Địa tạng đại sĩ khi ấy thưa rằng, bạch Ðức Thế Tôn,
con nhờ thần lực của Ðức Thế Tôn mà khắp trong trăm ngàn vạn ức thế giới hệ,
con phân hóa thân hình cứu vớt những kẻ đang chịu quả khổ của nghiệp dữ. Phi
thần lực từ bi vĩ đại của Ðức Thế Tôn, con không thể có sự phân thân đó. Nay con
lại được Ðức Thế Tôn đem sáu đường chúng sinh, trong quãng từ nay đến ngày Di
lạc từ tôn xuất thế, ký thác cho con, dạy con cứu độ cho họ giải thoát. Dạ,
bạch Ðức Thế Tôn, con xin vâng lời. Xin Ðức Thế Tôn đừng lo nghĩ. Ðức Thế Tôn
dạy, Địa tạng đại sĩ, kẻ chưa giải thoát thì thức tánh bất định: làm dữ thì kết
thành khổ quả, làm lành thì cảm ra phước báo, và làm dữ làm lành gì cũng tùy
hoàn cảnh chi phối; rồi luân chuyển năm đường liên miên bất tận, trải qua những
kiếp nhiều như cát bụi mà vẫn còn mê mờ, lầm lẫn, vẫn bị chướng ngại, tai nạn.
Y như cá lội trong lưới, cuốn theo dòng nước chảy mãi: đã sẩy vào trong dòng nước
có lưới rồi thì dẫu có lúc tạm thoát ra khỏi lưới đi nữa, cũng sẽ mắc lại lưới
ấy mà thôi [34]
. Nên vì họ mà Như lai lo nghĩ. Nay đại sĩ đã muốn hoàn thành lời nguyện căn
bản và lời thề trọng đại trong nhiều kiếp đã qua, hóa độ những kẻ tội khổ một
cách sâu rộng, thì Như lai còn lo nghĩ gì nữa.
Khi lời ấy được Ðức Thế
Tôn nói ra thì trong pháp hội có một vị đại bồ tát danh hiệu Định tự tại vương,
thưa với ngài, bạch Ðức Thế Tôn, Địa tạng đại sĩ từ bao kiếp đến nay, kiếp nào
đã phát nguyện gì mà ngày nay được Ðức Thế Tôn ân cần xưng tụng, con thỉnh cầu
Ðức Thế Tôn tóm tắt mà dạy cho chúng con. Ðức Thế Tôn dạy đại bồ tát Định tự
tại vương, hãy nghe cho kỷ hãy khéo nghĩ và nhớ, Như lai sẽ nói cho các người.
Trong quá khứ, cách nay
bằng những kiếp nhiều đến vô lượng vô số trăm triệu không thể nói hết, lúc ấy
có Đức Phật danh hiệu Nhất thế trí thành tựu như lai, ứng cúng, chánh biến tri,
minh hạnh túc, thiện thệ, thế gian giải, vô thượng sĩ, điều ngự trượng phu,
thiên nhân sư, phật: thế tôn. Ngài sống đến sáu vạn kiếp. Khi chưa xuất gia, ngài
làm một tiểu quốc vương, kết bạn với một tiểu quốc vương lân bang, cùng nhau
thực thi mười nghiệp lành, lợi ích dân chúng. Nhưng dân chúng lân bang đa số
làm ác. Hai vị quốc vương mới bàn tính phương cách thích hợp. Một vị nguyện thành
Phật sớm để hóa độ cho hết dân chúng ấy. Một vị nguyện nếu không hóa độ trước
những kẻ tội khổ, làm cho họ được yên vui và được toàn giác, thì bản thân chưa
muốn thành Phật. Định tự tại vương, vị quốc vương nguyện thành Phật sớm là Nhất
thế trí thành tựu như lai, còn vị quốc vương nguyện hóa độ lâu dài những kẻ tội
khổ mà chưa muốn thành Phật là Địa tạng đại sĩ.
Lại nữa, trong quá khứ,
cách nay vô lượng vô số kiếp, có Đức Phật xuất hiện thế gian, danh hiệu của
ngài là Thanh tịnh liên hoa mục như lai. Ngài sống đến bốn chục kiếp. Trong
thời kỳ giáo pháp tương tự của ngài, có một vị La hán đem phước đức mà hóa độ
cho người. Nhân tuần tự hóa độ, vị La hán ấy gặp một nữ nhân tên Quang mục,
thiết trai hiến cúng. Vị La hán hỏi muốn cầu nguyện điều gì, Quang mục thưa,
gặp ngày mẹ con mất, con muốn nhờ phước hiến cúng tôn giả để cứu vớt cho mẹ
con; không biết mẹ con hiện nay sinh đến chỗ nào? Vị La hán thương mà nhập định
quan sát, thấy mẹ Quang mục đọa vào đường dữ, chịu khổ khốc liệt. Ngài hỏi Quang
mục, mẹ con lúc sống làm nghiệp dữ nào mà nay phải chịu khổ lớn ở trong đường
dữ? Quang mục thưa, thói quen của mẹ con chỉ thích ăn cá và ba ba. Thích ăn
nhất là cá và ba ba con. Bằng cách hoặc chiên hoặc nấu, mẹ con tha hồ mà ăn. Số
lượng sinh mạng của chúng, tính ra, chết đến ngàn vạn mà còn hơn nữa. Xin tôn
giả thương mà dạy cho con biết làm cách nào để cứu mẹ. Vị La hán từ bi chỉ dạy
cách thức, khuyên Quang mục hãy chí thành trì niệm danh hiệu của đức Thanh tịnh
liên hoa mục như lai, lại đắp vẽ hình tượng của ngài mà thờ phụng, thì người
còn kẻ mất đều được phước báo.
Quang mục nghe vậy, tức
khắc hy sinh những gì mình luyến tiếc, nhờ vẽ liền tượng Phật mà tôn thờ. Cùng
cực tôn kính, Quang mục khóc mà chiêm ngưỡng và lạy. Ngay phần sau của đêm ấy,
Quang mục mộng thấy thân Phật ánh vàng rực rỡ, đồ sộ như núi Tu di, phóng ánh
sáng lớn mà bảo Quang mục, mẹ con không bao lâu nữa sẽ sinh trong nhà con, hễ
biết đói lạnh là biết nói. Sau đó, nữ tỳ trong nhà Quang mục sinh một đứa bé,
chưa đầy ba ngày mà đã biết nói. Cúi đầu, tủi khóc, đứa bé bảo Quang mục, trong
phạm vi sinh tử, hễ tự làm nghiệp dữ thì tự chịu quả khổ. Ta là mẹ con đây, lâu
nay phải ở trong chỗ đen tối. Từ khi biệt ly với con, ta sa mãi vào trong địa
ngục lớn. Nhờ phước con làm mới được sinh làm người, nhưng làm người hèn hạ mà
chết yểu, năm mười ba tuổi sẽ lại bị sa vào đường dữ. Con có cách gì cứu mẹ cho
khỏi? Quang mục nghe nói, biết đích mẹ mình, nghẹn ngào khóc mà hỏi, nếu là mẫu
thân thì phải biết tội mình đã làm nghiệp dữ nào mà phải sa vào đường dữ? Đứa
bé nói, sát sinh và mắng nhiếc, vì hai nghiệp dữ ấy mà phải chịu quả khổ. Phi cái
phước con làm để cứu nạn cho mẹ, thì vì hai nghiệp dữ ấy lẽ đáng mẹ chưa được
giải thoát. Quang mục hỏi, quả khổ địa ngục như thế nào? Đứa bé nói, quả khổ ấy
nói ra thật bất nhẫn. Mà có nói đi nữa, trăm ngàn năm cũng không cùng.
Quang mục nghe như vậy,
hướng lên không gian, khóc mà tác bạch, con cầu nguyện cho mẹ con thoát hẳn địa
ngục, hết mười ba tuổi thì không còn nghiệp dữ để sa vào đường dữ. Phật đà mười
phương xin thương tưởng con, chứng minh cho con vì mẹ mà phát thệ nguyện rộng
lớn: Nếu mẹ con được thoát hẳn ba nẻo đường dữ và thân người hèn hạ, cho đến
cái thân nữ nhân cũng vĩnh viễn không làm nữa, thì trước hình ảnh đức Thanh
tịnh liên hoa mục như lai, con nguyện từ nay sắp đi, cho đến trăm ngàn vạn ức
kiếp sau này, bao nhiêu những kẻ tội khổ ở trong địa ngục ngạ quỉ súc sinh của
các thế giới hệ, con thề cứu vớt cho họ thoát khỏi những chỗ ấy; những kẻ tội
khổ thành Phật cả rồi con mới thành. Phát thệ nguyện rộng lớn như vậy rồi, Quang
mục nghe rõ tiếng nói của đức Thanh tịnh liên hoa mục như lai, bảo, Quang mục,
lòng từ bi của con thật lớn lao, khi con biết vì mẹ mà phát nguyện vĩ đại. Ta
thấy mẹ con hết mười ba tuổi, bỏ quả báo này rồi, sẽ sinh làm một phạn chí,
sống lâu trăm năm. Hết quả báo ấy thì vãng sinh Vô ưu quốc độ, sống lâu với
những kiếp không thể tính kể. Về sau thành Phật thì hóa độ sâu rộng, trong đó có
nhân loại và chư thiên, và số người được hóa độ nhiều như cát sông Hằng.
Ðức Thế Tôn dạy đại bồ
tát Định tự tại vương, vị La hán đem phước đức hóa độ Quang mục lúc ấy là bồ
tát Vô tận ý ngày nay. Mẹ của Quang mục nay là bồ tát Giải thoát. Còn Quang mục
thì chính là Địa tạng đại sĩ; trong những kiếp lâu xa của quá khứ, đại sĩ đã từ
bi như vậy, phát ra thệ nguyện nhiều như cát sông Hằng, hóa độ chúng sinh một
cách sâu rộng. Sau này, bất cứ nam tử hay nữ nhân, có kẻ không làm lành, có kẻ
làm dữ, có kẻ phủ nhận nguyên lý nhân quả, có kẻ tà dâm vọng ngữ, có kẻ lưỡng thiệt
ác khẩu, có kẻ phỉ báng đại thừa, những kẻ nghiệp dữ như vậy tất sa đường dữ.
Nhưng nếu gặp bạn tốt khuyến khích qui y Địa tạng đại sĩ thì dẫu chỉ bằng thì
gian đàn chỉ [35]
một cái, những kẻ ấy cũng thoát được quả khổ trong ba đường dữ. Nếu ai hết lòng
tôn kính, qui y, chiêm ngưỡng, lễ bái, xưng tụng, hay phụng hiến hoa hương, y
phục [36]
, bảo vật, ẩm thực, thì trong vị lai, trăm ngàn vạn ức kiếp thường ở trên chư
thiên, hưởng thụ sự yên vui tuyệt diệu. Phước báo chư thiên hết rồi, sinh xuống
nhân gian, cũng vẫn còn trăm ngàn kiếp thường làm quốc chúa, nhớ được nhân quả
gốc ngọn về đời trước của mình.
Định tự tại vương, Địa
tạng đại sĩ có cái thần lực lớn lao, và bất khả tư nghị, ích lợi sâu rộng cho
mọi người như vậy. Bồ tát các người hãy nhớ kinh này và truyền bá rộng rãi. Đại
bồ tát Định tự tại vương thưa, bạch Ðức Thế Tôn, xin Ðức Thế Tôn đừng lo nghĩ.
Chúng con, ngàn vạn bồ tát đại sĩ, chắc chắn có năng lực vâng theo uy thần của
Ðức Thế Tôn mà truyền bá kinh này một cách rộng rãi tại châu Diêm phù, lợi ích
chúng sinh. Thưa Ðức Thế Tôn như vậy rồi, đại bồ tát Định tự tại vương chắp tay
cung kính đảnh lễ mà lui về chỗ của mình.
Lúc ấy bốn vị Thiên vương
ở bốn phương hướng cùng đứng dậy khỏi chỗ họ ngồi, chắp tay cung kính mà thưa,
bạch Ðức Thế Tôn, từ những kiếp lâu xa, Địa tạng đại sĩ đã phát đại nguyện như
trên, vì lý do nào mà ngày nay sự hóa độ của đại sĩ vẫn chưa hết, đại sĩ vẫn
còn lặp lại đại nguyện ấy, chúng con thỉnh cầu Ðức Thế Tôn dạy cho chúng con
rõ. Ðức Thế Tôn bảo bốn vị Thiên vương, lành thay, Như lai nay vì lợi ích sâu rộng
cho các ông, cho hết thảy chư thiên, nhân loại và các loài khác, trong hiện tại
và vị lai, nói về những phương tiện mà Địa tạng đại sĩ ở trong các nẻo đường
sinh tử của châu Diêm phù, thuộc thế giới hệ Sa bà này, thương mà cứu những kẻ
tội khổ. Bốn vị Thiên vương thưa, bạch Ðức Thế Tôn, chúng con nguyện muốn được
nghe.
Ðức Thế Tôn dạy bốn vị
Thiên vương, từ những kiếp lâu xa cho đến ngày nay, Địa tạng đại sĩ hóa độ
chúng sinh mà vẫn chưa hoàn tất đại nguyện, là vì một mặt thương những kẻ tội
khổ trong thì hiện tại, mặt khác nhìn đến vô số kiếp thuộc thì vị lai, những kẻ
tội khổ vẫn dây dưa không ngừng, nên đại sĩ vẫn phải lặp lại thệ nguyện trọng
đại.
Vị đại sĩ như vậy, ở tại
châu Diêm phù của thế giới hệ Sa bà, đã vận dụng trăm ngàn vạn ức phương tiện
mà giáo hóa. Bốn vị Thiên vương, Địa tạng đại sĩ gặp người sát sinh thì nói về
quả khổ chết yểu vì tội cũ, gặp người trộm cắp thì nói về quả khổ nghèo nàn và
khốn khó, gặp người tà dâm thì nói về quả khổ làm bồ câu uyên ương [37]
; gặp người ác khẩu thì nói về quả khổ bà con đánh cãi nhau, gặp người chê bai
thì nói về quả khổ không lưỡi hoặc lở miệng; gặp người giận dữ thì nói về quả
khổ xấu xí lại tàn tật, gặp người keo lẫn thì nói về quả khổ sở cầu hay trái ý;
gặp người ăn uống vô độ thì nói về quả khổ đói khát và bịnh cổ, gặp người săn
bắn tha hồ thì nói về quả khổ kinh hãi điên cuồng mà mất mạng, gặp người phản
nghịch cha mẹ thì nói về quả khổ trời đất giết chết bằng tai nạn, gặp người
thiêu đốt núi rừng thì nói về quả khổ cuồng sảng mà tự lấy cái chết, gặp cha
ghẻ mẹ ghẻ ác độc thì nói về quả khổ trở lại gây ra roi vọt và phải chịu lấy
ngay trong đời này, gặp người lưới bắt chim non thì nói về quả khổ cốt nhục
phân ly; gặp người phỉ báng Tam bảo thì nói về quả khổ mù điếc câm ngọng, gặp người
khinh ngạo giáo pháp thì nói về quả khổ ở lâu trong các đường dữ, gặp người phá
tán lạm dụng của tăng chúng thường trú thì nói về quả khổ nhiều đời luân hồi
địa ngục, gặp người làm bẩn phạn hạnh vu khống tăng ni thì nói về quả khổ ở lâu
trong loài súc sinh; gặp người sát hại sinh vật bằng nước sôi, bằng lửa, bằng
sự chém chặt, thì nói về quả khổ luân hồi đền mạng lẫn nhau, gặp người phá giới
phạm trai thì nói về quả khổ cầm thú đói khát, gặp người tiêu dùng phi lý thì
nói về quả khổ nhu cầu thiếu thốn, gặp người ta tao cao ngạo thì nói về quả khổ
tôi tớ hèn hạ, gặp người đâm thọc gây rối thì nói về quả khổ không lưỡi hay
nhiều lưỡi; gặp người kiến thức sai lầm thì nói về quả khổ sinh chỗ không có Phật
pháp [38]
.
Đại loại như vậy, người
Diêm phù từ thân miệng ý tạo ra nghiệp dữ và kết thành quả khổ có đến hàng trăm
hàng ngàn sắc thái, nay Như lai chỉ nói sơ lược. Đối với nghiệp dữ và quả khổ
khác nhau như vậy của người Diêm phù, Địa tạng đại sĩ vận dụng hàng trăm hàng
ngàn phương tiện mà giáo hóa cho họ. Vì lẽ những người ấy, sau khi chịu những
quả khổ như Địa tạng đại sĩ đã nói [39]
, họ còn sa vào địa ngục, trải qua đời kiếp khó có hy vọng thoát khỏi. Nên các
ông hộ vệ dân chúng và hộ vệ đất nước thì đừng để nghiệp dữ mê hoặc mọi người.
Bốn vị Thiên vương nghe
Ðức Thế Tôn dạy, buồn và khóc, chắp tay lạy ngài mà lui về chỗ của mình.