Trường Bộ Kinh
Digha Nikaya
19. Kinh Ðại Ðiển Tôn
(Mahàgovinda sutta)
1. Như vậy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở tại Vương Xá, núi Linh Thứu.
Khi đêm đã gần mãn, Pancasikha (Ngũ Kế), thuộc giòng họ Càn-thát-bà
(Gandhabba), với dung mạo đoan chánh, chói sáng toàn vùng núi Linh Thứu,
đến tại chỗ Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Ngài và đứng một
bên. Sau khi đứng một bên, Pancasikha, thuộc giòng họ Càn-thát-bà bạch
Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, những điều con đã tự thân nghe
và chấp nhận trước mặt chư Thiên ở Tam thập tam thiên, bạch Thế Tôn con
muốn bạch lại Thế Tôn.
- Này Pancasikha, hãy nói cho ta nghe! - Thế Tôn nói
như vậy.
2. - Bạch Thế Tôn, trong những ngày xưa, những ngày
xa xưa, nhân đêm trăng rằm Bố-tát (Uposatha), trong tháng nhập cư mùa mưa,
toàn thể chư Thiên ở cõi Tam thập tam thiên ngồi hội họp tại
Thiện Pháp đường, xung quanh có Ðại thiên chúng ngồi khắp mọi phía;
tại bốn phương hướng có bốn vị đại vương ngồi. Ðại vương Dhatarattha
(Trì Quốc Thiên vương), vua ở phương Ðông, ngồi xây mặt hướng Tây, trước
mặt Thiên chúng. Ðại vương Virùlhaka (Tăng Trưởng thiên vương), vua ở
phương Nam, ngồi xây mặt hướng Bắc, trước mặt Thiên chúng. Ðại vương
Virùpakkha (Quảng Mục Thiên vương), vua ở phương Tây, ngồi xây mặt hướng
Ðông, trước mặt Thiên chúng. Ðại vương Vessavana (Tỳ-sa-môn Thiên vương),
vua ở phương Bắc, ngồi xây mặt hướng Nam, trước mặt Thiên chúng. Bạch
Thế Tôn, khi nào toàn thể chư Thiên ở cõi Tam thập tam thiên ngồi hội
họp tại Thiện Pháp đường, xung quanh có Ðại thiên chúng ngồi khắp
mọi phía và tại bốn phương hướng có bốn vị đại vương ngồi, như vậy
là thứ tự các chỗ ngồi của các vị này, rồi đến chỗ ngồi của
chúng con. Bạch Thế Tôn, chư Thiên nào trước sống phạm hạnh theo Thế
Tôn và nay mới sanh lên cõi Tam thập tam thiên, những vị này thắng xa chư
Thiên khác về thân sắc và danh tiếng. Bạch Thế Tôn, chư Thiên ở
Tam thập tam thiên đẹp lòng, thoải mái, hoan hỷ sanh: Thiên giới thật sự
được tăng thịnh, còn A-tu-la giới bị hoại diệt.
3. Bạch Thế Tôn, lại bây giờ Thiên chủ
Ðế-thích (Sakka) thấy chư Thiên ở Tam thập tam thiên hoan hỷ bèn tùy
hỷ nói lên bài kệ như sau:
Chư Tam thập tam thiên,
Cùng Ðế-thích hoan hỷ,
Ðảnh lễ bậc Như Lai,
Cùng Chánh pháp vi diệu.
Thấy Thiên chúng tân sanh,
Quang sắc thật thù thắng,
Các vị sống phạm hạnh,
Nay sanh tại cõi này.
Họ thắng về quang sắc,
Thọ mạng và danh xưng.
Ðệ tử bậc Ðại Tuệ,
Thù thắng sanh cõi này.
Chư Tam thập tam thiên,
Cùng Ðế-thích hoan hỷ,
Ðảnh lễ bậc Như Lai,
Và Chánh pháp vi diệu.
Bạch Thế Tôn, chư Thiên ở Tam thập tam thiên lại
càng đẹp lòng thoải mái hoan hỷ hơn nữa và nói:
"- Thiên giới thật sự được tăng thịnh, còn
A-tu-la giới bị hoại diệt".
4. Bạch Thế Tôn, Thiên chủ Ðế-thích biết
được chư Thiên ở Tam thập tam thiên hoan hỷ, liền nói với Chư Thiên
ở Tam thập tam thiên:
"- Các vị có muốn nghe tám pháp như thật của
Thế Tôn không?
"- Chúng tôi muốn nghe tám pháp Như thật của
Thế Tôn".
Bạch Thế Tôn, Thiên chủ Ðế-thích ở Tam thập
tam thiên giải thích về tám pháp Như thật của Thế Tôn như sau:
5. "- Này chư Thiện hữu ở Tam thập tam thiên
các vị nghĩ thế nào? Như Lai dấn thân vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì an
lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc vì an lạc
cho loài Trời và loài Người. Một vị Ðại sư dấn thân vì hạnh phúc cho chúng
sanh, vì an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc
vì an lạc cho loài Trời và loài Người như vậy, một vị Ðại sư đầy đủ
đức tánh như vậy, chúng ta thật khó tìm thấy được trong quá khứ cũng như
trong hiện tại, trừ Thế Tôn.
6. "Chánh pháp được Thế Tôn khéo léo
thuyết giảng, một Chánh pháp thiết thực hiện tại, vượt ngoài thời
gian, đến để mà thấy, luôn luôn hướng thượng, chỉ người có trí
tự mình giác hiểu. Một vị Giảng sư thuyết pháp hướng thượng như
vậy, một vị Ðạo sư đầy đủ đức tánh như vậy, chúng ta thật khó tìm thấy
được trong quá khứ cũng như trong hiện tại, trừ Thế Tôn.
7. "Ðây là thiện", "đây là bất
thiện" đã được Thế Tôn khéo giải thích. "Ðây có
tội", "đây không tội", "đây cần phải tuân theo",
"đây cần phải né tránh", "đây là hạ liệt", "đây
là cao thượng", "đây là đen trắng đồng đẳng", được Thế
Tôn khéo giải thích. Một vị khéo giải thích các pháp thiện, bất
thiện, có tội, không có tội, cần phải thuận theo, cần phải né tránh, hạ
liệt, cao thượng, đen trắng đồng đẳng, một vị Ðại sư đầy đủ đức
tánh như vậy, chúng ta thật khó tìm thấy được trong quá khứ, cũng như trong
hiện tại, trừ Thế Tôn.
8. "Con đường đưa đến Niết-bàn cho các
đệ tử, Niết-bàn và con đường phối hợp thành một, đã được
Thế Tôn khéo giải thích như nước sông Hằng phối hợp và cùng chảy với
nước sông Yamuna (Diệm-mâu-na). Cũng vậy con đường đưa đến
Niết-bàn cho các đệ tử, Niết-bàn và con đường phối hợp thành
một đã được Thế Tôn khéo giải thích. Một vị khéo giải thích con
đường hướng đến Niết-bàn như vậy, một vị Ðạo sư đầy đủ đức
tánh như vậy, chúng ta thật khó tìm thấy trong quá khứ, cũng như trong
hiện tại, trừ Thế Tôn.
9. "Thế Tôn cũng đã đào tạo được chúng
thiện hữu Hữu học đang đi trên nẻo đạo và các vị Lậu tận đã hoàn
tất Thánh đạo. Ngài không di tản chúng nhưng sống cùng chung một niềm
hòa hợp lạc trú. Một vị sống cùng chung một niềm hòa hợp lạc trú, một
Ðạo sư đầy đủ đức tánh như vậy, chúng ta thật khó tìm thấy trong quá
khứ, cũng như trong hiện tại, trừ Thế Tôn.
10. - "Lợi dưỡng cúng dường cho Thế Tôn đã
được an bài chắc chắn, danh tiếng cũng đã được an bài chắc chắn, và
con nghĩ rằng các vị Sát-đế-lỵ (Khattiyà) sống với gương mặt rất
quý mến Ngài. Nhưng Thế Tôn sống thọ hưởng các lợi dưỡng
với tâm không kiêu mạn. Một vị sống thọ hưởng các lợi dưỡng với tâm
không kiêu mạn như vậy, một vị Ðạo sư đầy đủ đức tánh như vậy, chúng
ta thật khó tìm thấy trong quá khứ, cũng như trong hiện tại, trừ Thế
Tôn.
11. "Thế Tôn nói gì thời làm vậy, làm gì thời
nói vậy. Một vị nói gì thời làm vậy, làm gì thời nói vậy, thành tựu các
pháp và tùy pháp như vậy, làm gì thời nói vậy, thành tựu các pháp và tùy
pháp như vậy. Một vị đầy đủ đức tánh như vậy, chúng ta thật khó tìm
thấy trong quá khứ, cũng như trong hiện tại, trừ Thế Tôn.
12. "Thế Tôn đã vượt khỏi nghi ngờ, diệt
trừ do dự, mọi suy tư được thỏa mãn về tâm nguyện và tối sơ
phạm hạnh. Một vị đã vượt khỏi nghi ngờ, diệt trừ do dự, mọi suy tư
được thỏa mãn về tâm nguyện và tối sơ phạm hạnh, một bậc Ðạo sư
đầy đủ đức tánh như vậy, chúng ta thật khó tìm thấy trong quá khứ, cũng
như trong hiện tại, trừ Thế Tôn.
13. "Bạch Thế Tôn, rồi một số chư Thiên nói
như sau:
"- Chư Thiện hữu, nếu có được bốn vị
Chánh Ðẳng Giác xuất hiện ở đời, diễn giảng Chánh pháp như Thế
Tôn. Như vậy mới đem lại hạnh phúc cho chúng sanh, an lạc cho chúng sanh, vì
lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc và an lạc cho loài Người và loài
Trời".
"Một số chư Thiên khác lại nói như sau:
"- Chư Thiện hữu, cần gì có bốn vị Chánh
Ðẳng Giác. Chư Thiện hữu, nếu có được ba vị Chánh Ðẳng Giác xuất
hiện ở đời, diễn giảng Chánh pháp như Thế Tôn. Như vậy mới đem lại
hạnh phúc cho chúng sanh, an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho
đời, vì hạnh phúc và an lạc cho loài Người và loài Trời.
"Một số chư Thiên khác lại nói như sau:
"- Chư Thiện hữu, cần gì có ba vị Chánh Ðẳng
Giác. Chư Thiện hữu, nếu có được hai vị Chánh Ðẳng Giác xuất
hiện ở đời, diễn giảng chánh pháp như Thế Tôn. Như vậy mới đem lại
hạnh phúc cho chúng sanh, an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho
đời, vì hạnh phúc và an lạc cho loài Người và loài Trời.
14. "Bạch Thế Tôn, khi được nói vậy, Thiên
chủ Ðế-thích nói với chư Thiên ở Tam thập tam thiên:
"- Chư Thiện hữu, không một chỗ nào, không
một thời gian nào cùng chung một thế giới mà có hai vị Ứng Cúng, Chánh
Ðẳng Giác đồng thời ra đời, không ra trước, không ra sau, không bao giờ sự
kiện như vậy có thể xảy ra. Chư Thiện hữu, một bậc Thế Tôn
như vậy, không có tật bệnh, không có đau khổ, sống như vậy trong khoảng
thời gian rất dài. Như vậy mới đem lại hạnh phúc cho chúng sanh, an lạc cho
chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc và an lạc cho loài
Người và loài Trời.
"Bạch Thế Tôn, rồi với mục đích gì chư Thiên
ở Tam thập tam thiên ngồi hội họp tại Thiện Pháp đường, các vị này
suy tư, thảo luận về mục đích ấy. Và tùy thuộc về mục đích ấy,
bốn vị đại vương được thuyết giảng: Theo mục đích ấy, bốn vị đại
vương được khuyến giáo, bốn vị này đều đứng một bên chỗ ngồi
của mình.
Các đại vương chấp nhận,
Lời giảng dạy khuyết giáo,
Thanh thoát và an tịnh,
Ðứng bên chỗ mình ngồi.
15. "Bạch Thế Tôn, rồi từ phương Bắc, một ánh
sáng vi diệu khởi lên, một hào quang hiện ra thắng xa oai lực của chư
Thiên. Bạch Thế Tôn, rồi Thiên chủ Sakka, nói với chư Thiên ở Tam thập
tam thiên:
"- Này các Thiện hữu, theo các hiện tượng
được thấy, ánh sáng khởi lên, hào quang hiện ra. Như vậy là báo
hiệu Phạm thiên sẽ xuất hiện. Vì hiện tượng báo hiệu Phạm
thiên xuất hiện là ánh sáng khởi lên và hào quang hiện ra.
Theo hiện tượng được thấy,
Phạm thiên sẽ xuất hiện,
Hiện tượng bậc Phạm thiên,
Là hào quang vi diệu.
"Bạch Thế Tôn, rồi chư Thiên ở Tam thập tam
thiên, ngồi xuống trên ghế ngồi của mình và nói rằng:
"- Chúng tôi sẽ tìm hiểu kết quả của hào
quang này là thế nào, sau khi được biết, chúng tôi sẽ đi gặp vị ấy.
Cũng vậy bốn vị đại vương ngồi xuống trên ghế
của mình và nói rằng:
"- Chúng tôi sẽ tìm hiểu kết quả của hào
quang này là thế nào, sau khi được biết, chúng tôi sẽ đi gặp vị ấy.
"Sau khi nghe vậy, chư Thiên ở Tam thập tam thiên
đều đồng một lòng một ý: "Chúng ta sẽ tìm hiểu kết quả
của hào quang này là thế nào, sau khi đã được biết, chúng ta sẽ gặp
vị ấy".
16. "Bạch Thế Tôn, khi Phạm thiên Sanamkumàra
(Thường Ðồng hình Phạm thiên) xuất hiện trước chư Thiên ở Tam thập tam
thiên, ngài xuất hiện với một hóa tướng thô xấu. Bạch Thế Tôn, vì
khi Phạm thiên tự nhiên hiện hóa, các tướng không đủ thù thắng để
chư Thiên ở Tam thập tam thiên khâm phục. Bạch Thế Tôn, khi Phạm thiên
Sanamkumàra xuất hiện trước chư Thiên ở Tam thập tam thiên vị này thắng
xa chư THiên khác về sắc tướng và danh tiếng. Bạch Thế Tôn, như
một hình tượng bằng vàng chói sáng hơn thân hình con người, cũng vậy bạch
Thế Tôn khi Phạm thiên Sanamkumàra xuất hiện trước chư Thiên ở Tam
thập tam thiên, vị này thắng xa chư Thiên khác về sắc tướng và danh
tiếng. Bạch Thế Tôn, khi Phạm thiên Sanamkumàra xuất hiện trước
chư Thiên ở Tam thập tam thiên, không một vị Thiên trong chúng này đảnh lễ
hoặc đứng dậy mời Phạm thiên ngồi. Tất cả đều yên lặng, chắp tay,
không ngồi trên chỗ ngồi của mình và nghĩ rằng: "Nếu nay Phạm
thiên Sanamkumàra muốn gì với vị Thiên nào, thì hãy ngồi trên chỗ ngồi
của vị Thiên ấy sẽ vô cùng sảng khoái, sẽ vô cùng hoan hỷ. Bạch Thế
Tôn, như vị vua Sát-đế-lỵ vừa mới làm lễ quán đảnh và lên vương
vị, vị ấy sẽ vô cùng sảng khoái, sẽ vô cùng hoan hỷ. Cũng vậy, bạch
Thế Tôn, Phạm thiên Sanamkumàra ngồi trên chỗ ngồi của vị Thiên nào,
vị Thiên ấy sẽ vô cùng sảng khoái, sẽ vô cùng hoan hỷ.
17. "Bạch Thế Tôn, rồi Phạm thiên Sanamkumàra
biết được sự thoải mái hoan hỷ của chư Thiên ở Tam thập tam thiên
liền ân hình tùy hỷ nói lên bài kệ sau đây:
Chư Tam thập tam thiên,
Cùng Ðế-thích hoan hỷ,
Ðảnh lễ bậc Như Lai,
Và Chánh pháp vi diệu.
Thấy Thiên chúng tân sanh,
Quang sắc thật thù thắng,
Các vị sống phạm hạnh,
Nay sanh tại cõi này,
Thắng xa về quang sắc,
Thọ mạng và danh xưng,
Ðệ tử bậc Ðại Tuệ,
Thù thắng sanh cõi nầy.
Chư Tam thập tam thiên,
Cùng Ðế Thích hoan hỷ,
Ðảnh lễ bậc Như Lai,
Và Chánh pháp vi diệu.
18. "Bạch Thế Tôn, đó là nội dung lời nói của
Phạm Thiên Sanamkumàra. Bạch Thế Tôn tiếng nói của Phạm Thiên
Sanamkumàra có tám đặc điểm sau đây: Lưu loát, dễ hiểu, dịu
ngọt, nghe rõ ràng, sung mãn, phân minh, thâm sâu và vang động. Bạch
Thế Tôn, khi Phạm thiên Sanamkumàra giải thích cho hội chúng với tiếng
nói của mình, tiếng nói không vượt ra khỏi đại chúng. Bạch Thế Tôn
một tiếng nói có tám đặc điểm như vậy được gọi là Phạm âm.
19. "Bạch Thế Tôn, chư Thiên ở Tam thập tam
thiên nói với Phạm thiên Sanamkumàra như sau:
"- Này Phạm thiên, chúng tôi thật sự hoan hỷ
với những điều chúng tôi đã được chú ý. Hơn nữa Thiên chủ Sakka
đã nói đến tám pháp như thật của Thế Tôn; và chúng tôi hoan hỷ
với tám pháp này.
"Bạch Thế Tôn, rồi Phạm thiên Sanamkumàra nói
với Thiên chủ Ðế-thích:
"- Thật lành thay, Thiên chủ, nếu chúng tôi
được nghe tám pháp như thật của Thế Tôn.
"- Vâng, Ðại Phạm thiên.
Bạch Thế Tôn, Thiên chủ Ðế-thích, giải thích
tám pháp như thật của Thế Tôn cho Phạm thiên Sanamkumàra:
20. "- Này Thiện hữu Ðại Phạm thiên, Ngài nghĩ
thế nào? Như Lai dấn thân vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì an lạc cho chúng
sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài Trời,
loài Người. Một vị Ðạo sư dấn thân vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì an lạc
cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc, vì an lạc cho
loài Trời, loài Người như vậy, một vị Ðạo sư đầy đủ đức tánh như vậy
chúng ta khó tìm thấy được trong quá khứ cũng như trong hiện tại, trừ
Thế Tôn.
21. "- Chánh pháp được Thế Tôn khéo léo
thuyết giảng, một Chánh pháp thiết thực hiện tại, vượt ngoài thời
gian, đến để mà thấy, luôn luôn hướng thiện, chỉ người có trí
tự mình giác hiểu. Một vị Giảng sư thuyết pháp hướng thượng như
vậy, một vị Ðạo sư đầy đủ đức tánh như vậy, chúng ta thật khó tìm thấy
được trong quá khứ cũng như trong hiện tại, trừ Thế Tôn.
22. "Ðây là thiện", "đây là bất
thiện", đã được Thế Tôn khéo giải thích. "Ðây là có
tội", "đây là không tội", "Ðây cần phải tuân theo",
"đây cần phải né tránh", "đây là hạ liệt", "đây
là cao thượng", "đây là đen trắng đồng đẳng", đã được
Thế Tôn khéo giải thích. Một vị khéo giải thích các pháp thiện, bất
thiện, có tội, không có tội, cần phải thuận theo, cần phải né tránh, hạ
liệt, cao thượng, đen trắng đồng đẳng, một vị Ðạo sư đầy đủ đức
tánh như vậy, chúng ta thật khó tìm thấy được trong quá khứ, cũng như trong
hiện tại, trừ Thế Tôn.
23. "Con đường đưa đến Niết-bàn cho các
đệ tử, Niết-bàn và con đường phối hợp thành một, đã được
Thế Tôn khéo léo giải thích. Như nước sông Hằng phối hợp và cùng chảy
với nước sông Yamunà, cũng vậy con đường đưa đến Niết-bàn cho các
đệ tử, Niết-bàn và con đường phối hợp thành một đã được Thế
Tôn khéo giải thích. Một vị khéo giải thích con đường hướng đến
Niết-bàn như vậy, một vị Ðạo sư đầy đủ đức tánh như vậy, chúng ta
thật khó tìm thấy trong quá khứ, cũng như trong hiện tại, trừ Thế
Tôn.
24. "Thế Tôn cũng đã đào tạo được chúng
thiện hữu Hữu học đang đi trên nẻo đạo và các vị Lậu tận đã hoàn
tất Thánh đạo. Ngài không di tản chúng, nhưng sống cùng chung một niềm
hòa hợp lạc trú. Một vị sống cùng chung một niềm hòa hợp lạc trú, một
Ðạo sư đầy đủ đức tánh như vậy, chúng ta thật khó tìm thấy trong quá
khứ, cũng như trong hiện tại, trừ Thế Tôn.
25. "Lợi dưỡng cúng dường cho thế Tôn đã
được an bài chắc chắn, danh tiếng cũng đã được an bài chắc chắn, và
con nghĩ rằng các vị Sát-đế-lỵ sống với diện mạo rất quý
mến Ngài. Nhưng Thế Tôn sống thọ hưởng các lợi dưỡng với tâm
không kiêu mạn. Một vị sống thọ hưởng các lợi dưỡng với tâm không
kiêu mạn như vậy, một vị Ðạo sư đầy đủ đức tánh như vậy, chúng ta thật
khó tìm thấy trong quá khứ, cũng như trong hiện tại, trừ Thế Tôn.
26. "Thế Tôn nói gì thì làm vậy, làm gì thời
nói vậy, một vị nói gì thì làm vậy, làm gì thì nói vậy, thành tựu các
pháp và tùy pháp như vậy, chúng ta thật khó tìm thấy trong quá khứ, cũng
như trong hiện tại, trừ Thế Tôn.
27. "Thế Tôn đã vượt khỏi nghi ngờ, diệt
trừ do dự, mọi suy tư hoặc thỏa mãn về tâm nguyện và tối sơ phạm
hạnh. Một vị đã vượt khỏi nghi ngờ, diệt trừ do dự, mọi suy tư
được thỏa mãn về tâm nguyện và tối sơ phạm hạnh, một bậc Ðạo sư
đầy đủ đức tánh như vậy, chúng ta thật khó tìm thấy trong quá khứ, cũng
như trong hiện tại, trừ Thế Tôn.
"Bạch Thế Tôn, Thiên chủ Sakka giải thích tám
pháp như thật của Thế Tôn cho chư Thiên ở Tam thập tam thiên. Bạch
Thế Tôn, chư Thiên ở Tam thập tam thiên lại càng hoan hỷ, lại càng
thích thú, hỷ duyệt sung mãn khi được nghe tám pháp như thật của
Thế Tôn.
28. "Bạch Thế Tôn, Phạm thiên Sanamkumàra xuất
hiện với hình tướng thô xấu, hiện thành một đồng tử tên là
Pancasikha (Ngũ Kế) trước mặt chư Thiên ở Tam thập tam thiên, bay bổng lên
trời, vị này, ngồi kiết-già giữa hư không. Bạch Thế Tôn, như một vị
lực sĩ ngồi kiết-già trên một chỗ ngồi được trải bằng phẳng trên
một mặt đất thăng bằng, cũng vậy bạch Thế Tôn, Phạm thiên Sanamkumàra
bay bổng trên trời, ngồi kiết-già trên hư không và nói với chư Thiên ở
Tam thập tam thiên:
29. "- Chư thiện hữu ở Tam thập tam thiên nghĩ
thế nào? Thế Tôn đã được đại trí tuệ bao lâu rồi?
"Chư Thiện hữu, thuở xưa có vị vua tên là
Disampati (Thành Chủ). Vua Disampati có vị quốc sư tên Govinda (Ðiển Tôn),
và có vị hoàng tử tên là Renu (Lê-nô). Bà-la-môn Govinda có người con trai
tên là Jotipàla (Hộ Minh đồng tử). Hoàng tử Renu, đồng tử Jotipàla cùng sáu
người Sát-đế-lỵ nữa, tám người này là thân hữu. Sau một thời gian,
Bà-la-môn Govinda mệnh chung. Khi nghe Bà-la-môn Govinda mệnh chung, vua
Sisampati than khóc như sau:
"- Tiếc thay, khi chúng ta giao mọi công
việc cho Bà-la-môn Govinda để chúng ta có thể được đầy đủ và
thọ hưởng năm món dục tăng thịnh, chính khi ấy Bà-la-môn lại mệnh
chung.
"Nghe nói vậy, hoàng tử Renu tâu với vua Disampati:
"- Tâu Ðại vương, chớ có quá sầu khổ than khóc
vì Bà-la-môn Govinda từ trần. Tâu Ðại vương, con của Bà-la-môn Govinda, thanh
niên Jotipàla còn sáng suốt hơn phụ thân, còn biết kế hoạch sinh lợi
hơn phụ thân. Những trách nhiệm gì Ðại vương giao cho phụ thân, nay hãy
giao cho thanh niên Jotipàla.
"- Như vậy là phải, Hoàng tử.
"- Xin vâng, tâu Ðại vương.
30. "Rồi vua Disampati cho gọi một người và bảo:
"- Khanh hãy đi đến thanh niên Jotipàla, và nói
như sau: "Mong rằng mọi tốt lành hãy đến với thanh niên Jotipàla!
Vua Disampati có cho gọi thanh niên Jotipàla! Vua Disampati muốn được gặp
thanh niên Jotipàla!".
"- Tâu Ðại vương, xin vâng!
"Người ấy vâng lệnh vua Disampati, đến
chỗ thanh niên Jotipàta ở, khi đến xong liền nói với thanh niên
Jotipàla:
"- Mong rằng mọi tốt lành hãy đến với thanh
niên Jotipàla! Vua Disampati cho gọi thanh niên Jotipàla! Vua Disampati muốn
được gặp thanh nhiên Jotipàla!
"- Xin vâng, này Thiện hữu!
"Thanh nhiên Jotipàla vâng theo lời người ấy, đi
đến chỗ vua Disampati ở, khi đến xong liền nói lên những lời
viếng thăm, và những lời khen tặng xã giao, rồi ngồi xuống một bên. Vua
Disampati nói với thanh niên Jotipàla đang ngồi bên như sau:
"- Này thanh niên Jotipàla! Nay ta muốn khanh chấp
chánh! Thanh niên Jotipàla, chớ có từ chối chấp chánh! Ta sẽ đặt Khanh trong
địa vị của phụ thân. Ta sẽ phong cho Khanh chức chưởng của Govinda!
"- Tâu Ðại vương, xin vâng!
"Thanh niên Jotipàla vâng theo lời dạy của vua
Disampati.
31. "Rồi vua Disampati phong cho thanh niên
Jotipàla chức chưởng của Govinda và đặt vào địa vị của phụ thân. Thanh niên
Jotipàla được phong chức chưởng của Govinda như vậy và được đặt vào địa vị của
phụ thân như vậy, những phần việc gì phụ thân điều hành, những phần việc ấy
thanh niên Jotipàla điều hành, những phần việc gì phụ thân không điều hành,
những phần việc ấy thanh niên Jotipàla không điều hành. Những công tác gì phụ
thân thực hiện, những công tác ấy thanh niên Jotipàla thực hiện; những công
tác gì phụ thân không thực hiện, những công tác ấy thanh niên Jotipàla không
thực hiện. Do vậy, dân chúng nói về Jotipàla:
"- Vị Bà-la-môn thật sự là Govinda! Vị Bà-la-môn
thật sự là Mahà Govinda và được danh tiếng là Mahà Govinda!
32. "Rồi Mahà Govinda đến tại chỗ sáu vị
Sát-đế-lỵ ở, khi đến xong, liền nói với sáu vị Sát-đế-lỵ như sau:
"-Vua Disampati nay đã già, trọng tuổi, lớn
tuổi, đã đến thời, đã đến hạn cuối cuộc đời. Này Thiện Hữu,
ai có thể biết được thọ mạng của vua? Sự việc này có thể xảy ra, nếu vua
Disampati mệnh chung, thời những vị có trách nhiệm phong vua, hãy phong
hoàng tử Renu lên vương vị. Chư Thiện hữu, quí vị hãy đến chỗ
hoàng tử Renu an trú, khi đến xong hãy thưa với hoàng tử Renu:
"- Chúng tôi là những bạn hữu thân tình, thân ái,
tâm đầu ý hiệp với Thiện hữu Renu! Chúng tôi sung sướng khi
thiện hữu sung sướng, chúng tôi đau khổ khi Thiện hữu đau khổ.
Nay vua Disampati đã già, trọng tuổi, lớn tuổi, đã đến thời, đã
đến hạn cuối cuộc đời. Này Thiện hữu, ai có thể biết thọ
mạng của vua. Sự việc này có thể xảy ra. Nếu vua Disampati mệnh
chung, thời những vị có trách nhiệm phong vua, hãy phong hoàng tử Renu lên
vương vị. Nếu Thiện hữu Renu lên vương vị, hãy chia xẻ vương vị
với chúng tôi!
33. "-Xin vâng, Thiện hữu!
"Sáu vị Sát-đế-lỵ này, vâng theo lời của
Bà la môn Mahà Govinda, đến tại chỗ của hoàng tử Renu, khi đến
xong liền thưa với hoàng tử Renu:
- Chúng tôi là những bạn hữu thân tình, thân ái, tâm
đầu ý hợp với Thiện hữu Renu, chúng tôi sung sướng khi Thiện hữu
sung sướng, chúng tôi đau khổ khi thiện hữu đau khổ. Nay vua Disampati đã
già, trọng tuổi, lớn tuổi, đã đến thời, đã đến hạn cuối cuộc
đời. Này Thiện hữu, ai có thể biết được thọ mạng của vua.
Sự việc này có thể xảy ra. Nếu vua Disampati mệnh chung, thời
những vị có trách nhiệm phong vua, hãy phong hoàng tử Renu lên vương vị.
Nếu Thiện hữu Renu lên vương vị, hãy chia vương vị với chúng tôi!
- Chư Thiện hữu, có ai khác có quyền hưởng an
lạc trong quốc độ của tôi, ngoài Quý vị? Nếu tôi được lên vương
vị, tôi sẽ chia xẻ vương vị cho Quý vị.
34. "Chư Thiện hữu, sau một thời gian vua
Disampati mệnh chung. Khi vua Disampati mệnh chung, những vị có trách
nhiệm phong vua, liền phong hoàng tử Renu lên vương vị. Khi được phong
vương vị, hoàng tử Renu sống đầy đủ và thọ hưởng năm pháp dục tăng
thịnh. Khi ấy Bà la môn Mahà Govinda đi đến chỗ sáu vị Sát-đế-lỵ ở, khi đến xong liền nói rằng:
"- Chư Thiện hữu, vua Disampati đã mệnh
chung. Thiện hữu Renu được phong vương vị lại sống đầy đủ và thọ
hưởng năm pháp dục tăng thịnh. Chư Thiện hữu, ai có thể biết
được? Dục vọng khiến con người si loạn. Chư Thiện hữu, hãy đi
đến chỗ vua Renu ở, khi đến xong, hãy nói với vua Renu như sau:
"- Thiện hữu, vua Disampati đã mệnh chung. Thiện hữu Renu được
phong vương vị. Thiện hữu có nhớ lời hứa của mình không?"
"- Xin vâng, này Thiện hữu.
"Sáu vị Sát-đế-lỵ này vâng theo lời của
Bà la môn Mahà Govinda đi đến chỗ vua Renu ở, khi đến xong,
liền tâu vua Renu như sau:
"- Thiện hữu, vua Disampati đã mệnh chung,
Thiện hữu Renu đã được phong vương vị. Thiện hữu có nhớ lời hứa
của mình không?
"- Chư Thiện hữu, tôi có nhớ lời hứa của tôi.
Chư Thiện hữu, ai có thể khéo phân chia đại địa này thành bảy phần
đồng đều. Ðại địa này, phía Bắc thì rộng, phía Nam như bộ phận
trước của cỗ xe?
"- Này Thiện hữu, ai có thể làm được,
ngoại trừ Bà la môn Mahà Govinda?
35. "Rồi vua Renu cho gọi một người và nói:
"- Này Khanh, Khanh hãy đi đến chỗ Bà la
môn Mahà Govinda, khi đến xong hãy nói với Bà la môn Govinda: "Này
Thiện hữu, vua Renu cho gọi Thiện hữu."
"- Xin vâng, tâu đại vương!
" Người ấy vâng theo lời của vua Renu, đến tại
chỗ của Bà la môn Ma hà Govinda ở, khi đến xong liền nói với Bà la
môn Mahà Govinda::"- Thiện hữu, vua Renu cho gọi Thiện hữu.
"- Xin vâng, Thiện hữu!
"Bà-la-môn Mahà Govinda vâng theo lời nói của
người ấy, đến tại chỗ vua Renu ở, khi đến xong liền nói lên
những lời thăm viếng và những lời khen tặng xã giao với vua Renu rồi ngồi
xuống một bên. Và vua Renu nói với Bà-la-môn Govinda đang ngồi xuống một bên
như sau:
"- Này Thiện hữu Govinda, hãy đến và phân
chia đại địa này thành bảy phần đồng đều, đại địa này phía Bắc
thời rộng, phía Nam như bộ phận trước của cỗ xe.
"Bà-la-môn Mahà Govinda vâng theo lời nói của vua
Renu phân chia đại địa này thành bảy phần đồng đều, đại địa này
phía Bắc rộng, phía Nam như bộ phận trước của cỗ xe, tất cả phần như
hình phần trước của cỗ xe.
36. "Và vua Ruenu giữ phần quốc độ trung ương.
"Dantapura (Nại-đa-bố-la) cho dân Kàlingà
(Ca-lăng-giới) và Potana (Bao-tĩnh-noa) cho dân Assaka (Ma-thấp-na-ka).
"Mahissati (Ma-hê-sa-ma) cho dân Avanti
(Ương-đế-na) và Roruka (Lao-lỗ-ca) cho dân Sovira (Tô-vĩ-la).
"Mithilà (Di-thế-la) cho dân Videhà
(Vi-đề-hê) và Campà (Thiềm-ba) được tạo ra cho dân Anga (Ương-già),
"Bàrànasì (Ba-la-nại) cho dân Kàsi (Ca-thi).
"Tất cả đều do Govinda tạo lập.
"Và sáu vị Sát-đế-lỵ này đều hoan
hỷ về khu phần của mình được và sự thành tựu của điều mong
ước:
"- Những điều gì chúng tôi muốn, những
điều gì chúng tôi ao ước, những điều gì chúng tôi nhắm đến,
những điều gì chúng tôi hy vọng, chúng tôi đều được hết.
"Sattabhù (Phá Oan vương) và Brahmadatta (Phạm
Thọ vương), Vessabhũ (Thắng Tôn vương) và Bharata (Minh Ái vương), Renu
(Lê-nô vương) và hai Dhataratthà (Trì Quốc vương). Tất cả là bảy vị Bharata
(Bà-la-đa vương).
37. "Rồi sáu vị Sát-đế-lỵ ấy đến tại
chỗ Bà-la-môn Màhà Govinda ở, khi đến xong liền nói với Bà-la-môn
Mahà Govinda (Ðại Ðiển Tôn)
"- Như thiện hữu Govinda là bạn hữu thân tình,
thân ái, tâm đầu ý hiệp với vua Renu, cũng vậy Thiện hữu Mahà
Govinda và bạn hữu thân tình, thân ái, tâm đầu ý hiệp với chúng
tôi. Thiện hữu Govinda hãy giáo hóa chúng tôi, Thiện hữu Govinda chớ
có từ chối giáo hóa.
"- Xin vâng, chư Thiện hữu.
"Thiện hữu Mahà Govinda trả lời cho sáu vị
Sát-đế-lỵ này. Rồi Thiện hữu Mahà Govinda giáo hóa về vương
chánh cho bảy vị Sát-đế-lỵ đã được phong vua, và Mahà Govinda dạy
các chú thuật cho bảy vị triệu phú Bà-la-môn và bảy trăm vị tịnh hạnh.
38. "Sau một thời gian, danh tiếng tốt đẹp sau
đây được truyền tụng về Bà-la-môn Mahà Govinda:
"- Bà-la-môn Mahà Govinda tự thân thấy Phạm thiên;
Bà-la-môn Maha Govinda tự thân nói chuyện thảo luận, luận nghị với Phạm
thiên.
"Rồi Bà-la-môn Mahà Govinda suy nghĩ: "Danh
tiếng tốt đẹp sau đây được truyền tụng về ta: Bà-la-môn Maha
Govinda tự thân thấy Phạm thiên; Bà-la-môn Maha Govinda tự thân nói chuyện,
thảo luận, luận nghị với Phạm thiên. Nhưng ta không thấy Phạm thiên, ta không
nói chuyện với Phạm thiên, không thảo luận với Phạm thiên, không nghị
luận với Phạm thiên. Ta có nghe các vị Bà-la-môn trưởng thượng lớn tuổi,
cả giáo thọ và đệ tử nói rằng: Những ai sống tịnh cư trong bốn tháng
mưa, tu tập thiền định về bi tâm, người ấy sẽ thấy Phạm thiên, sẽ
nói chuyện, thảo luận và nghị luận với Phạm thiên. Vậy ta hãy sống tịnh
cư trong bốn tháng mưa và tu tập thiền định về bi tâm".
39. "Rồi Thiện hữu Bà-la-môn Mahà Govinda đi
đến vua Renu, khi đến xong liền tâu với vua Renu:
"Danh tiếng tốt đẹp sau đây được truyền
tụng về Thần: "Bà-la-môn Mahà Govinda tự thân thấy được Phạm thiên,
tự thân nói chuyện, thảo luận và luận nghị với Phạm thiên". Nhưng
Thần không thấy được Phạm thiên, không nói chuyện được với Phạm
thiên, không thảo luận được với Phạm thiên, không luận nghị được với
Phạm thiên. Thần có nghe các vị Bà-la-môn trưởng thượng, lớn tuổi nói ai sống
tịnh cư trong bốn tháng mưa, tu tập thiền định về bi tâm sẽ thấy
được Phạm thiên, sẽ nói chuyện, thảo luận và luận nghị với Phạm
thiên". Nay Thần muốn sống tịnh cư trong bốn tháng mưa, và tu tập
thiền định về bi tâm. Không một ai được đến gặp thần, trừ chỉ
một người đem đồ ăn.
"- Này Thiện hữu Govinda, hãy làm những gì Khanh
nghĩ là hợp thời.
40. "Rồi Bà-la-môn Mahà Govinda đến tại chỗ
sáu vị Sát-đế-lỵ ở, khi đến xong liền nói với sáu vị
Sát-đế-lỵ:
"- Danh tiếng tốt đẹp sau đây được
truyền tụng về tôi: "Bà-la-môn Mahà Govinda tự thân thấy được
Phạm thiên, tự thân nói chuyện, thảo luận và luận nghị với Phạm
thiên". Tôi không được thấy Phạm thiên, không nói chuyện, thảo luận
và luận nghị với Phạm Thiên. Nhưng tôi có nghe các vị Bà-la-môn trưởng
thượng lớn tuổi, cả giáo thọ và đệ tử nói rằng: "Những ai sống
tịnh cư trong bốn tháng mưa, tu tập thiền định về bi tâm sẽ thấy
được Phạm thiên, sẽ nói chuyện, thảo luận và nghị luận với Phạm
thiên". Nay tôi muốn sống tịnh cư trong bốn tháng mưa, tu tập thiền
định về bi tâm. Không một ai được đến gặp tôi, chỉ trừ một người
đem đồ ăn.
"- Này Thiện hữu Govinda, hãy làm những gì
Thiện hữu nghĩ là hợp thời.
41. "Rồi Bà-la-môn Mahà Govinda đi đến chỗ
bảy vị triệu phú Bà-la-môn và bảy trăm vị tịnh hạnh ở, khi đến xong
liền nói với các vị này như sau:
"- Chư Thiện hữu, danh tiếng tốt đẹp sau
đây được truyền tụng về tôi: "Bà-la-môn Mahà Govinda tự thân
thấy được Phạm thiên, tự thân nói chuyện, thảo luận, luận nghị với
Phạm thiên". Nhưng tôi không thấy được Phạm thiên, không nói
chuyện, thảo luận, luận nghị với Phạm thiên. Tôi có nghe các vị
Bà-la-môn trưởng thượng lớn tuổi, cả giáo thọ và đệ tử đều
nói rằng: "Những ai sống tịnh cư trong bốn tháng mưa, tu tập thiền
định về bi tâm, sẽ thấy được Phạm thiên, sẽ nói chuyện, thảo luận
và luận nghị với Phạm thiên". Nay tôi muốn sống tịnh cư trong bốn tháng
mưa, tu tập thiền định về bi tâm, không một ai được đến gặp
tôi, chỉ trừ một người đem đồ ăn.
"- Này Thiện hữu Govinda, hãy làm những gì
Thiện hữu nghĩ là hợp thời.
42. "Rồi Bà-la-môn Mahà Govinda đi đến bốn
mươi vị phu nhân đồng đẳng của mình, khi đến xong liền nói với bốn
mươi vị phu nhân đồng đẳng như sau:
"- Chư Thiện hữu, danh tiếng tốt đẹp sau
đây được truyền tụng về tôi: "Bà-la-môn Mahà Govinda tự thân
thấy được Phạm thiên, tự thân nói chuyện, thảo luận, luận nghị với
Phạm thiên". Nhưng tôi không được thấy Phạm thiên, tôi không nói
chuyện, thảo luận, luận nghị với Phạm thiên. Tôi có nghe các vị
Bà-la-môn trưởng thượng, lớn tuổi, cả giáo thọ và đệ tử đều
nói rằng: "Những ai sống tịnh cư trong bốn tháng mưa, tu tập thiền
định về bi tâm sẽ thấy được Phạm thiên, sẽ nói chuyện, thảo luận và
luận nghị với Phạm thiên". Nay tôi muốn sống tịnh cư trong bốn tháng
mưa, tu tập thiền định về bi tâm, không một ai được đến gặp
tôi, chỉ trừ một người đem đồ ăn.
"- Này Thiện hữu Govinda, hãy làm những gì
thiện hữu nghĩ là hợp thời.
43. "Rồi Thiện hữu Mahà Govinda cho làm một hội
đường mới về phương Ðông kinh thành, tịnh cư trong bốn tháng mưa và tu
tập thiền định về bi tâm, không một ai đến gặp, trừ người đem
đồ ăn. Sau bốn tháng, sự thất vọng và sợ hãi sau đây khởi lên cho
Bà-la-môn Mahà Govinda: "Ta có nghe các vị Bà-la-môn trưởng thượng, lớn
tuổi, cả giáo thọ và đệ tử đều nói rằng: "Những ai sống tịnh cư
trong bốn tháng mưa, tu tập thiền định về bi tâm, sẽ thấy được Phạm
thiên, sẽ nói chuyện, thảo luận và nghị luận với Phạm thiên. Nhưng nay ta
không thấy Phạm thiên, không nói chuyện với Phạm thiên, không thảo luận
với Phạm thiên, không nghị luận với Phạm thiên".
44. "Rồi Phạm thiên Sanamkumàra với tâm của mình
biết được tâm của Bà-la-môn Mahà Govinda, như một người lực sĩ
duỗi cánh tay đang co lại, hay co lại cánh tay đang duỗi ra, cũng vậy
Phạm thiên biến mất ở Phạm thiên giới và hiện ra trước mặt
Bà-la-môn Mahà Govinda. Rồi Bà-la-môn Mahà Govinda hoảng hốt, run sợ, lông tóc
dựng ngược, thốt lên bài kệ sau đây với Phạm thiên Sanamkumàra (Thường
Ðồng hình Phạm thiên):
Ôi đoan tướng quang vinh,
Thiện hữu thật là ai?
Không biết nên hỏi Ngài.
Ðể chúng tôi biết Ngài!
Phạm thiên giới biết ta,
Là Ðồng tử thường hằng!
Ta là bậc thiên vương,
Hãy biết ta là vậy,
Hãy đem đến sàng tọa,
Nước rửa chân, thục mật.
Hiền giả muốn nhận gì,
Hãy cho chúng tôi biết!
Ta chấp nhận cúng vật,
Mà Ngươi vừa đề cập.
Vì hạnh phúc hiện tại,
Vì an lạc tương lai,
Dịp may nay đã đến,
Hãy hỏi điều Ngươi muốn.
45. "Rồi Bà-la-môn Mahà Govinda suy nghĩ: "Ðây
là dịp may Phạm thiên Sanamkumàra dành cho ta. Ta nay hỏi Phạm thiên Sanamkumàra
điều gì đã được ích lợi cho hiện tại và tương lai?".
"Rồi Bà-la-môn Mahà Govinda suy nghĩ: "Ta rất
giỏi về những lợi ích hiện tại. Chính người khác cũng hỏi ta về
những lợi ích hiện tại. Vậy ta hãy hỏi Phạm thiên Sanamkumàra lợi ích
tương lai".
"Rồi Ba-la-môn Mahà nói bài kệ sau đây với
Phạm thiên Sanmakumàra:
Nay ta hỏi Phạm thiên,
Sanamkumàra!
Ta hỏi điều nghi ngờ,
Người khác đều muốn biết!
An trú tại chỗ nào,
Tu tập tại chỗ nào,
Ðể chứng quả bất tử?
Chính tại Phạm thiên giới:
Này Ngươi Bà-la-môn.
Ai bỏ ngã, ngã sở,
Tâm chuyên chú nhứt cảnh,
Tu tập đại bi tâm,
Thoát ly mọi xú uế,
Lánh xa mọi tà dục,
An trú ở nơi đây!
Ðể chứng quả bất tử,
Chính tại Phạm thiên giới.
46. "- Từ bỏ ngã và ngã sở hữu, thưa Tôn giả,
câu ấy tôi hiểu. Trong đời có người từ bỏ tài sản nhỏ hay từ bỏ tài
sản lớn, từ bỏ vòng quyến thuộc nhỏ hay vòng quyến thuộc lớn, cạo bỏ
râu tóc, đắp áo cà sa, xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Thưa
Tôn giả, như vậy ta hiểu nghĩa từ bỏ ngã và ngã sở hữu.
"Tâm chuyên nhất cảnh, thưa Tôn giả, câu ấy tôi
hiểu. Trong đời có người lựa một chỗ an trú thanh vắng, một khu rừng,
một gốc cây, một ngọn núi, một hang cốc, một bãi tha ma, một sơn lâm,
giữa trời không, một đống rơm. Thưa, Tôn giả, như vậy tôi hiểu nghĩa
tâm chuyên nhất cảnh.
"Tu tập bi tâm, thưa Tôn giả, câu ấy tôi hiểu.
Trong đời có người an trú, biến mãn một phương với tâm câu hữu với bi,
cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư.
Như vậy cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy
phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú, biến mãn với tâm câu
hữu với bi quảng đại vô biên, không hận, không sân. Thưa Tôn giả, như vậy
tôi hiểu nghĩa tu tập bi tâm.
"Thưa Tôn giả, riêng câu nói về xú uế tôi
không được hiểu.
"Này Phạm thiên, trong loài người cái gì là xú
uế?
"Ðó là điều ở nơi đây tôi không hiểu.
Tôn giả hãy nói đi!
- Loài người bị gì che,
Bị trói buộc cái gì,
Phải chịu sanh đọa xứ,
Bị đóng cửa Phạm thiên?
Phẫn nộ và vọng ngữ,
Gian manh và lừa đảo,
Hà tiện và quá mạn,
Tật đố và dục cầu,
Nghi ngờ và hại người,
Tham, sân, si kiêu mạn.
Những tánh này trói buộc,
Khiến con người xú uế,
Phải chịu sanh đọa xứ,
Bị đóng cửa Phạm thiên.
"- Như tôi hiểu lời Tôn giả giải thích về
các xú uế, chúng không dễ gì mà được điều phục, nếu phải sống
tại gia. Nay tôi muốn xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
"- Hiền giả Govinda, hãy làm gì Hiền giả xem
là hợp thời.
47. "Rồi Bà-la-môn Mahà Govinda đi đến chỗ
vua Renu ở, khi đến xong liền tâu với vua Renu:
"- Này Tôn giả, hãy tìm một phụ tá khác, vị này
sẽ điều khiển quốc sự cho Tôn giả. Tôi muốn xuất gia từ bỏ gia
đình, sống không gia đình. Tôi được nghe Phạm thiên giải thích các xú
uế, chúng tôi dễ gì mà được điều phục, nếu phải sống tại gia.
Nay tôi muốn xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
- Vua Renu quốc chủ,
Thần xin tâu Ngài rõ.
Hãy biết quốc độ Ngài,
Thần không thiết chức vụ.
- Nếu Khanh thiếu dục lạc,
Ta cho Khanh đầy đủ!
Nếu có ai hại Khanh,
Quốc chủ, ta ngăn chận.
Khanh là cha, ta con,
Khanh chớ bỏ rơi ta.
- Thần không thiếu dục lạc
Không có ai hại thần.
Vì nghe bậc phi nhân,
Thần không thiết gia đình.
- Phi nhân ấy là ai,
Vị ấy đã nói gì,
Khanh nghe, bỏ gia đình,
Bỏ ta, bỏ tất cả?
- Trước kia ở nơi đây,
Lòng thần chỉ nguyện cầu
Lo đốt nén lửa thiêng,
Và rải cỏ cát tường.
Nay Phạm thiên hiện ra,
Hiện từ Phạm thiên giới,
Trả lời câu hỏi thần,
Nghe xong thần bỏ nhà.
- Này Khanh Govinda,
Ta tin lời Khanh nói!
Ðược nghe bậc phi nhân,
Làm sao làm khác được?
Ta sẽ theo gương Khanh,
Bậc thầy của chúng ta.
Như hòn ngọc lưu ly,
Không tỳ vết, cấu uế,
Thật trong sạch như vậy,
Ta theo giáo lý Người!
"- Nếu Thiện hữu Govinda xuất gia từ bỏ gia
đình, sống không gia đình, thời tôi cũng xuất gia, từ bỏ gia đình, sống
không gia đình. Chỗ nào Thiện hữu đi, chỗ ấy chúng tôi sẽ đi.
48. "Rồi Bà-la-môn Mahà Govinda đi đến chỗ
sáu vị Sát-đế-lỵ ở, khi đến xong liền nói với sáu vị ấy
như sau:
"- Chư Hiền giả, hãy tìm một vị phụ tá khác.
Vị này sẽ điều khiển quốc sự cho quý vị Hiền giả. Tôi muốn
xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Tôi được nghe Phạm thiên
giải thích về các xú uế. Chúng không dễ gì được điều phục,
nếu phải sống tại gia. Nay tôi muốn xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không
gia đình.
"Rồi sáu vị Sát-đế-lỵ đi qua một bên và
thảo luận như sau:
"- Những người Bà-la-môn này rất tham tài sản.
Chúng ta hãy lấy tài sản để dụ dỗ Bà-la-môn này.
"Các vị này đến tại chỗ của Bà-la-môn
Mahà Govinda và nói:
"- Thiện hữu, tài sản trong bảy quốc độ này
rất là phong phú, Thiện hữu muốn bao nhiêu, Thiện hữu cứ lấy bấy
nhiêu.
"- Thôi thôi, chư Thiện hữu! Tài sản của tôi
rất là phong phú, nhờ sự giúp đỡ của quý vị. Nay tôi đã bỏ mọi
danh lợi ấy để xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Tôi
được nghe Phạm thiên giải thích về các xú uế, chúng không dễ gì
được điều phục, nếu phải sống tại gia. Nay tôi muốn xuất gia, từ bỏ
gia đình, sống không gia đình.
49. "Rồi sáu vị Sát-đế-lỵ, đi qua một bên
và thảo luận như sau:
"Những người Bà-la-môn này rất tham đàn bà.
Chúng tôi hãy lấy đàn bà để dụ dỗ Bà-la-môn này.
"Các vị này đến tại chỗ của Bà-la-môn
Mahà Govinda và nói:
"- Thiện hữu, đàn bà trong bảy quốc độ này
rất nhiều. Thiện hữu muốn bao nhiêu, Thiện hữu cứ lấy bấy nhiêu.
"- Thôi thôi, chư Thiện hữu, tôi có đến
bốn mươi vị phu nhân, thảy đều đồng đẳng. Tôi nay muốn từ bỏ tất cả
các vị ấy để xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Tôi được
nghe Phạm thiên giải thích về các xú uế. Chúng không dễ gì được
điều phục, nếu sống tại gia. Nay tôi muốn xuất gia, từ bỏ gia đình,
sống không gia đình.
50. "- Nếu Thiện hữu Govinda sẽ xuất gia, từ
bỏ gia đình, sống không gia đình, thì chúng tôi cũng sẽ xuất gia, từ bỏ gia
đình, sống không gia đình. Chỗ nào thiện hữu đi, chỗ ấy chúng
tôi sẽ đi.
Nếu từ bỏ dục vọng,
Mà kẻ phàm say đắm.
Tinh cần và cương quyết,
Vững chắc trong nhẫn lực,
Ðó là con đường chánh,
Con đường hướng vô thượng,
Ðược Thiện nhân hộ trì,
Sanh lên cõi Phạm thiên.
51. "Do vậy, Thiện hữu Govinda hãy chờ bảy năm
nữa, sau bảy năm chúng tôi sẽ xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia
đình. Chỗ nào Thiện hữu đi, chỗ ấy chúng tôi đi.
"- Chư Thiện hữu, bảy năm quá lâu dài. Tôi
không thể chờ các Hiền giả đến bảy năm. Ai có thể biết
được về mạng sống? Chúng ta phải bước đi, hướng về tương lai.
Chúng ta phải học nhờ tuệ tri. Việc thiện chúng ta cần phải
làm. Phạm hạnh chúng ta cần phải thực hành. Không ai tránh khỏi sự chết
khi phải sanh ra. Tôi được nghe Phạm thiên giải thích về các xú uế.
Chúng không gì được điều phục nếu sống tại gia. Nay tôi muốn xuất
gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
52. "- Vậy Thiện hữu Govinda, hãy chờ trong sáu
năm nữa... hãy chờ trong năm năm nữa... hãy chờ trong bốn năm nữa... hãy chờ
trong ba năm nữa... hãy chờ trong hai năm nữa... hãy chờ trong một năm nữa. Sau
một năm chúng tôi sẽ xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Chỗ
nào Thiện hữu đi, chỗ ấy chúng tôi sẽ đi.
53. "- Chư Thiện hữu, một năm quá lâu dài. Tôi
không thể chờ các Hiền giả đến một năm. Ai có thể biết
được về mạng sống? Chúng ta phải bước đi, hướng về tương lai.
Chúng ta phải học nhờ tuệ tri. Việc thiện chúng ta cần phải
làm. Phạm hạnh, chúng ta cần phải thực hành. Không ai tránh khỏi sự chết
khi phải sanh ra. Tôi được nghe Phạm thiên giải thích về các xú uế.
Chúng không dễ gì mà được điều phục, nếu sống tại gia. Nay tôi
muốn xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
"- Vậy Thiện hữu Govinda, hãy chờ trong bảy
tháng nữa. Sau bảy tháng chúng tôi sẽ xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không
gia đình. Chỗ nào Thiện hữu đi, chỗ ấy chúng tôi sẽ đi.
54. "- Chư Thiện hữu, bảy tháng quá lâu dài.
Tôi không thể chờ các Hiền giả đến bảy tháng. Ai có thể
biết được về mạng sống? Chúng ta phải bước đi, hướng về tương
lai. Chúng ta phải học nhờ tuệ tri. Việc thiện chúng ta cần phải
làm. Phạm hạnh chúng ta cần phải thực hành. Không ai tránh khỏi sự chết
khi phải sanh ra. Tôi được nghe Phạm thiên giải thích về các xú uế.
Chúng không dễ gì mà điều phục, nếu sống tại gia. Nay tôi muốn xuất
gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
"- Vậy Thiện hữu Govinda, hãy chờ sáu tháng
nữa... hãy chờ năm tháng nữa... hãy chờ bốn tháng nữa... hãy chờ ba tháng
nữa... hãy chờ hai tháng nữa... hãy chờ một tháng nữa... hãy chờ nửa tháng
nữa. Sau nửa tháng, chúng tôi sẽ xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia
đình, chỗ nào Thiện hữu đi, chỗ ấy chúng tôi sẽ đi.
55. "- Chư Thiện hữu, nửa tháng quá lâu dài,
tôi không thể chờ các Hiền giả đến nửa tháng. Ai có thể
biết được về mạng sống? Chúng ta phải bước đi, hướng về tương
lai. Chúng ta phải học nhờ tuệ tri. Việc thiện chúng ta cần phải
làm. Phạm hạnh chúng ta cần phải thực hành. Không ai tránh khỏi sự chết
khi phải sanh ra. Tôi được nghe Phạm thiên giải thích về các xú uế.
Chúng không dễ gì mà điều phục, nếu sống tại gia. Nay tôi muốn xuất
gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
"- Vậy Thiện hữu Govinda, hãy chờ cho bảy ngày
cho đến khi chúng tôi giao quốc độ cho các người con và người anh của
chúng tôi. Sau bảy ngày, chúng tôi sẽ xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không
gia đình. Chỗ nào Thiện hữu đi, chỗ ấy chúng tôi sẽ đi.
"- Chư Thiện hữu, bảy ngày không lâu gì. Tôi
sẽ chờ chư Thiện hữu cho đến bảy ngày.
56. "Rồi Bà-la-môn Maha Govinda đi đến chỗ
bảy triệu phú Bà-la-môn và bảy trăm vị tịnh hạnh ở, khi đến xong
liền nói với bảy vị triệu phú Bà-la-môn và bảy trăm vị tịnh hạnh
như sau:
"- Này các Thiện hữu, hãy tìm một vị giáo
thọ khác, vị ấy sẽ dạy các thần chú cho chư Thiện hữu, nay tôi muốn
xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Tôi được nghe Phạm thiên
giải thích về các xú uế. Chúng không dễ gì mà điều phục,
nếu sống tại gia. Nay tôi muốn xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia
đình.
"- Thiện hữu Bà-la-môn Govinda, chớ có xuất gia,
từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Này Thiện hữu, xuất gia ít có
quyền thế, và ít có lợi dưỡng. Làm người Bà-la-môn có nhiều
quyền thế và có nhiều lợi dưỡng.
"- Chư Thiện hữu chớ có nói như vậy:
"Xuất gia ít có quyền thế và ít có lợi dưỡng. Làm người
Bà-la-môn có nhiều quyền thế và có nhiều lợi dưỡng". Chư
Thiện hữu, có ai nhiều quyền thế và nhiều lợi dưỡng hơn
tôi. Tôi nay là vua các vị vua, là Phạm thiên cho các vị Bà-la-môn, và là
vị Trời cho các Gia chủ, và tất cả điều này, tôi muốn vất bỏ, xuất gia,
từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Tôi được nghe Phạm thiên giải thích
về các xú uế. Chúng không dễ gì mà điều phục nếu sống tại
gia. Nay tôi muốn xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình!
"- Nếu Thiện hữu Govinda xuất gia, từ bỏ gia
đình, sống không gia đình, chúng tôi cũng sẽ xuất gia, từ bỏ gia đình,
sống không gia đình. Chỗ nào Thiện hữu đi, chỗ ấy chúng tôi sẽ
đi.
57. "Rồi Bà-la-môn Mahà Govinda đi đến bốn
mươi vị phu nhân đồng đẳng, khi đến xong liền nói với bốn mươi vị
phu nhân đồng đẳng như sau:
"- Các phu nhân, nếu muốn hãy trở về gia
đình của mình hay gia đình quyến thuộc và tìm một người chồng khác.
Tôi nay muốn xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Tôi được nghe
Phạm thiên giải thích về các xú uế. Chúng không dễ gì mà được
điều phục, nếu sống tại gia. Nay tôi muốn xuất gia, từ bỏ gia đình,
sống không gia đình.
"- Ngài là người quyến thuộc của chúng tôi,
người quyến thuộc mà chúng tôi ao ước. Ngài là chồng của chúng tôi,
người chồng mà chúng tôi ao ước. Nếu Tôn giả Govinda xuất gia, từ bỏ gia
đình, sống không gia đình, chúng tôi cũng sẽ xuất gia, từ bỏ gia đình,
sống không gia đình. Chỗ nào Tôn giả đi, chỗ ấy chúng tôi sẽ đi.
58. "Rồi Bà-la-môn Mahà Govinda, sau bảy ngày
liền cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống
không gia đình. Sau khi Bà-la-môn Mahà Govinda xuất gia, bảy vị
Sát-đế-lỵ được làm lễ quán đảnh lên vương vị, bảy vị Bà-la-môn
triệu phú, bảy trăm vị tịnh hạnh, bốn mươi vị phu nhân đồng đẳng, vài
ngàn vị Sát-đế-lỵ, vài ngàn vị Bà-la-môn, vài ngàn cư sĩ, và một
số thiếu phụ trẻ từ các cư xá thiếu phụ, những vị này đều cạo
bỏ râu tóc, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình theo Bà-la-môn
Mahà Govinda. Và được bao vây bởi hội chúng như vậy, Bà-la-môn Mahà Govinda
du hành đi qua làng, qua quận, qua các đô thị. Và đến tại làng nào, hay
quận nào, hay đô thị nào, Bà-la-môn Mahà Govinda được xem là vua các vị
vua, là Phạm thiên cho các Bà-la-môn, là vị Trời cho các cư sĩ. Trong thời
gian ấy nếu có người nào nhảy mũi hay trượt chân, người ấy liền
nói: "Ðảnh lễ Bà-la-môn Mahà Govinda! Ðảnh lễ vị phụ tá bảy quốc
độ!"
59. "Bà-la-môn Mahà Govinda an trú, biến mãn một
phương với tâm câu hữu với từ, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương
thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy cùng khắp thế giới, trên,
dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy
an trú, biến mãn với tâm câu hữu với từ, quảng đại, vô biên, không
hận, không sân. Bà-la-môn Mahà Govinda, biến mãn một phương với tâm câu
hữu với bi... với tâm câu hữu với hỷ... với tâm câu hữu với xả, cũng vậy
phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy
cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ,
cùng khắp vô biên giới, biến mãn với tâm câu hữu với xả, quảng đại vô
biên, không hận, không sân. Và vị ấy dạy cho các đệ tử con đường đưa
đến sự thân hữu với Phạm thiên giới.
60. "Và tất cả những vị nào, trong thời ấy là
đệ tử của Bà-la-môn Mahà Govinda đều hiểu được toàn diện
giáo lý của Bà-la-môn Mahà Govinda. Những vị này, khi thân hoại, mạng
chung đều được sanh lên thiện thú, Phạm thiên giới. Những vị nào
không hiểu một cách toàn diện tất cả giáo lý, sau khi thân hoại,
mạng chung, một số được sanh làm thân hữu với chư Thiên ở Tha Hóa Tự Tại
thiên, một số được sanh làm thân hữu với chư Thiên ở Hóa Lạc thiên, một
số được sanh làm thân hữu với chư Thiên ở Dạ-ma thiên, một số được sanh
làm thân hữu với chư Thiên ở Tam thập tam thiên, một số được sanh làm thân
hữu với Tứ Thiên vương thiên. Cho đến những vị phải thành tựu các thân
thấp kém nhất, cũng được thành tựu thân Càn-thát-bà.
Như vậy tất cả những thiện nam tử đã xuất gia
không phải vô hiệu, không phải trống không, trái lại thật sự có hiệu
quả, có tiến bộ.
61. Thế Tôn có nhớ không?
- Này Pancasikha, Ta có nhớ. Ta thuở ấy là Mahà Govinda.
Ta dạy cho các đệ tử của Ta con đường đưa đến sự thân hữu ở Phạm
thiên quốc. Nhưng này Pancasikha, con đường phạm hạnh ấy không đưa đến
yểm ly, ly dục, tịch diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ và
Niết-bàn. Con đường ấy chỉ đưa sanh lên cõi Phạm thiên. Này Pancasikha,
con đường phạm hạnh của Ta hoàn toàn đưa đến yểm ly, ly dục, tịch
diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ và Niết-bàn. Ðó là con đường
Thánh đạo tám ngành tức là Chánh Tri kiến, Chánh Tư duy, Chánh Ngữ,
Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh tấn, Chánh Niệm, Chánh Ðịnh. Này
Pancasikha, con đường phạm hạnh này hoàn toàn đưa đến yểm ly, ly
dục, tịch diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ và Niết-bàn.
62. Này Pancasikha, những vị đệ tử nào đã hiểu
được toàn diện tất cả giáo lý của Ta, những vị ấy trừ diệt các
lậu hoặc, vô lậu, tự mình hiện chứng thắng trí giác ngộ, sống an trú
tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Trong những vị không hiểu được toàn
diện tất cả giáo lý của Ta, một số những vị ấy, diệt trừ năm
hạ phần kiết sử, được hóa sanh (lên Thiên giới) và ở tại chỗ ấy
được nhập Niết-bàn, không phải sanh lại thế giới này. Trong những vị
không hiểu được toàn diện tất cả giáo lý của Ta, một trong những
vị ấy diệt trừ ba kiết sử, làm nhẹ bớt tham, sân, si, thành bậc Nhất
lai, chỉ phải sanh vào thế giới này một lần nữa rồi diệt tận khổ đau.
Trong những vị này không hiểu được toàn diện tất cả giáo lý của
Ta, một số những vị ấy từ diệt ba kiết sử, thành bậc Dự lưu, không
còn phải sanh vào đọa xứ, nhất định chứng quả Bồ-đề. Này
Pancasikha, như vậy tất cả những thiện nam tử đã xuất gia, không phải vô
hiệu, không phải trống không, trái lại thật sự có hiệu quả, có
tiến bộ.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Pancasikha, con của
Càn-thát-bà, sung sướng, hoan hỷ nghe lời dạy của Thế Tôn, đảnh lễ
Ngài, thân phía hữu hướng về Ngài và biến mất tại chỗ.
Hòa thượng Thích Minh
Châu dịch Việt