Chương VI
A Nan Ða đối với các hàng huynh
đệ.
Trong
cộng đồng Tăng lữ chỉ có Xá Lợi Phất (Sàrìputta) là người bạn thân nhất của A
Nan Ða. Còn Anuruddha (A Nậu Lâu Ðà) tuy là anh em ruột của ông, nhưng mối liên
hệ giữa hai người đã tỏ ra không khắng khít cho lắm. Lý do chỉ vì Anuruddha
thích sự cô độc yên tĩnh, còn A Nan Ða thường xuyên tiếp xúc với mọi người. Mặt
khác, Xá Lợi Phất (Sàrìputta) là một đại đệ tử có cách thuyết pháp giống đức
Phật nhất, nên khi đàm đạo với Xá Lợi Phất, A Nan Ða có cảm tưởng như mình đang
nói chuyện với đức Bổn Sư.
Trong kinh còn ghi rõ ràng: Chỉ
có Xá Lợi Phất và A Nan Ða là hai người đã được Phật ban cho hai "chức
vụ": Xá Lợi Phất, vị "đại Như Lai Sứ giả", và A Nan Ða, vị
"đại Như Lai Thinh Văn". (Tức là một người xứng đáng để diễn tả về
"Ý Phật": Như Lai Sứ Giả. Và người kia xứng đáng để nhắc lại đúng như
lời Phật dạy: Như Lai Thinh Văn).
Một đoạn khác trong Tam Tạng
kinh điển cũng nêu rõ Xá Lợi Phất (Sàrìputta) là một biện thuyết gia rất hùng
hồn, nhất là khi ông thốt lời như một con sư tử gầm (Kinh Sư Tử Hống:
Sihasutta).
Còn A Nan Ða là một "Tàng
kinh các", tức là"chỗ chứa đựng Phật ngôn" vững chắc nhất và
nguyên vẹn nhất. (Ý nói A Nan Ða nghe Phật dạy sao thì có khả năng thuật lại y
hệt, không thêm, không bớt, dù cho chỉ một chữ hay một vần).
Về điểm này, chúng ta có thể đem
A Nan Ða so sánh với Mục Kiền Liên (Moggallàna). Vị đại đệ tử nổi tiếng thần
thông của đức Phật này (Mục Kiền Liên) cũng có một cách thuyết pháp rất giản
dị, thực thà, bình dân và dễ hiểu. Mục Kiền Liên là vị đại tông đồ thứ hai (sau
A Nan Ða) nổi tiếng về đức tánh lập lại Phật ngôn một cách nguyên văn không dư
sót.
Mặt khác, A Nan Ða và Xá Lợi
Phất thường được đức Phật giao cho thi hành một số công tác chung. Chẳng hạn
như khi ông bá hộ Cấp Cô Ðộc (Anàthapindika) đau nặng, họ đã cùng nhau đến thăm
nhiều lần (Theo Majjhima Nikàyaa số 153, và Samyutta NiKàya, 55-56). Hoặc cả
hai đã hợp lực trong việc giải quyết những mối bất hòa trong các hàng Tăng lữ ở
Kasambi (Theo Anguttara Nikàya 221).
Còn mặt luận đạo thì A Nan Ða và
Xá Lợi Phất đã trao đổi khắng khít với nhau không biết bao nhiêu lần. Bởi vậy,
khi A Nan Ða hay tin Xá lợi Phất viên tịch, ông đã lập tức rụng rời, tỏ lời
thương tiếc như sau:
"Bỗng dưng khung cảnh đổi buồn,
Huynh đi "tâm" đệ không còn tinh thông.
Mất huynh dòng lệ sầu tuôn,
Mất huynh như ánh đèn linh tắt rồi".
(Nguyễn
Ðiều thoát dịch theo bài kệ số 1034 trong Theragatha: Tôn Túc Kinh).
Thật vậy, khi Xá Lợi Phất viên
tịch thì A Nan Ða chưa đắc Thánh quả A La Hán, thành thử nỗi buồn thương tiếc
trong lòng ông, u trầm như một cơn bão lớn thổi tắt mọi ánh sáng trí tuệ trong
tâm tư vị Tôn giả khả kính này. Ðó cũng là một bài học để A Nan Ða về sau hiểu
được nỗi khổ não gây ra do tử biệt, thương ly (Hai trong tám pháp thế gian).
Ðức Phật thấy A Nan Ða vô cùng
khổ não, bèn cứu độ ông bằng cách vấn đạo như sau:
- Này A Nan
Ða! Xá Lợi Phất viên tịch có mang theo của ông một phần giới hạnh, một phần
thanh tịnh, một phần trí tuệ, một phần thánh thiện hay một phần giải thoát nào
không?
- Bạch đức Thế Tôn! Không!
Rồi A Nan Ða tiếp:
- Nhưng đạo huynh Xá Lợi Phất là
một bậc đàn anh hằng che chở, dẫn dắt những đàn em mới chập chững bước vào
Thánh đạo.
Ðức Phật sau đó liền ban bố
những lời an ủi khác, hướng dẫn A Nan Ða đến một phẩm cách cao hơn. Ngài hỏi:
- Này A Nan
Ða! ống nhớ chăng một chân lý mà Như Lai đã dạy rằng: Không có cái gì sinh ra
rồi sẽ còn mãi mãi. Tuy sự viên tịch của Xá Lợi Phất đối với hàng ngũ Phật giáo
có thể xem như một cành cây lớn đã lìa khỏi thân cây. Không có mặt của Xá Lợi
Phất, cộng đồng Tăng chúng dù bị thiệt thòi rất nhiều. Nhưng không phải vì vậy
mà chu đệ mắc dính vào sự hướng dẫn, che chở của người khác, dù cho người ấy là
Như Lai, chứ đừng nói là Xá Lợi Phất! Vậy A Nan Ða hãy tự mình khêu sáng ngọn
đuốc trí huệ cho chính mình, không nên tùy thuộc vào một tha lực (Theo Samyutta
Nikàya 7, 13: Tạp A Hàm 7, 13). Nghe Phật dạy như vậy A Nan Ða mới khoan tâm,
rồi tinh tấn thi hành phận sự.
Ngoài Xá Lợi Phất ra, A Nan Ða
cũng thường luận đạo, gần gũi và sinh hoạt chung với một số rất nhiều Tăng
chúng khác (Soạn giả chỉ xin phép nhắc lại một hai trường hợp tượng trưng):
Chẳng hạn như một hôm, Tỳ khưu
Vangisa cùng đi khất thực với A Nan Ða. Trên đường đi, Vangisa bỗng cảm thấy
chán nản cảnh độc thân, một tâm bệnh nguy hiểm vào bậc nhất của các hàng tu sĩ.
Tâm tư ông tự nhiên nổi đầy buồn phiền, rồi đòi hỏi nhục dục. Tức khắc ông nhận
thấy đời sống của một tu sĩ thật là vô nghĩa, còn hoàn tục lấy vợ và tạo một
mái ấm gia đình thì hấp dẫn và hạnh phúc hơn nhiều.
Tỳ khưu Vangisa vốn là một người
làm thơ có tài. óng chợt dùng lời thơ (trong kinh điển Phật giáo gọi là Kệ
ngôn) yêu cầu A Nan Ða giúp ông thực hiện ý muốn ra đời.
A Nan Ða thì hiểu được những gì
đang nung nấu trong tâm tư của người bạn đồng hành, bèn khuyên nhủ ông bằng
những lời thanh thoát như sau đây:
"Ðời chỉ đẹp khi tình yêu nung nấu,
Kẻ mê đời không biết sẽ sầu đau.
Yêu trong đời là tình yêu sân khấu!
Màn buông xong...son phấn có gì đâu?
Này sư đệ đừng để lòng phóng túng,
Hãy gom tâm niệm tưởng biết mình thôi!
Khi mê sắc tưởng đời tu vô dụng,
Tịnh tâm rồi hạnh phúc thấy mọi nơi!".
(Nguyễn Ðiều thoát dịch theo Tôn
Túc Kệ Ngôn số 1224 - 1225: Theragàthà 1224-1225).
Trong bài kệ môn trên đây, A Nan
Ða đã chỉ cho Vangisa thấy rằng: "Vì ông đang bị ái dục nung nấu trong tâm
tư, nên Vangisa không thể nào nhận ra chân lý đau khổ (Khổ đế), nhất là đau khổ
trong tình trạng bị sắc đẹp của phái nữ quyến rũ. Khi sự thèm khát tình yêu
chiếm trọn tâm tư rồi thì con người dễ trở thành nhục chí và thất vọng. Trường
hợp nếu nạn nhân là một đạo sĩ thì nó làm cho họ chán ghét đời sống phạm hạnh.
Vì vậy A Nan Ða khuyên Vangisa phải bình tĩnh nhớ lại mọi hình dung trên đời,
như vẻ đẹp trên sân khấu, tuy bề ngoài có vẻ đẹp đẽ, đáng ôm ấp, nhưng thực tế
bề trong rất xấu xa, đáng nhờm gớm... để ông hiểu rằng "xác thân này, dù
đẹp hay xấu, bệnh hoạn hay khỏe mạnh, tàn tật hay nguyên vẹn, vốn là nguồn gốc
của những đau khổ trên đời". Sa môn nào quán xét thấy rõ được như vậy, sẽ
hoan hỷ tiếp tục đời sống phạm hạnh".
Một trường hợp khác, sau khi
Phật nhập Niết bàn: Tỳ khưu Channa có lần bị pháp hoài nghi (Vicikiccà) quấy
nhiễu. Tuy ông biết rằng xác thân ngũ uẩn này vô thường, nhưng ông vẫn cứ
thương mến, và lo sợ rằng: "Mình tin vào Niết bàn là rơi vào đoạn
kiến!" hay: "Phải chăng Niết bàn là trạng thái tuyệt diệu?"
hoặc: "Vô ngã tương đương với một con số không?".
Vì đời sống của mọi sinh vật
trên thế giới này chỉ có ý nghĩa khi chính trong sự sống ấy có một cái gì
thiêng liêng bất diệt. Nếu ta tu hành để trở thành một trạng thái "biến
mất" thì sự tu hành ấy dựa trên cơ sở đoạn kiến.
Suy nghĩ như vậy, nên Channa vội
tìm đến A Nan Ða để nhờ giải tỏa những thắc mắc trong tâm.
A Nan Ða liền nhắc cho Channa
nhớ rằng: Chính đức Thế Tôn đã từng dạy: Khi một sự thắc mắc như thế nổi lên
trong tâm tư một hành giả là khi trình độ tu tập của người ấy đang tiến tới bậc
cao, chuẩn bị đột phá bức tường cuối cùng của cái vòng sinh tử luân hồi. Bức
tường ấy là sự Chấp Hữu (cho là có) và Chấp Vô (cho là không)...
Rồi A Nan Ða thuyết lại trọn bài
pháp nói về Hữu và Vô của đức Phật đã chỉ giáo, cho Channa nghe. Khi chỉ nghe
lại đoạn mở đầu, Channa chợt cảm thấy giải tỏa trong lòng. ông chăm chú nghe
trọn bài pháp một cách càng lúc càng hoan hỷ. Ðoạn ông tán dương những lời Phật
dạy do A Nan Ða nhắc lại, như sau:
- Thật là tuyệt diệu được nghe
chánh pháp! Thật là may mắn cho tiểu đệ có một sư huynh thông thái như bậc
thầy. Nếu sự hoài nghi trước đây đã làm cho tâm đệ bị mê mờ, bị cùng quẩn, suýt
trở thành bất trị, thì bây giờ nghe lại chân lý, tâm hồn đệ đang được soi sáng,
đắc rõ chính đạo. (Theo Samgutta Nikàya 12-15-22-90: Tạp A Hàm các đoạn
12-15-22-90).