6. PHƯƠNG TIỆN QUYỀN THỪA
Một trong những vấn đề thường có nhiều ngộ nhận nhất trong đạo Phật
chính là nhận thức về các phần giáo lý mà trong kinh điển Đại thừa
gọi là phương tiện quyền thừa. Mặc dù đức Phật đã nhiều lần nhấn
mạnh trong kinh điển rằng sự thuyết giảng của chư Phật đều là tuyệt
đối chân thật, nhưng vẫn có không ít người nhận hiểu sai lệch về ý
nghĩa của việc thuyết giảng các giáo pháp phương tiện quyền thừa và
từ đó dẫn đến những sai lầm cực đoan khác nhau. Một số người phủ
nhận kinh điển Đại thừa, cho rằng không phải do Phật thuyết dạy. Một
số khác thì ngược lại, xem thường các giáo pháp thuộc về quyền thừa
và cho rằng chỉ có kinh điển Đại thừa mới là rốt ráo chân thật. Theo
ý nghĩa được giảng dạy trong kinh Đại Bát Niết-bàn này thì cả hai
cách nghĩ như thế đều là sai lầm vì không nhận hiểu đúng lời Phật
dạy.
Trong phẩm Bồ Tát Ca-diếp, Phật dạy:
“Thiện nam tử! Nay ông nên biết rằng lời nói của đức Như Lai là chân
thật, không thay đổi.”
(trang 313, tập VI)
Ở
một nơi khác, đức Phật nói rõ hơn về ý này:
“Chỗ thuyết dạy của tất cả chư Phật ba đời trong mười phương đều
không có sai biệt, cho nên nói rằng: Phật không nói hai lời. Thế nào
là không sai biệt? Nếu là có thì [tất cả chư Phật] đều nói là có;
nếu là không thì [tất cả chư Phật] đều nói là không. Cho nên gọi là
một nghĩa đồng nhất.”
(trang 205, tập VII)
Như vậy, trước tiên chúng ta phải xác quyết một điều là những giáo
pháp do Phật thuyết giảng đều là chân thật, bởi không chỉ lời đức
Phật Thích-ca nói ra là chân thật, mà cho đến chư Phật ba đời trong
mười phương, tất cả những bậc giác ngộ, cũng đều nói ra những lời
chân thật như nhau.
Dựa trên sự xác quyết đó, chúng ta cần suy xét để tự mình nhận hiểu
đúng về những ý nghĩa khác biệt trong các phần giáo pháp phương tiện
quyền thừa, thay vì dựa trên sự khác biệt đó để đưa ra những phán
đoán như đúng, sai, phải, trái... Có suy xét như thế thì chúng ta
mới thấy ra được rằng tất cả mọi sự khác biệt đều do nơi chúng ta,
những người nghe pháp, những chúng sanh phàm phu, chứ lời thuyết
giảng của đức Phật vẫn luôn chân thật không khác biệt.
Nhìn chung, kinh văn có phân biệt các phần giáo pháp mang tên gọi
Thanh văn thừa, Duyên giác thừa, Bồ Tát thừa và Phật thừa. Bồ Tát
thừa và Phật thừa cũng được gọi là Đại thừa, vì như Phật có dạy:
“Kinh Đại thừa này gọi là Phật thừa, cao quý hơn hết, vượt trội hơn
hết.”
(Trang 607, tập I)
Thanh văn thừa và Duyên giác thừa thường gọi chung là Nhị thừa hay
Tiểu thừa, nhưng đôi khi Duyên giác thừa cũng được gọi là Trung
thừa. Về giáo pháp Thanh văn thừa, đức Phật dạy:
“Như Lai vì muốn hóa độ chúng sanh nên dùng sức phương tiện giảng
thuyết Thanh văn thừa, cũng như trưởng giả kia dạy con những điều sơ
học.
“Thiện nam tử! Thanh văn thừa cũng ví như lúc mới cày ruộng, chưa
gặt lúa. Như vậy gọi là không rốt ráo trọn nghĩa...”
(Trang 633, tập I)
Theo sự phân biệt trong hầu hết các kinh điển khác thì Thanh văn
thừa chỉ những người tu tập y theo giáo pháp được nghe Phật thuyết
dạy (thanh văn), và phần giáo pháp cơ bản thường được nhắc đến nhiều
nhất là Tứ diệu đế.
Duyên giác thừa hay Bích-chi Phật thừa cũng được gọi là Độc giác
thừa chỉ những người tu tập đạt đến giác ngộ nhờ quán xét lý nhân
duyên (Duyên giác), và thường là tự tu tập vào những thời không có
Phật ra đời (độc giác). Vì thế, phần giáo pháp cơ bản thường được
nhắc đến trong Duyên giác thừa là Thập nhị nhân duyên.
Tuy có những sự phân biệt như trên, nhưng ngày nay chúng ta thường
rất hiếm khi nghe nói đến Trung thừa, chỉ thấy có sự phân biệt giữa
Đại thừa và Tiểu thừa. Hơn thế nữa, một số người có khuynh hướng
tránh né không dùng danh xưng Tiểu thừa mà dùng danh xưng Nguyên
thủy để chỉ các tông phái hoặc kinh điển thuộc Tiểu thừa.
Thật ra, những danh xưng Nguyên thủy (Theravāda) hay Thượng tọa bộ
(Sthavirāvāda) đều chỉ phát sinh về sau chứ không thấy nhắc đến
trong kinh điển, còn những tên gọi Đại thừa, Tiểu thừa là thật có và
thường xuyên xuất hiện trong nhiều kinh điển khác nhau. Vì thế, sự
nhận hiểu sai lệch về giáo pháp dẫn đến phân biệt không đúng về Tiểu
thừa và Đại thừa là do tự thân mỗi người, không do nơi những danh
xưng ấy. Việc thay đổi danh xưng không thể xóa bỏ đi nhận thức sai
lệch, mà chỉ có sự quán xét sâu xa lời Phật dạy mới có thể giúp
chúng ta điều chỉnh được những cách hiểu không đúng đắn.
Về mặt ngữ nghĩa mà xét thì tuy cách dùng Tiểu thừa và Đại thừa có
thể gợi nên ý niệm hơn kém giữa các phần giáo pháp, nhưng ý niệm sai
lệch này có thể điều chỉnh được khi ta nhận thức đúng về những gì
Phật thuyết dạy; còn cách dùng “nguyên thủy” lại gợi lên hàm ý
“không nguyên thủy” để chỉ các giáo pháp thuộc Đại thừa, mà điều này
theo như chúng tôi đã trình bày trong một phần trước là hoàn toàn võ
đoán, không có căn cứ. Những người tin nhận kinh điển Đại thừa hoàn
toàn tin chắc rằng những kinh điển này do chính Phật thuyết dạy, như
vậy không thể nói là “không nguyên thủy”. Lý do kinh điển Đại thừa
xuất hiện sau các kinh được gọi là Nguyên thủy chỉ là vì chúng đã
tiếp tục được truyền khẩu trong một thời gian dài hơn mà thôi. Chính
các kinh điển gọi là “nguyên thủy” cũng đã phải trải qua ít nhất là
vài ba thế kỷ truyền khẩu trước khi được ghi chép, thì việc kinh
điển Đại thừa kéo dài thời gian truyền khẩu hơn vài ba trăm năm nữa
trước khi có đủ điều kiện thuận tiện để được ghi chép thành văn bản
cũng không có gì là lạ.
Như vậy, theo chúng tôi thì việc sử dụng tên gọi nào là tùy theo ý
riêng của mỗi người, nhưng vấn đề quan trọng nhất ở đây là phải nhận
hiểu đúng được ý nghĩa quyền thừa phương tiện mà đức Phật đã thuyết
giảng trong kinh này thì mới có thể tránh được những nhận thức sai
lầm về các phần giáo pháp khác nhau trong đạo Phật.
Theo ý nghĩa được hiểu từ kinh Đại Bát Niết-bàn này thì thật ra chỉ
có một thừa duy nhất, đó là Phật thừa dẫn đến quả Phật rốt ráo, chấm
dứt tất cả phiền não và vĩnh viễn thoát khỏi sanh tử luân hồi. Đức
Phật dạy:
“Vì sao [tánh Phật] là duy nhất? Vì tất cả chúng sanh chỉ [hướng
theo] một thừa duy nhất mà thôi. Vì sao [tánh Phật] là chẳng phải
duy nhất? Vì [Như Lai phương tiện] thuyết giảng thành Ba thừa.”
(trang 633, tập I)
“Vì tất cả chúng sanh chỉ hướng theo một thừa duy nhất” nên có thể
hiểu rằng cho dù là Thanh văn thừa hay Duyên giác thừa cũng đều
không ra khỏi Phật thừa, hay Đại thừa. Như vậy, người tu tập theo
Thanh văn thừa cũng chính là đang tu tập theo Đại thừa, không có sự
phân biệt. Điểm khác biệt ở đây là, tuy đi chung một con đường nhưng
mục tiêu đặt ra của Thanh văn thừa là dừng lại ở chỗ dứt trừ phiền
não và giải thoát tự thân ra khỏi vòng sanh tử, còn vị Bồ Tát tu tập
Đại thừa luôn hướng đến quả Phật rốt ráo, tức quả vị A-nậu-đa-la
Tam-miệu Tam-bồ-đề. Đức Phật xác nhận sự dứt trừ phiền não và đạt
đến giải thoát của những người tu theo Thanh văn thừa và Duyên giác
thừa:
“Hàng Thanh văn, Duyên giác dứt trừ phiền não cho nên gọi là giải
thoát, nhưng vì chưa đạt được A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề nên gọi
là không thật.”
(trang 78, tập V)
Như vậy, chúng ta nhận ra theo lời Phật dạy là có một khoảng cách
khác biệt giữa việc “dứt trừ phiền não và đạt được giải thoát” của
vị A-la-hán (quả vị cao nhất của Thanh văn thừa) hay Phật Bích-chi
với quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề mà Phật dạy là các vị này còn
chưa đạt được.
Như vậy, vấn đề ở đây không phải là sự phân biệt hơn kém giữa vị Bồ
Tát hay A-la-hán, vì cả hai vị đều tu tập theo giáo pháp do Phật
thuyết dạy, nhưng họ khác nhau ở mục tiêu nhắm đến. Trong khi vị
A-la-hán hướng đến sự dứt trừ phiền não tự thân như cứu cánh, mục
tiêu cuối cùng của sự tu tập thì vị Bồ Tát chỉ xem đó như một phương
tiện để thực hiện mục tiêu lợi tha, và ngay cả khi bản thân mình
chưa dứt trừ được phiền não thì vị Bồ Tát vẫn luôn lấy việc giáo hóa
chúng sanh làm cứu cánh. Khi nêu ra bốn hạng người mà chúng sanh có
thể nương theo thì trước khi kể đến những người chứng đắc bốn Thánh
quả từ Tu-đà-hoàn cho đến A-la-hán, đức Phật đã nhắc đến “những
người ra đời có đủ tánh phiền não”. Phật dạy về hạng người này như
sau:
“Sao gọi là có đủ tánh phiền não? Như người có thể vâng giữ giới
cấm, đầy đủ các oai nghi, kiến lập Chánh pháp, theo Phật nghe pháp,
hiểu được nghĩa lý rồi phân biệt giảng rộng với người khác. Chẳng
hạn như nói rằng: ít ham muốn là hợp đạo, nhiều ham muốn là trái
đạo... giảng rộng tám điều giác ngộ của bậc đại nhân như vậy, đối
với kẻ phạm tội liền dạy họ phát lộ sám hối để diệt trừ tội lỗi,
hiểu rành những phép phương tiện và sở hành bí mật của Bồ Tát... ”
(trang 603, tập I)
“Người có đủ tánh phiền não” đó chính là những người tu tập theo
hạnh nguyện Bồ Tát, dù bản thân mình vẫn chưa thoát khỏi sự khổ não
nhưng luôn hướng đến sự giáo hóa không mệt mỏi để làm lợi ích cho
người khác, cho hết thảy chúng sanh. So về công phu tu tập hay sự
chứng đắc thì các vị này có thể chưa sánh bằng những vị chứng đắc
các Thánh quả từ Tu-đà-hoàn đến A-la-hán, nhưng chỗ hướng đến của
các vị thì ngay từ khi phát tâm tu tập đã hoàn toàn có sự khác biệt.
Vị Bồ Tát như vậy có tâm lượng thật không thể nghĩ bàn. Phật dạy:
“Bồ Tát ma-ha-tát rõ biết sâu xa rằng cuộc sanh tử có nhiều tai hại,
nhìn thấy Đại Niết-bàn có công đức lớn. Dù vậy, Bồ Tát vì chúng sanh
mà thường ở chốn sanh tử, nhận chịu mọi thứ khổ não nhưng tâm không
hề thối chuyển. Cho nên gọi là Bồ Tát không thể nghĩ bàn.”
(trang 215, tập VI)
Hạnh nguyện của vị Bồ Tát như vậy là hoàn toàn khác biệt với những
vị trong hàng Thanh văn, Duyên giác, nhưng theo những lời Phật dạy
thì giáo pháp của Thanh văn, Duyên giác hay Bồ Tát cũng đều có mục
đích như nhau, vì đều là những giáo pháp do Phật thuyết dạy hướng
đến sự giải thoát. Sự khác biệt chỉ là do mức độ nhận thức và sự
phát triển trí tuệ của người tu tập. Chẳng hạn, nói về Bốn Thánh đế,
đức Phật dạy rằng:
“Thiện nam tử! Hiểu biết về Bốn Thánh đế có hai bậc trí tuệ. Một là
bậc trung, hai là bậc thượng. Bậc trung là trí tuệ của hàng Thanh
văn, Duyên giác. Bậc thượng là trí tuệ của chư Phật, Bồ Tát.”
(trang 215, tập VI)
Lại ở một nơi khác trong kinh, Phật dạy về Mười hai nhân duyên như
sau:
“Thiện nam tử! Trí tuệ quán chiếu Mười hai nhân duyên đó chính là
hạt giống A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Vì nghĩa ấy, Mười hai nhân
duyên được gọi là tánh Phật.”
(trang 270, tập V)
Xét theo ý nghĩa những đoạn kinh văn vừa dẫn trên thì giáo pháp của
hàng Bồ Tát tu tập cũng chính là Tứ diệu đế, Thập nhị nhân duyên...
nhưng chỉ khác là với một tầng bậc quán chiếu sâu xa hơn, cao siêu
hơn. Nhận xét này sẽ được làm rõ hơn qua các đoạn kinh văn sau:
“Thiện nam tử! Nói về sự khổ, không gọi là thánh đế. Vì sao vậy? Nếu
nói rằng khổ là khổ thánh đế, thì tất cả những loài bò, dê, lừa,
ngựa cùng chúng sanh ở địa ngục, lẽ ra đều phải có thánh đế!
“Thiện nam tử! Nếu có người không biết được cảnh giới thâm sâu của
Như Lai, đối với pháp thân vi mật thường trụ chẳng biến mà cho rằng
đó là thân do ăn uống [mà thành] chứ không phải pháp thân, chẳng
biết oai lực đại đức của Như Lai. Như vậy gọi là khổ. Vì sao vậy? Vì
không biết nên pháp thấy là chẳng phải pháp, chẳng phải pháp thấy là
pháp. Nên biết rằng người như vậy ắt phải đọa vào nẻo dữ, luân
chuyển mãi trong sanh tử, nuôi lớn các mối phiền não trói buộc, chịu
nhiều khổ não.
“Nếu ai biết được rằng Như Lai là thường trụ, không hề biến đổi,
hoặc nghe được hai tiếng thường trụ, dù chỉ nghe qua một lần cũng
được sanh lên các cõi trời. Rồi về sau, đến lúc giải thoát rồi mới
có thể chứng biết lẽ Như Lai thường trụ, không hề biến đổi. Khi
chứng biết rồi liền nói: Thuở xưa tôi đã từng nghe nghĩa ấy, nay
được giải thoát mới thật sự chứng biết. Ngày trước vì không biết
được vậy nên tôi phải luân chuyển mãi trong sanh tử, lăn lộn không
cùng. Từ nay tôi mới có được trí huệ chân thật.
“Nếu biết được vậy, mới thật là tu tập lẽ khổ, được nhiều lợi ích.
Nếu không biết vậy thì dù có chuyên cần tu học cũng không được ích
lợi gì. Đó gọi là rõ biết lẽ khổ, gọi là Khổ thánh đế. Nếu không thể
tu tập như vậy thì gọi là khổ chứ không phải Khổ thánh đế.
(trang 87-88, tập II)
Ở
đây chúng ta có thể thấy rõ sự tu tập Khổ đế không chỉ còn là quán
xét để nhận biết các nỗi khổ trong đời sống, mà đã phát triển thành
một nhận thức chân thật chiếu rọi sâu xa vào thật tánh của các pháp,
phân biệt rõ các pháp hữu vi vô thường giả tạm với thể tánh Như Lai
thường trụ bất biến. Và chỉ như thế mới có thể nhận biết đến tận
cùng ý nghĩa sâu xa nhất của sự khổ, làm nền tảng cho sự tu tập dứt
khổ.
Cũng tương tự như thế, đức Phật đã giảng rõ sự tu tập các thánh đế
Tập, Diệt, Đạo đều là như vậy. Rồi Đức Phật kết luận:
“Như có người nói rằng: Tam bảo là vô thường. Tu tập theo kiến giải
ấy là sai lầm, chẳng phải Đạo thánh đế. Nếu ai thường tu tập niệm
tưởng rằng: Tam bảo là thường trụ thì người ấy là đệ tử của ta.
“Dùng sự thấy biết chân chánh mà tu tập bốn pháp thánh đế, đó gọi là
Tứ thánh đế.”
(trang 90, tập II)
Và sau khi được nghe những ý nghĩa sâu xa về Tứ thánh đế như vậy, Bồ
Tát Ca-diếp đã nói ra nhận xét của mình:
“Bạch Thế Tôn! Nay con mới rõ biết được việc tu tập pháp Tứ thánh đế
hết sức sâu xa.”
(trang 90, tập II)
Về giáo pháp Thập nhị nhân duyên cũng tương tự như vậy. Tuy các vị
Duyên giác cũng tu tập Thập nhị nhân duyên nhưng mức độ quán chiếu
không giống như các vị Bồ Tát tu tập theo Đại thừa. Trong kinh Đại
Bát Niết-bàn này đức Phật dạy như sau:
“Lại nữa, thiện nam tử! Chỗ thấy biết của chúng sanh khởi lên gồm có
hai loại: một là thường kiến, hai là đoạn kiến. Hai cách thấy biết
ấy không gọi là trung đạo. Không phải thường cũng không phải đoạn
mới gọi là trung đạo. Không phải thường cũng không phải đoạn tức là
trí tuệ quán chiếu Mười hai nhân duyên. Trí tuệ quán chiếu ấy gọi là
tánh Phật.
“Hàng Nhị thừa tuy cũng quán xét nhân duyên nhưng chưa được gọi là
tánh Phật.
“Tánh Phật tuy là thường nhưng vì chúng sanh bị vô minh che lấp nên
không thể thấy được. Chúng sanh lại cũng như con thỏ, con ngựa, chưa
đủ sức lội qua dòng sông lớn Mười hai nhân duyên. Vì sao vậy? Vì
không thấy được tánh Phật.
“Thiện nam tử! Trí tuệ quán chiếu Mười hai nhân duyên đó chính là
hạt giống A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Vì nghĩa ấy, Mười hai nhân
duyên được gọi là tánh Phật. Thiện nam tử! Ví như có loại dưa chuột
được gọi là bệnh nhiệt. Vì sao vậy? Vì loại dưa ấy có thể là nguyên
nhân gây bệnh nhiệt. Mười hai nhân duyên cũng thế, [có thể là nguyên
nhân dẫn đến quả vị A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề nên được gọi là
tánh Phật.]
(trang 269-270, tập V)
“Không phải thường cũng không phải đoạn tức là trí tuệ quán chiếu
Mười hai nhân duyên.” Ý nghĩa này rõ ràng không thấy nêu ra trong
các kinh điển Tiểu thừa. Các vị Duyên giác khi quán chiếu Mười hai
nhân duyên đều nhắm đến việc thấy rõ được vô minh là cội nguồn cần
đoạn trừ để phá vỡ toàn bộ mười hai mắt xích duyên khởi này, nhưng
theo đoạn kinh văn trên đây thì Phật dạy rằng dừng lại ở đó là chưa
đủ. Bồ Tát quán chiếu Mười hai nhân duyên phải thấy được sâu hơn mức
độ ý nghĩa duyên khởi để nhận ra được thật tánh của tất cả các pháp
đều là “không phải thường không phải đoạn”. Thấy được như vậy rồi
thì sự sanh khởi của các pháp cũng không còn là sanh khởi nữa, vì đã
rõ biết được ý nghĩa sâu kín nhất của Như Lai, và nhờ đó nên dù còn
rất nhiều phiền não nhưng người tu tập cũng có thể mau chóng dứt
trừ. Đức Phật dạy:
“Nếu người tu tập [những tướng trạng] vô ngã, rỗng không vắng lặng
[rồi cho đó là] tạng sâu kín của Như Lai, thì trong vô số kiếp sẽ
lưu chuyển trong sanh tử, chịu nhiều khổ não. Nếu ai không tu tập
theo cách như vậy, thì dù có phiền não cũng mau chóng dứt trừ. Vì
sao vậy? Nhờ rõ biết được tạng sâu kín của Như Lai.”
(trang 89, tập II)
Trong một đoạn kinh văn khác, Phật dạy:
“Vì nghĩa ấy nên trong các kinh ta dạy rằng ý nghĩa của Mười hai
nhân duyên là rất sâu xa, không thể biết, không thể thấy, không thể
suy xét. Đó là cảnh giới của chư Phật, Bồ Tát, chẳng phải chỗ hàng
Thanh văn, Duyên giác có thể đạt đến.”
(trang 271, tập V)
Đến đây chúng ta có thể thấy được ý nghĩa phương tiện quyền thừa đối
với các giáo pháp mà đức Phật đã thuyết dạy. Thật ra không hề có các
thừa (hay giáo pháp) khác nhau, chỉ có một thừa duy nhất là con
đường tu tập hướng đến quả Phật. Các thừa khác nhau đều chỉ là tên
gọi. Những lời Phật dạy đều là chân thật, duy nhất, chỉ do mức độ tu
tập, nhận biết khác nhau của chúng sanh mà hình thành các tên gọi
khác nhau. Vì thế, chỉ cần phá bỏ được sự trói buộc, bám víu vào các
tên gọi là chúng ta sẽ tức thời nhận ra rằng trong đạo Phật chỉ có
một thừa duy nhất mà thôi. Sự phân biệt gọi “thừa duy nhất” đó bằng
những tên khác nhau là xuất phát từ những chênh lệch sai khác ngay
trong lòng người, và sự sai khác về tên gọi như thế hoàn toàn không
làm thay đổi ý nghĩa chân thật của giáo pháp mà Phật đã thuyết dạy.
Chúng tôi xin được nhắc lại lời Phật dạy để đúc kết ý nghĩa của phần
này:
“Vì sao [tánh Phật] là duy nhất? Vì tất cả chúng sanh chỉ [hướng
theo] một thừa duy nhất mà thôi.”