Chương X
A Nan Ða sau khi Ðức Phật viên
tịch
Theo Tôn
Túc kệ ngôn (Theragathà) số 1035 và 1036 thì sau lễ Hỏa Táng của đức Phật A Nan
Ða đã trở thành ít nói và thích ẩn thân trong tịnh thất của mình. Một hôm ông
tự thán rằng:
''Ðạo huynh đà khuất bóng (1),
Tôn sư cũng mất rồi.
Hợp tan như giấc mộng,
Mình phải liệu thân thôi.
Gương lành không còn nữa,
Gương xấu thấy dẫy đầy (2),
Tự mình lo tu sữa.
Thiền lực nhẫn nại xây,
Như cánh chim giữa gió.
Tổ là sức định tâm,
Lục căn gìn giữ nó.
Theo thiện pháp chớ nhầm!
(1) ám chỉ Ngài Xá-lợi-phất đã viên tịch.
(2) Gương lành: ám chỉ đức Phật; Gương xấu: ám chỉ các phàm tăng có tính dễ
duôi
Kể từ đó A Nan Ða tự biết rằng
mình chỉ còn một phận sự là tinh tấn giải thoát bản thân, theo như lời đã dạy.
Khi chia tay, Trưỡng lão Ðại Ca
Diếp đã từ bi khuyên ông nên đến tịnh tu trong ngôi rừng thuộc địa phận Kosala,
vì ở đó gần hai bộ tộc Mallas và Sakyans (dòng Thích Ca), ông sẽ được chư Phật
nhiệt thành hộ độ.
Khi dân chúng trong các vùng phụ
cận hay tin đệ tử thân nhất và cũng là anh em chú bác của đức Phật về ngụ tu
trong rừng đó, họ kéo nhau đến thăm A Nan Ða rất đông.
A Nan Ða tưởng chỉ có mình là
nhớ thương đức Phật và Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên dai dẳng thôi, nào ngờ chu
Phật tử xung quanh rừng ông ở, cũng luyến tiếc ba bậc ấy vô cùng. Lại nhằm lúc
vị vua cha xứ Kosala được nhiều thần dân thương mến là Pasenadi, cũng vừa băng
hà, nên họ kéo nhau đến nhờ A Nan Ða an ủi họ, không những về sự khuất bóng của
đức Phật, và của hai vị Thánh Tăng Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, mà họ còn xin
được an ủi về sự băng hà của Thái Thượng Hoàng Pasenadi nữa. Vị cố Thái Thượng
Hoàng nàng càng nhân đức bao nhiêu thì các Hoàng tử con ông lại tàn ác, hiếu
chiến bấy nhiêu, nên sự băng hà của Thái Thượng Hoàng đã làm cho toàn thể thần
dân chịu một cảnh mất mát rất lớn.
Bốn sự từ trần: của đức Phật,
của Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên cũng như của Thái Thượng Hoàng Pasendi đã xảy
ra trong cùng một năm, nên ngày đêm dân chúng ở các vùng xung quanh ngôi rừng A
Nan Ða ẩn tu, không chịu được những tiếc buồn dồn dập, liền kéo nhau đến tịnh
thất của A Nan Ða khiến cho ông không bao giờ cô độc.
Ngoài ra, còn có một vị thần,
sống trong rừng ấy hiện ra để lễ bái A Nan Ða. Vị thần này đã khen ngợi sự tiến
bộ tâm linh của ông và khuyên A Nan Ða tịnh tâm bằng mấy câu kệ rằng:
"Giờ bên gốc cây ngồi yên tĩnh,
Tâm Ngài theo Thiền Ðịnh Niết Bàn!
Khuyên Ngài dạ chờ có hoang mang
Tập trung ý chí linh quang sẽ bừng."
A Nan Ða được vị thần khích lệ
như vậy thì tự kinhh cảm, nên sau đó tinh tấn vô cùng. (Theo Samyutta Nikàya:
Tạp A Hàm số 9.5). Về phía đại Trưởng lão Ca Diếp, vị Tôn túc cao hạ nhất trong
các hàng Sa Môn đệ tử Phật, thì việc thi hành những di chúc cuối cùng của đức
Bổn Sư rất quan trọng. Ngài đã quyết định triệu tập chư Tỳ khưu Thánh Tăng để
lập lại những giáo lý và kinh luật Phật truyền. Theo đó khoảng năm trăm vị A La
Hán còn tại thế phải có mặt đông đủ, cộng thêm sự hiện diện của một phàm Tăng
là A Nan Ða. Vì ngoài A Nan Ða ra không có một Sa Môn nào hữu phước được nghe hầu
hết những bài pháp của Phật thuyết.
Nhưng tình hình chính trị của xứ
Kosala nhất thời đang bất ổn, các vị Hoàng tử tranh nhau ngôi vua, nên địa điểm
kết tập, Kinh Luật Phật Giáo lần thứ nhất ấy phải dời đến Vương Xá thành, thủ
đo xứ Ma Kiệt Ðà (Magadha) và đặt dưới sự che chở của vua A Xà Thế
(Ajàtasattu).
Khi đến gần ngày kết tập kinh
luật thì Anuruddha lại đề nghị: Sư đệ A Nan Ða chỉ được chấp nhận vào đại hội
nếu đắc quả A La Hán (Ðại hội kết tập giáo điển lần thứ I, không có Tạng Luận,
chỉ có Tạng Kinh và Tạng Luật mà thôi). Anuruddha nhờ có Tha tâm thông, biết rõ
sự quyết tâm của A Nan Ða ra sao, nên mới đề nghị như thế, để kích động và thúc
dục Tôn giả A NAn Ða, tinh tấn hơn nữa, cho mau đạt đến Thánh quả Giải Thoát.
A Nan Ða lúc hay tin đó, ông không
những chẳng buồn giận chút nào, mà còn tình nguyện chăm chỉ tối đa, tận dụng
khả năng Minh sát của mình, đã được đức Phật đích thân chỉ dạy, để tiến lên
Thánh quả Giải Thoát. (Trong kinh còn gọi quả này là quả Hữu Dư Niết Bàn:
tức là hành giả đã đắc Niết bàn rồi, mà nhục thân vẫn còn sống).
Vào buổi bình minh ngày hôm sau,
khi A Nan Ða đang an trụ trong một bậc thiền thì ông chợt cảm thấy một cách
không nghi ngờ rằng tâm tư ông đã trở nên thông suốt mọi dục tình, phiền não
biếnmất. Ông trở thành một Thánh nhân A La Hán.
Và ngày đại hội kết tập kinh
luật cũng đến. Ðịa điểm là một cái động nằm sâu trong lòng núi, chỉ có một cửa
vào được khóa kín. Năm trăm vị Thánh Tăng A La Hán phải dùng Thần thông để vô
dự hội. Khi họ đã có mặt đầy đủ và chỗ ngồi của A Nan Ða còn bỏ trống; chư
Thánh Tăng đang chở đợi thì một luồng anh1 sáng xuyên qua khe cửa, chiếu vào
chỗ ngồi còn trống ấy, đồng thời A Nan Ða xuất hiện.
Chư Thánh Tăng, nhất là
Anuruddha và Ðại Ca Diếp (Mahà Kassapa) thấy A Nan Ða đã viên tròn hạnh nguyên,
liền tán dương công đức và khai mạc đại hội. Lúc ấy nhằm mùa thu, nên chư phàm
Tăng các vùng phụ cận không thể đến, để lễ bái cộng đồng Thánh Tăng được. Còn
chư phàm Tăng ở xa thì tự nhiên phải vắng mặt.
Ðại Ca Diếp được bầu làm chủ toạ
và diễn tiến cuộc kết tập kinh luật như sau:
1. Trưởng lão Ðại Ca Diếp đã đặt
những câu hỏi về mọi điều luật, đến Sa môn Upali, người được mệnh danh là
"Kẻ nhớ rõ các pháp cấm". Sa môn Upali này đã trả lời đầy đủ, nhắc
lại cả lý do, địa điểm, thời gian và nhân chứng, khi đứ Bổn Sư chế ra giới luật
ấy. Rồi cứ như thế mà tiếp tục, nên Tạng Luật đã d9ược kết tập trước tiên.
2. Tiếp theo Trưởng lão Ðại Ca
Diếp hỏi A Nan Ða về các kinh Phật đã thuyết: Mở đầu là những bài kinh dài, có
chung sử đề, để kết tập thành một bộ gọi là Trường A Hàm (Dìgha Nikàya). Kế đến
là những bài kinh trung bình, cùng chung một sử đề, góp lại thành một bộ, gọi
là Trung A H€m (Majjhima Kikàyà). Sau đó là những bài kinh ngắn, cùng chung sử
đề, xếp thành một bộ gọi là Tiểu A Hàm (Khuddaka Kikàya). Chót hết A Nan Ða
nhắc đến những bài kinh rời rạc, khắc sử đề, để gom lại thành Tạp A Hàm
(Samyutta Nikàya), hay nhắc đến những bài được liệt kê bằng các chi số, sử đề
độc lập, goị là Tăng Nhất Chi A Hàm (Anguttara Nikàyya) v.v...
3. Sau khi Tạng Luật và Tạng
Kinh đã đượcđúc kết đầu đủ, Ananda bèntrình bày những lời di chúc của đức Phật
để lại. Ông thuật trước đại hội rằng đức Bổn Sư trước khi nhập Niết Bàn, đã cho
phép Tăng chúng hủy bỏ những giới luật không cần thiết. Nhưng đại hội Thánh
Tăng đã không đồng ý, vì ý nghĩa của ba chữ "không cần thiết" chẳng
có tiêu chuẩn rõ ràng.
Chủ tọa Ðại Ca Diếp (Mahà
Kassapa) liền đề nghị:
"Nếu chúng ta hủy bỏ một số
điều răn của đức Phật thì các hàng tại gia sẽ dị nghị, cho rằng chư Sa môn xuất
gia, không bao lâu khi đức Bổn Sư viên tịch, đã bắt đầu biếng nhác, không muốn
giữ giới luật. Hơn nữa, Phật cũng không dạy rõ điều luật nào là điều luật không
cần thiết. Tốt hơn hết là đứng hủy bỏ bất cứ pháp răn nào cả. Như vậy chúng ta
sẽ chắc chắn không sợ làm sai tôn ý của đức Phật."
Và lời đề nghị của đại Trưởng
lão Ca Diếp đã đuợc hoàn toàn Thánh Tăng chấp thuận.
Qua phần phụ hội, các Sa môn
nghiêm tinh đã phàn nàn rằng: Thứ nhất có một khuyết điểm liên quan đến Tạng
Luật. A Nan Ða không hỏi Phật điều luật nào là điều luật cần thiết. Khuyết điểm
ấy bây giờ A Nan Ða nên sám hối! Và thứ hai, A Nan Ða, lúc Phật còn tại tại
tiền, thường dậm lên y Phật, căng ra để vá.
A Nan Ða vui vẽ trả lời rằng:
"Khuyết điểm thứ nhất, khi đức Thế Tôn lâm trọng bịnh, bần đạo tâm tư quá
bối rối, nên quên mất. Thứ hai, lỗi lầm đứng lên y Phật vì sơ ý muốn tiện lợi
để vá, chứ không vì bất kính đới với đức Phật. Tuy nhiên, nếu như chư đạo huynh
đã nhắc nhở, thì bần Tăng xin sám hối".
Rồi liên quan đến cách đối xử
của a Nan Ða cuối cuộc lễ Hỏa táng của đức Phật, các vị Sa môn nghiêm túc nói
tiếp: Thứ ba A Nan Ða khi ấy đã dành ưu tiên cho phái nữ đến lễ bái Xá Lợi Phật
trước cả hàng cao đồ Phật giáo.
A Nan Ða liền vui vẻ trả lời:
"Vì lúc ấy bần tăng chưa đắc quả Giải Thoát, và đối với một người còn phàm
tính, khi những tín nữ muốn được chiêm bái Phật mà bắt họ chờ lâu, là một điều
tội nghiệp. Giờ đây bần Tăng là bậc Giác Ngộ vậy xin sẵn sàng nhận lỗi".
Sau cùng, một số Thánh Tăng cũng
không quên nhắc cho A Nan Ða nhớ rõ: hành động không thỉnh Phật Khoan Nhập Niết
Bàn của ông là một lỗi lầm vô cùng quan trọng.
A Nan Ða tự biết lỗi, nên thành
thật tỏ bày rằng: "Chính Ma Vương (Mara) đã ám ảnh ông, khiến cho tâm trí
tăm tối. Chứ trên thực tế ông mới là người đệ tử sợ Phật sớm nhập Niết bàn
nhiều hơn ai hết".
Cử chỉ của A Nan Ða đối với
những người phê bình ấy, quả thật đáng kính trọng. Ông đã phục tùng trước những
sự phán quyết của chư Thánh Tăng, mà không một mảy may bất mãn. Dù trong thâm
tâm, ông tự biết rằng: Những lỗi lầm do vô tình phạm phải thì luôn luôn đáng tha
thứ.
Sau đó, A Nan Ða thuật tiếp, đến
một di chúc khác mà đức Phật đã dạy, ngay trước khi Ngài nhập Niết Bàn. Di huấn
này có liên quan đến thẩm quyền của Giáo Hội về việc trừng phạt Tỳ khưu Channa,
một người đã bất tuân nghiêm giáo của đức Bổn Sư.
Nghe A Nan Ða trình bày xong,
đại hội đồng Thánh Tăng liền yêu cầu A Nan Ða đích thân áp chuyển di giáo lệnh
ấy đến Channa. A Nan Ða thực thà nói rằng "Ông không thể một mình làm được
công tác này, vì Channa là một người cộc cằn và vô kỷ luật!".
Ðại hội đồng thanh ủy nhiệm cho
A Nan Ða dẫn theo một số Tỳ khưu để áp đặt giáo lệnh Phật Tỳ khưu Channa.
Thế là A Nan
Ða vâng lời, dẫn một đoàn Tỳ khưu tăng, lên đừơng đi Kosambi, nơi Channa ẩn
ngụ, để công bố giáo lệnh cuối cùng của đức Phật. Giáo lệnh ấy ấn định rằng:
"Nếu Tỳ khưu Channa tiếp tục chống lại Giáo Hội, thì ông sẽ bị khai trừ ra
khỏi Phật giáo". (Lời thêm của dịch giả: Theo nguyên văn trong kinh Ðại
Niết Bàn, thì Tỳ khưu bất tuân Phật huấn sẽ bị "khai tử" khỏi Giáo
hội. Tức là xem như đương sự đã "chết" rồi, không còn kể trên cộng
đồng Tăng chúng nữa).
Sự trừng phạt này, đức Phật lúc
sinh tiền cũng đã từng giải rõ: Ngài lấy thí dụ như một người tập ngựa kiên
nhẫn và đầy kinh nghiệm, nhưng không huấn luyện nổi một con ngựa kiên nhẫn và
đầy kinh nghiệm, nhưng không huấn luyện nổi một con ngựa. Cuối cùng người tập
ngựa phải đem nó bán vào lò sát sinh, vì giữ nó không lợi ích chi cả. Một con
ngựa mà không chịu kéo xe, không biết kéo cày, không muốn mang bất cứ cái gì
trên lưng hết, thì chỉ có lò sát sinh chờ đợi nó. Tương tự như thế: Nếu một bậc
xuất gia mà không chịu thuần thục trong thiện pháp vì chẳng khác nào họ tự
"khai tử" gạch tên họ, trong danh sách Tăng Già Giáo Hội.
Trường hợp một Tỳ khưu mất dạy
như thế cứ ờ lỳ trong cộng đồng Tăng lữ thì Phật ra lệnh cho chư đệ tử không
được nói chuyện không được tiếp xúc, không được khuyên nhủ hay dạy dỗ chi cả.
Tất cả đồng tẩy chay kẻ cố ý sống vô kỷ luật ấy.
Channa nghe A Nan Ða thuật xong
di giáo của đức Phật thì knh cảm và hoảng sợ vô cùng, ông kinh sợ đến phải ngất
xỉu. Lúc ông tỉnh dậy, một niềm hổ thẹn sâu xa lại dày vò tâm tư ông. Nhất là
ông xấu hổ vì sự trừng phạt ấy đã do chính đức Phật đã giao lại cho Giáo Hội
thi hành, trước khi Ngài viên tịch.
Và cũng vì sự hổ thẹn sâu xa ấy,
mà ông càng lúc càng thức tỉnh, đồng thời quyết lòng phục thiện. Người ta không
ngờ sự cứng đầu của một Channa ương ngạnh, trước lời di huấn trừng phạt của đức
Phật, đã nhường chỗ cho một tinh thần phục thiện, mạnh mẽ đến mức, kể từ đó ông
chỉ biết chăm lo tu hành, để chẳng bao lâu, ông đã đắc quả A La Hán.
Bởi thế sự trừng phạt cuối cùng
của đức Phật, tự nó đã chứng tỏ rằng: Vào phút chót, trước khi nhập Niết Bàn,
đức Phật đã để lại di huấn tối hậu, có thể chuyển hóa nổi một âm hồn si mê, tăm
tối, mà ít ai ngờ được. Từ đó, trong Phật giáo, chỉ có một Channa Than1h Tăng,
rất thanh tịnh, lúc nào cũng sống với sự an lạc, chứ không còn một Tỳ khưu tên
Channa ngoan cố nữa!
Sau khi quả Thánh đã đạt rồi,,
một hôm Sa môn Channa đến yêu cầi A Nan Ða triệu tập hội đồng Giáo Hội để ông
sám hối và xin A Nan Ða hủy bỏ lệnh trừng phạt. A Nan Ða liền thân thiện trả
lời rằng: "Tất cả Tăng chúng đều hay tin sư đệ đắc quả Bất Lai rồi. Sư đệ
chỉ cần đến lễ bái trước Xá Lợi của Bổn Sư, hầu tăng lên phúc đức. Có lệnh
trừng phạt tự nó đã hết hiệu lực kể từ khi hiền đệ chứng quả Giái Thoát".
Và câu chuyện của Channa đã kết
thúc một cách toàn thiện như thế.
Kế đến, là thời gian hậu Phật
bắt đầu: Các thứ bậc lãnh đạo trong Giáo Hội Tăng Già tự nhiên được hình thành
như sau:
- Trưởng lão Ðại Ca diếp (Mahà
Kassapa) là vị thượng thủ cao nhất, lớn tuổi nhất và đầy đức hạnh nhất được tín
nhiệm vào vai trò lãnh đạo toàn thể Giaó Hội. Chúng ta có thể gọi Ngài là vị
Tăng thống đầu tiên trong Phật giáo. Còn đức Phật là bậc Giáo Chủ, sáng lập ra
Phật giáo. Xin chớ lầm lẫn.
Bởi thế những kẻ thiện tâm sau
này, khi muốn nhập đạo Phật giáo, họ sẽ xin quy y Phật, quy yy Pháp, quy y Tăng
(đại diện là Giáo Hội), chứ họ không quy y với vị Tăng thống. Chính Ðại Ca Diếp
khi nhận lãnh sự tối cao đã xác nhận điều đó.
Theo lời Phật dạy thì Trưởng lão
Ðại Ca Diếp có đủ mười chi để đóng vai trò một bậc lãnh đạo cao cả. Mười chi ấy
là:
1. Ðức hạnh giữ đúng Tạng Luật và hoàn toàn trong hành vi
cử chỉ.
2. Học rộng và nhớ nhiều.
3. Ðầy đủ pháp tri túc.
4. Vững chắc và thuần phục trong bốn bậc thiền.
5. Nhiều khả năng phu thường đối với cõi người và cõi trời.
6. Ðắc Thiên nhĩ thông (nghe xa vạn dặm)
7. Ðắc Tha Tâm thông (biết chuyện kẻ khác đang suy nghĩ)
8. Ðắc Túc mạng thông (biết quá khứ, vị lai)
9. Ðắc Thiên nhãn thông (thấy xa vạn dặm)
10. Tâm không còn tham, sân, si, phiền não nữa.
Trưởng lão Ðại Ca Diếp quả là
biểu tượng xứng đáng của một đại tông đồ hộ pháp vậy.
Người đứng hàng thứ hai trong
Giáo Hội là A Nan Ða, vì ông là người được hầu hết (nếu không muốn nói là toàn
thể) Tăng tín đồ thương mến. A Nan Ða cũng là người đã được cộng đồng Tăng lữ
giao cho trách nhiệm hầu hạ đức Phật trong suốt 25 năm trường. Nếu tính từng
giai đoạn thì A Nan Ða có 40 năm là Sa môn trước khi trải qua 25 năm hầu hạ
Phật. Rồi sau khi đức Bổn Sư viện tịch, ông sống thêm 40 năm nữa để phục vụ
Phật giáo. So sánh trong rất hiếm người đại trường thọ như ông, thì chỉ là bậc
dày công tu luyện nhất.
Khi chư Thánh Tăng kết tập kinh
luật Phật giáo lần thứ hai, đúng một trăm năm kể từ khi đức Phật nhập Niết Bàn,
thì có một đệ tử chánh truyền của A Nan Ða còn sống. Vị này tên là Sabbakàmin,
đã được coi như Trưởng lão duy nhất còn sót lại từ thời đức Phật. (Theo
Cùlavagga 12 (Tiểu phẩm, chương 12) trong Tạng Luật, thì Hòa Thượng Sabbakàmin
trường thọ đến 120 tuổi).
Về phần Thánh Tăng A Nan Ða, khi
Ngài sống tới 120 tuổi thì cảm thấy Niết bàn gần kề. Than1h Tăng A Nan Ða liền
rời Vương Xá thành (Ràjagaha) đi về hướng Vesali, giống như đức Phật trước đó
đã làm, để tìm nơi Viên Tịch, thì tin tức thấu tai vua nước Magadha (Ma Kiệt
Ðà) và thấu tai các vị Hoàng tử xứ Vesali. Tất cả đồng loạt tìm tới Ngài để yêu
cầu Ngài nhập Niếtbàn trong lãnh thhổ của họ. Thánh Tăng A Nann Ða không muốn
cho Xá Lợi (hài cốt) của Ngài sau đó sẽ gây bất hòa trong những người ngưỡng
mộ, bèn dừng chân tại biên giới giữa hai nước, rồi dùng thần thông nâng thân
thể mình lên không trung.
Ðoạn Thánh Tăng dùng lửa Tam
muội tử động thiêu lấy thân, rồi chia Xá Lợi ra làm hai phần rơi ngay ngắn trên
hai lãnh thhổ, để họ nhặt về duựng Bảo tháp tôn thờ.
Ðể tưởng nhớ tới sự nhập Niết
bàn linh diệu ấy, trong Tôn Túc kệ ngôn số 1049 (Theragathá 1049), có câu thơ
rằng:
"Ðại La Hán, A Nan Ða đức hạnh,
Một anh hùng trong biển khổ trầm luân.
Toàn hảo thay bậc chấp pháp trọn lành,
Giờ nhập diệt cũng tránh điều tranh luận".
(Nguyễn
Ðiều mạo muội thoát dịch)
Và với những dòng thơ tán dương
ấy, dịch giả xin thành kính kết thúc thiên sử đại lành này của A Nan Ða, một vị
A La Hán Phật.
Dịch
xong tại Paris
ngày 11 tháng 8 năm 1991 Dương lịch - Phật lịch : 2538.
Bài thơ
Cúng dường Thánh Ananda
Ðêm hôm trước Người còn Tu Ðà Quả
Rạng ngày sau, A La Hán Ðắc rồi
Tám mươi hai ngàn Pháp Bảo tinh khôi (1)
Người đã thuật vẹn toàn trong động đá.
Vào đại hội Thánh Tăng bằng phép lạ,
Oai đức nào hơn giác lực tinh anh
Một tia sáng xuyên vào nơi lỗ khóa,
Người nghiễm nhiên trên tọa cụ an lành.
Giữa cõi thế, thần thông là của quý,
Giải thoát rồi thì có nghĩa gì đâu,
Ðới sống Thánh là cuộc đời dung dị,
Ðộ tận người mê, giải bớt niềm đau.
Khi tuổi thọ hết rồi thì nhẹ gánh,
Người lên đường tìm nhập diệt phương xa
Nhung xác thịt vẫn còn phần phúc hạnh
Vương tuớc tranh nhau giữ lại đất nhà.
Ðể giải quyết cho vẹn toàn ân đức
Người nâng mình lên, thiêu giữa không trung,
Lửa tam muội đốt thân bừng sáng rực,
Xá lợi chia đôi di tặng hai vùng.
Sự viên tịch đưa người vào sử sách,
Kỳ diệu ngày xưa cho đến ngàn sau,
Một vị Than1h Tăng A La Hán Phật,
Ðời sống A Nan, kiếp chót nhiệm mầu
N.Ð kính
tưởng niệm
(1) Trong Phật giáo có 84000
pháp môn mà Thánh Tăng a Nan Ða đã thuộc lòng
82000 rồi.
Một bài
thánh thi của tôn giả Ananda:
Ðã nhờ rồi, tám mươi hai ngàn chân lý,
Và hai ngàn nghe lại của đệ huynh!
Cộng tám mươi bốn ngàn Phật Pháp cao minh (1)
Giải thoát cho mình và năm mươi thế kỷ (2)
Người không hiểu không nghe điều chân chánh (3)
Thì đời trôi như con vật kéo xe,
Tuy bắp thịt tỏ ra chiều khoẻ mạnh,
Nhưng tâm linh bị tham ái mù che.
Ai đã học nhiều pháp lành cứu rỗi,
Mà chẳng hành, còn khinh mạn phàm phu,
Ví như kẻ có đèn không đốt rọi,
Thấy gì chăng giữa biển khổ sa mù?
Gặp bạn tốt, ta hiểu rành Pháp Bảo...
Không buông trôi, ta cố gắng thực hành,
Và nhờ thế ta sẽ vào Thánh đạo.
Hộ pháp sau này hậu thế nêu danh.
Bậc thiện trí trước sau hằng phân biệt,
Nghĩa lý nhân duyên, hạt quả rõ ràng.
Ngôn ngữ ví như phuơng trình đã viết,
Ðáp số nằm trong minh sát thiền quang. (4)
Giác tĩnh càng chuyên, định tâm càng vững,
Theo cõi sắc danh thấy nó mọi đàng.
Giác ngộ đến rồi, Thánh tâm liền chứng,
Trí huệ bừng lên soi thấu Niết bàn.
(Nguyễn
Ðiều thoát dịch theo Tôn Túc kệ ngôn,
từ câu số 1024 đến 1029 - Theragathàs 1024 - 1029)
(1) 84,000 đoạn pháp (dhammakhandas)
(2) thời gian của Phật Pháp, trường tồn 5000 năm
(3) lời giảng được khẩu truyền, và ghi khắc qua chăm chú nghe
(4) bậc thiện tri thức dùng Tuệ Phân tích (patisambhidà) để hiểu nghĩa đen và
nghĩa bóng.