạy tu sĩ phải nhận của đàn-na thí chủ cúng dường.
Có những thí chủ rất nghèo cúng dường nhưng chúng ta cũng
phải nhận. Nhận để chi? Ðể người đó gởi mình, mình
nhận nợ. Nên từ gieo duyên là nói cho đẹp, thật ra chúng
ta nhận nợ. Có nợ thì mới gặp lại để đền trả.
Trả nợ có hai cách: Nếu chúng
ta không tu không đủ phước đức thì phải mang lông đội
sừng để trả nợ. Nếu chúng ta tu hành có đủ phước đức
thì trả bằng cách làm thầy. Bây giờ tôi cũng đang trả nợ
đó. Bởi vì chúng ta đều có duyên có nợ với nhau nên mới
gặp nhau, còn không duyên không nợ thì không gặp. Gặp để
chúng ta giáo hóa, chúng ta chỉ dạy người có duyên với
mình. Vì vậy người tu đều phải phát tâm từ bi nhận tất
cả những gì của Phật tử gởi gấm. Không phải nhận vì
ích kỷ, mà nhận để có duyên hay có chút nợ nần với
nhau, hầu giáo hóa giúp đỡ trên đường đạo.
Người xuất gia do Phật tử ủng
hộ, nếu hiểu đạo rồi lo tu cho giải thoát, về Cực lạc,
bỏ mọi người ở lại ra sao thì ra, như vậy có hơi nhẫn
tâm không? Mình tu giải thoát nhập Niết-bàn không bao giờ
trở lại nữa, những người cúng cho mình thấy chúng ta nhập
Niết-bàn, bỏ họ bơ vơ buồn khổ, thật tội nghiệp cho họ.
Vì vậy với tinh thần Phật giáo Ðại thừa, người tu không
nỡ nhập Niết-bàn liền, mà phải đi đi lại lại trong cõi
thế gian này để giáo hóa, để trả nợ. Ðến chừng nào
thí chủ của chúng ta hiểu được tu tập được, mình mới
yên.
Thí dụ như trong Tứ quả Thanh
văn, chúng ta được quả thứ ba là A-na-hàm, thì ít ra đệ
tử của mình cũng được quả thứ nhất là Tu-đà-hoàn. Nếu
mình tới Bồ-tát Thập trụ, thì đệ tử cũng tới Thập tín
mới được. Khi tu thiên hạ nuôi, đến thành tựu chúng ta
lại hưởng một mình, như vậy có buồn không? Giả sử
tôi là quí Phật tử, tôi cũng không chấp nhận điều đó
nữa. Quí thầy ăn gian quá đâu được. Vậy mà có người
tha thiết tu một đời này để về Cực lạc cho rồi, ở
đây khổ quá. Về bên đó vui có một mình, bỏ người ta
ở đây khổ, ai mà đành lòng. Thôi thì cùng ở với nhau nhưng
ở trong sự tỉnh giác chớ không phải trong cái mê mờ, nhớ
như vậy.
Tinh thần từ bi của đạo Phật
dạy chúng ta phải làm sao đem lại cho mọi người ánh sáng
đạo lý, để cho họ biết được lẽ chân thật, không tạo
những điều đau khổ, luôn luôn tiến tới chỗ an vui. Lòng
từ bi chúng ta không thể nói suông mà phải được thể hiện
cụ thể. Muốn thể hiện lòng từ bi chúng ta phải thực
hành hạnh bố thí: bố thí tài, bố thí pháp, bố thí vô
úy. Phải đem của cải, hoặc đem chánh pháp mình hiểu hoặc
đem sự tốt lành cao quí an ủi người đau khổ. Ðó mới
thể hiện lòng từ bi.
Bố thí tài phần lớn dành cho cư
sĩ Phật tử vì họ làm ra tiền. Họ mới có điều kiện
giúp đỡ người nghèo khổ. Còn các sư có làm ra xu con nào
đâu? Nếu có chăng cũng ăn mày của đàn-na thí chủ chớ
đâu phải tự mình có tiền lương mỗi tháng. Hàng Phật tử
cũng có người làm ra tiền của, có người nghèo cháy da, vậy
làm sao bố thí? Nên Phật dạy tài thí có hai phần ngoại
tài và nội tài.
Người Phật tử muốn thể hiện
lòng từ bi mà không có tiền bạc giúp cho người nghèo đói
thì đem công sức của mình ra giúp. Người có tiền tới
chùa cúng, người không tiền vào chùa làm công quả. Người
có tiền cho tiền, người không tiền ra công đi ủy lạo,
khuân vác cũng là bố thí. Nên hiểu có tiền mới bố thí
được là lầm. Ðem của bố thí là ngoại tài, đem công bố
thí là nội tài, như vậy có ai không làm được hạnh bố
thí đâu.
Bố thí pháp là phần của Tăng
Ni. Tăng Ni tu thấy được cái hay, cái cao quí của Phật
pháp, đem sự hiểu biết đó ban rải cho Phật tử cùng biết
cùng hiểu như mình. Ðem pháp mình đã tu học được, chỉ
dạy cho người khác gọi là bố thí pháp.
Bố thí tài, bố thí pháp cái
nào tốt hơn? Bố thí tài chỉ giúp người bớt khổ trong
giai đoạn hiện tại. Còn bố thí pháp chẳng những giúp người
hết khổ trong hiện tại mà mãi về sau cũng không còn khổ
nữa, đó là điểm sâu xa.
Ví dụ chú đạp xích lô có một
vợ hai con, mỗi ngày chạy xe kiếm được hai ba chục ngàn
nuôi vợ nuôi con. Nhưng nếu chiều vô quán nhậu hết thì vợ
con đói khổ. Người hàng xóm thấy thương, đem ít lít gạo
lại cho, đó là bố thí tài. Rồi mai chú đạp xe có tiền
cũng nhậu hết như vậy thì sao, cho đến chừng nào mới đủ,
chừng nào gia đình mới ấm no. Bây giờ có một thầy, một
cô nào đó sáng suốt tới khuyên chú, nói với chú uống rượu
có hại gì, bệnh hoạn ra sao, rồi vì uống rượu mà không
đủ tiền nuôi vợ con, làm vợ con đói khổ. Chú nghe hiểu,
thức tỉnh bỏ rượu. Như vậy chúng ta chỉ nói chuyện một
giờ, nửa giờ mà chú thức tỉnh bỏ rượu. Từ đó làm
được bao nhiêu tiền chú đem về nuôi vợ con. Như vậy bố
thí pháp không có cạn hết. Chỉ dùng lời nói, lý lẽ
chân thật khuyên chỉ người, khi người tỉnh ngộ rồi gia
đình hết khổ. Còn nếu cho tiền cho cơm hằng ngày, thì họ
chỉ hết khổ tạm rồi mai mốt sẽ khổ nữa. Như vậy cái
nào hơn?
Có kẻ cho rằng người tu Phật
tiêu cực quá, nhất là Tăng Ni không chịu làm phước, làm
việc xã hội, cứ đi nói pháp hoài. Những người tích cực
làm việc này, việc kia giúp cho đồng bào rất dễ thấy,
còn người nói pháp xem như không có lợi ích gì. Nhưng thật
tình việc này lợi rất lớn. Nên trong hai thứ bố thí: bố
thí tài và bố thí pháp thì bố thí pháp là hơn.
Bố thí pháp là đem lòng từ bi
của
mình chỉ dạy nhắc nhở mọi người biết tu, chỉ dạy nhiều
chừng nào tốt chừng ấy. Giả sử tôi có mười ngàn đồng
muốn đem bố thí, nếu tôi cho mỗi người một ngàn đồng,
thì cho mười người là hết. Còn tôi bố thí pháp thì có
một trăm người, tôi cũng bố thí trọn đủ hết. Vậy bố
thí pháp là bất tận. Chúng ta học đạo phải học cái bất
tận, còn những việc có chừng mực, có giới hạn chúng ta
làm một phần nhỏ thôi, gốc là phải bố thí pháp. Muốn
bố thí pháp, chúng ta phải có học có tu và có lòng từ
bi. Vì vậy từ bi sau trí tuệ. Hai việc đó không tách rời
nhau.
Bố thí vô úy là sao? Vô úy là
không sợ. Chúng ta mang tới cho người niềm an ổn không sợ
hãi. Không sợ này có nhiều thứ: Sợ ma, sợ rắn, sợ cọp...
đủ thứ sợ.
Thí dụ đối với người sợ ma,
chúng ta muốn cho họ khỏi sợ, phải giải thích cho họ hiểu
ma không đáng sợ. Phật dạy trong Lục đạo luân hồi: địa
ngục, ngạ quỉ, súc sanh, người, a-tu-la, trời, thì ngạ quỉ
là loại quỉ đói đứng thứ hai, người cao hơn ngạ quỉ
hai cấp. Mình cao hơn nó mà lại sợ nó thì vô lý quá. Chẳng
lẽ ông Tỉnh trưởng lại sợ người dân, người lại sợ
ma thì thật ngu khờ. Giải thích cho người biết và hết sợ
đó là bố thí vô úy.
Như có người sợ chết, chúng ta
phải giảng giải cho họ hiểu chết là một lẽ đương nhiên
thôi, ai rồi cũng phải chết. Phật chết, Bồ-tát chết, chư
Thánh tăng chết, Phàm tăng, Phàm ni chết, cư sĩ chết. Ðó
là chuyện thường, phải chi có người không chết thì mình
sợ, ai cũng chết hết thì có chi mà sợ. Giải thích có căn
bản cho người ta hiểu, hiểu rồi thì không sợ. Ðó là bố
thí vô úy. Như vậy, bố thí pháp trùm cả bố thí chánh
pháp và bố thí vô úy luôn.
Người tu nếu thiếu hai phần trí
tuệ và từ bi thì không xứng đáng là người tu. Vậy mà
có nhiều người tha thiết vào thất tu suốt đời, tu tới
chết. Nghĩ thế là không có từ bi, không có từ bi mà dám
nhận nợ của thí chủ, như vậy là ăn gian rồi. Ðó là
điều không hợp lý. Nhập thất tu để sáng đạo thì được,
nhưng cũng phải đi giáo hóa, chớ không được đóng cửa
suốt đời.
Hồi xưa học luật, Phật dạy thầy
Tỳ-kheo không nên đi dép da vì làm tổn thương lòng từ bi.
Nhưng khi thấy Bồ-tát Văn-thù cỡi sư tử, Bồ-tát Phổ Hiền
cỡi voi... tôi sanh ra thắc mắc. Tại sao các Ngài không đứng
trên cụm mây thôi được rồi. Lại cỡi sư tử cỡi voi,
như vậy các Ngài có từ bi không? Sau khi tra cứu hiểu ra rồi
tôi mới thấy có lý. Vì đức Phật Thích-ca là vị Giáo chủ
cõi Ta-bà, mà dân cõi Ta-bà này thì cang cường nan điều
nan phục. Muốn điều phục được phải có trí tuệ vượt
bực, nên vị Bồ-tát phụ tá thứ nhất cho đức Phật là
Văn-thù.
Văn-thù tượng trưng cho Căn bản
trí. Ngài ngồi trên lưng sư tử để biểu trưng rằng chỉ
có trí tuệ mới hàng phục được ma quân, chỉ có trí tuệ
mới giáo hóa được chúng sanh cang cường này. Ðó là ý
nghĩa hết sức thâm trầm. Song vì chúng sanh cõi này cứng
đầu quá, dùng trí tuệ dạy họ, rồi ít bữa cũng trở lại
y cũ, thì làm sao đây. Vì vậy phải có đại nguyện đại
hạnh, cho nên bên trái của đức Phật vị Bồ-tát phụ tá
thứ hai là Phổ Hiền cỡi voi. Vì hạnh lớn mạnh nên tượng
trưng cho voi. Voi sáu ngà nghĩa là đem pháp giáo hóa chúng
sanh không biết mệt mỏi. Như vậy các hình tượng ấy mang
ý nghĩa đức Phật vào cõi Ta-bà giáo hóa phải có đủ trí
tuệ vượt bực, hạnh nguyện to lớn mới giáo hóa được.
Nếu không sẽ dễ thoái chuyển, dễ chán lắm.
Ðức Phật Di-đà thì bên phải
có Bồ-tát Quan Thế AÂm, bên trái có Bồ-tát Ðại Thế
Chí. Ðức Phật Di-đà ở cõi Cực lạc là chỗ sạch vui.
Muốn sang Ta-bà là chỗ uế trược độ chúng sanh, phải có
lòng từ bi tràn trề, nên tượng trưng cho Bồ-tát Quan Thế
AÂm. Vì chúng sanh khó độ nên chúng ta thấy vẽ tượng đức
Phật Di-đà ở trên mây duỗi tay xuống, còn chúng sanh đang
trồi hụp dưới biển mà không chịu trồi đầu lên đưa
tay cho Phật vớt, cứ hụp lặn ở dưới hoài. Vì vậy muốn
không thối tâm phải có đại chí tức là chí cứng rắn vững
vàng. Dù cho nó khó, nó mê, nó đắm say ngũ dục cũng ráng
chờ vớt nó lên. Nếu không có chí lớn thì chán lắm.
Thí dụ trong hoàn cảnh xã hội
của chúng ta, có người khá giả thấy những đứa trẻ bụi
đời lang thang ở góc phố này góc chợ kia muốn gom lại
nuôi dạy. Từ một người giàu có, bây giờ cất trại về
ở với mấy thằng nhỏ khó dạy như vậy thì phải hi sinh
sự ổn định của mình, chấp nhận cảnh khổ. Do đó phải
có lòng từ bi trước, lòng từ bi thật rộng lớn mới làm
được việc đó. Mấy đứa nhỏ đem về dạy có dễ đâu.
Nhiều khi nó muốn thoi lại mình nữa. Nó là dân bụi đời,
mình thương muốn dạy dỗ nó, nhưng nó lại không biết
gì, không mang ơn mà còn cự cãi với mình. Nếu không có ý
chí vững bền sắt đá thì không thể nào làm được.
Cũng vậy Phật từ cõi tịnh đến,
muốn độ chúng sanh cõi uế này phải có lòng từ bi, phải
có ý chí mạnh mẽ mới độ được. Chúng ta muốn dùng
tâm từ bi của mình để giáo hóa chúng sanh khó điều phục
đó, thì phải có ý chí kiên cường như Bồ-tát Ðại Thế
Chí mới được.
Tôi nói điều đó có liên hệ với
Tăng Ni bây giờ. Liên hệ ra sao? Bởi vì Tăng Ni hiện nay thích
học xong, chạy về Thành phố học lên Cao cấp, rồi Ðại
học. Ðại học đạo xong, muốn ra học Ðại học đời nữa,
rồi bay đi Ấn Ðộ, Ðài Loan học Tiến sĩ. Khi đó ở
thôn quê nhiều Phật tử có chùa mà bị hoại vì không thầy,
không cô để hướng dẫn dạy dỗ. Mình cứ lo chạy lên,
không ai nghĩ đến người ngóng chờ mình, trông đợi mình.
Nên tôi nhắc Tăng Ni phải có
tâm biết thương những người chờ đợi mình, trông ngóng
mình. Học rồi đem sự hiểu biết chánh pháp đó giáo hóa
được năm bảy người, thì phước đức cũng lớn lắm. Do
đó quí vị thấy trách nhiệm chúng ta không phải đơn giản.
Không phải lo cho mình có địa vị cao, có chức tước lớn
là hay. Mà phải làm sao thực tế đời mình đem lợi ích
thiết thực cho Phật tử, cho mọi người. Ðó mới là giá
trị thật đáng quí. Mong tất cả Tăng Ni ở đây hãy nhớ
lấy điều này, mà đem hết tâm nguyện phụng sự chúng
sanh để đền ân chư Phật.
-ooOoo-