- Giác
ngộ và giải thoát
- Cư-sĩ
Chính-Trực (Toronto-Canada)
Trên thế gian này, đạo
Phật đã có mặt hơn hai ngàn năm trăm năm lịch sử, khởi thủy từ Á châu
truyền sang Âu châu và hiện nay đang phát triển mạnh mẽ tại Mỹ châu và
Úc châu. Song song với đà phát triển của khoa học hiện nay, dân chúng ở
các xứ văn minh và tiến bộ đang dần dần mất sự tin tưởng nơi các tôn
giáo chủ trương thần quyền, thiếu căn cứ khoa học, giải thích mọi sự mọi
việc qua đức tin nơi thượng đế mà thôi. Cùng với sự phát triển của khoa
học, dân chúng ở các quốc gia Âu Mỹ Úc ngày càng đối diện với các khủng
hoảng tinh thần, do nhiều áp lực, nhiều khó khăn, dồn dập xảy ra trong
cuộc sống hằng ngày. Khoa học ngày càng đáp ứng tối đa các nhu cầu,
những tiện nghi vật chất của con người. Trong khi đó, các tôn giáo hiện
diện tại đây từ trước, không đáp ứng được những nhu cầu tinh thần, những
vấn đề tâm linh của con người.
Cho nên, dân chúng ở các
quốc gia Âu Mỹ Úc đã và đang hướng về tìm hiểu giáo lý của đạo Phật và
thực hành những lời dạy của Đức Phật trong đời sống hằng ngày. Từ đó, họ
tìm được sự an lạc và hạnh phúc, ngay trong đời sống đầy dẫy những bất
trắc và phiền não khổ đau. Họ phát tâm tu tập một cách tích cực, dưới
nhiều hình thức, tu sĩ hay cư sĩ tại gia, họ viết sách, dịch kinh Phật
Giáo để phổ biến cho mọi người cùng hiểu biết, để được giác ngộ và giải
thoát. Nghĩa là họ đến với đạo Phật bằng trí tuệ, chứ không phải chỉ
bằng niềm tin mà thôi.
* * *
Trong Kinh A Hàm, Đức
Phật có dạy: "Tin tưởng Như Lai mà không hiểu Như Lai, tức là phỉ
báng Như Lai vậy". Nghĩa là nếu chúng ta đến với Như Lai, tức là đến
với Đức Phật chỉ bằng niềm tin, chỉ biết tin tưởng Đức Phật như là một
vị giáo chủ đầy quyền năng, có thể ban phước như lời cầu nguyện của
chúng ta, có thể ban cho chúng ta và gia đình một cuộc sống bình an, như
ý, mà không chịu học hiểu giáo lý, tìm hiểu những lời dạy của Đức Phật,
để áp dụng vào đời sống hằng ngày, tức là chúng ta phỉ báng Đức Phật.
Tại sao vậy?
Bởi vì, nếu cầu nguyện,
khấn vái, van xin, nhưng không toại nguyện, không công hiệu, không hữu
hiệu, không hiệu quả, không kết quả như ý hoặc không có được đáp ứng gì
cả, chúng ta sẽ nghĩ là Đức Phật không linh thiêng, niềm tin không còn,
dễ theo ngoại đạo.
Chắc chắn ai ai cũng
biết: cuộc đời của các vị giáo chủ của các tôn giáo trên thế gian này
đều không có bình an một cách tuyệt đối, theo cái nhìn tầm thường của
chúng ta, các vị vẫn gặp chuyện bất trắc, vẫn bị người khác nhục mạ, vu
cáo, ám sát, bỏ tù, xử án, kết tội, thậm chí giết chết thê thảm như một
tội phạm hình sự! Như vậy, các vị giúp chúng ta được như ý, như lời cầu
nguyện, khấn vái, van xin của chúng ta bằng cách nào? Cuộc đời của Đức
Phật cũng gặp những chuyện như vậy, cũng trải qua các giai đoạn của cuộc
sống như mọi người khác trên thế gian: sanh, già, bệnh, chết.
Như vậy, Đức Phật cứu
khổ thế gian này bằng cách nào? Bằng hình thức ban phước theo lời cầu
nguyện, van xin chăng? Bằng cách cứu độ cho những ai thờ phượng chăng?
Bằng cách cứu độ cho những ai tụng vài thời kinh, niệm vài câu A Di Đà
Phật, hay đọc vài bài chú chăng?
Trong Kinh Pháp Cú, Đức
Phật có dạy:
- "Hãy tự thắp đuốc lên mà đi.
- Thắp lên với Chánh Pháp".
Nghĩa là tất cả chúng ta
hãy tìm hiểu giáo lý của Đạo Phật một cách tường tận, rồi áp dụng vào
đời sống hằng ngày. Hãy đem ngọn đuốc trí tuệ của mình mồi với ngọn đuốc
Chánh Pháp, để được giác ngộ và giải thoát, để được an lạc và hạnh phúc
ngay hiện đời. Đức Phật Thích Ca đã trải qua những tháng năm tu tập và
giác ngộ ngay dưới cội cây bồ đề, trên thế gian này. Sau đó, Đức Phật
sống trọn cuộc đời, trong cảnh giới an lạc và hạnh phúc, tự tại và giải
thoát, dù cho cuộc đời cũng gặp những sóng gió khó khăn, nhưng Đức Phật
không cảm nhận phiền não và khổ đau như tất cả chúng sanh khác.
Vì tâm đại từ đại bi,
thương tất cả chúng sanh trầm luân trong sanh tử, Đức Phật đem Chánh
Pháp, là những điều Ngài đã giác ngộ được, giảng dạy trong nửa thế kỷ,
ví như để lại những bản đồ cho tất cả chúng sanh biết con đường, biết
phương pháp tu tập. Bất cứ ai áp dụng đúng đắn, kiên trì, đều được giải
thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi.
-- Toàn bộ Chánh Pháp
của Đạo Phật nhằm mục đích chỉ rõ cái khổ của cuộc đời, nguyên nhân gây
ra đau khổ, tiếp theo chỉ rõ cảnh giới niết bàn tịch diệt và con đường
dẫn chúng ta đến cảnh giới an lạc đó.
-- Trong kinh sách gọi
đó là "Tứ Diệu Đế", gồm có: khổ, tập, diệt, đạo.
-- Đó chính là cách Đức
Phật cứu độ chúng sanh, ban phước cho chúng sanh vậy.
Do đó, chúng ta hãy tìm
hiểu: Tứ Diệu Đế là gì? Đức Phật đã giác ngộ điều gì và giải
thoát như thế nào?
* *
1) Điều trước tiên Đức
Phật giác ngộ: cuộc đời là khổ. Thực vậy, chúng ta ai ai cũng đều công
nhận cuộc đời "khổ nhiều vui ít". Những niềm vui trong cuộc sống thực là
hiếm hoi. Trái lại, những điều phiền não, đau khổ, bất trắc, bất như ý,
bất toại nguyện thì quá nhiều. Ngoài cái khổ vì thiếu ăn, thiếu mặc của
những người nghèo đói do thiếu phước báo, cái khổ đến với mọi người
trên khắp thế gian, không phân biệt già, trẻ, lớn, bé, nam phụ lão ấu,
địa vị, học thức, giàu nghèo, địa phương, sắc tộc, tôn giáo, vua chúa
hay thường dân, đời này hay đời trước. Cái khổ chung của tất cả mọi
người trên thế gian đó là những gì?
Đó chính là chúng ta khổ
vì: sanh, già, bệnh, chết. Chúng ta khổ vì sanh ra trong cuộc đời dẫy
đầy những chuyện bất như ý, khó khăn, đấu tranh, sóng gió và gian nan,
vì tuổi già sức yếu, đi đứng khó khăn, vì bệnh hoạn đau đớn triền miên,
vì cái chết đến bất ngờ, không như ý. Chúng ta muốn được luôn luôn bình
an, trẻ mãi không già, khỏe mãi không đau, sống mãi không chết, nhưng
nào có ai được như vậy đâu?
Chẳng những chúng ta khổ
vì sanh, già, bệnh, chết, chúng ta còn khổ vì xa lìa người thân thương,
vì gặp những người không ưa, những kẻ oán thù, vì cầu nguyện, van xin
nhiều quá, mà chẳng được gì, vì ngũ ấm xí thạnh, nghĩa là cái thân xác
ngày một to béo nặng nề một cách khổ sở, và quan trọng hơn, chúng ta khổ
vì cái vọng tâm điên đảo đảo điên, cái vọng tưởng lăng xăng lộn xộn,
thay đổi từng giây từng phút, không lúc nào ngừng nghỉ, ví như con vượn
chuyền cây, như con ngựa chạy rong, như con trâu giẫm đạp lúa mạ của
người.
-- Cái tâm ý điên đảo
đảo điên, cái vọng tưởng lăng xăng lộn xộn, tạo tội tạo nghiệp này, là
nguyên nhân chính dẫn chúng ta vào vòng sanh tử luân hồi.
-- Làm sao hàng phục và
an trụ được cái tâm ý này chính là trọng tâm của đạo Phật.
Trong kinh A Hàm, Đức
Phật có dạy:
-- "Cuộc đời là
biển khổ.
-- Nước mắt chúng
sanh nhiều hơn bốn biển lớn".
Cuộc đời đầy dẫy những
chuyện khổ đau, chúng sanh chìm đắm trong biển khổ, khiến cho nước mắt
trong nhiều đời nhiều kiếp có thể so sánh với nước bốn biển lớn. Con
người mãi mê đấu tranh, giành giựt, hận thù, bon chen, hơn thua trong
cuộc sống, do lòng tham lam, sân hận, si mê, mà quên đi những khổ đau,
cho đến khi nhắm mắt lìa đời, cũng chưa giác ngộ được. Đó là nguyên nhân
dẫn dắt chúng ta vào vòng sanh tử luân hồi.
* *
2) Đạo Phật nhận định
cuộc đời là biển khổ, nhưng không đưa tới quan niệm tiêu cực, bi quan,
yếm thế, chán đời. Đức Phật dạy chúng ta nhận định như vậy để thức tỉnh,
để tìm phương cách giải thoát, không còn chìm đắm trong những cơn vui
giả tạm, ngắn ngủi, những danh vọng, quyền tước, vật chất của thế gian.
Cũng như một vị thầy thuốc chẩn bệnh, định bệnh để tìm ra nguyên nhân
gây bệnh và tìm cách chữa trị. Cho nên, ngay sau đó, Đức Phật chỉ rõ
nguyên nhân gây ra khổ đau.
Trong Kinh Viên Giác,
Đức Phật có dạy:
-- "Con người vì vô minh
cho nên có hai thứ chấp: chấp ngã và chấp pháp.
-- Đó là hai nguyên nhân
chính gây ra phiền não và khổ đau của cuộc đời".
Khi nào hiểu được một
cách rõ ràng và phá trừ được hai nguyên nhân chính gây ra khổ đau, chúng
ta sẽ tìm được an lạc hạnh phúc thực sự trong cuộc sống hiện tại.
Thế nào là "chấp
ngã"? Chấp ngã có hai phần: vật
chất và tinh thần. Về vật chất, chúng ta chấp cái thân xác tứ đại mấy
chục ký lô này là "mình". Về tinh thần, chúng ta chấp cái tâm suy nghĩ,
tính toán, suy lường là chính "mình". Nếu có người hỏi: chúng ta là ai?
Chúng ta liền chỉ vào thân mình và trả lời: Tôi đây nè! Thực ra, cái xác
thân tứ đại giả tạm này đâu phải là "mình". Cái xác thân tứ đại bao gồm
những chất: đất, nước, gió, lửa, tụ hội với nhau trong một thời gian,
từ khi cha mẹ sinh ra, cho đến khi chúng ta thở ra, mà không muốn hít
vào nữa, thì ô hô tử vong! Thời gian đó ít năm, nhiều năm, ngắn dài tùy
theo nghiệp duyên của mỗi người. Người đời thường gọi đó là: số mạng,
định mạng, hay số mệnh, định mệnh. Có người được vài chục năm. Có người
chỉ trong hơi thở! Lúc đó, hơi thở trở về với gió, hơi ấm trở về với vũ
trụ, các chất lỏng như máu, mủ, nước tiểu trở về với nước, các chất cứng
như thịt, xương trở về với đất. Cái gì là "mình" đây? Còn lại chỉ là
cái xác không hồn, cái tử thi bất động. Cái xác thân tứ đại của chúng ta
tan rã, trở về với tứ đại của vũ trụ. Nói nôm na là: cát bụi trở về với
cát bụi.
Thậm chí, ngay khi còn
sống hiện nay, nếu chúng ta không vay mượn tứ đại bên ngoài để bồi bổ
từng ngày, từng giờ, từng phút, từng giây, thì chúng ta đâu tồn tại
được. Luôn luôn mượn không khí thở ra hít vào, lát lát mượn ly nước,
ngày ngày mượn vài ba chén cơm. Cái thân tứ đại muốn khỏe thì khỏe, muốn
đau yếu thì đau yếu, chúng ta không thể làm chủ nó như ý muốn của chúng
ta được. Vậy mà chúng ta cứ chấp chặt cái thân xác tứ đại là "mình",
chúng ta dành trọn cuộc đời để yêu mến, cung phụng, săn sóc nó, thì quả
là chúng ta quá mê muội, đang sống trong mộng tưởng, trong cơn mê, mà
không biết đó thôi.
Chúng ta đã hiểu cái
thân xác tứ đại không phải là mình, vậy còn cái tâm suy nghĩ, tính toán,
suy lường có phải là mình chăng? Thực ra, cái tâm đó cũng không phải là
"mình". Tại sao vậy? Bởi vì, có lúc chúng ta suy nghĩ rất hiền lành,
thánh thiện, muốn giúp đỡ mọi người, muốn bố thí cúng dường, muốn trở
thành người hoàn toàn tốt. Nhưng cũng có nhiều lúc, chúng ta tính toán,
suy lường, muốn hơn người khác cho thỏa lòng ganh tị, đố kyﬠmuốn thấy
người khác suy sụp, gặp nạn cho thỏa lòng hơn thua, ganh ghét, tị hiềm.
Vậy thử hỏi chúng ta là người thiện hay bất thiện? Chúng ta là một hay
là hai?
Dù là khởi tâm thiện,
hay khởi tâm bất thiện, chúng ta cũng khổ đau. Lúc tâm thiện khởi lên,
muốn làm người tốt, muốn giúp đỡ người khác mà không được, thí dụ chúng
ta muốn cứu người thân bị bệnh nan y, thầy thuốc đã bó tay, chúng ta sẽ
đau khổ. Lúc tâm bất thiện khởi lên, muốn thấy người khác khổ đau, nguy
nan, khốn đốn, mà họ vẫn cứ bình an, chúng ta sẽ đau khổ. Đàng nào chúng
ta cũng đau khổ cả! Lòng tự ái cao là một dạng của tâm chấp ngã. Do tâm
tham ái, chấp ngã một cách mù quáng, chúng ta đã, đang và sẽ tạo tội
tạo nghiệp không biết bao nhiêu trong nhiều đời nhiều kiếp. Đó là nguyên
nhân dẫn dắt chúng ta vào vòng sanh tử luân hồi.
*
Thế nào là "chấp
pháp"? Chấp pháp cũng có hai
phần: vật chất và tinh thần. Về vật chất, chúng ta chấp mọi thứ có hình
tướng như cái nhà này, cái xe này là của mình. Về tinh thần, chúng ta
chấp mọi thứ, mọi việc, mình làm, mình nói, mình nghĩ, cái gì của mình
cũng là đúng, là nhất.
Về phương diện vật chất,
chúng ta đang sống trong mộng tưởng, cho là cuộc đời này sẽ vĩnh viễn
trường tồn, cho là những người thân sẽ mãi mãi ở bên mình, cho là những
của cải vật chất như nhà cửa, xe cộ, vàng bạc, cơ nghiệp luôn luôn thuộc
về mình. Cho nên, nếu người thân có ra đi, hoặc có mệnh hệ nào, nếu của
cải vật chất có bị mất mát hư hao, thì chúng ta sẽ đau khổ!
Về phương diện tinh
thần, chúng ta thường chấp chặt ý kiến của mình là đúng, việc mình làm
là đúng, ai có ý kiến khác, ai làm khác là không đúng, là sai. Chúng ta
thường cho là người khác lúc nào cũng phải suy nghĩ giống như mình, nên
khi có người phát biểu khác đi, chúng ta khó chấp nhận được. Chúng ta
không thấy những lỗi lầm, sai trái của mình, cho nên đau khổ, bực bội,
vì chỉ thấy lỗi lầm của người.
Thí dụ trong gia đình,
nếu người cha không nhận thấy lỗi của mình, chỉ biết la mắng con cái vì
chúng không theo ý muốn của mình, bất chấp ý kiến của chúng, thì người
cha đó chắc chắn sẽ phiền não đau khổ và làm cho mọi người trong gia
đình cũng phiền não đau khổ theo. Chúng ta nên biết hai thế hệ khác nhau
thì ý kiến, sự suy nghĩ, cảm giác đều khác nhau. Hơn nữa, chúng ta đừng
chấp chặt các quan niệm xa xưa, cổ lổ, lạc hậu, không còn hợp thời nữa.
Cứ chấp chặt như vậy chỉ đưa đến phiền não và khổ đau mà thôi. Chuyện
vợ chồng cũng vậy. Chuyện cộng đồng cũng vậy. Chuyện quốc gia xã hội,
cho đến chuyện thế giới, cũng không khác, chỉ vậy thôi. Khi bất cứ
chuyện gì xảy ra, người nào, bên nào cũng có một phần lỗi, không nhiều
thì ít, không bên nào vẹn toàn, không người nào toàn vẹn. Hiểu được như
vậy, làm được như vậy, chúng ta sẽ bớt khổ đau nhiều lắm.
Trong cuộc sống gia đình
cũng như ngoài xã hội, điều quan trọng là chúng ta phải biết quên mình
vì người, thì mới có an lạc và hạnh phúc. Còn nếu tâm ý quá ích kỷ, chỉ
biết có mình, gia đình mình, đoàn thể mình, tôn giáo mình, cái gì cũng
vì mình hết trơn, thì chỉ có phiền não và khổ đau mà thôi. Muốn có một
gia đình hạnh phúc, người cha phải biết hy sinh, lo lắng mọi nhu cầu vật
chất lẫn tinh thần cho cả gia đình, người mẹ cũng phải biết hy sinh
những vui thích cá nhân, hòa hợp với nhịp sống chung của gia đình, con
cái phải biết nhớ ơn sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ, phải biết nghe
lời dạy dỗ, phải biết báo hiếu.
Trong một quốc gia có
hai, ba, hoặc nhiều phe nhóm đấu tranh, kình chống nhau kịch liệt, phe
nào cũng muốn tiêu diệt phe kia, phe nào cũng cho mình là đúng nhứt, là
yêu nước nhứt, thì quốc gia đó khó có thể tiến bộ được, dân chúng không
thể sống trong an lạc và hạnh phúc được. Tại sao vậy? Bởi vì phe cầm
quyền làm được bất cứ việc gì, cũng bị phe chống đối phá hoại, ngăn trở,
phỉ báng, xuyên tạc. Chúng ta thường tự kỷ ám thị, không chịu nhìn nhận
sự thật, chỉ vì sự thật không theo như ý của mình, của gia đình mình,
của phe nhóm mình, của tôn giáo mình.
Trên thế gian này, người
chủ muốn công nhân viên làm việc nhiều, nhưng phát lương ít; ngược lại,
công nhân viên muốn làm việc ít, nhưng lãnh lương nhiều. Thế là đấu
tranh và đau khổ! Trên thế gian này, người ta thường nhớ rất kỹ đã làm
ơn, giúp đỡ cho bất cứ ai, bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào; nhưng lại không
muốn nhớ bất cứ ai đã làm ơn, giúp đỡ mình. Trên thế gian này, trâu cột
ghét trâu ăn, được làm vua thua làm giặc, có ít xích ra nhiều, chuyện
bé xé ra to, chuyện có nói không, chuyện không nói có, lấy oán báo ân,
ăn cháo đá bát, được chim bẻ ná, được cá quăng nôm, khen mình khinh
người, là những "chuyện như thị", tức là những sự thực đương nhiên,
không cần ngạc nhiên, nhiều không thể kể hết được. Hiểu được như thế và
đừng làm như thế, chúng ta sẽ mỉm cười và bớt đau khổ nhiều lắm!
Chúng ta thường mơ ước,
cầu nguyện cho cuộc đời được bình an, không sóng gió. Nhưng làm sao có
thể như vậy được? Thực ra, cuộc đời cũng giống như mặt biển cả, sóng gió
triền miên, khi nhiều sóng khi ít sóng, ít khi sóng lặng gió yên, cơn
sóng này qua đi, thì cơn sóng khác lại đến. Việc này chưa xong, thì việc
khác lại xảy đến. Điều quan trọng hơn cả là chúng ta cần nên biết áp
dụng Chánh Pháp, để ứng xử mọi sự mọi việc, với tâm thiền định, bình
tĩnh, thản nhiên, chấp nhận, thì chúng ta sẽ giảm bớt khổ đau. Do tâm
tham ái, chấp pháp một cách mù quáng, chúng ta đã, đang và sẽ tạo tội
tạo nghiệp không biết bao nhiêu, trong nhiều đời nhiều kiếp. Đó là
nguyên nhân dẫn dắt chúng ta vào vòng sanh tử luân hồi.
* *
3) Sau khi chỉ rõ nguyên
nhân của sự khổ đau, của sanh tử luân hồi, Đức Phật chỉ bày cảnh giới
niết bàn, thường hằng, tịch diệt, bình yên, thanh tịnh, an lạc và hạnh
phúc cho những ai biết áp dụng Chánh Pháp vào đời sống hằng ngày.
Trong Kinh Đại Bát Niết
Bàn, Đức Phật có dạy:
- Chư hành vô thường.
- Thị sanh diệt pháp.
- Sanh diệt diệt dĩ.
- Tịch diệt vi lạc.
Nghĩa là mọi sự mọi việc
trên đời đều vô thường, không có gì tồn tại vĩnh viễn, gọi là pháp sanh
diệt. Tất cả mọi sự mọi việc sanh ra, rồi cũng sẽ diệt đi, không có gì
là vĩnh cửu, chuyện vui có tới rồi cũng đi, chuyện buồn có đến rồi cũng
qua, thời gian sẽ xóa tan tất cả mọi sự mọi việc. Chuyện vui hay buồn
đều làm tâm của chúng ta loạn động và bất an. Tâm của chúng ta dù khởi
niệm từ bi, hay khởi niệm sân hận, rồi cũng lặng đi, tất cả đều là các
tâm niệm sanh diệt. Chỉ có khi nào các tâm niệm sanh diệt như vậy diệt
đi rồi, lặng mất rồi, không còn nữa, chúng ta sẽ được sống trong cảnh
giới an lạc hạnh phúc, cảnh giới tịch diệt vi diệu.
* Trong Kinh A Di Đà,
Đức Phật dạy: đó là cảnh giới của người đạt được "nhất tâm bất loạn".
* Trong Kinh Thủ Lăng
Nghiêm, Đức Phật dạy: đó là cảnh giới của người có tâm "bất tùy phân
biệt", của người không còn tranh chấp thị phi, phải quấy, hơn thua, đúng
sai.
* Trong Kinh Tịnh Danh,
hay Kinh Duy Ma Cật, Đức Phật dạy: đó là cảnh giới của người đạt được
"pháp môn bất nhị", của người không còn kẹt trong vòng đối đãi nhị biên,
không còn thành kiến, định kiến, thiên kiến, biên kiến, tà kiến, ác
kiến, đoạn kiến, thường kiến.
* Trong Kinh Kim Cang,
Đức Phật dạy: đó là cảnh giới của người đạt được "thân kim cang bất
hoại", của người không còn kẹt vì các hình tướng giả tạm bên ngoài, của
người đạt được "thực tướng".
* Trong Bát Nhã Tâm
Kinh, Đức Phật dạy: đó là cảnh giới của người đạt được "chư pháp bất
sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm", hay là cảnh giới
của người "hành thâm bát nhã và chiếu kiến ngũ uẩn giai không".
* Trong Kinh Thủ Lăng
Nghiêm, Đức Phật có dạy: "Sanh diệt ký diệt, tịch diệt hiện tiền".
Nghĩa là khi nào tâm sanh diệt tiêu mất, không còn nữa, thì cảnh giới
tịch diệt, tức là cảnh giới niết bàn hiện ra trước mắt. Cũng như khi nào
mây đen tan mất, thì trăng sáng hiện ra trước mắt. Cũng như khi nào
phiền não và khổ đau hết, thì an lạc và hạnh phúc hiện tiền. Nói một
cách khác: "vọng tâm tiêu hết, chân tâm hiện tiền". Thực là đơn giản, dễ
hiểu như vậy.
Cảnh giới tỴch diệt an
lạc đó không dành riêng cho bất cứ ai, không thuộc bất cứ tôn giáo nào,
không thuộc bất cứ sắc dân nào, không thuộc bất cứ thời đại nào. Bất cứ
ai dẹp được một phần các tâm niệm sanh diệt, thì người đó sống được một
phần trong cảnh giới an lạc tịch diệt.
Cảnh giới này không thể
nghĩ bàn, không thể dùng lời lẽ của thế gian để diễn tả trọn vẹn được,
ai thực hiện được, sống được trong cảnh giới đó, thì tự người đó biết,
cũng như người uống nước, nóng lạnh tự biết. Cảnh giới này còn gọi là
"đạo".
Sách có câu: "đạo bất
khả ngôn thuyết". Nghĩa là không thể dùng ngôn ngữ của thế gian này để
diễn tả, để chỉ bày, để nói về "đạo". Sách cũng có câu: "ngữ ngôn đạo
đoạn". Nghĩa là khi nói lên bằng ngôn ngữ thế gian thì đã mất "đạo" rồi.
* *
4) Đến đây, Đức Phật chỉ
dạy những phương pháp, những pháp môn để đạt được "đạo", tức là
đạt được cảnh giới niết bàn tịch diệt đó. Vấn đề hiện giờ là: làm sao để
các tâm niệm sanh diệt đó không còn khởi lên nữa, hoặc các tâm niệm
sanh diệt đó có khởi lên, làm sao cho nó lắng xuống, tiêu mất? Nói cách
khác: Làm sao hàng phục và an trụ được cái tâm ý này chính là trọng tâm
của đạo Phật.
Toàn bộ giáo pháp của
đạo Phật, chia ra 37 phẩm, gồm có: tứ niệm xứ, tứ như ý túc, tứ chính
cần, ngũ căn, ngũ lực, thất bồ đề phần và bát chánh đạo. Chánh Pháp gồm
37 phẩm này giúp chúng ta đạt được "đạo" bằng trí tuệ, bằng sự quán
chiếu, nhận thức được chân lý chứ không phải chỉ bằng niềm tin đơn giản
mà thôi.
* *
* "Tứ Niệm Xứ" là bốn
chỗ cần quán niệm luôn luôn. Quán thân bất tịnh, nghĩa là luôn luôn nhớ
rằng thân xác tứ đại này chứa toàn những thứ nhơ nhớp, những thứ bất
tịnh bên trong. Quán thọ thị khổ, nghĩa là luôn luôn nhớ rằng thọ nhận
nhiều cảm giác, nhiều tự ái, ai nói gì cũng chấp chặt, thì tức nhiên là
khổ. Quán tâm vô thường, nghĩa là luôn luôn nhớ rằng tâm ý con người đổi
thay vô chừng, không cố định, nay vầy mai khác, chớ có chấp chặt làm
chi cho khổ! Quán pháp vô ngã, nghĩa là luôn luôn nhớ rằng mọi sự mọi
việc trên thế gian đều không nhứt định, không cố định. Thí dụ những quan
niệm chồng chúa vợ tôi, trọng nam khinh nữ, chỉ đúng ở thời đại nào đó
mà thôi, không có thực thể cố định, không đúng với mọi thời gian, không
đúng với mọi không gian.
* "Tứ chính cần" là bốn
việc luôn luôn chuyên cần, chăm chỉ thực hành một cách chân chính. Đối
với việc bất thiện đã sinh, phải trừ dứt hẳn, đối với việc bất thiện
chưa sinh, đừng cho sinh ra, đối với việc thiện chưa sinh, làm cho sinh
ra, đối với việc thiện đã sinh, làm cho tăng trưởng.
* "Tứ như ý túc" là bốn
pháp thiền định, hay là bốn phương tiện đưa chúng ta đến chỗ như ý muốn,
thành tựu viên mãn. Đó là: dục, cần, tâm, quán. Nghĩa là: chúng ta phải
có lòng thiết tha mong muốn, tìm cầu sự giải thoát, chúng ta phải
chuyên cần, tinh tấn học hiểu giáo lý, chúng ta phải khắc chế tâm niệm
đến chỗ bất loạn, chúng ta phải biết cách quán chiếu để giác ngộ chân
lý, thấu hiểu lẽ thực.
* "Ngũ căn" là năm pháp
căn bản sinh ra các việc thiện. Đó là: tín, tấn, niệm, định, tuệ. Nghĩa
là: chúng ta phải có niềm tin sâu xa, vững chắc nơi Chánh Pháp vô
thượng, tinh tấn tu tâm dưỡng tánh không hề biết mệt mỏi, luôn luôn có
tâm niệm hiền thiện, từ bi hỷ xả, luôn luôn giữ sự bình thản, tỉnh thức,
thiền định, bất loạn và luôn luôn dùng trí tuệ để suy xét mọi sự mọi
việc, không tin tưởng bừa bãi, không mê tín dị đoan.
* "Ngũ lực" là năm sức
mạnh do năm pháp căn bản nói trên thành tựu được. Nghĩa là do tín lực
chúng ta có niềm tin kiên cố, mạnh mẽ nơi Chánh Pháp, do tấn lực chúng
ta có sức mạnh tinh thần bất thối chuyển, san bằng những trở ngại trên
đường tu tập, do niệm lực chúng ta luôn luôn ghi nhớ những thiện pháp,
do định lực chúng ta có được sự tập trung tư tưởng, và do tuệ lực chúng
ta giác ngộ được con đường giải thoát khỏi sanh tử luân hồi.
* "Thất bồ đề phần", còn
gọi là "thất giác chi", là bảy phần hiểu biết, bảy điều dẫn đến chỗ
giác ngộ. Đó là: trạch pháp, tinh tấn, hoan hỷ, khinh an, niệm, định,
xã. Trạch pháp là dùng trí tuệ chọn lựa sự thực hư, chơn giả của tất cả
các pháp. Tinh tấn là tâm mạnh mẽ dứt trừ tất cả các nghiệp bất thiện,
thực hành tất cả các nghiệp thiện. Hoan hỷ là tâm luôn luôn vui vẻ với
mọi người, với mọi việc trên thế gian, không phân biệt gì cả, để tất cả
chúng sanh đều hỷ kiến. Khinh an là tâm nhẹ nhàng, an lạc khi dứt trừ
các phiền não, các cố chấp nặng nề, thoát ra ngoài vòng tục lụy của thế
gian. Niệm là tâm luôn luôn nhớ nghĩ đến chư Phật, đến tất cả chúng
sanh, vì tâm từ bi hỷ xả mà hành trì giới luật, làm các việc phước
thiện. Định là tâm luôn luôn bình thản, không tán loạn, an nhiên, tự
tại. Xã là tâm buông bỏ tất cả những hệ lụy của cuộc đời, tất cả những
thành kiến, định kiến, thiên kiến, biên kiến, tà kiến, ác kiến, thường
kiến, đoạn kiến, không chấp chặt những tư tưởng chật hẹp, ích kỷ.
* "Bát chánh đạo" là con
đường gồm tám điều chân chánh, dẫn đến mục đích cứu kính của đạo Phật:
giác ngộ và giải thoát. Đó là: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ,
chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.
1) Chánh kiến là
sự hiểu biết chân chánh, chẳng hạn như hiểu biết về lý nhân quả, lý nhân
duyên, lý duyên khởi, trùng trùng duyên khởi. Sự hiểu biết này không bị
chi phối bởi thành kiến, định kiến, tà kiến, ác kiến, thiên kiến, biên
kiến, đoạn kiến, thường kiến. Người có chánh kiến là người thấy mọi sự
mọi việc "đúng như thực".
Trong Kinh A Hàm, Đức
Phật có dạy: "Hãy đến với đạo Phật để thấy đúng như thực, chứ không phải
chỉ đến để mà tin!"
Thấy "đúng như thực"
nghĩa là sao? Nghĩa là:
* Mọi sự việc đều
có nguyên nhân. Thí dụ khi thấy
một cái cây mọc lên, chúng ta biết ngay là do hạt nhân nẩy mầm, không
phải tự nhiên mà có. Khi được bình an, sung sướng, chúng ta hiểu là đang
hưởng phước. Khi gặp tai nạn, trắc trở, chúng ta hiểu là đang đền trả
quả báo. Tất cả việc phước hay họa là quả của nhân, do chúng ta gieo
trước đây, đời trước hay đời này, chứ không do ông trời nào ban phước
giáng họa bừa bải cả. Đó là lý nhân quả.
* Mọi sự việc do
nhân duyên sinh và cũng do nhân duyên diệt. Một cuốn sách do các nhân duyên có người viết, có giấy mực,
có thợ in ấn, có thợ đóng bìa mà hình thành. Đến khi do các nhân duyên
bị mối mọt ăn, bị lửa đốt, bị thấm nước, cuốn sách đó sẽ bị hủy hoại.
Cuốn sách không phải tự nhiên mà có, không phải tự nhiên mà mất! Đó là
lý nhân duyên.
* Mọi sự mọi việc
không phải tự nhiên mà phát khởi.
Có người hỏi thì mới có người đáp. Có người ăn quà mới có người bán
quà. Có người bán quà mới có người ăn quà. Có chửi mắng người mới bị ăn
bạt tai. Có chơi xấu người mới bị người chơi xấu. Có gió mới có sóng. Có
sinh sự thì sự mới sinh. Có chuyện này xảy ra, mới có chuyện kia xảy
ra, rồi có chuyện nọ xảy ra tiếp theo, cứ như thế liên tục không bao giờ
dứt. Đó là lý duyên khởi, trùng trùng duyên khởi.
2) Chánh tư duy
là sự suy nghĩ chân chánh, theo đúng lẽ thực, không lợi mình hại người.
Sự suy nghĩ này không bị chi phối bởi thành kiến, định kiến, thiên kiến,
biên kiến, tà kiến, ác kiến, đoạn kiến, thường kiến.
Trong Kinh A Hàm, Đức
Phật có dạy:
-- "Không nên tin ngay
tất cả những gì người xưa nói, tất cả những gì người có thế lực đạo cũng
như đời nói, tất cả những gì người bề trên nói, tất cả những gì có
nhiều người tin theo, có ghi trong sách vở.
-- Chỉ nên tin những gì
có thể kiểm nghiệm được, đúng với chân lý, đúng với lẽ thực, thông qua
trí tuệ sáng suốt, thấy có ích lợi cho bản thân và cho mọi người".
Bởi vậy, Đức Phật dạy ba
môn học phát sinh trí tuệ, đó là: "Văn-Tư-Tu". Nghĩa là chúng ta hãy
nghe giảng, hãy đọc sách, hãy nghiên tầm, hãy học hỏi, rồi suy nghĩ, tư
duy, quán chiếu cho chính chắn, thấu đáo, trước khi thực hành, tu tập
theo.
3) Chánh ngữ là
lời nói chân chánh, không lợi mình hại người, không thêu dệt, gây hiềm
khích giữa các cá nhân hay tập thể, không xu nịnh, không trái lẽ thực,
không thiên vị. Lời nói này dễ nghe, đem lại niềm vui cho kẻ khác, không
bị chi phối bởi ác kiến, thành kiến, biên kiến, đoạn kiến, thường kiến.
Người có chánh ngữ là người không nói những lời khiến kẻ khác đau khổ,
phải xức dầu cù là, phải uống thuốc nhức đầu, dù cho họ là người thân
hay kẻ thù hoặc bất cứ ai chăng nữa! Người có chánh ngữ là người biết
giữ chữ tín, được lòng tin yêu của mọi người. Khi cần nói, chỉ nói pháp
vô sanh, không nói pháp sanh diệt, thị phi.
4) Chánh nghi䰼/u> là hành động tạo nghiệp chân chánh, không
mưu cầu lợi mình hại người. Dù cho người có hành động không tốt đối với
mình, chúng ta cũng không có hành động trả đủa, vì làm như vậy chúng ta
đâu có khác gì hơn người. Người ta viết báo chửi bới, vu cáo, bôi lọ,
nhục mạ, phỉ báng. Chúng ta biết đó là hành động không chân chánh, thì
chúng ta đừng làm y như vậy đối với người.
Trong Kinh A Hàm, Đức
Phật có dạy:
- "Tam nghiệp hằng thanh tịnh.
- Đồng Phật vãng tây phương".
Nghĩa là giữ gìn ba
nghiệp thân khẩu ý chân chánh, thanh tịnh, thì chúng ta theo chư Phật về
cảnh giới tây phương cực lạc mà an hưởng.
5) Chánh mﮧ là
mạng sống, cuộc sống chân chánh. Nghĩa là chúng ta chỉ làm những nghề
chân chánh, không xâm phạm mạng người, tổn hại mạng vật để sinh sống.
Người có chánh mạng là người sống cuộc đời có ý nghĩa, lợi mình lợi
người, không lường gạt ai, không ăn không ngồi rồi, không sống bám vào
kẻ khác, không sống bám vào xã hội, luôn luôn có tâm niệm phục vụ chúng
sanh là cúng dường chư Phật.
6) Chánh tinh tấn
là sự siêng năng, chuyên cần, chăm chỉ chân chánh, tức là làm tất cả
những việc thiện và tránh tất cả việc bất thiện, luôn luôn tu tâm dưỡng
tánh, không lúc nào ngơi nghỉ, mệt mõi, buông lung hay thối tâm.
Trong Kinh Đại Bát
Niết Bàn, Đức Phật có dạy:
- "Chư ác mạc tác.
- Chúng thiện phụng hành.
- Tự tịnh kỳ ý.
- Thị chư Phật giáo".
Trong kinh sách,
tượng trưng cho sự siêng năng, tinh tấn một cách dũng mãnh, vượt ngoài ý
chí tầm thường của thế gian, đó là Bồ Tát Đại Thế Chí.
7) Chánh niệm
là luôn luôn khắc chế tâm niệm bên trong, bên ngoài luôn luôn tránh sự
đấu tranh, cãi vã.
Chư Tổ có dạy:
- "Nội cần khắc niệm chi công.
- Ngoại hoằng bất tranh chi đức".
Nghĩa là con
người có công phu tu tập, cố gắng dẹp bỏ tạp niệm trong tâm, con người
có đức độ bên ngoài luôn luôn từ tốn, lễ độ, nhã nhặn, hiền hòa. Người
có chánh niệm là người luôn luôn biết rõ ràng mình đang làm gì, đang nói
gì, đang nghĩ gì, luôn luôn sống trong tỉnh thức, nhận biết ngay mỗi
khi vọng niệm dấy khởi và không theo, luôn luôn nhớ và sống theo lời
Phật dạy, luôn luôn sống với Chân Tâm Phật Tánh, tức là với Bản Tâm
Thanh Tịnh.
8) Chánh định
là sự bình tỉnh sáng suốt, do tam nghiệp thanh tịnh, do quán tâm từ bi
để dẹp trừ lòng sân hận, mở rộng tình thương, do quán thân bất tịnh để
dẹp trừ lòng tham ái, do quán lý nhân duyên để dẹp trừ lòng si mê, ngã
chấp và pháp chấp, do quán giới phân biệt để khi sáu căn tiếp xúc với
sáu trần, không khởi sáu thức, không sanh vọng niệm và do quán sổ tức,
đếm hơi thở ra thở vào, để dẹp trừ tâm loạn động, tâm lăng xăng lộn xộn.
Người có chánh định
do giữ gìn giới luật, sẽ phát sanh trí tuệ bát nhã, đưa đến giác ngộ và
giải thoát. Đó là tam vô lậu học "Giới-Định-Tuệ". Ngoài ra, chúng ta
cũng đã biết dù khởi niệm thiện hay bất thiện cũng đều dẫn đến khổ đau,
bởi vì vẫn còn kẹt hai bên, tức là nhị biên, người đời gọi là hai thái
cực. Cho nên, Đức Phật dạy "Pháp Môn Bất Nhị", giúp chúng ta lặng hết
những tâm niệm dù thiện hay bất thiện, để không còn phiền não và khổ
đau, để được an lạc và hạnh phúc, để được về cõi tây phương cực lạc, để
được giác ngộ và giải thoát.
* * *
tóm lại, chúng ta
biết những điều Đức Phật chứng ngộ và giảng dạy, được gọi là Chánh Pháp
ghi trong các kinh điển, ví như các bản đồ giúp nhân loại biết phương
pháp tu tập, để được giác ngộ và giải thoát, để được cuộc sống an lạc và
hạnh phúc hiện đời. Chánh Pháp không dành riêng cho bất cứ ai, dù là
Phật Tử hay không, dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia. Mặc dù có
người thờ phượng Đức Phật, tin tưởng Đức Phật mà không học hiểu Chánh
Pháp, không áp dụng Chánh Pháp, thì cũng không ích lợi gì hiện đời cả.
Chư Tổ có dạy:
- "Tu mà không học là tu mù.
- Học mà không tu là đãy sách".
Nghĩa là muốn hưởng
an lạc và hạnh phúc, muốn được giác ngộ và giải thoát, chúng ta phải tu
tập. Nhưng tu tập mà không chịu học hiểu Chánh Pháp cũng ví như người mù
lại không có bản đồ, không người hướng dẫn, thì làm sao đi đến nơi đến
chốn một cách an lành được. Bản thân đã tu mù, không nghiên tầm giáo lý,
kinh điển đại thừa, mà còn dẫn dắt người khác tu tập, thì quả là đại
họa, là phỉ báng đạo Phật, là sư tử trùng thực sư tử nhục. Trái lại,
Chánh Pháp để áp dụng, thực hành chứ không phải để nói suông, để thảo
luận, để tranh cãi. Người chỉ lo học hiểu để thỏa mãn kiến thức, mà
không lo tu tập, không áp dụng vào đời sống hằng ngày, thì cũng chỉ có
thể hiểu biết đến mức độ nào đó mà thôi, cũng ví như cái đãy, cái túi
đựng sách có giới hạn vậy thôi. Những người đó cũng như những người đếm
tiền trong ngân hàng, những người đếm bò cho chủ, trọn không có tiền và
cũng không có bò.
Có câu chuyện giáo lý
tối thượng thừa như sau: Có một anh mù, đến thăm người bạn, đến lúc
trời tối mới ra về. Người bạn đưa cho cây đèn. Anh mù bèn nói không cần,
bởi vì đối với anh, trời sáng cũng như tối, ban ngày cũng như ban đêm,
không có gì khác, không phân biệt được gì cả. Người bạn khuyên hãy cầm
cây đèn, để người khác thấy mà tránh. Anh mù nghe có lý bèn nhận cây đèn
và ra về. Trên đường về, có người đi đụng phải anh. Anh mù bèn la lên:
bộ không thấy cây đèn tôi đang cầm đây hay sao? Người kia đáp: Cây đèn
của anh đã tắt từ lâu rồi!
Thế mới biết chúng ta
cần cây đèn của chính chúng ta, để giúp chúng ta tai qua nạn khỏi, để
giúp chúng ta giác ngộ và giải thoát khỏi vòng trầm luân, sanh tử luân
hồi. Cây đèn do người khác trao cho, có khi không được hữu dụng. Cây đèn
luôn luôn hữu dụng đó phải là cây đèn của chính chúng ta. Cây đèn đó
chính là trí tuệ bát nhã của tất cả mọi người chúng ta vậy.