5. PHÂN BIỆT TÀ CHÁNH
Nội dung quan trọng tiếp theo trong kinh này là sự phân biệt giữa chánh
pháp và tà pháp, giữa con đường nên theo và con đường nên tránh. Trong
kinh Đại Bát Niết-bàn này, nội dung phân biệt tà chánh được đặc biệt xem
trọng, lý do là vì đại chúng sắp mất đi một bậc thầy vĩ đại luôn trực
tiếp dẫn dắt mọi người trên con đường tu học, cũng như tất cả chúng sanh
sắp mất đi một chỗ dựa vững chắc để quay về nương theo. Trong bối cảnh
đó, đức Phật đã tiên liệu mọi sự sa sút về sau khi Phật pháp sẽ không
tránh khỏi phải chịu sự diễn giải sai lệch hoặc bị pha trộn, lẫn lộn với
những tà thuyết sai trái. Và trong trường hợp đó, nếu đức Phật không để
lại những lời chỉ bảo cặn kẽ về sự phân biệt tà chánh thì sẽ vô cùng khó
khăn cho những ai thật lòng muốn tu tập, vì không biết dựa vào đâu để
phân biệt và tu tập đúng theo Chánh pháp.
Trước hết, đức Phật dạy về bốn nguyên tắc căn bản để người Phật tử y cứ
trong sự tu tập. Mặc dù việc y cứ theo những người có sự am hiểu về Phật
pháp cũng được đức Phật đề cập đến qua việc nêu ra bốn hạng người để
chúng sanh nương theo, từ những vị hành đạo Bồ Tát cho đến các vị Tu-đà
hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, nhưng đức Phật cũng nhấn mạnh về
việc phải tin theo những hạng người ấy theo cách như thế nào:
“Đối với những điều chính ta giảng thuyết, nếu có lòng nghi còn chẳng
nên nhận, huống chi là với những hạng người ấy. Cho nên phải khéo phân
biệt biết rõ là điều lành hay dữ, nên làm hay chẳng nên làm. Nếu được
như vậy thì sẽ thọ hưởng sự yên vui lâu dài.”
(trang 606, tập I)
Vì thế, ngay cả khi đã chọn được bậc thầy chân chánh để nương theo,
người Phật tử cũng vẫn phải luôn ghi nhớ bốn nguyên tắc y cứ mà Phật đã
dạy. Bốn nguyên tắc này được trình bày qua lời Bồ Tát Ca-diếp như sau:
“Như Phật có dạy, các tỳ-kheo nên y theo bốn pháp. Bốn pháp đó là gì? Đó
là: Y theo pháp chẳng y theo người, y theo ý nghĩa chẳng y theo văn tự,
lời nói; y theo trí tuệ, chẳng y theo [nhận] thức, y theo kinh thật
nghĩa rốt ráo, chẳng y theo kinh [quyền thừa] không rốt ráo trọn nghĩa.”
(trang 629-630, tập I)
Về nguyên tắc thứ nhất: “y theo pháp chẳng y theo người”, đức Phật dạy:
“Thiện nam tử! Nếu như người phá giới, vì lợi dưỡng mà nói rằng: Như Lai
vô thường, biến đổi, thì chẳng nên nương theo người ấy.”
(trang 631, tập I)
Pháp được nói đến ở đây tức là Chánh pháp, là những pháp chân chánh Phật
đã thuyết dạy, như những pháp Tứ diệu đế, Thập nhị nhân duyên, Như Lai
thường trụ, tất cả chúng sanh đều có tánh Phật.v.v... Vì thế, nếu có ai
nói khác đi so với những pháp ấy thì người Phật tử nhất quyết không thể
tin nhận. Hơn thế nữa, trong Phật ngôn trên đây thì yếu tố đầu tiên được
nêu ra là sự trì giới. Vào những giây phút cuối cùng trước khi nhập
Niết-bàn, đức Phật đã dạy rằng:
“A-nan! Lại như lời ông hỏi: Sau khi Phật diệt độ, lấy ai làm thầy? Này
A-nan! Giới luật [Phật đã chế định sẽ] là bậc thầy lớn nhất của các ông,
y theo đó mà tu hành có thể đạt được định và tuệ rất thâm sâu, thoát
khỏi thế tục.”
(trang 484, tập VII)
Vì thế, yếu tố đầu tiên để tin theo một bậc thầy chính là sự trì giới và
yếu tố thứ hai là sự thuyết giảng đúng Chánh pháp. Trong trường hợp
người Phật tử gặp một vị thầy không có đủ hai yếu tố này thì cần phải có
thái độ đúng theo lời Phật dạy là: “Y theo pháp chẳng y theo người.”
Nhưng Chánh pháp mà đức Phật đã thuyết giảng là cả một kho tàng kinh
điển đồ sộ, hầu như không ai có thể nhận hiểu hết. Vì thế, y theo pháp ở
đây cần được hiểu là y theo những giáo pháp nền tảng nhất, căn bản nhất
mà Phật đã dạy. Điều quan trọng nhất cần lưu ý là mọi giáo pháp trong
đạo Phật tuy có thể thuộc về nhiều tầng bậc khác nhau tùy theo căn cơ
của người tu tập, nhưng luôn có sự viên dung nhất quán, không hề có sự
mâu thuẫn, trái ngược nhau. Chẳng hạn, khi đức Phật dạy về Tứ diệu đế
thì người tu tập cho dù thuộc về tông phái nào, tu theo hạnh nguyện gì
cũng không bao giờ có thể đi ngược lại giáo lý đó...
Kinh Đại Bát Niết-bàn này nêu ra rất nhiều ví dụ về việc y theo Chánh
pháp. Đức Phật dạy:
“... sau khi ta nhập Niết-bàn, bọn ma Ba-tuần sẽ dần dần làm hư hoại
Chánh pháp. Ví như người thợ săn mặc vào y phục người tu hành, Ma vương
Ba-tuần cũng vậy. Chúng giả dạng tỳ-kheo, tỳ-kheo ni, ưu-bà-tắc,
ưu-bà-di, lại hóa hình các vị Tu-đà-hoàn đến A-la-hán, cho đến sắc thân
Phật.”
(trang 64-65, tập II)
Và vì thế, từ trang 65 đến trang 86 của tập II ghi lại rất nhiều những
lời chỉ bày phân biệt cặn kẽ của đức Phật để giúp người tu tập có thể
nhận ra đâu là Chánh giáo của Phật thuyết dạy và đâu là những sự thuyết
giảng sai lệch. Người đọc kinh nên đọc kỹ những lời dạy trong phần này
để hiểu và phân biệt được giáo nghĩa của Phật. Không chỉ là những nghĩa
lý sâu xa trong giáo pháp, ở đây còn có những chỉ dẫn rất chi tiết và cụ
thể. Phật dạy:
“... [Vị tỳ-kheo cũng không nên làm] những việc mà người đời cần đến để
mưu sanh như làm nhà cửa, làm ruộng, làm vườn, buôn bán, đổi chác, tự
làm thức ăn, xay gạo, giã gạo, luyện chú thuật giữ mình, tập luyện chim
ưng dùng để đi săn, xem sao đoán mệnh, suy tính việc nên hư, xem tướng
kẻ nam người nữ, theo chiêm bao mà đoán những việc lành dữ, [hoặc đoán
thai nhi] là nam, là nữ, hay chẳng phải nam chẳng phải nữ... sáu mươi
bốn nghề giỏi; lại có mười tám phép chú thuật lừa dối người, các thứ
nghề khéo léo, hoặc nói vô số việc thông tục của người đời; dùng hương
tán, hương bột, hương phết, hương xông, mọi thứ hoa kết lại; làm nghề
hớt tóc, sửa tóc, gian tà bợ đỡ, tham lợi không chán, vui thích chỗ náo
nhiệt, nói chuyện giỡn cười, tham ăn cá thịt, pha chế thuốc độc, dù
thơm, dùng dù lọng quý, đi giày da, làm ra quạt lông, rương trấp, các
thứ hình vẽ; chứa trữ lúa thóc, các loại lúa mạch, các loại đậu cùng các
thứ dưa, trái...
“[Vị tỳ-kheo cũng không được] gần gũi thân mật với vua chúa, con vua,
quan chức cao cấp cùng các phụ nữ, nói cười lớn tiếng hoặc nín lặng,
không nói năng chi cả; thường nghi ngờ đối với các pháp, hay nói bậy bạ,
chuyện dài, vắn, tốt, xấu, lành, dữ, ưa mặc áo đẹp...
“Nếu người xuất gia tự mình khen ngợi các sự việc bất tịnh như thế trước
mặt thí chủ, lại vào ra, đi chơi đến những chỗ bất tịnh như tiệm bán
rượu, nhà dâm nữ, chỗ cờ bạc... những người như vậy, Phật chẳng cho ở
chung với các tỳ-kheo. Họ nên ra khỏi tăng đoàn, hoàn tục mà làm hạng
tôi tớ trong thế gian cho người khác sai khiến. Họ ví như cỏ dại lẫn
trong đám lúa, cần phải loại bỏ đi.
“Những kinh luật nào dạy như trên, nên biết rằng đều là thuyết của Như
Lai.”
(trang 68-69, tập II)
Về những ý nghĩa sâu xa trong giáo pháp, Phật dạy:
“Phật có dạy rằng: Vượt hơn cả chín bộ kinh có kinh điển Phương đẳng.
Như ai có thể thấu hiểu được nghĩa này, thì nên biết rằng người ấy thấu
hiểu kinh luật một cách đúng đắn, lìa xa tất cả những sự vật bất tịnh,
[luôn] nhiệm mầu trong sáng như vầng trăng tròn.
“Nếu có người nói rằng: Như Lai đối với hết thảy kinh luật, thuyết dạy
nghĩa lý nhiều như cát sông Hằng, nhưng trong luật của chúng tôi lại
chẳng có những nghĩa lý ấy, nên chúng tôi biết là không có. Nếu là có,
tại sao trong luật của chúng tôi không thấy Như Lai giảng thuyết? Vì vậy
nên nay chúng tôi không thể tin nhận. Nên biết rằng những người nói như
vậy là có tội.
“Kẻ ấy lại nói rằng: Kinh luật [của chúng tôi] như thế này mới nên thọ
trì. Vì sao vậy? Vì kinh luật ấy giúp tôi được ít tham muốn, biết đủ,
dứt trừ phiền não; vì đó là trí huệ Niết-bàn, tạo được nhân pháp lành.
Người nói như vậy chẳng phải là đệ tử của ta.
“Như có người nói rằng: Vì muốn độ chúng sanh, Như Lai có thuyết giảng
kinh Phương đẳng. Nên biết rằng, người nói như vậy thật là đệ tử của
Phật. Nếu ai chẳng thọ trì kinh Phương đẳng, nên biết rằng người ấy
chẳng phải đệ tử Phật, chẳng phải vì Phật pháp mà xuất gia, tức là đệ tử
của bọn ngoại đạo tà kiến.”
(trang 72-73, tập II)
Ở đây đã thấy liên hệ đến nguyên tắc thứ tư: “y theo kinh thật nghĩa rốt
ráo, chẳng y theo kinh [quyền thừa] không rốt ráo trọn nghĩa”. Nhưng
đồng thời vì không thấu hiểu và tin nhận được ý nghĩa sâu xa uyên áo do
chính Phật thuyết dạy nên những luận thuyết bất tín như vậy cũng được
xem là không đúng theo Chánh pháp.
Về nguyên tắc “y theo nghĩa chẳng y theo văn tự”, đức Phật dạy:
“Y theo nghĩa chẳng y theo văn tự, lời nói. Nghĩa tức là sáng suốt, hiểu
biết trọn vẹn. Hiểu biết trọn vẹn gọi là không thiếu sót, yếu kém. Không
thiếu sót, yếu kém tức là đầy đủ. Nghĩa đầy đủ đó, gọi là Như Lai thường
trụ, chẳng biến đổi. Nghĩa Như Lai thường trụ, chẳng biến đổi tức là
Pháp thường. Nghĩa Pháp thường tức là Tăng thường. Đó gọi là y theo
nghĩa chẳng y theo lời nói.
“Những văn tự, lời nói như thế nào là không nên nương theo? Đó là những
văn từ trau chuốt trong các sách luận, cũng nhiều vô số như kinh điển
Phật đã thuyết, nhưng toàn nói những việc tham cầu không chán, gian trá
nịnh hót, giả vờ thân cận bợ đỡ để cầu lợi, thường đến nhà cư sĩ mà làm
công việc cho họ. Lại còn nói rằng: Phật cho phép các tỳ-kheo chứa trữ
tôi tớ và các vật bất tịnh như: vàng, bạc, trân bảo, lúa gạo, kho lẫm,
bò, dê, voi, ngựa, buôn bán kiếm lời. Vào thuở mất mùa đói kém vì thương
xót đệ tử, Phật cho phép tỳ-kheo để dành đồ vật, tay làm hàm nhai, không
thọ nhận mà vẫn có ăn. Những lời như vậy đều chẳng nên nương theo.”
(trang 631, tập I)
Như vậy, thật nghĩa rốt ráo chính là chỗ người Phật tử phải y cứ trong
sự tu tập, còn những văn tự, lời nói không chuyển tải được thật nghĩa
rốt ráo, lại nghiêng về sự tham muốn vật dục, đắm chìm vào đời sống thế
tục thì không thể là chỗ nương theo cho người Phật tử.
Về nguyên tắc “y theo trí tuệ, chẳng y theo [nhận] thức”, đức Phật dạy:
“Y theo trí tuệ chẳng y theo nhận thức. Nói trí tuệ tức là Như Lai. Như
có những người Thanh văn không thể biết rõ công đức của Như Lai, chỗ
nhận thức như vậy không nên nương theo. Như người biết rằng Như Lai tức
là pháp thân, chỗ trí tuệ chân thật như vậy là nên nương theo.
“Như có người thấy cái thân phương tiện của Như Lai bèn nói rằng thân ấy
là do các ấm, giới, nhập khống chế, là do thức ăn mà được nuôi lớn. Chỗ
nhận thức như vậy chẳng nên nương theo. Do đó mà biết được những chỗ
nhận thức chẳng nên nương theo. Như có người nói những lời như trên, cho
đến những kinh sách nào nói như vậy đều chẳng nên nương theo.”
(trang 632, tập I)
Như vậy, trí tuệ là chỗ thấy biết sáng suốt thông qua thực chứng tu tập
đúng lời Phật dạy, còn nhận thức ở đây là những suy luận, diễn giải theo
hiểu biết của kẻ phàm phu, chủ yếu dựa vào nhận thức tri giác của các
giác quan vốn là hư vọng, không chân thật.
Về nguyên tắc “y theo kinh thật nghĩa rốt ráo, chẳng y theo kinh [quyền
thừa] không rốt ráo trọn nghĩa”, đức Phật dạy:
“Y theo kinh thật nghĩa rốt ráo, chẳng y theo kinh [quyền thừa] không
rốt ráo trọn nghĩa. Kinh không rốt ráo trọn nghĩa là nói hàng Thanh văn,
nghe đến tạng bí mật sâu xa của Phật Như Lai ắt sinh tâm nghi ngờ, sợ
sệt, chẳng biết rằng tạng ấy từ nơi biển đại trí tuệ mà ra, cũng như trẻ
con chưa biết phân biệt. Đó gọi là không trọn nghĩa. Kinh thật nghĩa rốt
ráo là nói hàng Bồ Tát trí tuệ chân thật, tùy theo đại trí vô ngại nơi
tự tâm, cũng như người người đã trưởng thành hiểu biết tất cả. Đó gọi là
rốt ráo trọn nghĩa.
“Lại nữa, Thanh văn thừa gọi là không rốt ráo trọn nghĩa, Đại thừa vô
thượng mới gọi là rốt ráo trọn nghĩa. Như nói rằng: Như Lai là vô
thường, biến đổi, đó gọi là không rốt ráo trọn nghĩa. Như nói rằng: Như
Lai là thường trụ, chẳng biến đổi, đó gọi là rốt ráo trọn nghĩa.
“Chỗ thuyết dạy của hàng Thanh văn nên rõ biết, gọi là không rốt ráo
trọn nghĩa. Chỗ thuyết dạy của hàng Bồ Tát nên rõ biết, gọi là rốt ráo
trọn nghĩa. Nếu nói rằng: Như Lai nhờ ăn uống mà được nuôi lớn, đó là
không rốt ráo trọn nghĩa. Nếu nói: Như Lai là thường trụ, chẳng biến
đổi, đó là rốt ráo trọn nghĩa. Nếu nói rằng: Như Lai nhập Niết-bàn, như
củi hết thì lửa tắt, đó gọi là không rốt ráo trọn nghĩa. Nếu nói rằng:
Như Lai thể nhập pháp tánh, đó gọi là rốt ráo trọn nghĩa.
(trang 632-633, tập I)
Bốn nguyên tắc y cứ này thật ra cũng đều có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau, nên sự đi ngược lại một trong những nguyên tắc này thường cũng là
vi phạm vào các nguyên tắc khác. Do đó, người Phật tử chân chánh trong
suốt quá trình tu tập mặc dù phải tinh tấn không ngừng học hỏi, nhưng
đồng thời cũng phải luôn tỉnh giác sáng suốt dựa theo những nguyên tắc
này để không sai lầm đi theo những sự thuyết giảng tà vạy sai lệch với
Chánh pháp.
Những đoạn kinh văn trích dẫn trên đây tất nhiên chỉ là một phần nhỏ
trong những gì đức Phật đã thuyết giảng, nhưng có lẽ cũng đã khá đủ để
nêu bật một số ý nghĩa quan trọng mà người tu tập theo Chánh pháp cần
phải luôn ghi nhớ.
Trước hết, cần phải nhớ rằng giới luật là bậc thầy lớn nhất. Điều này là
do chính từ kim khẩu đức Phật thuyết dạy, nên bất cứ bậc thầy nào hiện
nay dù có tỏ ra uyên bác trí tuệ đến đâu đi chăng nữa, nếu thuyết giảng
đi ngược lại hoặc khác biệt với giới luật do Phật chế định thì đều không
thể tin theo.
Điều may mắn cho tất cả chúng ta là giới luật luôn được bảo lưu một cách
tốt nhất qua tất cả các giai đoạn truyền thừa của Phật giáo khắp nơi
trên thế giới. Vì thế, ngay cả về mặt văn bản học thì tất cả các nhà
nghiên cứu cũng dễ dàng thống nhất với nhau rằng các văn bản liên quan
đến giới luật đều có độ xác tín cao nhất và có ít khác biệt nhất giữa
tất cả các tông phái khác nhau trong đạo Phật. Khi nghiên cứu về lịch sử
phát triển của Phật giáo, học giả người Đức Edward Conze (1904-1979) đã
viết như sau:
“The two oldest documents which we can place with some degree of
certainty before Aśoka happen to deal with monastic discipline (Vinaya).
From fairly early times onwards the traditions concerning the Buddhas
teachings were grouped under two principal headings called respectively
Dharma and Vinaya. The Vinaya proved the more stable and uniform element
of the two, much less subject to disagreements and re-formulations.
Discussions on the Vinaya are seldom heard of and even at later times
school formations rarely implied modifications in the Vinaya, except in
quite external and superficial matters, such as dress, etc. Even when
with the Mahāyana quite new schools arose on dogmatic grounds, they
adhered for a long time as far as the Vinaya was concerned to one of the
older Hinayana schools.”
(Hai tài liệu cổ nhất mà chúng ta có thể xếp vào thời kỳ tiền A-dục với
phần nào chắc chắn, tình cờ lại đề cập đến giới luật. Từ trước đến nay,
giáo pháp của Phật thường được xếp thành hai nhóm chính là Kinh tạng và
Luật tạng. Luật tạng đã tỏ ra có tính chất ổn định và đồng nhất hơn, rất
ít gây ra bất đồng, và ít bị sửa đổi hơn. Rất hiếm khi có những tranh
cãi về Luật tạng, và cho đến sau này, sự thành lập các bộ phái khác nhau
cũng ít khi dẫn đến việc sửa đổi Luật tạng, ngoại trừ những vấn đề chỉ
thuộc về hình thức và rất nhỏ nhặt, như y phục... Ngay cả khi nhiều bộ
phái mới được lập ra cùng với sự hình thành của Đại thừa trên những nền
tảng mang tính giáo điều, thì trong một thời gian dài họ vẫn trung thành
về mặt giới luật với một trong những bộ phái Tiểu thừa cổ xưa hơn. –
Lược sử Phật giáo, bản Việt dịch của Nguyễn Minh Tiến, sách đã dẫn)
Trong giới luật thậm chí vẫn còn bảo lưu nguyên vẹn nhiều lời dạy của
đức Phật cho chúng ta thấy rõ được những sinh hoạt của xã hội thời bấy
giờ mà đến nay không còn nữa. Chẳng hạn, trong Tứ phần luật còn ghi rõ
điều thứ 16 trong 30 điều luật thuộc tội ni-tát-kỳ ba-dật-đề như sau:
“Như có tỳ-kheo nào trong khi đi đường được người cúng dường lông dê,
lại không có người mang giúp phải tự mình mang đi, không được mang quá
ba do-tuần. Nếu tự mình mang lông dê đi quá ba do-tuần, phạm vào tội
ni-tát-kỳ ba-dật-đề.”
[1]
Tất nhiên ngày nay các vị tỳ-kheo không còn nhận lông dê để làm tọa cụ
(tấm đệm để ngồi, nằm) như thuở ấy, nhưng tinh thần của điều luật này
vẫn không hề thay đổi. Đó là hình tướng của vị tỳ-kheo khi xuất hiện
trước công chúng phải luôn gìn giữ sự nghiêm trang, đầy đủ oai nghi,
không nên để cho mọi người phải sanh tâm bất kính vì những hình tướng
không tốt đẹp. Với tinh thần đó thì vị tỳ-kheo ngày nay vẫn có nhiều
điểm cần phải giữ theo điều luật này. Chẳng hạn, nếu một vị tỳ-kheo mặc
y phục không thích hợp khi xuất hiện trước đám đông, hoặc tự mình chạy
xe hai bánh phân khối lớn với tốc độ cao.v.v... thì có lẽ sẽ không được
xem là nghiêm trang lắm trong mắt mọi người...
Vì thế, những ai nêu lý do “giới luật đã xưa cũ” để thay đổi hoặc lược
bỏ đều cần phải xét lại. Có lẽ những người này đã không thấy rõ được
tinh thần của giới luật mà chỉ chấp chặt vào mặt ngôn ngữ mà thôi. Cần
phải cân nhắc lý do vì sao giới luật do Phật chế định đã trải qua hơn 25
thế kỷ với nhiều đời Tổ sư lỗi lạc, xuất chúng, nhưng chưa từng có vị
nào đặt vấn đề sửa đổi giới luật! Và cũng chính vì thế mà chúng ta càng
phải tin chắc vào lời Phật dạy, phải xem giới luật là bậc thầy lớn nhất.
Vấn đề quan trọng thứ hai được nhận hiểu qua kinh văn là tính chất nhất
quán của giáo pháp do đức Phật thuyết giảng, nhờ đó mà người Phật tử mới
có thể “y theo pháp chẳng y theo người”. Tất cả những giáo pháp do Phật
thuyết dạy, cho dù có sự khác biệt tùy theo căn cơ chúng sanh nhưng
không bao giờ có sự mâu thuẫn, trái ngược nhau. Chẳng hạn, khi Phật dạy
rằng Niết-bàn là thường, lạc, ngã, tịnh, thì điều đó hoàn toàn không hề
mâu thuẫn với giáo lý vô thường. Ngược lại, khi hiểu được Niết-bàn là
thường thì chúng ta lại càng nhận rõ hơn sự vô thường của tất cả các
pháp hữu vi; khi hiểu được Niết-bàn là lạc thì chúng ta lại càng nhận rõ
hơn tính chất khổ não của đời sống trong luân hồi...
Vì thế, người Phật tử nhất thiết phải có sự thực hành những giáo pháp đã
được học hỏi, ngay từ những nền tảng căn bản nhất, trước khi tiếp tục
tìm hiểu những tầng bậc giáo pháp cao hơn. Bằng vào sự chứng nghiệm của
tự thân ngay từ những giáo lý căn bản nhất, người tu tập sẽ tự mình phát
triển năng lực nhận thức dần dần để có thể phân biệt và nhận ra được
những điều sai lệch so với Chánh pháp. Chẳng hạn, chúng ta đã biết đức
Phật dạy rằng tính chất của đời sống trong luân hồi là khổ não, thậm chí
đáng sợ như căn nhà đang cháy,
[2] vì thế cho dù sự
tu tập có mang đến cho chúng ta phần nào an vui, thanh thản, nhưng chúng
ta cũng không thể sanh tâm ái luyến đối với đời sống thế tục mà không
còn khẩn thiết mong cầu sự giải thoát sanh tử nữa; hoặc chúng ta đã biết
Phật dạy rằng phải hết sức tinh tấn trong sự tu tập, thì ta không thể
nghe theo bất cứ ai cho rằng có thể sống an nhàn thanh thản giữa cuộc
sanh tử này... Bởi vì mọi sự cảm nhận của chúng ta xét cho cùng đều chỉ
là tạm bợ, và những nỗi khổ lớn nhất như sanh, lão, bệnh, tử vẫn luôn
còn đó...
Điều quan trọng thứ ba chúng tôi muốn đề cập ở đây là một khía cạnh khá
tế nhị của ý nghĩa “y theo pháp chẳng y theo người”. Tất cả những vị tôn
sư mà chúng ta noi theo, xét cho cùng cũng đều đang trên con đường tu
tập hướng đến sự giải thoát rốt ráo, vì các ngài vẫn chưa thành Phật. Do
đó, cho dù bản thân các ngài có những mức độ chứng đắc nhất định, nhưng
chúng ta không thể đòi hỏi một sự toàn hảo tuyệt đối, vì điều đó sẽ là
không tưởng hoặc vô lý. Chính vì thế, lắng nghe sự thuyết pháp của các
ngài và đi theo sự dẫn dắt của các ngài là chuyện cần thiết, nhưng đừng
bao giờ đòi hỏi ở bậc thầy của mình một khuôn mẫu lý tưởng y hệt như
trong kinh điển. Đó là điều không thể có được và bản thân chúng ta cũng
không có quyền đòi hỏi như thế. Tuy nhiên, hiểu rõ được điều này thì mỗi
khi tiếp nhận một sự chỉ dẫn từ bậc thầy nào đó, chúng ta cần luôn có sự
sáng suốt phán đoán của chính mình, theo đúng lời Phật dạy:
“Đối với những điều chính ta giảng thuyết, nếu có lòng nghi còn chẳng
nên nhận, huống chi là với những hạng người ấy. Cho nên phải khéo phân
biệt biết rõ là điều lành hay dữ, nên làm hay chẳng nên làm...”
(trang 606, tập I)
Sự phân biệt rõ giữa những giáo thuyết sai lầm và Chánh pháp của Phật
dạy là điều thực sự không dễ dàng, nhất là khi ta phải phân biệt những
điều đó ngay trong hàng ngũ những người được xem là đệ tử Phật. Bởi theo
lời Phật dạy thì sự sai lầm trong những thời đại về sau sẽ xuất phát
ngay từ những kẻ giả danh Phật tử chứ không chỉ đến từ các tà phái ngoại
đạo:
“... sau khi ta nhập Niết-bàn, bọn ma Ba-tuần sẽ dần dần làm hư hoại
Chánh pháp. Ví như người thợ săn mặc vào y phục người tu hành, Ma vương
Ba-tuần cũng vậy. Chúng giả dạng tỳ-kheo, tỳ-kheo ni, ưu-bà-tắc,
ưu-bà-di...”
(trang 64-65, tập II)
Thật đáng sợ lắm thay!
[1] Bản Việt dịch trích từ sách
Tăng đồ nhà Phật, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến soạn dịch, NXB Tôn
giáo, 2004.
[2] Đại thừa bản sanh tâm địa quán
kinh, quyển 1: “Liễu đạt tam giới như hỏa trạch, bát khổ sung mãn nan
khả xuất - 了達三界如火宅 八苦充滿難可出 (Rõ biết Ba cõi như căn nhà đang cháy,
[trong đó] chất chứa đầy tám nỗi khổ, thật khó ra khỏi.)