- KINH
THỦ
LĂNG
NGHIÊM
-
- Thích Duy
Lực
QUYỂN
HAI
Lúc bấy
giờ, A Nan và đại chúng nghe lời Phật dạy, thân tâm thư
thái, nghĩ mình từ vô thỉ đến nay, lạc mất bản tâm, lầm
nhận bóng phân biệt của nhân duyên căn trần, hôm nay khai
ngộ, như đứa bé khát sữa bỗng được gặp mẹ, chắp tay
lễ Phật, mong được nghe Như Lai hiển bày chỗ chơn vọng
hư thật của thân tâm, phát minh hai tánh sanh diệt và chẳng
sanh diệt ngay trước mắt.
Khi ấy, vua
Ba Tư Nặc đứng dậy bạch Phật:
- Xưa kia
con chưa được nghe lời dạy của Phật, thấy bọn ngoại
đạo Ca Chiên Diên (chấp các pháp cũng có cũng không) và Tỳ
La Chi Tử (chấp mãn kiếp tự nhiên đắc đạo), đều nói
thân này sau khi chết đoạn diệt gọi là Niết Bàn. Nay dù
gặp Phật nhưng vẫn còn hồ nghi, chẳng biết làm thế nào
mới được chứng tỏ chỗ chẳng sanh diệt của tâm này,
hiện nay hàng hữu lậu trong chúng đều mong cùng nghe.
Phật nói
với vua:
- Thân ông
ở đây, nay ta hỏi ông, cái nhục thân này là đồng như kim
cang, thường trụ chẳng hoại hay có biến diệt?
- Bạch Thế
Tôn! Cái thân vô thường biến hoại của con dù chưa từng
diệt, nhưng con xét thấy trước mắt niệm niệm dời đổi,
mãi mãi không thôi, dần dần tiêu mòn, như lửa thành tro,
sự tiêu mòn chẳng ngừng, nên biết chắc chắn thân này rồi
sẽ diệt mất.
Phật nói:
- Đúng thế,
đại vương! Tuổi tác của ông nay đã già yếu, vậy mặt
mày so với thuở nhỏ như thế nào?
- Bạch Thế
Tôn! Xưa con còn nhỏ, da thịt mơn mởn, đến khi trưởng thành,
khí huyết sung túc, nay thì tuổi già, ngày thêm suy yếu, hình
sắc khô gầy, tinh thần mệt mỏi, tóc bạc mặt nhăn, sự
sống chẳng còn bao lâu nữa, làm sao so bằng lúc trẻ mạnh!
Phật nói:
- Hình thể
của ông đâu phải bỗng nhiên biến hoại!
- Bạch Thế
Tôn! Sự biến hóa âm thầm dời đổi, con thật chẳng hay,
mùa đông mùa hạ thấm thoát trôi qua, dần dần đến thế
này. Tại sao? Khi hai mươi tuổi, dù gọi là trẻ, nhưng mặt
mày đã già hơn lúc lên mười, khi ba mươi tuổi lại sút
hơn lúc hai mươi, đến nay đã sáu mươi hai, so với lúc năm
mươi thì suy yếu hơn nhiều. Thế Tôn, con cảm thấy sự dời
đổi âm thầm trôi chảy theo kỳ hạn mười năm, nhưng nếu
suy xét tỉ mỉ thì cái biến đổi ấy đâu phải từng 10
năm! Thật ra thì mỗi năm mỗi đổi, cho đến mỗi tháng,
mỗi ngày, mỗi giờ, trong mỗi sát na niệm niệm biến đổi
chẳng ngừng, nên biết thân này chung quy biến diệt vậy.
Phật nói:
- Ông thấy
biến hóa dời đổi chẳng ngừng, ngộ biết phải diệt. Vậy
trong lúc diệt, ông còn biết trong thân có cái gì chẳng diệt
chăng?
Vua Ba Tư
Nặc chắp tay bạch Phật:
- Con thật
chẳng biết!
Phật nói:
- Nay ta chỉ
cho ông cái tánh chẳng sanh diệt. Đại Vương, ông thấy nước
sông Hằng hồi mấy tuổi?
Vua đáp:
- Lúc lên
ba, mẹ con dắt đi yết lễ thần Tỳ Bà Thiên, đi qua sông
này, khi ấy đã biết sông Hằng.
Phật nói:
- Như lời
ông nói, lúc hai mươi tuổi thì sút hơn lúc lên mười, cho
đến sáu mươi niệm niệm dời đổi theo từng ngày giờ.
Vậy khi ông ba tuổi thấy nước sông, rồi đến năm mười
ba, thấy nước sông, tánh thấy như thế nào?
Vua đáp:
- Tánh thấy
cũng giống như khi ba tuổi, cho đến năm nay đã sáu mươi
hai cũng chẳng có khác. (Bản kiến vốn chẳng sanh diệt biến
đổi).
Phật nói:
- Nay ông
tự than đã già, mặt ông chắc phải nhăn hơn lúc trẻ, vậy
hiện nay thấy sông Hằng với lúc nhỏ thấy sông Hằng, cái
tánh thấy có già trẻ gì chăng?
- Bạch Thế
Tôn! Không ạ!
Phật nói:
- Mặt ông
dù nhăn mà cái tánh của kiến tinh (năng thấy) chưa từng
nhăn, có nhăn là biến, chẳng nhăn thì bất biến; biến ắt
phải diệt, bất biến vốn chẳng sanh diệt. Vậy lấy gì
để thọ nhận sanh tử cho ông? Mà còn đem tà thuyết của
bọn Mạt Già Lê kia, cho là thân này sau khi chết đoạn diệt!
Vua nghe Phật
dạy, tin biết Bổn Kiến thật chẳng đoạn diệt, bỏ
thân này sẽ được thân khác, nên cùng đại chúng vui mừng
được pháp chưa từng có. Ngay đó, A Nan liền từ chỗ ngồi
đứng dậy chắp tay đảnh lễ, quỳ gối bạch Phật:
- Bạch Thế
Tôn! Nếu cái tánh thấy nghe này thật chẳng sanh diệt, sao
Thế Tôn lại nói chúng con lạc mất chơn tánh, hành theo điên
đảo? Xin Phật từ bi, rửa sạch trần cấu cho chúng con.
Tức thời,
Như Lai duỗi cánh tay sắc vàng, ngón tay chỉ xuống, bảo với
A Nan:
- Nay ngươi
thấy tay ta là chánh hay đảo?
A Nan đáp:
- Chúng sanh
thế gian cho đây là đảo, mà con thì chẳng biết thế nào
chánh, thế nào đảo.
Phật bảo
A Nan:
- Nếu người
thế gian cho đây là đảo thì lấy gì làm chánh?
A Nan đáp:
- Như Lai
đưa cánh tay chỉ lên trời gọi là chánh.
Phật liền
giơ cánh tay lên, bảo rằng:
- Theo tánh
thấy là chánh, theo cảnh trần là đảo; tánh thấy chẳng
có chánh, đảo, cảnh trần mới có chánh, đảo, nay chẳng
theo tánh thấy mà duyên theo cảnh trần, đã là một lớp điên
đảo. Lại, theo lý lẽ thường, cánh tay chỉ xuống thuận
theo thân là chánh, cánh tay chỉ lên nghịch với thân là đảo;
nay người thế gian đầu đuôi đổi nhau, cho thuận là đảo,
cho nghịch là chánh, thành điên đảo bội phần. Vậy đem
thân ngươi so với pháp thân thanh tịnh của Như Lai thì được
biết rõ, thân Như Lai gọi là Chánh Biến Tri, thân các ngươi
gọi là tánh điên đảo. Ngươi hãy quán xét kỹ giữa thân
ngươi và thân Phật, cái cho là điên đảo ấy, ở chỗ nào
gọi là điên đảo?
LƯỢC
GIẢI
Thanh tịnh
pháp thân tức diệu tâm sáng tỏ chơn thật (gốc), kiến văn
giác tri tức là vật do diệu tâm hiện ra (ngọn); về gốc
là chánh, theo ngọn là đảo, ví như bọt nổi nơi biển, nhận
biển là chánh, nhận bọt là đảo. Phật hỏi A Nan: Ngươi
thấy tay ta là chánh hay đảo? Khi đó A Nan nên ở nơi tánh
thấy của mình trực ngộ thế nào chánh, thế nào đảo, chẳng
nên nơi tay Như Lai cho là chánh, là đảo. Cũng như Tu Bồ Đề
tĩnh tọa trong hang, chẳng nhờ căn thức được thấy Pháp
thân Như Lai, gọi là Chánh Biến Tri. Dùng mắt A Nan để thấy
tay Như Lai, lại ở nơi tay phân biệt chánh hay đảo, ấy là
duyên theo lục thức, bỏ gốc theo ngọn, đã lìa ngôi chánh
nên gọi là tánh điên đảo.
*****
Khi ấy A
Nan và đại chúng ngẩn ngơ nhìn Phật không nháy mắt, chẳng
biết chỗ thân tâm điên đảo, Phật mở lòng từ bi thương
xót A Nan và đại chúng, phát hải triều âm bảo khắp trong
Hội rằng:
- Các thiện
nam tử! Ta thường nói: các duyên tâm và sắc với các tâm
sở (buồn, vui, yêu, ghét v.v...) các pháp sở duyên (cảnh trần)
đều do tâm biến hiện, thân tâm của ngươi cũng là vật
do diệu tâm hiện ra, vậy sao các ngươi lại lạc mất cái
bản tánh vốn tròn đầy sáng tỏ của diệu tâm, nhận lầm
cái mê (vọng tâm) nơi ngộ (diệu tâm) cho là tâm tánh, bèn
mê diệu minh (diệu tâm sáng tỏ) trở thành vô minh, từ vô
minh biến thành ngoan không, vô minh là năng biến, ngoan không
là sở biến, năng sở hòa hợp biến ra tứ đại, là ngoại
sắc của y báo, sắc lẫn lộn với tâm vọng tưởng thành
có chúng sanh, là nội sắc của chánh báo, tưởng (vọng tưởng),
tướng (vọng sắc) làm thân, nhiếp trì thân tâm là thức
thứ tám, tụ duyên lay động bên trong là thức thứ bảy,
dong ruổi theo cảnh bên ngoài là thức thứ sáu, từ vô minh
biến khởi vọng duyên vọng trần, mà nhận tướng nhiễu
loạn lăng xăng này, mê muội cho là tự tâm ở trong sắc thân,
chẳng biết sắc thân, núi sông, đất đai cho đến hư không
đều là vật do diệu tâm biến hiện, ví như bỏ cả trăm
ngàn biển lớn, chỉ nhận một bọt nước cho đó là bao gồm
tất cả nước biển, cũng như các ngươi, tự bỏ Bản Kiến,
lại ở nơi tay ta phân biệt chánh, đảo, thật là mê lại
thêm mê. Như Lai nói là kẻ đáng thương xót vậy.
A Nan thọ
nhận lòng từ bi dạy bảo thâm sâu của Phật, rơi lệ chắp
tay bạch Phật rằng:
- Con dù được
nghe diệu âm, ngộ biết chỗ bản lai thường trụ viên mãn
của diệu tâm mà con hiện nay dùng tâm phan duyên nghe tiếng
thuyết pháp của Phật, dẫu ngộ được tâm này, nhưng chưa
dám cho là bản tâm, mong Phật thương xót khai thị diệu pháp,
nhổ trừ gốc nghi ngờ của con, để được đến đạo vô
thượng.
Phật bảo
A Nan:
- Các ngươi
nay còn dùng tâm phan duyên để nghe pháp, vậy pháp này cũng
là duyên, chẳng hợp pháp tánh. Cũng như có người dùng tay
chỉ mặt trăng cho người khác xem, người ấy nên nhờ ngón
tay để thấy mặt trăng; nếu nhìn ngón tay cho là mặt trăng
thì chẳng những bỏ mất mặt trăng, cũng chẳng biết ngón
tay. Tại sao? Vì cho ngón tay là mặt trăng, chẳng những không
biết ngón tay, lại cũng chẳng phân biệt được sáng tối.
Tại sao? Vì cho cái bản thể của ngón tay là tánh sáng của
mặt trăng, chẳng rõ được hai tướng sáng tối vậy. Các
ngươi cũng thế, nếu dùng ý thức phân biệt tiếng thuyết
pháp của ta, cho là tâm của các ngươi, thì tâm này phải
lìa sự phân biệt âm thanh, riêng có tánh phân biệt. Ví như
người đi đường ở lại khách sạn, nghỉ tạm rồi đi,
chẳng được thường trú, còn người giám đốc khách sạn
thì khỏi đi đâu cả, nên gọi là chủ. Nay cũng như thế,
nếu là chơn tâm (chủ) của ngươi thì khỏi cần đi đâu,
sao lại lìa âm thanh chẳng có tự thể của tánh phân biệt?
Thế thì, cái tâm phân biệt âm thanh dung mạo này, lìa các
sắc tướng chẳng có tự thể của tánh phân biệt cho đến
sự phân biệt cũng chẳng có, phi sắc phi không, mà bọn ngoại
đạo Câu Xá Ly mê muội cho là Minh Đế (thần ngã). Nếu lìa
các pháp nhân duyên chẳng có tự thể của tánh phân biệt
thì tâm tánh các ngươi đều có chỗ trả về, lấy gì làm
chủ?
A Nan nói:
- Nếu tâm
tánh của con đều có chỗ trả về, thì cái diệu tâm sáng
tỏ của Như Lai nói, sao chẳng có chỗ trả về? Xin Phật
thương xót, khai thị cho con.
Phật bảo
A Nan:
- Nay ngươi
thấy được ta là do cái kiến tinh sáng tỏ (đệ nhị nguyệt),
kiến tinh này chẳng phải là diệu tâm sáng tỏ (đệ nhất
nguyệt), gượng nói như mặt trăng thứ hai, cũng chẳng phải
bóng của mặt trăng thứ nhất vậy. Ngươi hãy chú ý nghe,
bây giờ ta sẽ chỉ rõ chỗ chẳng thể trả về. A Nan, như
đây, giảng đường mở cửa bên đông, mặt trời mọc lên
thì sáng, nửa đêm không trăng thì tối; chỗ có cửa nẻo
thì thông, chỗ có vách tường thì nghẽn, chỗ phân biệt
là duyên, nơi hư không là trống rỗng, bụi trần nổi lên
thì thấy mịt mù, mưa tạnh trời thanh thì thấy sáng sủa,
A Nan, ngươi xem các tướng biến hóa này, nay ta trả về chỗ
bản nhân của nó! Sao gọi là bản nhân? Các tướng biến
hóa này, sáng trả về mặt trời, tại sao? Vì không mặt trời
thì chẳng sáng, sáng thuộc mặt trời, nên trả về mặt trời,
tối trả về đêm không trăng, thông trả về cửa nẻo, nghẽn
trả về vách tường, duyên trả về phân biệt, trống rỗng
trả về hư không, mịt mù trả về bụi trần, sáng sủa trả
về mưa tạnh, tất cả việc thế gian không ngoài những loại
này, vậy còn kiến tinh thấy được tám thứ kể trên đó,
ngươi định trả về đâu? Nếu trả cho sáng thì lúc không
sáng chẳng thể thấy tối, thế thì sáng tối chẳng thể
phân biệt, còn bảy thứ kia cũng giống như vậy. Những cái
trả về được tất nhiên chẳng phải ngươi, cái không thể
trả về, chẳng phải ngươi là ai? Vậy biết tâm ngươi vốn
diệu minh trong sạch, ngươi tự mê muội lạc mất bản tâm,
cam chịu luân hồi, thường bị trôi lăn trong vòng sanh tử,
nên Như Lai nói là đáng thương xót!
A Nan nói:
- Con dù biết
tánh kiến này chẳng thể trả về, nhưng làm sao biết là
chân tánh của con?
Phật bảo
A Nan:
- Ta hỏi
ngươi, nay ngươi chưa đắc quả vô lậu, nhờ thần lực của
Phật, được thấy cõi sơ thiền chẳng có ngăn ngại, mà
A Na Luật thấy cõi Ta Bà như xem trái Yêm Ma La trong bàn tay,
các Bồ Tát thấy trăm ngàn cõi, mười phương Như Lai cùng
tột vô số quốc độ Phật, chẳng chỗ nào không thấy khắp,
mà sức thấy của chúng sanh thì chẳng quá vài dặm. A Nan,
nay ta cùng ngươi xem cung điện của Tứ Thiên Vương, từ đó
trở xuống, xem tất cả hình tượng sáng tối khắp hư không,
dưới nước và trên bờ, đều bị chướng ngại nơi tiền
trần phân biệt, nay ta cho ngươi phân biệt trong sự thấy,
xét xem cái nào là tự thể của tánh thấy, cái nào là vật
tượng? A Nan, cùng tột sức thấy của ngươi, từ cung trăng
cho đến Thất Kim Sơn, quán xét cùng khắp, dù có đủ thứ
ánh sáng cũng đều là vật chứ chẳng phải ngươi, dần dần
xem đến mây bay, chim hót, gió động, bụi nổi, cho đến núi
sông, đất đai, người thú, cỏ lá... đều là vật chứ chẳng
phải ngươi. A Nan, các tánh vật xa gần dù có khác biệt,
nhưng đều do kiến tinh trong sạch của ngươi mà nhìn thấy.
Vậy thì các loài vật tự có sai biệt mà tánh kiến chẳng
khác, cái kiến tinh diệu minh này chính là tánh thấy của
ngươi.
- Nếu kiến
tinh là vật thì ngươi cũng có thể thấy kiến tinh của ta,
nếu cùng thấy gọi là thấy kiến tinh ta, thì lúc ta chẳng
thấy, sao ngươi không thấy chỗ chẳng thấy của ta? Nếu
thấy được chỗ chẳng thấy của ta thì chẳng phải cái
tướng chẳng thấy; nếu không thấy chỗ chẳng thấy của
ta, thì kiến tinh tất nhiên phi vật, sao lại chẳng phải ngươi?
- Nếu kiến
tinh là vật, thì vật cũng có tánh thấy, lúc ngươi thấy
vật, vật cũng thấy ngươi, thể tánh lẫn lộn thì ngươi
và ta với tất cả thế gian chẳng thể an lập. A Nan, nếu
lúc ngươi thấy là ngươi chẳng phải ta thấy, thì cái tánh
thấy cùng khắp đó không phải ngươi là ai? Sao lại tự nghi
chơn tánh của ngươi cho là chẳng chơn, mà cầu sự thật
nơi ta?
LƯỢC
GIẢI
Tại sao
nói kiến tinh này là ngươi chẳng phải vật? Nếu kiến tinh
là vật thì kiến tinh của ta ngươi cũng thấy được, nhưng
sự thật thì kiến tinh của ta ngươi chẳng thể thấy.
Nếu nói
ta thấy ngươi thấy, lúc cùng thấy tức là thấy kiến tinh
của ta, vậy thì lúc ta thấy, ngươi đã thấy được rồi,
lúc ta chẳng thấy, ngươi cũng phải thấy được chứ, mà
sự thật lại chẳng như thế.
Nếu nói
lúc thấy là dùng cái thấy để thấy, lúc chẳng thấy là
dùng cái chẳng thấy để thấy, gọi là thấy chỗ chẳng
thấy của ta, vậy đã chẳng tự thấy, lấy gì để thấy
cái tướng chẳng thấy kia? Nếu cái tướng chẳng thấy kia
cho ngươi thấy được, tức là tướng thấy, lại chẳng phải
tướng chẳng thấy. Vậy biết: chỗ chẳng thấy của ta, ngươi
nhất định chẳng thể thấy được; lúc ta chẳng thấy, ngươi
đã chẳng thể thấy được thì lúc cùng thấy cũng chẳng
thể thấy, thấy và chẳng thấy đều chẳng thể chỉ ra kiến
tinh, vậy kiến tinh của ta rõ ràng phi vật. Kiến tinh của
ta phi vật thì kiến tinh của ngươi cũng là phi vật vậî.
Kiến tinh của ngươi đã phi vật thì chẳng thuộc nơi vật,
làm sao chẳng phải ngươi? Đây là dùng cái nghĩa chẳng thể
thấy để sáng tỏ kiến tinh phi vật. Nếu kiến tinh có thể
thấy được thì kiến tinh cũng là vật vậy, làm sao được
làm chủ vạn tượng mà an lập cõi thế gian.
*****
- Bạch Thế
Tôn! Nếu tánh thấy này chắc là con chứ chẳng phải ai khác,
thì khi con và Như Lai xem cung điện của Tứ Thiên vương và
cung trăng, tánh thấy này cùng khắp cõi Ta Bà, khi lui về tịnh
xá, chỉ thấy vườn chùa, trước cửa giảng đường chỉ
thấy hành lang. Thế Tôn, tánh thấy như vậy, bản thể vốn
cùng khắp một cõûi, nay ở trong phòng thì chỉ một phòng,
vậy là do tánh thấy rút lớn thành nhỏ, hay do vách tường
làm cho ngăn cách? Nay con chẳng biết nghĩa này thế nào, mong
Phật từ bi giảng rõ.
Phật bảo
A Nan:
- Tất cả
sự vật lớn, nhỏ trong, ngoài trên thế gian đều thuộc về
tiền trần, chẳng nên nói rằng cái thấy có co giãn, ví như
trong khuôn vuông thấy có hư không vuông, ta lại hỏi ngươi:
Hư không vuông ở trong khuôn vuông này là vuông nhất định
hay chẳng nhất định? Nếu vuông nhất định, đặt lại khuôn
tròn thì hư không ấy chẳng thể tròn; nếu chẳng nhất định
thì trong khuôn vuông chẳng có hư không vuông. Ngươi nói chẳng
biết nghĩa này thế nào, nghĩa tánh như thế, đâu còn thế
nào nữa! A Nan, nếu muốn hiển bày chẳng có vuông tròn, chỉ
cần trừ bỏ khuôn vuông, hư không vốn chẳng có hình thể
vuông tròn, chớ nên nói "trừ bỏ tướng vuông của hư không"
(khuôn dụ cho vọng thức phân biệt, hư không dụ cho bản
tâm).
- Cũng như
ngươi hỏi: Khi vào phòng rút cái thấy cho nhỏ lại, vậy
khi nhìn mặt trời thì phải kéo cái thấy cho bằng với mặt
trời sao? Nếu xây vách tường làm cho cái thấy bị ngăn cách,
vậy khi đục một lỗ nhỏ, sao chẳng thấy dấu tích nối
liền của sự thấy? Nghĩa này chẳng đúng. Tất cả chúng
sanh từ vô thỉ đến nay, mê mình là vật, lạc mất bản
tâm, tùy vật xoay chuyển, nên thấy lớn thấy nhỏ. Nếu chuyển
được vật thì đồng với Như Lai, ngồi bất động đạo
tràng, thân tâm tròn đầy sáng tỏ, gồm mười phương quốc
độ trên đầu một mảy lông.
- Bạch Thế
Tôn! Nếu kiến tinh này là diệu tánh của con, thì diệu tánh
nay ở ngay trước mắt; diệu tánh đã là con thì thân tâm
con lại là vật gì?
- Nếu nói
thân tâm chẳng phải diệu tánh thì nay thân tâm thật hay phân
biệt sự vật; nếu nói trước mắt đều là diệu tánh, thì
cái kiến tinh kia sao lại chẳng phân biệt được thân con?
- Nếu nói
kiến tinh vô hình, mà có tự thể đồng như các vật, có
cảm ứng mới sanh khởi sự dụng kia, thật là bản tâm của
con thì phải cho con thấy ngay, vậy kiến tinh trước mắt là
thật con, còn thân này thì chẳng phải con, thế thì kiến
tinh đã ở bên ngoài thân, sao được gọi là diệu tánh của
con? Có khác gì Như Lai trước kia đã hỏi gạn rằng: "Vật
thấy được con"? Mong Phật từ bi khai thị cho kẻ chưa ngộ.
Phật bảo
A Nan:
- Nay ngươi
nói kiến tinh ở trước mắt ngươi, nghĩa này chẳng đúng.
Nếu thật ở trước mắt ngươi mà ngươi thật thấy được,
thì kiến tinh này đã có phương sở, chẳng phải không chỉ
ra được. Nay ta cùng ngươi ngồi trong rừng Kỳ Đà, xem khắp
rừng suối và điện đường, trên từ nhật nguyệt, dưới
đến sông Hằng, ngươi hãy ở trước tòa Sư Tử của ta,
dùng tay chỉ rõ đủ thứ tướng ấy, chỗ mát là rừng, sáng
là mặt trời, ngăn ngại là vách, thông là hư không, cho đến
cỏ cây, chỉ mành, lớn nhỏ dù khác, hễ có hình tướng
thì đều chỉ ra được. Nếu kiến tinh thật ở trước mắt
ngươi, thì ngươi phải dùng tay xác thật chỉ rõ cái nào
là kiến tinh. A Nan nên biết, nếu hư không là kiến tinh thì
cái nào là hư không? Nếu vật là kiến tinh thì cái nào là
vật? Ngươi hãy ở nơi vạn tượng phân tích kỹ càng, chỉ
cho ta xem cái kiến tinh sáng tỏ ấy, rõ ràng đồng như các
vật, chẳng được lầm lẫn!
A Nan nói:
- Nay con ở
giảng đường này; nhìn ra từ sông Hằng, trên đến nhật
nguyệt, tùy nơi tay chỉ mắt nhìn, những gì chỉ được đều
là vật chứ chẳng phải kiến tinh. Thế Tôn, như lời Phật
vừa nói; chẳng những hàng hữu lậu sơ học Thanh Văn như
chúng con, cho đến Bồ Tát, cũng chẳng thể ở nơi vạn tượng
chỉ ra cái kiến tinh lìa tất cả vật riêng có tự tánh.
Phật nói:
- Đúng thế!
Đúng thế!
Phật lại
bảo A Nan:
- Như lời
ngươi nói, chẳng có kiến tinh lìa tất cả vật riêng có
tự tánh, vậy thì trong các vật mà ngươi chỉ, chẳng có
cái nào là kiến tinh. Nay ta lại bảo ngươi: ngươi và Như
Lai ngồi trong rừng Kỳ Đà, xem từ rừng cây cho đến nhật
nguyệt, đủ thứ hình tướng sai biệt, nhất định chẳng
có
kiến tinh cho ngươi chỉ, ngươi hãy phát minh nơi những vật
kể trên cái nào chẳng phải kiến tinh?
A Nan đáp:
- Con xem khắp
cả rừng Kỳ Đà, thật chẳng biết trong đó cái nào chẳng
phải kiến tinh. Tại sao? Nếu cây chẳng phải kiến tinh thì
sao lại thấy cây? Nếu cây là kiến tinh thì chẳng nên gọi
là cây; như vậy cho đến nếu hư không chẳng phải kiến
tinh thì sao lại thấy hư không? Nếu hư không là kiến tinh
thì chẳng nên gọi là hư không. Con lại suy xét kỹ càng,
phát minh trong vạn tượng không vật nào chẳng phải kiến
tinh cả.
Phật nói:
- Đúng thế!
Đúng thế!
Bấy giờ,
những người chưa đến bậc vô học trong chúng nghe Phật
nói vậy, ngơ ngác chẳng hiểu đầu đuôi của nghĩa này,
đánh mất lý lẽ đã hiểu biết từ xưa nay, bỗng nhiên cảm
thấy run sợ,
Như Lai biết
họ băn khoăn lo sợ, sanh lòng thương xót, an ủi A Nan và đại
chúng:
- Các thiện
nam tử, lời chơn thật của Vô Thượng Pháp Vương chaüng
dối chẳng vọng, như sở như thuyết, chẳng phải như bốn
thứ tà thuyết càn loạn bất tử của bọn Mạc Già Lê, các
ngươi hãy suy xét kỹ, chớ nên làm mất lòng tự tin!
LƯỢC
GIẢI
Tại sao
ngơ ngác chẳng biết đầu đuôi của nghĩa này? Vì trước
thì nói kiến tinh chẳng phải vật, sau lại nói kiến tinh
đều là vật; trước nói diệu tánh hiện tiền, sau lại nói
chẳng thể chỉ ra, nên ngơ ngác đánh mất lý lẽ đã hiểu
biết từ xưa nay vậy.
"Nói lời
chơn thật, như sở như thuyết" v.v... tức ngũ ngữ trong
Kinh Kim Cang. Phật thuyết chơn ngữ là nghĩa chung với
nhị thừa (có sanh tử để diệt, có Niết Bàn để chứng);
thật ngữ là nghĩa chung với Bồ Tát (nghĩa đại thừa,
sanh tử và Niết Bàn đều như hoa đốm trên không); như
ngữ là nghĩa chẳng chung với tam thừa (trí huệ chẳng
thể suy lường, lời nói chẳng thể diễn tả); vô thật vô
hư; vô hư nên bất cuồng ngữ (chẳng dối), vô thật
nên bất dị ngữ (thấy trước việc chưa đến gọi
là Bất Dị). Ở đây chỉ dùng hai chữ "chẳng vọng" để
bao gồm.
Bà Sa Luận
nói: Ngoại đạo chấp cõi trời thường trụ gọi là Bất
tử, cho "chaüng đáp càn" được sanh cõi trời ấy, nếu thật
chẳng biết mà đáp càn, sợ thành càn loạn, nên có ai hỏi
thì đáp rằng "Lời bí mật chẳng nên nói hết", hoặc đáp
chẳng định. Phật quở rằng: họ thật là kẻ càn loạn
vậy.
*****
Lúc ấy,
Pháp Vương Tử Văn Thù Sư Lợi thương xót tứ chúng, liền
từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, chắp tay
cung kính bạch Phật rằng:
- Đại chúng
trong Hội này chẳng ngộ hai nghĩa Thị, Phi Thị với Kiến
Tinh và Sắc Không của Như Lai vừa hiển bày. Thế Tôn, những
hiện tượng sắc không nơi trước mắt, nếu là kiến tinh
thì phải chỉ ra được, nếu chẳng phải kiến tinh thì chẳng
thể thấy. Nay chẳng biết nghĩa ấy do đâu, nên có kinh sợ
chứ chẳng phải vì xưa kia thiện căn thiếu kém, mong Như
Lai từ bi, phát minh những vật tượng và kiến tinh, trong đó
chẳng có Thị và Phi Thị kia vốn là vật gì?
Phật bảo
Văn Thù và Đại Chúng:
- Mười phương
Như Lai và Đại Bồ Tát tự trụ nơi chánh định, thoát khỏi
căn trần, kiến tinh (năng kiến) với sắc không (sở kiến),
ý năng tưởng, tướng sở tưởng vốn chẳng thật có, cũng
như hoa đốm trên không, vậy kiến tinh và sắc không vốn
là diệu thể trong sạch sáng tỏ của Vô Thượng Bồ Đề,
sao lại có Thị hay Phi Thị ở trong đó? Văn Thù, nay ta hỏi
ngươi, như ngươi là Văn Thù, lại có Văn Thù nào Thị Văn
Thù hay Phi Thị Văn Thù chăng?
- Bạch Thế
Tôn! Đúng thế, con là chơn Văn Thù, chẳng Thị Văn Thù. Tại
sao? Nếu có Thị tức có hai Văn Thù, mà nay chẳng phải không
có Văn Thù, trong đó thật chẳng có hai tướng Thị và Phi.
Phật nói:
- Bản kiến
diệu minh với hư không và lục trần cũng đều như thế,
vốn là chơn tâm sáng tỏ, tròn đầy trong sạch của Vô Thượng
Bồ Đề, vọng thành sắc không và kiến văn, như đệ nhị
nguyệt, vậy cái nào là Thị nguyệt, cái nào là Phi nguyệt?
Văn Thù, chỉ một chơn nguyệt, trong đó vốn chẳng Thị nguyệt
Phi nguyệt. Cho nên nay ngươi phát minh đủ thứ kiến tinh và
cảnh trần, gọi là vọng tưởng, chẳng thể chỉ ra Thị
hay Phi Thị. Vì giác tánh tinh diệu sáng suốt, nên khiến ngươi
được vượt khỏi "chỉ và phi chỉ" vậy.
A Nan bạch
Phật rằng:
- Đúng như
Pháp Vương nói, Bản Giác khắp mười phương thế giới, trạm
nhiên thường trụ, tánh chẳng sanh diệt. Vậy với cái chấp
Minh Đế của bọn Sa Tỳ Ca La và những ngoại đạo nói có
Chơn Ngãû cùng khắp mười phương có gì sai biệt? Thế Tôn
đã từng ở núi Lăng Già giảng dạy nghĩa này cho Đại Huệ
rằng: "Bọn ngoại đạo thường nói tự nhiên, ta thuyết nhân
duyên, chẳng phải cảnh giới của họ". Nay con xét thấy cái
giác tánh tự nhiên này phi sanh phi diệt, xa lìa tất cả hư
vọng điên đảo, hình như chẳng phải nhân duyên, vậy so
với cái thuyết tự nhiên của bọn ngoại đạo như thế nào?
Xin Phật khai thị để cho chúng con khỏi lọt vào bọn tà,
được giác tánh chơn thật sáng tỏ của diệu tâm.
Phật bảo
A Nan:
- Nay ta dùng
phương tiện chơn thật như vậy khai thị cho ngươi, ngươi
còn chưa ngộ, lại lầm cho là tự nhiên. A Nan, nếu chắc
là tự nhiên thì tự phải xét rõ cái thể của tự nhiên,
ngươi hãy quán xét trong bản kiến diệu minh này, lấy gì
làm tự thể? Lấy sáng làm tự thể hay lấy tối làm tự
thể? Lấy rỗng không làm tự thể hay lấy ngăn bít làm tự
thể? Nếu sáng là tự thể thì chẳng thể thấy tối, nếu
rỗng không là tự thể thì chẳng thể thấy ngăn bít, như
vậy cho đến nếu lấy tướng tối làm tự thể, thì khi sáng,
tánh thấy đã đoạn diệt, sao lại thấy sáng?
A Nan nói:
- Nếu bản
tánh diệu kiến này chẳng phải tự nhiên, nay con phát minh
là do nhân duyên sanh, nhưng tâm còn chưa rõ. Xin hỏi Như Lai:
Nghĩa này như thế nào mới hợp với tánh nhân duyên?
Phật bảo:
- Ngươi nói
nhân duyên, ta lại hỏi ngươi, nay ngươi nhân kiến tinh mà
có tánh thấy hiện tiền, vậy cái thấy này nhân sáng có
thấy hay nhân tối có thấy? Nhân rỗng không có thấy hay nhân
ngăn bít có thấy?
- A Nan, nếu
nhân sáng có thấy thì chẳng thể thấy tối; nếu nhân tối
có thấy thì chẳng thể thấy sáng. Như vậy cho đến nhân
rỗng không, nhân ngăn bít, đều đồng như sáng tối.
- Lại nữa,
A Nan, kiến tinh này duyên sáng có thấy hay duyên tối có thấy?
Duyên rỗng không có thấy hay duyên ngăn bít có thấy?
- A Nan, nếu
duyên rỗng không có thấy thì chẳng thể thấy ngăn bít; nếu
duyên ngăn bít có thấy thì chẳng thể thấy rỗng không. Như
vậy cho đến duyên sáng duyên tối, đều đồng như rỗng
không và ngăn bít.
- Nên biết
cái bản giác diệu minh này phi nhân duyên, phi tự nhiên, phi
bất tự nhiên. Vô Phi và Bất Phi, Vô Thị và Phi Thị, lìa
tất cả tướng, là tất cả pháp. Nay ngươi sao lại ở trong
đó dùng chấp tâm đuổi theo những danh tướng hí luận của
thế gian, vọng khởi phân biệt, cũng như dùng tay nắm bắt
hư không, chỉ tự lao nhọc, hư không làm sao cho ngươi bắt
được?
- Bạch Thế
Tôn! Nếu bản kiến diệu minh phi nhân phi duyên, tại sao Thế
Tôn thường nói với các Tỳ Kheo rằng: Tánh thấy gồm đủ
bốn thứ nhân duyên, tức là nhân không, nhân sáng, nhân tâm,
nhân mắt, vậy nghĩa này thế nào?
Phật nói:
- Ta thuyết
những tướng nhân duyên của thế gian chẳng phải đệ nhất
nghĩa. A Nan, ta lại hỏi ngươi: người thế gian nói "tôi thấy",
vậy cho thế nào gọi là thấy, thế nào gọi là chẳng thấy?
A Nan đáp:
- Người
thế gian nhờ ánh sáng nhật nguyệt và đèn, thấy tất cả
tướng gọi là thấy, nếu không có ba thứ ánh sáng này thì
chẳng thể thấy.
- A Nan, nếu
lúc không sáng gọi là chẳng thấy, thì chẳng thể thấy tối,
nếu thấy tối chỉ là không sáng thì sao gọi là chẳng thấy?
- A Nan, nếu
lúc tối chẳng thấy sáng gọi là chẳng thấy; mà lúc sáng
chẳng thấy tối cũng phải gọi là chẳng thấy, vậy thì
hai tướng sáng tối đều gọi là chẳng thấy.
- Do hai tướng
sáng tối tự đoạt mất nhau, chẳng phải tánh thấy của
ngươi tạm thời không có. Vậy thì cả hai đều là thấy,
sao nói chẳng thấy?
- A Nan nên
biết, trong lúc thấy sáng, kiến tinh chẳng phải sáng; trong
lúc thấy tối, kiến tinh chẳng phải tối; trong lúc thấy
rỗng không kiến tinh chẳng phải rỗng không; trong lúc thấy
ngăn bít, kiến tinh chẳng phải ngăn bít, bốn thứ nghĩa này
vốn saün như vậy.
- Lại ngươi
nên biết: Kiến kiến chi thời, kiến phi thị kiến, kiến
do ly kiến, kiến bất năng cập, tại sao lại nói nhân
duyên, tự nhiên và tướng hòa hợp? Hàng Thanh Văn như các
ngươi trí kém tâm hẹp, chẳng thông đạt thật tướng trong
sạch, nay ta dạy ngươi nên khéo suy tư, hãy siêng năng tinh
tấn, thẳng vào diệu đạo Bồ Đề.
LƯỢC
GIẢI
Hai chữ
Kiến Kiến tức là bản kiến tự hiện, chẳng có năng
kiến, sở kiến, Phật đã giải thích kỹ càng trong quyển
nhì này; nếu có năng sở, đều là kiến bệnh đã thành từ
vô thỉ, có năng kiến năng giác đều là bệnh. Vì bản kiến
bản giác chẳng ở trong bệnh mới gọi là kiến kiến,
tức là kiến tánh. Tự tánh chẳng phải sở kiến, nên cũng
chẳng có năng kiến để kiến tự tánh, vậy lúc kiến kiến
(Kiến kiến chi thời), dù nói kiến nhưng chẳng phải
là kiến (Kiến phi thị kiến), vì chẳng có năng kiến
và sở kiến, cho nên nói kiến còn phải lìa kiến (kiến
do ly kiến), vì Năng kiến chẳng thể thấy đến, nên nói
Kiến bất năng cập.
*****
- Bạch Thế
Tôn! Phật vì chúng con hiển bày các tướng nhân duyên, tự
nhiên, hòa hợp và chẳng hòa hợp, tâm còn chưa rõ, nay lại
nghe nói Kiến Kiến Phi Kiến, khiến con càng thêm mê muội,
cúi xin Phật mở lòng từ bi, khai thị cho chúng con được
diệu tâm sáng tỏ trong sạch.
Nói xong,
rơi lệ đảnh lễ, kính nghe lời dạy của Phật.
Bấy giờ,
Thế Tôn thương xót A Nan và đại chúng, sắp khai giảng pháp
tổng trì (tổng nhất thiết pháp, trì nhất thiết nghĩa),
những đường tu vi diệu của các thiền quán Tam Ma Đề, bảo
A Nan rằng:
- Ngươi dù
nhớ hay, nhưng chỉ thêm phần học rộng nghe nhiều, đối
với sự quán chiếu vi diệu của pháp Sa Ma tha, tâm còn chưa
rõ, nay ngươi hãy chú ý nghe, ta sẽ vì ngươi khai thị từng
lớp một, cũng khiến hàng hữu lậu tương lai sẽ được
chứng quả Bồ Đề.
- A Nan, tất
cả chúng sanh cam chịu luân hồi, là do hai thứ vọng kiến
điên đảo phân biệt, ngay đó phát sanh, ngay đó theo nghiệp
luân chuyển. Thế nào là hai thứ vọng kiến?
- Một là
vọng kiến Biệt Nghiệp của chúng sanh.
- Hai là vọng
kiến Đồng Phận của chúng sanh.
- Sao gọi
là vọng kiến Biệt Nghiệp?
- A Nan! Như
người thế gian con mắt bị nhặm, ban đêm thấy ánh sáng,
riêng có bóng tròn ngũ sắc bao phủ. Ý ngươi thế nào? Cái
bóng tròn hiện nơi ánh đèn này là màu sắc của ngọn đèn
hay là màu sắc của kiến tinh?
- Nếu là
màu sắc của ngọn đèn, thì người không nhặm sao chẳng
cùng thấy, mà chỉ có người nhặm mới thấy bóng tròn này?
Nếu là màu sắc của kiến tinh, kiến tinh đã thành màu sắc,
thì người nhặm thấy bóng tròn kia gọi là cái gì?
- Lại nữa
A Nan! Nếu lìa ngọn đèn riêng có bóng tròn này, thì khi nhìn
qua bình phong, bàn ghế, phải có bóng tròn hiện ra, nếu lìa
kiến tinh riêng có bóng tròn thì chẳng phải mắt thấy, vậy
sao người nhặm lại thấy bóng tròn?
- Nên biết,
màu sắc ở nơi đèn, do mắt bị bệnh mới thấy bóng tròn,
bóng tròn và cái thấy đều là bệnh nhặm, kẻ thấy được
nhặm thì chẳng phải bệnh; chớ nên nói bóng tròn là đèn,
là thấy, hoặc nói chẳng phải ngọn đèn chẳng phải cái
thấy.
- Ví như
đệ nhị nguyệt chẳng phải bản thể, cũng chẳng phải bóng
của đệ nhất nguyệt. Tại sao? Vì do dụi mắt mới thành
có đệ nhị nguyệt. Người trí chẳng nên truy cứu cái đệ
nhị nguyệt này là hình bóng hay chẳng phải hình bóng, là
kiến tinh hay chẳng phải kiến tinh, vì đó là do dụi mắt
sanh ra, thế thì cái bóng tròn này cũng vậy, do mắt nhặm
mà thành, nay muốn gọi cái nào là màu sắc của ngọn đèn,
cái nào là màu sắc của kiến tinh? Huống còn vọng sanh phân
biệt, cho là chẳng phải màu sắc của ngọn đèn, chẳng phải
màu sắc của kiến tinh ư?
Sao gọi là
vọng kiến Đồng Phận?
- A Nan! Ở
cõi Ta Bà này, trừ biển cả ra, phần đất bằng gồm có
ba ngàn châu, ở giữa là đại châu, Đông Tây bao gồm hai
ngàn ba trăm nước, ngoài ra các tiểu châu ở giữa biển hoặc
có từ hai trăm đến ba trăm nước, hoặc có từ một, hai
cho đến bốn mươi, năm mươi nước. A Nan, ví như trong đó
có một tiểu châu, chỉ có hai nước, dân một nước thì
đồng cảm ác duyên, khiến cả nước cùng thấy tất cả
cảnh giới chẳng lành, như những ác tướng do nhựt nguyệt,
tinh tú và khí trời hiện ra v.v... chỉ cả nước này thấy
đủ thứ ác tướng như vậy, còn dân nước kia lại chẳng
hề thấy nghe những ác tướng đó.
- A Nan, nay
ta vì ngươi đem hai việc kể trên so sánh cho rõ: Như chúng
sanh kia vọng kiến biệt nghiệp, thấy bóng tròn hiện nơi
ánh đèn, dù hình như có cảnh tượng trước mặt, nhưng cái
thấy ấy vốn do mắt nhặm mà thành, nhặm tức là kiến bệnh,
chẳng phải màu sắc sở tạo, nhưng người thấy được nhặm
thì chẳng có kiến bệnh (Biết Phật tánh vẫn là bệnh, phải
được thấy Phật tánh mới hết bệnh).
- Như ngươi
hôm nay, dùng con mắt thấy núi sông đất đai và chúng sanh,
đều là cái kiến bệnh đã thành từ vô thỉ. Tại sao? Vì
có năng thấy và sở thấy, nên tựa như cảnh tượng hiện
ra trước mắt, giống cái giác minh của ngươi duyên cái sở
thấy thành nhặm.
- Bản giác
có năng thấy tức là nhặm, "Bổn giác minh tâm" là tự tánh,
cái giác ấy vốn chẳng phải bệnh, có năng giác sở giác
mới thành bệnh. Nếu bổn giác không ở trong bệnh, đó mới
thật là Kiến Kiến (tức là kiến tánh). Đã được kiến
tánh thì đâu còn tên gọi là Kiến, Văn, Giác, Tri nữa!
- Cho nên,
ngươi hôm nay thấy ta, thấy ngươi và thấy tất cả chúng
sanh đều do kiến bệnh, nếu chẳng phải kẻ có kiến bệnh,
thì cái kiến ấy chơn thật, thể tánh chẳng bệnh nên chẳng
gọi là Kiến.
- A Nan! Vọng
kiến Đồng Phận của cả nước, cũng như vọng kiến Biệt
Nghiệp của một người. Người mắt nhặm thấy bóng tròn
kia là do biệt nghiệp sở sanh; cả nước đồng phận sở
dĩ thấy tướng chẳng lành này là do cộng nghiệp tạo nên.
Cả hai đều là kiến bệnh đã thành từ vô thỉ.
- Tất cả
chúng sanh cõi Ta Bà, cho đến mười phương các nước hữu
lậu, đều vì đem cái sáng tỏ vô lậu của diệu tâm, cùng
với bệnh duyên hư vọng của kiến, văn, giác, tri, hòa hợp
vọng sanh, hòa hợp vọng tử. Nếu được xa lìa các duyên
hòa hợp và chẳng hòa hợp, thì diệt trừ được những cái
nhân sanh tử, tự hiện tánh đầy đủ chẳng sanh diệt của
Bồ Đề, nên được bản tâm trong sạch bản giác thường
trụ.
- A Nan! Ngươi
dù đã ngộ bản giác diệu minh, thể tánh phi nhân duyên phi
tự nhiên, nhưng còn chưa rõ bản giác này chẳng phải do hòa
hợp sanh, cũng chẳng phải không hòa hợp. A Nan, ta dùng sự
tiền trần hỏi ngươi, nay ngươi còn bị những tánh nhân
duyên vọng tưởng hòa hợp của thế gian mà tự nghi hoặc,
lại cho sự chứng tâm Bồ Đề là do hòa hợp sanh khởi. Vậy
thì cái kiến tinh vi diệu trong sạch này là hòa với sáng
hay hòa với tối? Hòa với thông hay hoà với nghẽn?
- Nếu hòa
với sáng, thì khi ngươi thấy sáng hiện tiền, kiến tinh xen
lộn ở đâu? Tướng thấy còn có thể phân biệt, cái hình
tướng xen lộn là như thế nào?
- Nếu chẳng
phải kiến tinh thì làm sao thấy sáng? Nếu là kiến tinh thì
làm sao kiến tinh lại thấy kiến tinh?
- Nếu kiến
tinh đầy khắp thì còn chỗ nào hòa với sáng? Nếu sáng đầy
khắp thì còn chỗ nào để hòa với kiến tinh. Kiến tinh phải
khác với sáng, khi xen lộn thì làm mất tánh sáng, nếu mất
tánh sáng, nói hòa với sáng là chẳng đúng. Hòa tối, hòa
thông, hòa nghẽn nghĩa cũng như vậy.
- Lại nữa,
A Nan! Kiến tinh của ngươi là hợp với sáng hay hợp với
tối? Hợp với thông hay hợp với nghẽn?
- Nếu hợp
với sáng, thì khi tối, tướng sáng đã diệt, thì kiến tinh
này chẳng thể hợp với tối, làm sao thấy tối? Nếu lúc
thấy tối chẳng hợp với tối, thì khi hợp với sáng cũng
chẳng phải thấy sáng. Đã chẳng thấy sáng, sao nói hợp
với sáng, và biết cái sáng chẳng phải tối? Hợp tối, hợp
thông, hợp nghẽn nghĩa cũng như vậy.
- Bạch Thế
Tôn! Theo con suy nghĩ, cái bản giác này với các cảnh trần
và cái tâm niệm tưởng là chẳng hòa hợp.
Phật bảo:
- Nay ngươi
lại cho là chẳng hòa hợp, ta lại hỏi ngươi, cái kiến tinh
này nếu chẳng hòa hợp, là chẳng hòa với sáng hay chẳng
hòa với tối? Chẳng hòa với thông hay chẳng hòa với nghẽn?
Nếu chẳng
hoà với sáng, thì kiến tinh với cái sáng phải có ranh giới,
vậy ngươi hãy xét xem chỗ nào là sáng? Chỗ nào là kiến
tinh? Giữa kiến tinh với sáng, ranh giới ở đâu?
- A Nan! Nếu
ở nơi sáng chẳng có kiến tinh thì sáng và kiến tinh chẳng
tiếp xúc nhau, làm sao thấy được tướng sáng để thành
lập ranh giới? Hòa tối, hòa thông, hòa nghẽn nghĩa cũng như
vậy.
- Lại nữa,
kiến tinh của ngươi nếu chẳng hòa hợp, là chẳng hòa hợp
với sáng hay chẳng hòa hợp với tối? Chẳng hợp với thông
hay chẳng hợp với nghẽn?
- Nếu chẳng
hợp với sáng, thì kiến tinh với sáng hai tánh trái ngược
nhau, cũng như lỗ tai với sáng chẳng thể tiếp xúc, thế
thì cái thấy còn chẳng biết chỗ của tướng sáng, làm sao
xét rõ cái lý hợp hay chẳng hợp? Hợp tối, hợp thông, hợp
nghẽn nghĩa cũng như vậy.
- A Nan! Ngươi
còn chưa rõ tất cả tướng huyễn hóa nơi tiền trần, tùy
nơi nhân duyên sanh ra, theo nơi nhân duyên diệt mất, thể tánh
của tướng huyễn hóa hư vọng này vốn là diệu giác sáng
tỏ, như vậy cho đến ngũ ấm, lục nhập, thập nhị xứ,
thập bát giới, vì nhân duyên hòa hợp, hư vọng cho là có
sanh, nhân duyên tan rã, hư vọng cho là có diệt, mà chẳng
biết sanh diệt khứ lai vốn là Như Lai Tạng, cũng gọi là
diệu minh thường trụ, bất động chu viên (cùng khắp không
gian), diệu tánh chơn như, nơi tánh chơn thường tìm sự khứ
lai, mê ngộ, sanh diệt đều bất khả đắc.
NGŨ ẤM VỐN
VÔ SANH
- Sao nói
Ngũ Ấm vốn là Như Lai Tạng, cũng là Diệu tánh chơn như?
l. SẮC ẤM
VỐN VÔ SANH
- A Nan! Ví như
có người dùng con mắt trong sạch, nhìn hư không sáng sủa
chỉ có trống rỗng, hẳn không thấy gì, người ấy khi không
ngó hẳn một chỗ chẳng nháy mắt, ngó lâu mắt mỏi thì
thấy hoa đốm hiện nơi hư không (hoa đốm dụ cho sắc ấm),
hoặc thấy những tướng lăng xăng giả dối. Nên biết sắc
ấm cũng vậy.
- A Nan! Những
hoa đốm này chẳng từ hư không ra, cũng chẳng từ mắt ra.
Nếu từ hư không ra, ắt phải trở vào hư không, nếu có
ra vào thì chẳng phải hư không. Nếu hư không chẳng phải
hư không thì tự nhiên chẳng thể dung nạp tướng hoa đốm
sanh diệt trong đó, cũng như thân thể A Nan chẳng dung nạp
được một A Nan nữa.
- Nếu hoa
đốm từ con mắt ra thì phải trở vào con mắt; nếu từ mắt
ra, ắt phải có tánh thấy, nếu có tánh thấy thì khi xoay
về, lẽ ra phải thấy mắt. Nếu chẳng có tánh thấy, khi
ra đã che mờ hư không, thì khi về phải che mờ con mắt. Lại,
khi thấy hoa đốm, lẽ ra mắt phải không mờ, vậy sao nói
thấy hư không sáng sủa mới gọi là con mắt trong sạch? Nên
biết sắc ấm hư vọng, vốn chẳng phải tánh nhân duyên,
cũng chẳng phải tánh tự nhiên.
2. THỌ ẤM
VỐN VÔ SANH
- A Nan! Ví
như có người tay chân khỏe mạnh, thân thể điều hòa, cuộc
sống yên ổn, quên hẳn sự thuận nghịch, người ấy vô
cớ hai bàn tay xoa nhau, vọng sanh các tướng trơn, rít, lạnh,
nóng nơi hai bàn tay. Nên biết thọ ấm cũng vậy.
- A Nan! Những
xúc giác huyễn hóa này (xúc giác dụ cho thọ ấm), chẳng
từ hư không ra, cũng chẳng từ bàn tay ra. A Nan, nếu từ hư
không ra, đã tiếp xúc với bàn tay, sao chẳng tiếp xúc với
thân thể? Chẳng lẽ hư không lại biết lựa chỗ để tiếp
xúc ư?
- Nếu từ
bàn tay ra thì chẳng cần đợi hai bàn tay hợp lại mới có
xúc giác; lại, đã từ bàn tay ra, lúc hai tay hợp lại biết
có xúc giác, lúc hai tay rời ra thì xúc giác phải chạy vào,
vậy xương tủy, cánh tay cũng phải biết được cái dấu
tích của xúc giác khi vào. Nếu có tâm biết ra biết vào,
thì phải có một vật đi lại trong thân, đâu cần đợi hai
tay hợp rồi mới gọi là tiếp xúc!
- Nên biết
thọ ấm hư vọng, vốn chẳng phải tánh nhân duyên, cũng chẳng
phải tánh tự nhiên.
3. TƯỞNG
ẤM VỐN VÔ SANH
- A Nan! Ví
như nghe người nói đến trái mơ chua thì tiết ra nước miếng,
nghĩ đến leo dốc cao thì lòng bàn chân ghê rợn, (nước miếng
và ghê rợn dụ cho tưởng ấm), nên biết tưởng ấm cũng
vậy.
- A Nan! Cái
tiếng chua này chẳng từ trái mơ ra, cũng chẳng từ miệng
ra. Nếu từ trái mơ ra thì trái mơ tự biết nói, đâu cần
đợi người nói? Nếu từ miệng ra thì miệng phải tự nghe
tiếng, đâu cần đợi tai nghe? Nếu chỉ riêng tai có nghe thì
nước miếng sao chẳng từ tai chảy ra? Tưởng tượng mình
leo dốc thì cũng như vậy. Nên biết tưởng ấm hư vọng,
vốn chẳng phải tánh nhân duyên, cũng chẳng phải tánh tự
nhiên.
4. HÀNH ẤM
VỐN VÔ SANH
- A Nan! Ví
như dòng nước chảy mạnh (dòng nước dụ cho Hành Ấm), làn
sóng nối tiếp, lớp trước lớp sau chẳng vượt khỏi nhau,
nên biết Hành Ấm cũng vậy.
- A Nan! Tánh
dòng nước như thế chẳng do hư không sanh ra, chẳng do nước
mà có, chẳng phải tánh của nước, cũng chẳng lìa hư không
và nước.
- Nếu do
hư không sanh ra thì mười phương vô tận hư không đều thành
dòng nước vô tận, và tự nhiên thế giới đều bị chìm
đắm cả. Nếu do nước mà có thì nước là năng có, dòng
nước là sở có, hai tướng khác nhau thì tánh của dòng nước
lẽ ra chẳng phải là nước; nếu dòng nước tức là tánh
của nước thì khi nước trong lặng lại chẳng phải tự thể
của nước. Nếu lìa hư không và nước thì hư không vốn
chẳng
có trong và ngoài, và ngoài nước ra chẳng có dòng nước.
Nên biết hành ấm hư vọng, vốn chẳng phải tánh nhân duyên,
cũng chẳng phải tánh tự nhiên.
5. THỨC ẤM
VỐN VÔ SANH
- A Nan! Ví
như có người lấy một cái bình (cái bình dụ cho nghiệp
thân), trong đựng đầy hư không (hư không dụ cho thức ấm),
bít kín miệng bình đem xa ngàn dặm tặng cho nước khác, nên
biết Thức Ấm cũng vậy.
- A Nan! Hư
không này chẳng phải từ phương kia ra, cũng chẳng phải từ
phương này vào. Nếu từ phương kia ra, trong bình đã đựng
hư không đem đi, thì phương kia phải thiếu hư không. Nếu
từ phương này vào, khi mở miệng bình trút ra thì phải thấy
hư không ra. Nên biết thức ấm hư vọng, vốn chẳng phải
tánh nhân duyên, cũng chẳng phải tánh tự nhiên.
LƯỢC
GIẢI
Trung Quán
Luận có bài kệ rằng:
Các pháp
chẳng tự sanh,
Cũng chẳng
phải tha sanh,
Chẳng
cộng chẳng vô nhân,
Cho nên
nói Vô Sanh.
Sao nói các
pháp chẳng tự sanh? Vì phải đợi nhân duyên hòa hợp mới
được sanh. Sao nói chẳng tha sanh? Vì các duyên đều chẳng
có tự tánh. Sao nói chẳng cộng sanh? Vì tự và tha còn chẳng
có, lấy gì để cộng? Sao nói chẳng vô nhân sanh? Vì bản
thể sáng tỏ của diệu tâm, phải do tu hành đến giác ngộ
mới được hiển bày, chẳng tự nhiên mà thành. Vậy biết
tất cả sự vật trên thế gian vốn là Vô Sanh, vì chẳng
có lý do nào để sanh vậy.
Nếu ngộ
tất cả pháp vô sanh thì Sắc như dụi mắt thấy hoa đốm
trên không; Thọ như xoa bàn tay sanh những xúc giác trơn, rít,
lạnh, nóng; Tưởng như nghe nói trái mơ tiết ra nước miếng;
Hành như dòng nước chảy, chẳng có năng sanh sở sanh (nước
chẳng phải năng sanh, dòng nước chẳng phải sở sanh); Thức
như cái bình đựng đầy hư không, bình dụ cho nghiệp thân,
hư không dụ cho vọng thức. Bản Giác tánh không, cùng khắp
pháp giới, hễ mê thành vọng thức thì thành hư không ở
trong bình, nhét bít miệng bình dụ cho vọng phân đồng dị,
có trong có ngoài, kỳ thật trong bình ngoài bình chỉ cùng
một hư không (dụ cho tánh và thức vốn là một thể), hư
không chẳng khứ lai dụ cho tánh chẳng sanh diệt. Bình dụ
vọng nghiệp, hư không dụ vọng thức, nghiệp kéo thức chạy
theo, như đem bình đựng hư không đi các nước khác, dụ cho
đi khắp lục đạo, cam chịu luân hồi.
Lục nhập,
thập nhị xứ, thập bát giới, cho đến thất đại ở quyển
sau, đều sáng tỏ nghĩa này (Vạn Pháp Vốn Vô Sanh).
*****
(QUYỂN HAI
HẾT)