Trường Bộ Kinh
Digha Nikaya
21. Kinh Ðế-thích sở
vấn
(Sakka-panha sutta)
Tụng phẩm I
1. Như vầy tôi nghe.
Một thời, Thế Tôn trú tại Magadha (Ma-kiệt-đà)
phía Ðông thành Vương Xá, tại làng Bà La Môn tên Ambasanda, (Am-bà-la) trên
ngọn núi Vediya (Tỳ-đà Sơn) phía Bắc ngôi làng, trong hang Indasàla
(Nhơn-đà-sa-la). Lúc bấy giờ, Thiên chủ Sakka (Ðế-thích) náo nức muốn
chiêm ngưỡng Thế Tôn.
Rồi Thiên chủ Sakka suy nghĩ: "Nay Thế Tôn ở
tại chỗ nào, vị A La Hán, Chánh Ðẳng Giác?" Thiên chủ Sakka thấy
Thế Tôn trú tại Magadha, phía Ðông thành Vương Xá tại làng Bà La Môn
tên Ambasanda, trên ngọn núi Vediya, phía Bắc ngôi làng trong hang Indasala.
Thấy vậy, Thiên chủ Sakka nói với chư Thiên ở Tam thập tam thiên:
- Này Quý vị, Thế Tôn trú ngụ tại Magadha, phía
Ðông thành Vương Xá, tại làng Bà La Môn tên Ambasanda, trên ngọn núi
Veidya, phía Bắc ngôi làng, trong hang núi Indasala. Này quí vị, chúng ta hãy
đến chiêm ngưỡng Thế Tôn, bậc A La Hán, Chánh Ðẳng Giác.
- Xin vâng, mong an lành đến cho Ngài. - Chư Thiên ở
Tam thập tam thiên trả lời Thiên chủ Sakka.
2. Rồi Thiên chủ Sakka, nói với Pancasikha (Ngũ Kế),
con của Càn Thát Bà:
- Này Khanh Pancasikha, Thế Tôn nay trú tại Magadha,
phía Ðông thành Vương Xá, tại làng Bà La Môn tên Ambasanda, trên ngọn
núi Vediya phía Bắc ngôi làng, trong hang núi Indasàla. Này Khanh Pancasikha,
chúng ta hãy đến chiêm ngưỡng Thế Tôn, bậc A La Hán, Chánh Ðẳng
Giác.
- Xin vâng, mong an lành đến cho Ngài.
Pancasikha, con của Càn Thát Bà, vâng lời Thiên chủ
Sakka, cầm cây đàn cầm bằng gỗ vàng Beluva và đi theo Thiên chủ Sakka.
Rồi Thiên chủ Sakka, với chư Thiên ở Tam thập tam thiên
tháp tùng xung quanh, với Pancasikha, con của Càn Thát Bà đi trước, như người
lực sĩ duỗi cánh tay co lại, hay co lại cánh tay duỗi ra, biến mất
ở cõi Tam thập tam thiên, hiện ra ở Magadha, phía Ðông thành Vương Xá,
tại làng Bà La Môn Ambasandà và đứng trên núi Vediya, phía Bắc ngôi làng.
3. Lúc bấy giờ núi Vediya chói hào quang rực rỡ, ngôi
làng Bà La Môn Ambasandà cũng vậy, đều nhờ thần lực chư Thiên. Và dân
chúng ở những làng xung quanh nói rằng:
- Núi Vediya hôm nay thật sự bị cháy, núi Veidya hôm nay
thật sự có lửa đỏ rực, núi Vediya lại chói hào quang rực rỡ, làng Bà La
Môn Ambasandà cũng vậy.
Và dân chúng lo âu, lông tóc dựng ngược.
4. Rồi Thiên chủ Sakka nói với Pancasikha, con của Càn
Thát Bà:
- Này Khanh Pancasikha, chư Như Lai thật khó lại gần
đối với người như ta. Các Ngài nhập Thiền, hoan hỷ trong Thiền,
và với mục đích ấy, an lặng tịnh cư. Vậy Khanh Pancasikha trước tiên làm cho
Thế Tôn hoan hỷ, sau sự hoan hỷ do Khanh tác động, chúng ta mới
đến yết kiến Thế Tôn, bậc A La Hán, Chánh Ðẳng Giác.
- Xin vâng, mong an lành đến với Ngài.
Pancasikha, con của Càn Thát Bà vâng lời Thiên chủ
Sakka, cầm cây đàn cầm bằng gỗ vàng Beluva và đến tại hang núi
Indasala. Khi đến xong, Pancasikha đứng lại một bên và suy nghĩ: "Ta
đứng đây, không quá xa Thế Tôn, cũng không quá gần. Và tiếng sẽ
được Ngài nghe".
Ðứng một bên, Pancasikha, con của Càn Thát Bà gảy cây
đàn cầm bằng gỗ vàng Beluva và nói lên bài kệ, liên hệ đến
Phật, đến Pháp, đến A La Hán và đến ái dục:
5.
Ôi Suriya Vaccasa!
Ta đảnh lễ Timbaru,
Bậc phụ thân của nàng,
Ðã sanh nàng thiện nữ,
Nguồn hạnh phúc của ta,
Như gió cho kẻ mệt.
Như nước cho kẻ khát,
Nàng là tình của ta.
Như pháp với Ứng Cúng,
Như thuốc cho kẻ bệnh,
Như đồ ăn kẻ đói,
Thiên nữ với nước mắt.
Hãy dập tắt lửa tình!
Như voi bị nắng thiêu,
Tẩm mình hồ nước mát,
Có cánh sen, nhụy sen.
Cũng vậy, ta muốn chìm,
Chìm sâu vào ngực nàng.
Như voi bị xiềng xích,
Hất móc câu, gậy nhọn,
Ta điên vì ngực nàng,
Hành động ta rối loạn.
Tâm ta bị nàng trói,
Di chuyển thật vô phương,
Rút lui cũng bất lực,
Như cá đã mắc câu.
Hiền nữ hãy ôm ta,
Trong cánh tay của nàng!
Hãy ôm ta, nhìn ta,
Trong ánh mắt dịu hiền.
Hãy ghì chặt lấy ta,
Thiện nữ! Ta van nàng!
Ôi Hiền nữ suối tóc,
Ái dục ta có bao!
Nhưng nay đã tăng bội,
Như đồ chúng La Hán!
Mọi công đức ta làm,
Dâng lên bậc La Hán,
Ôi Kiều nữ toàn thiện,
Nàng là quả cho ta.
Công đức khác của ta,
Ðã làm trên đời này!
Ôi Kiều nữ toàn thiện,
Nàng là quả của ta!
Vị Thích tử thiền tu,
Nhứt tâm và giác tỉnh,
Tìm cầu đạo Bất tử,
Cũng vậy ta cầu nàng!
Như người tu sung sướng,
Chứng Bồ Ðề tối thượng.
Kiều nữ, ta sung sướng,
Ðược nhập một với nàng,
Nếu Thiên chủ Sakka,
Cho ta một ước nguyện,
Ta ước nguyện được nàng,
Vì ta quá yêu nàng!
Như ta-la sanh quả,
Tuệ Nữ, phụ thân nàng!
Ta sẽ đảnh lễ ngài,
Vì sanh nàng vẹn toàn!
6. Khi được nghe vậy, Thế Tôn nói với Pancasikha,
con của Càn Thát Bà:
- Này Pancasikha, huyền âm của Ngươi khéo hòa
điệu với giọng ca của Ngươi, và giọng ca của Ngươi khéo hòa
điệu với huyền âm của Ngươi. Này Pancasikha, do vậy huyền âm của
Ngươi không thêm mầu sắc cho giọng ca, hay giọng ca của Ngươi không
thêm màu sắc cho huyền âm của Ngươi. Này Pancasikha, Ngươi học tại
chỗ nào những bài kệ liên hệ đến Phật, Pháp, đến A La
Hán, đến ái dục như vậy?
- Bạch Thế Tôn, một thời Thế Tôn an trú ở
Uruvelà, bên bờ sông Neranjara (Ni-liên-thiền), dưới gốc cây
Ajapàla-Nigrodha, khi mới thành Chánh Ðẳng Giác. Lúc bấy giờ, con yêu con gái
của Timbaru, vua Càn Thát Bà, tên là Bhaddà với biệt hiệu Suriya
Vaccasà. Nhưng bạch Thế Tôn, thiếu nữ lại yêu một người khác, tên
là Sikhaddhi, con của Màtali người đánh xe. Bạch Thế Tôn, con không có
phương tiện nào khác để chiếm được thiếu nữ. Con cầm đàn
cầm bằng gỗ vàng Beluva, đến tại trú xá của Timbaru, vua Càn Thát Bà.
Khi đến xong, con gảy đàn cầm bằng gỗ vàng Beluva và nói lên bài
kệ này, liên hệ đến Phật, đến Pháp, đến A La Hán và
đến ái dục:
7.
Ôi Suriya Vaccasa!
Ta đảnh lễ Timbaru,
Bậc phụ thân của nàng,
Ðã sanh nàng thiện nữ,
Nguồn hạnh phúc của ta,
Như gió cho kẻ mệt.
Như nước cho kẻ khát,
Nàng là tình của ta.
Như pháp với Ứng Cúng,
Như thuốc cho kẻ bệnh,
Như đồ ăn kẻ đói,
Thiên nữ với nước mắt.
Hãy dập tắt lửa tình!
Như voi bị nắng thiêu,
Tẩm mình hồ nước mát,
Có cánh sen, nhụy sen.
Cũng vậy, ta muốn chìm,
Chìm sâu vào ngực nàng.
Như voi bị xiềng xích,
Hất móc câu, gậy nhọn,
Ta điên vì ngực nàng,
Hành động ta rối loạn.
Tâm ta bị nàng trói,
Di chuyển thật vô phương,
Rút lui cũng bất lực,
Như cá đã mắc câu.
Hiền nữ hãy ôm ta,
Trong cánh tay của nàng!
Hãy ôm ta, nhìn ta,
Trong ánh mắt dịu hiền.
Hãy ghì chặt lấy ta,
Thiện nữ! Ta van nàng!
Ôi Hiền nữ suối tóc,
Ái dục ta có bao!
Nhưng nay đã tăng bội,
Như đồ chúng La Hán!
Mọi công đức ta làm,
Dâng lên bậc La Hán,
Ôi Kiều nữ toàn thiện,
Nàng là quả cho ta.
Công đức khác của ta,
Ðã làm trên đời này!
Ôi Kiều nữ toàn thiện,
Nàng là quả của ta!
Vị Thích tử thiền tu,
Nhứt tâm và giác tỉnh,
Tìm cầu đạo Bất tử,
Cũng vậy ta cầu nàng!
Như người tu sung sướng,
Chứng Bồ Ðề tối thượng.
Kiều nữ, ta sung sướng,
Ðược nhập một với nàng,
Nếu Thiên chủ Sakka,
Cho ta một ước nguyện,
Ta ước nguyện được nàng,
Vì ta quá yêu nàng!
Như ta-la sanh quả,
Tuệ Nữ, phụ thân nàng!
Ta sẽ đảnh lễ ngài,
Vì sanh nàng vẹn toàn!
Bạch Thế Tôn, sau khi nghe nói vậy, Bhaddà Suriya
Vaccasà nói với con như sau:
"Này Hiền giả, tôi chưa được thấy Thế
Tôn tận mặt. Nhưng tôi có nghe đến Thế Tôn, khi tôi đến múa tại
Thiện Pháp đường của chư Thiên ở Tam thập tam thiên. Vì Hiền giả
đã tán dương Thế Tôn như vậy, vậy hôm nay chúng ta sẽ gặp nhau".
Bạch Thế Tôn, rồi con được gặp nàng, không phải
hôm ấy, nhưng về sau.
8. Rồi Thiên chủ Sakka suy nghĩ như sau:
"Pancasikha, con của Càn Thát Bà hoan hỷ đàm
luận với Thế Tôn. Và Thế Tôn đối với Pancasikha cũng vậy".
Rồi Thiên chủ Sakka nói với Pancasikha, con của Càn Thát
Bà:
- Này Khanh Pancasikha, hãy thay mặt ta, đảnh lễ Thế
Tôn và nói: "Bạch Thế Tôn, Thiên chủ Sakka cùng với đình thần và
thuộc hạ đầu diện tiếp tục đảnh lễ Thế Tôn".
- Xin vâng, mong an lành đến cho Ngài.
Pancasikha, con của Càn Thát Bà vâng theo lời dặn của
Thiên chủ Sakka, đảnh lễ Thế Tôn và nói:
- Bạch Thế Tôn, Thiên chủ Sakka cùng với đình thần
và thuộc hạ, đầu diện tiếp tục đảnh lễ Thế Tôn.
- Này Pancasikha, mong hạnh phúc đến với Thiên chủ
Sakka, với các đình thần và các thuộc hạ! Chư Thiên, loài Người, Asurà,
Nàgà, Gandhabba, đều ao ước hạnh phúc. Các loại chúng sanh khác cũng
vậy.
Như vậy, các Như Lai chào đón thượng chúng. Ðược
chào đón như vậy, Thiên chủ Sakka bước vào hang Indasàla của Thế Tôn,
đảnh lễ Ngài và đứng một bên. Chư Thiên ở Tam thập tam thiên cũng bước
vào hang Indasàla, đảnh lễ Thế Tôn và đứng một bên. Pancasikha, con của
Càn Thát Bà cũng bước vào hang Indasàla, đảnh lễ Thế Tôn và đứng một
bên.
9. Lúc bấy giờ, trong hang Indasàla, những con đường gồ
ghề được làm bằng phẳng, những khoảng chật hẹp được làm cho rộng rãi,
trong hang tối tăm có hào quang chiếu sáng, đó là nhờ thần lực của chư
Thiên. Rồi Thế Tôn nói với Thiên chủ Sakka:
- Thật là hy hữu, Ðại đức Kosiya! Thật là kỳ
diệu, Ðại đức Kosiya, tuy có nhiều trách nhiệm phải gánh vác, có
nhiều công tác phải làm, mà vẫn đến đây được!
- Bạch Thế Tôn, đã từ lâu con muốn đến
để yết kiến Thế Tôn, nhưng bị ngăn trở bởi các công việc
này, công việc khác phải làm cho chư Thiên ở Tam thập tam thiên, và do
vậy không thể đến yết kiến Thế Tôn được. Bạch Thế
Tôn, một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthi (Xá Vệ), tại cốc Salala. Bạch
Thế Tôn, rồi con đến Sàvatthi để yết kiến Thế Tôn.
10. Lúc bấy giờ, Thế Tôn đang ngồi nhập định và
Bhunjàti, vợ của Vessavana đang đứng hầu Thế Tôn, đảnh lễ chắp tay. Bạch
Thế Tôn, rồi con nói với Bhunjàti:
"- Này Hiền tỷ, hãy thay mặt ta đảnh lễ
Thế Tôn và thưa: "Bạch Thế Tôn, Thiên chủ Sakka với đình thần
và thuộc hạ đầu diện tiếp tục đảnh lễ Thế Tôn".
Ðược nghe nói vậy, Bhunjàti nói với con:
"- Thiện hữu, nay không phải thời để
yết kiến Thế Tôn. Thế Tôn đang an lặng tịnh cư.
"- Này Hiền tỷ, khi nào xuất định, hãy thay
mặt ta đảnh lễ Thế Tôn và thưa: "Bạch Thế Tôn, Thiên chủ Sakka
cùng đình thần và thuộc hạ đầu diện tiếp tục đảnh lễ Thế
Tôn".
Bạch Thế Tôn, không hiểu Bhunjãti có thay mặt
con đảnh lễ Thế Tôn không? Thế Tôn có nhớ lời bà ấy nói không?
- Này Thiên chủ, bà ấy có đảnh lễ Ta. Ta có nhớ lời
bà ấy nói. Chính tiếng bánh xe của Ngài đã khiến Ta xuất định.
11. Bạch Thế Tôn, có chư Thiên được sanh lên Tam
thập tam thiên trước chúng con, chính chúng con tận mắt được nghe chư Thiên
ấy nói như sau: "Khi Như Lai, bậc A La Hán, Chánh Ðẳng Giác xuất hiện
ở đời, Thiên giới được hưng thịnh và Asurà giới bị suy vong". Bạch
Thế Tôn, chính con có thể thấy và xác chứng rằng khi nào Như Lai, bậc
A La Hán, Chánh Ðẳng Giác xuất hiện ở đời, thì Thiên giới được hưng
thịnh và Asurà giới bị suy vong. Bạch Thế Tôn ở đây, tại Kapilavatthu, có
Thích nữ tên là Gopika, có lòng tin Phật, tin Pháp, tin Tăng, và gìn giữ đầy
đủ giới luật. Thích nữ này, loại bỏ tâm niệm đàn bà, tu tập tâm
niệm đàn ông, khi thân hoại mạng chung được sanh lên Thiên giới,
thiện thú, nhập chúng với chư Thiên ở Tam thập tam thiên, sanh ra làm con
của chúng con. Và ở đấy, nàng được gọi là Thiên tử Gopakà, Thiên tử
Gopakà. Bạch Thế Tôn, lại có ba Tỷ Kheo khác sống phạm hạnh với
Thế Tôn và sanh vào Càn Thát Bà giới hạ đẳng. Họ sống được bao
vây thọ hưởng năm món dục tăng thịnh và thường hay đến hầu hạ săn
sóc chúng con. Chúng con được họ đến hầu hạ và săn sóc chúng con
như vậy, Thiên tử Gopakà mới trách la họ như sau: "Chư Thiện hữu,
tai các Người ở đâu mà không nghe Pháp của Thế Tôn. Chính ta xưa là
đàn bà, tin Phật, tin Pháp, tin Tăng, gìn giữ giới luật, loại bỏ tâm
niệm đàn bà, tu tập tâm niệm đàn ông, sau khi thân hoại mạng chung,
được sanh lên thiện thú, Thiên giới, nhập chúng với chư Thiên ở Tam
thập tam thiên, làm con của Thiên chủ Sakka và được gọi là Thiên tử
Gopakà. Chư Thiện hữu, các Người tu hành phạm hạnh với Thế Tôn,
được sanh vào Càn Thát Bà giới hạ đẳng. Thật là điều không mấy tốt
đẹp, khi chúng con thấy những vị đồng môn lại phải sanh vào hạ đẳng Càn
Thát Bà giới. Bạch Thế Tôn, trong chư Thiên bị Thiên tử Gopakà trách
mắng như vậy, hai vị Thiên, ngay trong hiện tại, chứng được chánh
niệm và sanh làm phụ tá cho Phạm thiên. Còn một vị Thiên sống thọ
hưởng dục lạc.
12.
Ta đệ tử pháp nhãn,
Tên gọi Gopakà,
Ta tin Phật, Pháp, Tăng.
Tâm niệm rất hoan hỷ.
Nhờ Thiện pháp chư Phật,
Sanh con Thần Sakka,
Hào quang, sanh Thiên giới,
Ðược tên Gopakà.
Ta thấy ba Tỷ Kheo,
Hạ sanh Càn Thát Bà!
Ðệ tử Gotama,
Trước sanh làm con Người,
Ta cúng dường ẩm thực,
Hầu hạ trú xứ ta.
Mắt Hiền giả ở đâu?
Không nắm giữ Pháp, Phật,
Chánh pháp tự giác hiểu,
Bậc Pháp nhãn khéo giảng.
Ta chỉ hầu Quý vị,
Ðược nghe Pháp bậc Thánh.
Ta là con Sakka,
Có thần lực hào quang,
Ðược sanh lên Thiên giới.
Các người hầu Thế Tôn,
Sống phạm hạnh tối thượng,
Nay phải sanh hạ thân,
Mất thượng sanh hạ phẩm.
Ta nhìn thật khó chịu,
Thấy đồng môn hạ sanh
Với thân Càn Thát Bà,
Phải hầu hạ chư Thiên.
Từ địa vị cư sĩ,
Ta thấy rõ khác biệt.
Trước bà, nay đàn ông.
Ta sanh Thiên, hưởng dục.
Bị Gopakà trách mắng,
Ưu phiền đồng phát nguyện,
Phải thăng tiến nỗ lực,
Không nô lệ cho ai!
Hai trong ba vị này,
Bắt đầu hành tinh tấn,
Nhờ Gotama dạy,
Chúng tẩy sạch tâm uế,
Thấy nguy hiểm dục vọng.
Như voi bỏ dây cương,
Các vị vượt Tam thiên,
Vứt bỏ dục kiết sử,
Quỷ triền phược khó vượt,
Cùng Sakka, Pajàpati.
Hội chúng Thiện Pháp đường
Vượt quá vị đang ngồi,
Anh hùng ly dục cấu.
Thấy chúng khỏi lo ngại,
Vasava giữa Thiên chúng,
Xem chúng sinh hạ phẩm,
Nay vượt qua Tam thiên.
Suy tư lời ưu phiền,
Gopaka với Vàsava:
Ðế Thích ở nhân giới,
Ðức Phật gọi Thích Ca
Ðã chinh phục dục vọng.
Chúng là con của Ngài,
Thất niệm khi mệnh chung,
Nhờ Ta lấy chánh niệm.
Một trong ba vị ấy,
Mang thân Càn Thát Bà.
Hai vị hướng Chánh giác,
Bỏ Thiên giới, nhập thiền.
Ðừng đệ tử nào nghi,
Vị ở đây chứng pháp.
Chúng ta đảnh lễ Phật.
Vị vượt khỏi bộc lưu,
Ðã diệt trừ nghi ngờ,
Bậc chiến thắng muôn loài.
Chính ở đây, chứng pháp,
Tấn bước đạt thù thắng,
Hai vị đạt thắng vị,
Hơn phụ tá Phạm thiên,
Ôi Thiện hữu chúng tôi.
Ðến đây để chứng pháp.
Nếu Thế Tôn cho phép,
Chúng con hỏi Thế Tôn.
13. Rồi Thế Tôn suy nghĩ: "Ðã lâu, Sakka này
sống đời trong sạch. Câu hỏi gì Sakka hỏi Ta, đều hỏi có lợi ích, không
phải không lợi ích. Câu hỏi gì hỏi Ta, Ta sẽ trả lời; và Sakka sẽ hiểu
một cách mau chóng".
Rồi Thế Tôn nói bài kệ sau đây với Thiên chủ
Sakka:
Vàsava hãy hỏi Ta,
Những gì tâm Ngươi muốn!
Mỗi câu hỏi của Ngươi,
Ta làm Ngươi thỏa mãn.
Tụng phẩm II
1. Sau khi được phép, Thiên chủ Sakka hỏi Thế Tôn câu hỏi
đầu tiên:
- Bạch Thế Tôn, do kiết sử gì, các loài Thiên,
Nhân, Asurà, Nàgà, Càn Thát Bà, và tất cả những loài khác, dân chúng ao
ước: "Không hận thù, không đả thương, không thù nghịch, không ác
ý, chúng ta sống với nhau không hận thù". Thế mà với hận thù,
với đả thương, với thù nghịch, với ác ý, họ sống với nhau trong hận
thù?
Ðó là hình thức câu hỏi thứ nhất, Thiên chủ Sakka
hỏi Thế Tôn. Và Thế Tôn trả lời câu hỏi ấy như sau:
- Do tật đố và xan tham, các loài Thiên, Nhân Asurà,
Nàgà, Càn Thát Bà và tất cả những loài khác, dân chúng ao ước: "Không
hận thù, không đả thương, không thù nghịch, không ác ý, chúng ta sống
với nhau không hận thù". Thế mà với hận thù, với đả thương, với
thù nghịch, với ác ý, họ sống với nhau trong hận thù.
Ðó là hình thức Thế Tôn trả lời cho câu hỏi
Thiên chủ Sakka. Sung sướng, Thiên chủ Sakka hoan hỷ tín thọ lời dạy
Thế Tôn và nói:
- Như vậy là phải, bạch Thế Tôn! Như vậy là phải,
bạch Thiện Thệ! Khi nghe Thế Tôn trả lời câu hỏi, nghi ngờ của con
diệt tận, do dự của con tiêu tan.
2. Thiên chủ Sakka, sau khi hoan hỷ, tín thọ câu
trả lời Thế Tôn, liền hỏi câu hỏi tiếp:
- Bạch Thế Tôn, tật đố, xan tham, do nhân duyên gì,
do tập khởi gì, cái gì khiến chúng sanh khởi, cái gì khiến chúng
hiện hữu, cái gì có mặt thì tật đố, xan tham có mặt? Cái gì không có
mặt, thì tật đố xan tham không có mặt?
- Này Thiên chủ, tật đố và xan tham do ưa ghét làm
nhân duyên, do ưa ghét làm tập khởi, ưa ghét khiến chúng sanh khởi, ưa
ghét khiến chúng hiện hữu, ưa ghét có mặt thì tật đố, xan tham có
mặt; ưa ghét không có mặt thì tật đố, xan tham không có mặt.
- Bạch Thế Tôn, ưa ghét do nhân duyên gì, do tập
khởi gì? Cái gì khiến chúng sanh khởi, cái gì khiến chúng hiện
hữu, cái gì có mặt thì ưa ghét có mặt? Cái gì không có mặt thì ưa ghét
không có mặt?
- Này Thiên chủ, ưa ghét do dục làm nhân duyên, do dục
làm tập khởi, dục khiến chúng sanh khởi, dục khiến chúng hiện hữu.
Dục có mặt thì ưa ghét có mặt; dục không có mặt thì ưa ghét không có
mặt.
- Bạch Thế Tôn, nhưng dục do nhân duyên gì, do tập
khởi gì? Cái gì khiến dục sanh khởi, cái gì khiến dục hiện hữu?
Cái gì có mặt thì dục có mặt? Cái gì không có mặt thì dục không có mặt?
- Này Thiên chủ, dục do tầm làm nhân duyên, do tầm làm
tập khởi; tầm khiến dục sanh khởi, tầm khiến dục hiện hữu. Tầm có
mặt thì dục có mặt; tầm không có mặt thì dục không có mặt.
- Bạch Thế Tôn, tầm lấy gì làm nhân duyên, lấy gì
làm tập khởi? Cái gì khiến tầm sanh khởi, cái gì khiến tầm hiện
hữu? Cái gì có mặt thì tầm có mặt? Cái gì không có mặt thì tầm không có
mặt?
- Này Thiên chủ, tầm lấy cái loại vọng tưởng
hý luận làm
nhân duyên, lấy các loại vọng tưởng hý luận làm tập khởi. Các loại
vọng tưởng hý luận khiến tầm sanh khởi, các loại vọng tưởng
hý luận khiến tầm hiện hữu. Do các loại vọng tưởng hý
luận có mặt thì tầm có mặt. Do các loại vọng tưởng hý luận không
có mặt thì tầm không có mặt".
3. Bạch Thế Tôn, vị Tỷ Kheo phải chứng đạt như
thế nào? Phải thành tựu con đường nào thích hợp và hướng dẫn diệt
trừ các loại vọng tưởng hý luận?
- Này Thiên chủ, Ta nói hý luận có hai loại, một
loại phải thân cận, một loại phải tránh xa. Này Thiên chủ, Ta nói ưu cũng
có hai loại, một loại phải thân cận, một loại phải tránh xa. Này Thiên chủ,
Ta nói xả cũng có hai loại, một loại phải thân cận, một loại phải tránh xa.
Này Thiên chủ, Ta nói hỷ có hai loại, một loại
phải thân cận, một loại phải tránh xa. Lời tuyên bố là như vậy. Do nhân
duyên gì tuyên bố như vậy? Ở đây, loại hỷ nào có thể biết
được: "Khi tôi thân cận với hỷ này, bất thiện pháp tăng
trưởng, thiện pháp suy giảm", thời hỷ ấy cần phải tránh xa. Ở
đây loại hỷ nào có thể biết được: "Khi tôi thân cận với
hỷ này, bất thiện pháp suy giảm, thiện pháp tăng trưởng",
thời hỷ ấy nên thân cận. Ở đây, có hỷ câu hữu với tầm, câu
hữu với tứ; có hỷ không câu hữu với tầm, không câu hữu với tứ. Các
loại hỷ không câu hữu với tầm, không câu hữu với tứ thì thù thắng hơn.
Này Thiên chủ, Ta nói hỷ có hai loại, một loại nên
thân cận, một loại nên tránh xa. Sở dĩ có lời tuyên bố như vậy là do nhân
duyên như vậy.
Này Thiên chủ, Ta nói ưu cũng có hai loại, một loại
nên thân cận, một loại nên tránh xa. Lời tuyên bố là như vậy. Do nhân duyên
gì, tuyên bố như vậy? Ở đây, loại ưu nào có thể biết được:
"Khi tôi thân cận với ưu này, bất thiện pháp tăng trưởng, thiện
pháp suy giảm", thời ưu ấy cần phải tránh xa. Ở đây, loại ưu nào
có thể biết được: "Khi tôi thân cận với ưu này, bất thiện
pháp suy giảm, thiện pháp tăng trưởng", thời ưu ấy nên thân cận.
Ở đây, có ưu câu hữu với tầm, câu hữu với tứ, có ưu không câu hữu với
tầm, không câu hữu với tứ. Các loại ưu không câu hữu với tầm, không câu
hữu với tứ thì thù thắng hơn.
Này Thiên chủ, Ta nói ưu là hai loại, một loại nên
thân cận, một loại nên tránh xa. Sở dĩ có lời tuyên bố như vậy, là do nhân
duyên như vậy.
Này Thiên chủ, Ta nói xả cũng có hai loại, một loại
nên thân cận, một loại nên tránh xa. Lời tuyên bố là như vậy. Do nhân duyên
gì, tuyên bố như vậy? Ở đây, loại xả nào có thể biết được:
"Khi tôi thân cận với xả này, bất thiện pháp tăng trưởng, thiện
pháp suy giảm", thời xả ấy cần phải tránh xa. Ở đây, loại xả nào
có thể biết được: "Khi tôi thân cận với xả này, bất thiện
pháp suy giảm, thiện pháp tăng trưởng", thời xả ấy nên thân cận.
Ở đây, có xả câu hữu với tầm, câu hữu với tứ, có xả không câu hữu
với tầm, không câu hữu với tứ. Các loại xả không câu hữu với tầm, không
câu hữu với tứ thì thù thắng hơn.
Này Thiên chủ, Ta nói rằng xả có hai loại, một loại
nên thân cận, một loại nên tránh xa. Sở dĩ có lời tuyên bố như vậy là do
nhân duyên như vậy.
Này Thiên chủ, vị Tỷ Kheo phải chứng đạt như vậy,
phải thành tựu con đường như vậy, mới thích hợp và hướng dẫn đến sự
diệt trừ các vọng tưởng hý luận.
Ðó là hình thức câu trả lời Thế Tôn cho câu hỏi
Thiên chủ Sakka. Sung sướng, Thiên chủ Sakka hoan hỷ, tín thọ lời dạy
Thế Tôn và nói:
- Như vậy là phải, bạch Thế Tôn! Như vậy là phải,
bạch Thiện Thệ! Khi nghe Thế Tôn trả lời câu hỏi, nghi ngờ của con
được diệt tận, do dự của con được tiêu tan.
4. Thiên chủ Sakka, sau khi hoan hỷ tín thọ câu
trả lời của Thế Tôn liền hỏi câu hỏi tiếp:
- Bạch Thế Tôn, vị Tỷ Kheo phải thành tựu như
thế nào, phải thành tựu biệt giải thoát luật nghi như thế nào?
Này Thiên chủ, Ta nói rằng thân hành có hai loại, một
loại nên thân cận, một loại nên tránh xa. Này Thiên chủ, Ta nói rằng khẩu
hành có hai loại, một loại nên thân cận, một loại nên tránh xa. Này Thiên
chủ, Ta nói rằng tầm cầu có hai loại, một loại nên thân cận, một loại nên tránh
xa.
Này Thiên chủ, Ta nói rằng thân hành có hai loại, một
loại nên thân cận, một loại nên tránh xa. Lời tuyên bố là như vậy. Do nhân
duyên gì tuyên bố như vậy? Ở đây, loại thân hành nào có thể
biết được: "Khi tôi thân cận với thân hành này, bất thiện pháp
tăng trưởng, thiện pháp suy giảm", thì thân hành ấy cần phải tránh
xa. Ở đây, loại thân hành nào có thể biết được: "Khi tôi
thân cận với thân hành này, bất thiện pháp suy giảm, thiện pháp tăng
trưởng", thì thân hành ấy cần phải thân cận.
Này Thiên chủ, Ta nói rằng thân hành có hai loại, một
loại cần thân cận, một loại cần tránh xa. Sở dĩ có lời tuyên bố như vậy
là do nhân duyên như vậy.
Này Thiên chủ, Ta nói rằng khẩu hành có hai loại, một
loại nên thân cận, một loại nên tránh xa. Lời tuyên bố là như vậy. Do nhân
duyên gì tuyên bố như vậy? Ở đây, loại khẩu hành nào có thể
biết được: "Khi tôi thân cận với khẩu hành này, bất thiện pháp
tăng trưởng, thiện pháp suy giảm", thì khẩu hành ấy phải tránh
xa. Ở đây, loại khẩu hành nào có thể biết được: "Khi tôi
thân cận với khẩu hành này, bất thiện pháp suy giảm, thiện pháp
tăng trưởng", thì khẩu hành ấy cần phải thân cận.
Này Thiên chủ, Ta nói rằng khẩu hành có hai loại, một
loại nên thân cận, một loại nên tránh xa. Sở dĩ có lời tuyên bố như vậy,
là do nhân duyên như vậy.
Này Thiên chủ, Ta nói rằng tầm cầu cũng có hai loại,
một loại nên thân cận, một loại nên tránh xa. Lời tuyên bố là như vậy. Do
nhân duyên gì tuyên bố như vậy? Ở đây loại tầm cầu nào có thể
biết được: "Khi tôi thân cận với tầm cầu này, bất thiện pháp
tăng trưởng, thiện pháp suy giảm", thì loại tầm cầu ấy cần phải
tránh xa. Ở đây, loại tầm cầu nào có thể biết được: "Khi
tôi thân cận loại tầm cầu này, bất thiện pháp suy giảm, thiện pháp
tăng trưởng", thì loại tầm cầu ấy nên thân cận.
Này Thiên chủ, Ta nói rằng tầm cầu có hai loại, một
loại nên thân cận, một loại nên tránh xa. Sở dĩ có lời tuyên bố như vậy
là do nhân duyên như vậy.
Này Thiên chủ, vị Tỷ Kheo phải thành tựu như vậy,
phải thành tựu biệt giải thoát luật nghi như vậy!
Ðó là hình thức Thế Tôn trả lời câu hỏi Thiên
chủ Sakka. Sung sướng, Thiên chủ Sakka hoan hỷ, tín thọ lời dạy Thế
Tôn và nói:
- Như vậy là phải, bạch Thế Tôn! Như vậy là phải,
bạch Thiện Thệ! Sau khi nghe Thế Tôn trả lời câu hỏi, nghi ngờ con
được diệt tận, do dự con được tiêu tan.
5. Thiên chủ Sakka, sau khi hoan hỷ tín thọ lời
dạy Thế Tôn liền hỏi câu hỏi tiếp:
- Bạch Thế Tôn, vị Tỷ Kheo phải thành tựu như
thế nào, phải thành tựu hộ trì các căn như thế nào?
- Này Thiên chủ, sắc do mắt phân biệt. Ta nói rằng
có hai loại, một loại nên thân cận, một loại nên tránh xa. Này Thiên chủ,
tiếng do tai phân biệt... hương do mũi phân biệt... vị do lưỡi
phân biệt... xúc do thân phân biệt... Này Thiên chủ, pháp do ý
phân biệt, Ta nói rằng có hai loại, một loại nên thân cận, một loại nên
tránh xa.
Ðược nghe như vậy, Thiên chủ Sakka bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, vấn đề Thế Tôn nói một
cách tóm tắt được con hiểu một cách rộng rãi. Bạch Thế Tôn, loại
sắc do mắt phân biệt, khi con thân cận mà bất thiện pháp tăng trưởng,
thiện pháp suy giảm, thời loại sắc do mắt phân biệt ấy nên tránh xa.
Bạch Thế Tôn, loại sắc nào do mắt phân biệt, khi con thân cận, bất
thiện pháp suy giảm, thiện pháp tăng trưởng, thời loại sắc do mắt
phân biệt ấy nên thân cận. Bạch Thế Tôn, loại tiếng nào do tai
phân biệt... loại hương nào do mũi phân biệt... loại vị nào do lưỡi
phân biệt... loại xúc nào do thân phân biệt... loại pháp nào do ý
phân biệt, khi con thân cận, bất thiện pháp tăng trưởng, thiện
pháp suy giảm, thời loại pháp ấy nên tránh xa. Bạch Thế Tôn, loại pháp
nào do ý phân biệt, khi con thân cận, bất thiện pháp suy giảm, thiện pháp tăng trưởng, thời loại pháp ấy nên thân cận. Bạch
Thế Tôn, vấn đề Thế Tôn nói một cách tóm tắt, được con
hiểu một cách rộng rãi. Sau khi nghe Thế Tôn trả lời câu hỏi, nghi ngờ
của con tiêu tan, do dự của con diệt tận.
6. Như vậy sau khi hoan hỷ tín thọ lời dạy
Thế Tôn, Thiên chủ Sakka lại hỏi câu hỏi tiếp:
- Bạch Thế Tôn, có phải tất cả vị Sa Môn, Bà La
Môn đều đồng một tư tưởng, đồng một giới hạnh, đồng một mong cầu,
đồng một chí hướng?
- Này Thiên chủ, tất cả Sa Môn, Bà La Môn không đồng
một tư tưởng, không đồng một giới hạnh, không đồng một mong cầu, không
đồng một chí hướng!
- Bạch Thế Tôn, vì sao cả Sa Môn, Bà La Môn không
đồng một giới hạnh, không đồng một mong cầu, không đồng một chí hướng?
- Này Thiên chủ, thế giới này gồm có nhiều
loại giới, nhiều giới sai biệt. Trong thế giới gồm có nhiều
loại giới và nhiều giới sai biệt này, các loại hữu tình tự nhiên
thiên chấp một loại giới nào, và khi đã thiên chấp, trở thành Kiên trì, cố
thủ, với định kiến: "Ðây là sự thật, ngoài ra toàn là si mê".
Do vậy, tất cả Sa Môn, Bà La Môn không đồng một tư tưởng, không đồng một
giới hạnh, không đồng một cứu cánh, không đồng một mong cầu, không đồng
một chí hướng.
- Bạch Thế Tôn, có phải tất cả vị Sa Môn, Bà La
Môn đều đồng một cứu cánh, đồng một an ổn, đồng một phạm hạnh, đồng
một mục đích?
- Này Thiên chủ, tất cả vị Sa Môn, Bà La Môn không
đồng một cứu cánh, không đồng một an ổn, không đồng một phạm hạnh, không
đồng một mục đích.
Bạch Thế Tôn, vì sao tất cả Sa môn, Bà la môn,
không đồng một cứu cánh, không đồng một an ổn, không đồng một phạm hạnh,
không đồng một mục đích?
- Này Thiên chủ, chỉ những vị Sa môn Bà la môn nào
đã giải thoát tham ái, những vị ấy mới đồng một cứu cánh, đồng một an
ổn, đồng một phạm hạnh, đồng một mục đích. Do vậy, tất cả vị Sa môn, Bà
la môn không đồng một cứu cánh, không đồng một an ổn, không đồng một phạm
hạnh, không đồng một mục đích.
Ðó là hình thức câu trả lời Thế Tôn cho câu hỏi
Thiên chủ Sakka. Sung sướng, Thiên chủ Sakka hoan hỷ, tín thọ lời dạy
Thế Tôn và nói:
- Như vậy là phải, bạch Thế Tôn! Như vậy là phải,
bạch Thiện Thệ! Sau khi nghe Thế Tôn trả lời câu hỏi, nghi ngờ con
được diệt tận, do dự con được tiêu tan.
7. Thiên chủ Sakka, sau khi hoan hỷ, tín thọ lời
dạy Thế Tôn liền hỏi câu tiếp:
- Bạch Thế Tôn, tham ái là bệnh tật, tham ái là
mụn nhọt, tham ái là mũi tên, tham ái dắt dẫn con người tái sanh đời
này, đời khác, khiến con người khi cao, khi thấp. Bạch Thế Tôn, trong
khi các Sa môn, Bà la môn khác ngoài giáo phái của Ngài không cho con dịp
để hỏi những câu hỏi, thời Thế Tôn lại trả lời những câu hỏi ấy
cho con, giảng giải rất lâu cho con, khiến mũi tên nghi ngờ, do dự của con
được Thế Tôn rút nhổ đi.
- Này Thiên chủ, Ngươi có biết những câu hỏi ấy
cũng được Ngươi hỏi các vị Sa môn, Bà la môn khác không?
- Bạch Thế Tôn, con được biết những câu hỏi
ấy cũng được con hỏi các vị Sa môn, Bà la môn khác.
- Này Thiên chủ, những vị ấy trả lời với Ngươi như
thế nào, nếu không gì trở ngại hãy nói cho biết.
- Bạch Thế Tôn, không gì trở ngại cho con, khi
Thế Tôn ngồi nghe hay những vị như Thế Tôn.
- Này Thiên chủ, vậy Ngươi hãy nói đi.
- Bạch Thế Tôn, những vị Sa môn, Bà la môn mà con
nghĩ là những vị sống trong rừng an tịnh, xa vắng, con đi đến những vị
ấy và hỏi những câu hỏi ấy. Các vị này không trả lời cho con, không trả
lời lại hỏi ngược con: "Tôn giả tên gì?" Ðược hỏi vậy con trả
lời: "Chư Hiền giả, tên là Thiên chủ Sakka." Rồi những vị ấy
lại hỏi thêm con câu nữa: "Do công việc gì Tôn giả Thiên chủ lại
đến chỗ này?" Con liền giảng cho những vị ấy Chánh pháp như
con đã được nghe và đã được học. Chỉ được từng ấy, các vị hoan
hỷ và nói: "Chúng tôi đã được thấy Thiên chủ Sakka. Những
điều gì chúng tôi hỏi, vị ấy đều trả lời cho chúng tôi." Không
những vậy, các vị này trở thành đệ tử của con, chớ không phải con là
đệ tử của các vị ấy. Bạch Thế Tôn, nhưng con là đệ tử của
Thế Tôn, đã chứng Dự lưu, không còn bị rơi vào đọa xứ, chắc chắn
sẽ được giác ngộ.
- Này Thiên chủ, Ngươi có biết trước kia Ngươi
không bao giờ có sự thoải mái như vậy, có được sự hỷ lạc như vậy?
- Bạch Thế Tôn, trước kia con không bao giờ có sự
thoải mái như vậy, có được an lạc như vậy.
- Này Thiên chủ, như thế nào, Ngươi biết
được trước kia không bao giờ có sự thoải mái như vậy, có được sự hỷ
lạc như vậy?
- Bạch Thế Tôn, thuở xưa, một trận chiến tranh
xẩy ra giữa chư Thiên và các vị Asurà. Bạch Thế Tôn, trong trận chiến
tranh này, chư Thiên thắng trận, các loài Asurà bại trận. Bạch Thế Tôn
sau khi thắng trận, con là người thắng trận, con suy nghĩ: "Nay cam lồ của
chư Thiên và cam lồ của Asurà, cả hai loại cam lồ, chư Thiên sẽ được
nếm." Bạch Thế Tôn, thoải mái ấy, hỷ lạc ấy do gậy trượng
đem lại, do đao kiếm đem lại, không đưa đến yểm ly, ly dục, tịch
diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ và Niết bàn. Bạch Thế Tôn,
thoải mái này, hỷ lạc này nhờ nghe Chánh pháp Thế Tôn đem lại, không
do gậy trượng, không do đao kiếm, sẽ đưa đến yểm ly, ly dục,
tịch diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ và Niết bàn.
8. - Này Thiên chủ, khi Ngươi cảm thọ sự thoải mái
và hỷ lạc như vậy, Ngươi cảm thấy những lợi ích gì?
- Bạch Thế Tôn, khi con cảm thọ thoải mái và
hỷ lạc như vậy, con cảm thấy có sáu lợi ích như sau:
Nay con đứng tại đây,
Với thân một vị Thiên.
Con thấy được tái sanh,
Bạch Ngài, hãy biết vậy.
Bạch Thế Tôn đó là điều lợi thứ nhất con cảm
thấy, khi con cảm thọ thoải mái hỷ lạc như vậy.
Sau khi chết con bỏ,
Thân chư Thiên, phi nhân,
Không muội lược, con đi,
Ðến bào thai con thích.
Bạch Thế Tôn, đó là điều lợi ích thứ hai, con
cảm thấy, khi con cảm thọ thoải mái và hỷ lạc như vậy.
Câu hỏi được đáp rõ,
Hoan hỷ trong Chánh giáo.
Con sống với Chánh trí,
Giác tỉnh và Chánh niệm.
Bạch Thế Tôn, đó là điều lợi thứ ba, con cảm
thấy, khi con cảm thọ thoải mái và hỷ lạc như vậy.
Con sống với Chánh trí,
Sẽ được quả Bồ đề,
Sống làm vị Chánh giác,
Ðời này đời cuối cùng.
Bạch Thế Tôn, đó là điều lợi ích thứ tư, con
cảm thấy, khi con cảm thọ thoải mái và hỷ lạc như vậy.
Chết từ thân con Người,
Con từ bỏ thân Người,
Con sẽ thành chư Thiên,
Trong Thiên giới vô thượng.
Bạch Thế Tôn, đó là điều lợi ích thứ năm,
con cảm thấy, khi con cảm thọ thoải mái, và hỷ lạc như vậy.
Thù thắng hơn chư Thiên,
Akanittha danh xưng,
Sống đời sống cuối cùng,
Như vậy nơi an trú.
Bạch Thế Tôn, đó là điều lợi ích thứ sáu,
con cảm thấy, khi con cảm thọ thoải mái và hỷ lạc như vậy.
9.
Tâm tư không thỏa mãn,
Nghi ngờ và do dự,
Con sống cầu Như Lai,
Thời gian khá lâu dài!
Con nghĩ các Sa môn,
Sống một mình cô độc,
Là bậc Chánh Ðẳng Giác,
Nghĩ vậy con tìm gặp.
Làm thế nào thành công?
Làm thế nào thất bại?
Ðược hỏi câu hỏi vậy?
Không thể chỉ đường hướng.
Biết con là Sakka,
Bậc Thiên chủ, đã đến!
Họ liền gạn hỏi con,
Ðến đây có việc gì?
Con liền giảng Chánh pháp,
Con cho họ được nghe.
Hoan hỷ, họ bèn nói:
"Vàsava làm họ thấy!"
Khi con được thấy Phật,
Nghi ngờ đều tiêu tan.
Nay con sống vô úy,
Hầu hạ bậc Chánh Giác.
Mũi tên độc tham ái,
Ðấng Chánh Giác nhổ lên,
Con đảnh lễ Ðại Hùng,
Bậc thân tộc mặt trời.
Tôn giả như Phạm thiên,
Nay con đảnh lễ Ngài,
Nay con kính lễ Ngài!
Ngài là bậc Chánh Giác,
Bậc Ðạo Sư vô thượng,
Trong đời kể chư Thiên,
Không ai so sánh Ngài!
10. Rồi Thiên chủ Sakka nói với Pancasikha, con của Càn
thát bà:
- Này Khanh Pancasikha, Ngươi đã giúp ta nhiều
việc. Trước nhờ Ngươi làm Thế Tôn bằng lòng, sau khi Ngươi làm cho
bằng lòng, ta mới đến yết kiến Thế Tôn, bậc A la hán, Chánh
Ðẳng Giác. Ta sẽ đóng vai trò thân phụ cho Ngươi, Ngươi sẽ là Vua loài
Càn thát bà. Ta sẽ cho Ngươi Bhaddà Suriya Vaccasà, người mà ngươi ao ước.
Rồi Thiên chủ Sakka, lấy tay sờ đất, đọc lên ba
lần bài kệ cảm hứng như sau:
Ðảnh lễ đấng Thế Tôn,
Bậc La hán, Chánh Giác!
Ðảnh lễ đấng Thế Tôn,
Bậc La hán, Chánh Giác!
Ðảnh lễ đấng Thế Tôn,
Bậc La hán, Chánh Giác!
Khi lời tuyên thuyết này được tụng đọc, pháp
nhãn thanh tịnh vô cấu, khởi lên cho Thiên chủ Sakka: "Phàm pháp gì tập
sanh, pháp ấy sẽ bị hoại diệt." Ngoài ra, tám vạn chư Thiên cũng
chứng quả tương tợ. Ðó là những câu hỏi, Thiên chủ Sakka được mời hỏi
và được Thế Tôn trả lời. Do vậy, cuộc đối thoại này cũng được
gọi là Những Câu Hỏi Của Sakka (Ðế-thích sở vấn).
Hòa thượng Thích Minh
Châu dịch Việt