Chương
V: Thiền Phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi
HÀNH TRANG VÀ TRUYỀN THỪA
Theo Thuyền Uyển Tập Anh, “Thiền Sư Tỳ Ni Ða Lưu Chi là dòng
Bà La Môn, gốc ở Nam Thiên Trúc, vân du qua Trung Hoa; vào năm Nhâm ngọ
(562) niên hiệu Ðại Kiến thứ sáu nhà Trần thì đến Trường An. Vào năm 574
sau khi Phật giáo bị Võ Ðế đàn áp, ông đi về đất Nghiệp (Hồ Nam). Hồi
đó, tổ thứ ba của Thiền tông Trung Hoa là Tăng Xán đang bị nạn ở đây, ẩn
tại núi Tư Không. Khi Tỳ Ni Ða Lưu Chi gặp tổ Tăng Xán, thấy phong độ
phi phàm, liền chăp tay ba lần, tổ vẫn ngồi yên không nói nói năng gì.
Trong lúc đứng chờ suy tư, tâm bổng mở ra như có chổ sở đắc, ông liền
lạy xuống ba lạy. Tổ cũng chỉ gật đầu ba cái mà thôi. Ông lùi ba bước,
thưa rằng: đệ tử từ trước tới nay chưa có cơ hội, xin hòa thượng từ bi
cho đệ tử được theo hầu bên tả hữu. Tổ nói: ông mau mau đi về phương Nam
tiếp xúc với thiên hạ, không nên ở lâu tại đây. Ông liền từ biệt tổ đi
về phương Nam, ở lại chù Chế Chỉ ở Quảng Châu. Ðây là vào khoảng niên
hiệu Ðại Ðế thứ sáu. Ông dịch được một số kinh như Tượng Ðầu và Báo
Nghiệp Sai Biệt. Ðến tháng Ba năm Canh tý niên hiệu Ðại Tường thứ hai
(580), vào đến nước ta, ở tại chùa này (Pháp Vân Tự), lại dịch thêm kinh
Tổng Trì.
Thiền sư Tỳ Ni Ða Lưu Chi cũng đã được nói tới trong sách
Thích Thị Thông Giám của Thích Bản Giác viết năm đời Tống, tương đương
với nhà Lý Việt Nam. tuy nhiên những chi tiết ở đây không được phù hợp
hoàn toàn với sách Thiền Uyển. Theo Thích Thị Thông Giám thì năm 582, Tỳ
Ni Ða Lưu Chi vào ở lại đất Tùy để dịch kinh. “Tùy Văn Ðế vào năm Nhâm
dần (582) triệu Pháp Trí (Người Ấn, tên Phạn ngữ là Dharmajnana) đến
kinh đô dịch kinh. Lúc đó lại có Tỳ Ni Ða Lưu Chi, tên Hán tự là Diệt
Hỷ, mới qua; vua cũng triệu vào dịch kinh. Tháng hai năm ấy, Diệt Hỷ
dịch xong kinh Tượng Ðầu. Tháng ba Pháp Trí dịch xong kinh Nghiệp Báo
Sai Biệt. Tháng bảy Diệt Hỷ lại dịch xong kinh Tổng Trì.
Như vậy, theo Thích Thị Thông Giám, kinh Nghiệp Báo Sai Biệt
(Thuyền Uyển Tập Anh chép nhầm la Báo Nghiệp Sai Biệt) là do Pháp Trí
dịch chứ không phải do Tỳ Ni Ða Lưu Chi. Ðiều này chắc đúng, bởi kinh
Nghiệp Báo Sai Biệt trong Ðại Tạng hiện mang tên Pháp Trí là dịch giả.
Cũng theo Thích Thị Thông Giám, Tỳ Ni Ða Lưu Chi đã dịch xong kinh Tổng
Trì tại Trung Hoa mà không phải tại Việt Nam như Thuyền Uyển Tập Anh đã
nói.
Nếu Thích Thị Thông Giám nói đúng, thì Tỳ Ni Ða Lưu Chi vào
Việt Nam sau năm 582. Nhưng ta không chắc gì sách Thích Thị Thông Giám
nói về niên đại Tỳ Ni Ða Lưu Chi đúng hơn sách Thuyền Uyển Tập Anh, vì
lẽ liên hệ của Tỳ Ni Ða Lưu Chi với sách Thuyền Uyển quan trọng hơn với
sách Thích Thị Thông Giám nhiều.
Thiền sư Thông Biện, theo Thuyền Uyển Tập Anh, đã trích dẫn
lời của pháp sư Ðàm Thiên nói về Tỳ Ni Ða Lưu Chi: “Nay lại có Pháp Hiền
thượng sĩ, đắc pháp với Tỳ Ni Ða Lưu Chi, truyền bá tông chỉ của tam
Tổ, là một vị Bồ Tát sống, cư trú tại chùa Chúng Thiện, dạy dỗ giáo hóa
đồ chúng có hơn 300 người, không thua gì ở Trung Quốc”[1]. Thông Biện
dẫn chứng chuyện của pháp sư Ðàm Thiên nhưng không cho biết là chuyện
này chép ở sách nào. Như đã nói chuyện của pháp sư Ðàm Thiên trong các
tác phẩm như Phật Tổ Thống Kỷ, Thích Thị Thông Giám, vv... không có đoạn
văn nào mà Thông Biện trích dẫn. Các sách Cao Tăng Truyện và Tục Cao
Tăng Truyện đều không chép về Ðàm Thiên vì lẽ các sách ấy được viết
trước thời đại Ðàm Thiên [2].
Theo Thuyền Uyển Tập Anh, Tỳ Ni Ða Lưu Chi đã nghe lời tổ Tăng
Xán xuống phương Nam hành đạo và do đó đã dịch các kinh Tượng Ðầu và
Nghiệp Báo Sai Biệt tại chùa Chế Chi ở Quảng Châu và sau khi tới chùa
Pháp Vân ở làng Cổ Châu, Long Biên, mới bắt đầu dịch kinh Tổng Trì.
Thuyền Uyển Tập Anh nói rõ rằng ông đến chùa Pháp Vân vào tháng Ba năm
Giáp dần (594) thì tịch. Thời gian ông lưu trú tại Việt Nam như vậy là
14 năm.
Khi ông qua tới chùa Pháp Vân thì ở đây đã có một vị thiền sư
Việt Nam tên là Quán Duyên đang dạy thiền học cho đồ chúng. Ông ở lại
đây và chọn thiền sư Pháp Hiền làm đệ tử. Pháp Hiền từ trước đã có học
thiền học với Quán Duyên.
Sau đây là bảng liệt kê mười chín thế hệ của thiền phái Tỳ Ni
Ða Lưu Chi:
Thế hệ 1: Tỳ Ni Ða Lưu Chi (mất 594)
Thế hệ 2: Pháp Hiển (mất 624)
Thế hệ 3: Huệ Nghiêm, người truyền pháp cho Thanh Biện của thế
hệ thứ tư. Huệ Nghiêm là một trong 300 học trò của Pháp Hiển, sống đồng
thời với Pháp Ðăng, trước vốn là thầy của Thanh Biện. Huệ Nghiêm ở chùa
Sùng Nghiệp, còn Pháp Ðăng ở chùa Phổ Quang có thể Pháp Ðăng cũng là
học trò của Pháp Hiển.
Thế hệ 4: Thanh Biện (mất 686)
Thế hệ 5: một người, khuyết lục.
Thế hệ 6: một người khuyết lục.
Thế hệ 7: Long Tuyề, chùa Nam Dương
Thế hệ 8: Ðịnh Không (mất 808) và hai người khuyết lục
Thế hệ 9: Thông Biện và hai người khuyết lục, trong số này có
thể có Phù Trì chùa Long Thọ, thầy của Pháp Thuận.
Thế hệ 10: La Quý An (mất 979), Pháp Thuận (mất 991), Mahamaya
(mất 1029) và một người khuyết lục (có thể và Vô Ngại, thầy của Sùng
Phạm)
Thế hệ 11: Thiền Ông (mất 979), Sùng Phạm (mất 1087) và hai
người khuyết lục (có thể là Trí Hiền, giáo sư của Ðạo Hạnh và Pháp Bảo,
thầy của Thuần Chân).
Thế hệ 12: Vạn Hạnh (mất 1018), Ðinh Tuệ (mất?), Ðạo Hạnh (mất
1112), Trì Bát (mất 1117), Thuần chân (mất 1101) và hai vị khuyết lục.
Thế hệ 13: Huệ Sinh (mất 1063), Thiền Nham (mất 1163), Minh
Không (mất 1141), bản tịch (mất 1140) và hai người khuyết lục (có thể là
Pháp Thông bạn đồng môn của Huệ Sinh và Biện Tài, giáo sư của Khánh
Hỷ).
Thế hệ 14: Khánh Hỷ (1142) và bốn vị khuyết lục trong đó có
thể là tính nhãn và Tính Như, hai người bạn đồng môn, và Quảng Phúc,
thầy của Giới Không.
Thế hệ 15: Giới Không (mất?), Pháp Dung (mất 1174) và một
người khuyết lục, có lẽ là Thảo Nhất chùa Tĩnh Lự, thầy của Chân Không.
Thế hệ 16: Trí (mất?), Chân Không (mất 1100), Ðạo Lâm (mất
1203).
Thế hệ 17: Diệu Nhân (mất 1113), Viên Học (mất 1136), Tĩnh
Thiền (mất 1193) và một người khuyết danh, có lẽ là Viên Học, người đã
chỉ dạy Viên Thông(*).
Thế hệ 18: Viên Thông (mất 1151) và một người khuyết lục, có
lẽ là Ðịnh Hương thầy của Y Sơn.
Thế hệ 19: Y Sơn (mất 1213) và một người khuyết lục.
BỐI CẢNH TƯ TƯỞNG CỦA TỲ NI ÐA LƯU CHI
Cuốn kinh đầu tiên mà Tỳ Ni Ða Lưu Chi phiên dịch là cuốn kinh
Tượng Ðầu Tinh Xá, một cuốn kinh có tính chất Thiền học và mang mầu sắc
của văn hệ Bát Nhã. Kinh này nói về bản chất của giác ngộ, tức là bồ
đề. Ðây là mọt vài đoạn chọn trong những đoạn quan trọng nhất của kinh.
“Phật bảo Văn Thù Sư Lợi: Bồ đề siêu việt tam giới, siêu việt
ngôn ngữ, siêu việt văn tự, không cần địa điểm nương tựa. Lại nữa Văn
Thù, an trú vào nơi không an trú tức là an trú ở bồ đề; an trú ở nơi
không chấp trước tứ c là an trú bồ đề; an trú ở pháp không tức là an trú
nơi nơibồ đề; an trú nơi chân lý tất-cả-các-pháp-không-có-tướng tức là
an trú nơi bồ đề; an trú nơi không tăng - không giảm tức là an trú nơi
bồ đề...”.
“Lại nữa dạy về các phép thiền quán, nhất là mười phương pháp
thiền quán nội ngoại để phá trừ các chấp trước: 1) quán nội giới của
thân là không; 2) quán ngoại giới của thân là không; 3) quán các pháp
trong và ngoài đều không; 4) không bị chấp trước vào nhất thiết trí; 5)
không bị chấp trước vào những phương tiện tu hành; 6) không bị chấp
trước vào các địa vị tu chứng của các bậc hiền thánh; 7) không chấp
trước vào sự thanh tịnh đạt được do sự hành đạo lâu ngày; 8) an trú ở
Bát Nhã Ba La Mật; 9) không bị chấp trước vào công việc giảng luận giáo
hóa; 10) quán các chúng sinh phát khởi lòng từ bi lân mẫn.
Tỳ Ni Ða Lưu Chi qua Trung Hoa năm 562, đến năm dịch kinh này
(582 theo Thích Thị Thông Giám) là 20 năm, cố nhiên lúc đó Hán văn của
ông đã giỏi lắm rồi. Thời gian đạo Phật bị Võ Ðế nhà Bắc Chu đàn áp là
từ năm 574 đến 577. Chính trong thời gian này mà ông gặp được Tăng Xán
đang lánh nạn tại núi Tư Không, và chắc hẵn là cuộc gặp gỡ đã có ảnh
hưởng trong sự chọn lựa kinh này để dịch, bởi Tăng Xán chuyên về Thiền
học. Tỳ Ni Ða Lưu Chi chịu ảnh hưởng của Tăng Xán khá sâu đậm; sự ảnh
hưởng này thấy rõ trong lời dặn của ông dặn lại đệ tử Pháp Hiển trước
khi viên tịch: “Tâm ấn của chư Phật không lừa dối ta đâu; tâm ấy tròn
như núi thái hư, không thiếu không dư, không đi không tới, không được
không mất, không nhất nguyên, không đa nguyên, không thường không đoạn,
vốn không sinh ra cũng không diệt mất... (lược). Khi Tăng Xán ấn cho ta
tâm này thì có bảo ta nên gấp về phương Nam mà giao tiếp.. “Những chữ
tròn đầy như thái hư, không thiếu không dư” (viên đồng thái hư, vô
khuyết vô dư) là hai câu mà ta thấy trong bài ca Tín Tâm Minh rất có giá
trị của Tăng Xán:
Viên đồng thái hư
Vô khuyết vô dư
Lương do thủ xả
Sở dĩ bất như
Thấy ảnh hưởng đó của Tăng Xán nơi Tỳ Ni Ða Lưu Chi, ta có thể
tin rằng vị sau này đã nghe lời Tăng Xán đi về phương Nam và dịch kinh
Tượng Ðầu tại chùa Chế Chỉ ở Quảng Châu, sát bên Giao Châu. Cố nhiên là
ông đã có mang theo bên mình nhiều bản Phạn ngữ mà ông ưa thích, trong
đó có kinh Tượng Ðầu Tinh Xá và kinh Tổng Trì. Như vậy là trước khi qua
Trung Hoa, ông đã có nghiên cứu về Bát Nhã, Thiền học (kinh Tượng Ðầu)
và Mật Giáo (kinh Tổng Trì).
Ta nên biết Mật Giáo có liên hệ mật thiết với Thiền tông. Tỳ
Ni Ða Lưu Chi là một trong những người đã dùng danh từ tâm ấn sớm nhất
trong lịch sử thiền, mà danh từ này đã phát xuất từ các kinh điển Mật
Giáo. Kinh Ðại Nhật, kinh căn bản của Mật Tông, nói như sau về tâm ấn:
“Ðối với mọi lời giáo huấn của Phật không có gì là không nắm được tinh
yếu; nếu có thể giữ gìn được tâm ấn ấy để mở rộng tất cả các pháp môn,
đó gọi là người đã thông đạt được tam thừa”. Tâm ấn ở đây là tinh yếu
mật ý của kinh Ðại Nhật.
Trong giới thiền gia, danh từ tâm ấn sau này có nghĩa là đối
tượng của sự trao truyền trực tiếp từ thầy sang trò. Ấn có nghĩa là
quyết định hay là khuôn dấu tượng trưng cho sự chân truyền và chính
thống. Sự trao truyền tinh yếu của giác ngộ được thực hiện bằng tâm,
được thực hiện giữa tâm với tâm, không cần đi qua bất cứ mọt trung gian
nào, đó gọi là tâm ấn. Khi Tỳ Ni Ða Lưu Chi nói rằng Tăng Xán đã ấn cho
ông cái tâm ấn của chư Phật, tức là ông nhận Tăng Xán là người đã giúp
ông giác ngộ.
Tượng Ðầu Tinh Xá Kinh chắc chắn đã được phổ biến và sử dụng ở
Giao Châu thời ấy: kinh này có thể xem như là kinh căn bản của Thiền
học sử dụng trong thiền viện Pháp Vân mà trong các tòng lâm thiền phái
Tỳ Ni Ða Lưu Chi như tòng lâm Thiền Chúng, nơi đó có 300 tăng sĩ học tập
thiền quán dưới sự chỉ dẫn của thiền sư Pháp Hiển. Kinh Tượng Ðầu Tinh
Xá có đặc tính phá chấp của văn hệ bát nhã và đặc biệt chú trọng thiền
quán. Lục tổ Huệ Năng là người đầu tiên ở Trung Hoa dùng một kinh thuộc
văn hệ bát nhã (kinh Kim Cương) trong sự giảng dạy Thiền học - lúc đó,
Kinh Lăng Già là kinh được thị bậc nhất trong giới thiền gia - Sự sử
dụng kinh Tượng Ðầu Tinh Xá ở Giao Châu cho ta thấy sự liên hệ giữa văn
hệ bát nhã vàThiền học ở Giao Châu đã có sớm hơn ở Trung Hoa một thế kỷ.
Kinh Lăng Già là một cuốn kinh được Bồ Ðề Ðạt Ma trao cho Huệ Khả và
được truyền lại cho các tổ kế tiếp. Kinh Tượng Ðầu Tinh Xá nói về không,
thuộc hệ thống bát nhã, đã được dùng để bổ túc cho kinh Lăng Già. Vua
Lý Thái Tông đã tỏ ra rất tinh tường trong bài thơ mà vua làm để cho
truy tán Tỳ Ni Ða Lưu Chi.
Trăng Lăng Già vằng vặc
Sen Bát Nhã ngạt ngào
Bao giờ được tương kiến
Ðàm đạo huyền cùng nhau?
(Hạo hạo Lăng Già nguyệt
Phân phân Bát Nhã liên
Hà thời đắc tương kiến
Tương dữ thoại trùng huyền?)
SIÊU VIỆT NGÔN NGỮ VĂN TỰ
Kinh Tượng Ðầu Tinh Xá nói về bản chất của giác ngộ (tức là bồ
đề) như một cái gì không thể dùng lời nói và chữ viết để diễn tả được:
“Văn Thù Sư Lợi ơi, bồ đề siêu việt ngôn ngữ, siêu việt văn tự, không
cần điểm tựa”. Quan niệm này phù hợp với quan niệm tâm ấn của kinh Ðại
Nhật bên Mật Giáo: kinh điển là thánh giáo, tinh yếu của thánh giáo là
tâm ấn; tâm ấn do đó cũng siêu việt kinh điển và thánh giáo. Chính căn
cứ trên điểm này mà Ðề Ðạt Ma, hồi mới qua Ngụy, đã tuyên bố rằng tuệ
giác của ông “được truyền lại độc lập với kinh giáo, không căn cứ trên
văn tự, đi thẳng vào tâm người, thấy được tự tính và thành Phật” (giáo
ngoại biệt truyền, bất lập văn tự, trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành
Phật). Ðề Ðạt Ma qua Ngụy vào khoảng đầu thế kỷ thứ sáu; tuy tuyên bố
như vậy nhưng ông vẫn đem bên mình một bản kinh Lăng Già mà ông trao lại
cho Huệ Khả, và Huệ Khả trao lại cho Tăng Xán. Tỳ Ni Ða Lưu Chi khi đến
Giao Châu đã dụng kinh Tượng Ðầu Tinh Xá để làm căn bản cho sự hành
thiền ở đây. Thiền không bị ràng buộc vào ngôn ngữ văn tự nhưng thiền ở
trách nhiệm chưa từng có thái độ druồng bỏ khinh khi văn tự: trong thiền
môn, kinh điển vẫn thường được đem ra nghiên cứu giảng dạy. Có điều là
trong khi giảng dạy kinh điển, các thiền sư luôn nhắc đến rằng các thiền
giả không nên ràng buộc trong ngôn ngữ và khái niệm. Kinh điển là những
phương tiện giúp thiền giả hành đạo: mục đích của thiền giả là giác ngộ
chứ không phải là chứa chấp kiến thức. Cái biết giác ngộ khác với cái
biết khái niệm. Khi Tỳ Ni Ða Lưu Chi gặp Pháp Hiền, thấy người khác
thường, ông liền nhìn vào mặt Pháp Hiền và hỏi: “Thầy tính (họ) gì? (lúc
mới qua Giao Châu, cố nhiên ông chưa nói được tiếng Việt, do đó các
cuộc đàm thoại chắc bằng tiếng Tàu. Chữ Tính có nghĩa là họ, cũng có
nghĩa là thể tính) Pháp Hiền hỏi lại: “ Hòa thượng tính gì?” Tỳ Ni Ða
Lưu Chi hỏi lại: “Thầy không có tính à?” Pháp Hiền nói: “Tính thì sao
lại không có, nhưng hòa thượng làm thế nào để biết?” Tỳ Ni Ða Lưu Chi
liền quát “Biết để làm gì?” Pháp Hiền bổng tỉnh ngộ, sụp xuống lạy, và
nhận được tông chỉ.
Ban đầu Tỳ Ni Ða Lưu Chi chỉ muốn hỏi tên họ của Pháp Hiền.
Nhưng Pháp Hiền lại muốn đưa câu chuyện lên bình diện triết học. Ông hỏi
“hòa thượng tính gì?” tức là đàm luận về thể tính của tâm. Nhưng Tỳ Ni
Ða Lưu Chi một mực từ chối không muốn đi vào cuộc đàm luận về thể tính
học. Ông hỏi lại câu hỏi đơn giản “tôi muốn biết thầy tên gì sao thầy
không nói? Thầy không có tên sao?”. Pháp Hiền vẫn cứng đầu muốn đứng
trên bình diện đàm luận thể tính. Ông nói: “thể tính thì ai lại không
có, nhưng hòa thượng làm cáh nào đẻ biết được thể tính đó?”. Tới đây Tỳ
Ni Ða Lưu Chi giáng cho Pháp Hiền một đòn sinh tử. Ông quát “biết để làm
gì?”. Ý muốn nói: cái biết khái niệm mà ông đang đi tìm đó không có mảy
may ích lợi gì cho ông hết. Cái biết của sự tỉnh thức giác ngộ không
phải là cái biết có tính cách kiến thức. Vì là người lanh lợi, nên Pháp
Hiền đã bừng thấy được sự thực.
Cuộc đàm thoại giữa Huệ Nghiêm (thế hệ thứ ba và thứ tư của
thiền phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi) cho ta thấy rõ tinh thần siêu việt văn tự
của thiền. Thanh Biện rất say mê kinh Kim Cương Bát Nha Ba La Mật, nhưng
vì đã học kinh này theo kiểu từ chương, nên ông không đạt được tinh yếu
của kinh. Ông tìm đến Huệ Nghiêm tại chùa Sùng Nghiệp. Huệ Nghiêm hỏi:
“Theo ông thì ai đã nói ra kinh này?” Thanh Biện nói: “Không phải chính
Phật thích Ca Như Lai đã nói kinh này sao?” Huệ Nghiêm: “Trong kinh có
câu: “Nếu ai cho rằng Như Lai có thuyết pháp, kẻ ấy là người bài báng
Phật, không hiểu điều ta muốn nói”. Vậy ông hãy suy nghĩ cho chín đi:
nếu nói kinh này không phải là của Phật thuyết thì là báng kinh, nếu nói
kinh này là do Phật thuyết thì là báng Phật. Ông hiểu như thế nào, nói
mau, nói mau!” Thanh Biện mở miệng định nói thì Thanh Biện lấy chiếc
phất trần đánh ngay một cái vào miệng. Thanh Biện bỗng nhiên tỉnh ngộ,
cúi xuống làm lễ.
SIÊU VIỆT HỮU VÔ
Tín Tâm Minh của Tăng Xán chịu ảnh hưởng rất nhiều của giáo lý
Hoa Nghiêm và Tam Luận. Ðối với vấn đề hữu thể và vô thể, kinh Hoa
Nghiêm (Avatamsaka) đi từ nguyên lý duyên sinh (sự sinh diệt của hiện
tượng tùy thuộc nhiều điều kiện) đến nguyên lý trùng trùng duyên khởi
(các điều kiện liên hệ với nhau lớp này sang lớp khác đi về vô tận) để
kết luận rằng một là tất cả, tất cả là một. Siêu việt một lần trong các
quan niệm hữu, vô, nhất nguyên và đa nguyên. Tư tưởng Tam luận là kết
quả hệ thống tư tưởng hóa tư tưởng Bát Nhã do Long Thọ và Ðề Bà ở thế kỷ
thứ hai xiển dương trong ba bộ luận Trung Luận, Bách Luận và Thập Nhị
Môn Luận. Tư tưởng này mang màu sắc mọi biện chứng pháp nhằm đến đánh đổ
và vô lý hóa mọi quan niệm về hữu, vô, sinh, diệt v.v... mở đường cho
trí tuệ phi khái niệm tức là vô phân biệt trí, hoặc tuệ giác bồ đề. Kinh
Tượng Ðầu Tinh Xá là một thiền kinh đại thừa, trong đó tư tưởng siêu
việt hữu vô cũng rất rõ rệt. “Bậc trí giả phải lấy thiền làm thể, thiền
trí phải bình đẳng không phân biệt (theo lề thói khái niệm), vì phân
biệt chỉ là phương tiện. Phải quán ngũ ấm, lục nhập, thập bát giới, thập
nhị nhân duyên, sự lưu chuyển sinh tử và các hình tướng thiện ác là
huyễn hóa, không phải hữu cũng không phải vô” (Tượng Ðầu Tinh Xá Kinh).
Ðoạn kinh này vừa nhấn mạnh đến trí tuệ vô phân biệt như công cụ duy
nhất có thể làm chứng nhận thực tại vừa nhấn mạnh đến bản chất duyên
sinh hư huyễn và phi hữu phi vô của vạn pháp. Tỳ Ni Ða Lưu Chi cố nhiên
là đại diện cho tư tưởng Thiền học đại thừa này. Lời của ông với Pháp
Hiền về tâm pháp trước khi tịch chứng tỏ điều đó: “tròn như thái hư,
không thiếu, không dư, không đi, không tới, không được, không mất, không
nhất nguyên, cũng không đa nguyên, không thường cũng không đoạn, không
sinh cũng không diệt”. Ðó thực là thuần túy tư tưởng tam luận, siêu việt
mọi khái niệm đối lập hữu vô, nhất dị, lai khứ, sinh diệt, thường đoạn.
Thiền sư Huệ Sinh (mất 1063) thuộc thế hệ thứ 13 thiền phái Tỳ
Ni Ða Lưu Chi, từng được phong tăng thống, trong một kệ trình vua Lý
Thái Tông đã nói rõ về quan niệm siêu việt hữu vô của thực tại. Một hôm
vua Lý Thái Tông mời các cao tăng thọ trai; nhân dịp vua xin mỗi người
một bài thi kệ ngắn để tỏ bày kiến giải về đạo Phật. Khi mọi người còn
đang suy nghĩ thì vua đã làm xong một bài kệ như sau:
Bát Nhã vốn không tông
Nhân không, ngã cũng không
Ba đời các đức Phật
Pháp tính vốn chung đồng
(Bát Nhã chân vô tông
Nhân không ngã diệc không
Quá hiện vị lai Phật
Pháp tính bản lai đồng)
Bài kệ nói về bản tính không (sunyata) của nhân, của ngã, của
tông bát nhã, và của cả các chư Phật trong hiện tại và vị lai. Bài kệ có
tính lặp lại những kiến thức thu lượm trong các kinh Bát Nhã. Thiền sư
Huệ Sinh liền trình vua bài kệ sau đây, trong đó ta thấy rõ tính cách
siêu việt cả không và hữu:
Pháp cũng như vô pháp
Không hữu cũng không không
Nếu đạt được lẽ ấy
Chúng sinh với Phật đồng
Trăng Lăng Già lặng chiếu
Thuyền vượt biển trống không
Không cũ không như có
Ðịnh Tuệ chiéu vô cùng.
(Pháp bản như vô pháp
Phi hữu diệt phi không
Nhược nhân tri thử pháp
Chúng sinh với Phật đồng
Tịch tịch Lăng Già nguyệt
Không không độ hải chu
Trí không không, giác hữu
Tam muội nhậm thông chu)
Ðây là một bài kệ rất sâu sắc thuộc loại siêu đẳng trong kho
tàng văn hóa Phật Giáo. không những đứng vững về phương diện tư tưởng mà
đứng về phương diện văn học, hình ảnh một chiếc thuyền trống không lặng
lẽ vượt biển dưới ánh trăng tịch tĩnh của Lăng Già là một hình ảnh màu
nhiệm. Thiền sư Huệ Sinh đã bắt đầu bằng quan niệm pháp (sự vật) phù hợp
với tinh thần bát nhã: nếu pháp là một sự tập hợp của nhiều điều kiện
và không có một bản chất hay tự tính trong bản thân nó, thì pháp ngang
với vô pháp, và vì vậy những thuộc tính hữu và không không thể gán cho
nó được (pháp cũng như vô pháp, không hữu cũng không không). Nếu đạt
được chân lý đó - đạt bằng thực chứng mà không phải nắm bắt bằng khái
niệm - thì sẽ không thấy gì khác nhau giữa chúng sinh (người không giác
ngộ) và Phật (người giác ngộ) nữa. Trong thế giới thực tại của chân lý
ấy, mọi ngôn ngữ khái niệm không còn hiệu lực gì nữa, tất cả đều lặng
yên: dưới ánh sáng trầm lặng của mặt trăng Lăng Già, tượng trưng cho trí
tuệ giác chiếu, một chiếc thuyền vượt biển, trong lòng chiếc thuyền
tuyệt đối không mang theo ai, không mang theo gì. Ở đây Phật và chúng
sinh là một, không có người mê, không có người ngộ, không có người cứu
độ, không có người được cứu độ, không có ai qua bờ.
Hai câu cuối đối trị lại khuynh hướng chống đối giữa không và
hữu, nhằm gỡ vua Lý Thánh Tông ra khỏi sự bám víu vào khái niệm không mà
vua đã học được trong Bát Nhã. Thiền sư nói “sau khi biết không cũng là
không, thì mới thực sự biết có là gì” (trí không không giác hữu). Bởi
chấp vào không thì cũng hại cũng như chấp vào có; nếu thoát khỏi không,
biết không cũng không thì có cũng sẽ không ràng buộc được ta nữa. Có như
vậy thì công phu thiền định mới không bị kẹt (tam muội nhậm thông chu).
Thiền sư Ðạo Hạnh (mất 1112) thuộc thế hệ thứ 12 của thiền
phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi cũng có một bài kệ rất sâu sắc về vấn đề siêu việt
không hữu:
Có thì có tự mảy may
Không thì cả vũ trụ này cũng không
Có, không bóng nguyệt lòng sông
Cả hai tuy vậy chẳng không chút nào
(Tắc hữu trần sa hữu
Vi không nhất thiết không
Hữu không như thủy nguyệt
Vật trước hữu không không)
Hai câu đầu “nói có thì từ hạt bụi hạt cát đều có, nói không
thì cả vũ trụ đèu không” phản chiếu trung thực tư tưởng Hoa Nghiêm. Câu
thứ ba “ có và không đối nhau và nương tựa nhau như bóng nguyệt dòng
sông”. Câu thứ tư nhằm vào sự ngăn ngừa không để người ta mắc vướng vào
sự chấp không: “đừng bị mắc kẹt vào cái không của có và không” (vật
trước hữu không không).
YẾU TỐ MẬT GIÁO
Theo Thuyền Uyển Tập Anh, Tỳ Ni Ða Lưu Chi đã dịch kinh Ðại
Thừa Phương Quảng Tổng Trì tại chùa Pháp Vân.
Kinh Tổng Trì là một kinh về Mật Giáo. Sự có mặt của yếu tố
Mật Giáo trong thiền phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi là một trong những đặc điểm
của thiền phái này.
Mật Giáo là giai đoạn phát triển thứ ba của tư tưởng Phật Giáo
đại thừa ở Ấn Ðộ ( giai đoạn thứ nhất là Bát Nhã, giai đoạn thứ hai là
Duy Thức). Giai đoạn này bắt đầu từ thế kỷ thứ tư, trở nên hưng thịnh từ
đầu thế kỷ thứ sáu, đến giữa thế kỷ thứ tám thì được hệ thống thống hóa
trong một truyền thống gọi là Kim Cương thừa (Varayana). Từ Kim Cương
thừa xuất hiện nhiều hệ thống mật giáo, trong đó có hệ thống Sahajayana
mà giáo lý và thực hành rất giống với thiền, nhấn mạnh đến sự quan trọng
của thiền tọa, của trực giác bồ đề, và sử dụng những hình ảnh cụ thể và
những mật ngữ để khai mở trí tuệ giác ngộ.
Mật Giáo bắt đầu từ tư tưởng thâm sâu của Bát Nhã đồng thời
cũng bắt đầu từ những tín ngưỡng nhân gian Ấn Ðộ. Về phương diện này,
Mật Giáo chấp nhận sự có mặt của những thần linh được thờ phượng trong
dân gian, và như thế khiến cho đạo Phật phát triển rộng trong sinh hoạt
quần chúng. Ở Giao Châu khuynh hướng này rất phù hợp với sinh hoạt tín
ngưỡng và phong tục người Việt, vì vậy cho nên Mật Giáo đã trở nên một
yếu tố khá quan trọng trong sinh hoạt thiền môn.
Ðứng về phương diện tư tưởng, Mật Giáo là một phản ứng đối với
khuynh hướng quá thiên trọng tri thức và nghiên cứu các hệ thống Bát
Nhã và Duy Thức. Theo Mật Giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực
siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có
thể đi rất mau trên con đường giác ngộ thành đạo, khỏi phải đi tuần tự
từng bước. Sự giác ngộ cũng có thể thực hiện trong giây phút hiện tại.
Sự sử dụng thế lực của thần linh, sự sử dụng thần chú, ấn quyết và các
hình ảnh mạn đà la [3] có thể hổ trợ đắc lực cho thiền quán hành đạo.
Chính vì khuynh hướng này của Mật Giáo mà Phật giáo đã bao trùm trong
mọi tín ngưỡng bình dân trong lòng nó, ở Ấn Ðộ, cũng như ở Việt Nam. từ
ngữ Tổng Trì nguyên làdharani (đà la ni) trong Phạn ngữ, có nghĩa là nắm
giữ, duy trì và ngăn ngừa. Sách Ðại Trí Ðộ Luận
(Mahapra-jnaparanita-sastra) của Long Thọ (Nagarjuna) viết vào thế kỷ
thứ hai nói: “đà la ni có nghĩa là duy trì và ngăn ngừa: duy trì làduy
trì những thiện pháp không để cho thất lạc, như một cái bình nguyên vẹn
có thể chứa nước không để nước rịn ra; ngăn ngừa là ngăn ngừa những ác
pháp không cho phát sinh, nếu có khuynh hướng tạo tạo tội ác thì ngăn
ngừa không cho tạo tắc: đó là đà la ni”. Có bốn loại đà la ni, tức là
bốn loại tổng trì: pháp, nghĩa, chú và nhẫn: Pháp đà la ni là duy trì
những điều học hỏi về phật pháp, không cho tán thất. Nghĩa đà la ni là
duy trì yếu nghĩa của các giáo pháp không để cho quên mất. Chú đà la ni
là duy trì các thần chú không để quên mất. Thần chú là những lời nói bí
mật được phát sinh trong khi ngồi thiền định, những mật ngữ này có những
hiệu lực linh nghiệm không thể đo lường được. Nhẫn đà là ni là an trú
trong thực tướng của vạn pháp không để tán loạn.
Tổng trì, như thế, có thể liên hệ rất nhiều tới thiền định.
Kinh Tổng trì của Mật Giáo đã được dùng cho nhiều thiền giáo ngay từ
buổi khởi đầu của thiền phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi. Tỳ Ni Ða Lưu Chi rời Ấn
Ðộ vào khoảng bán thế kỷ thứ sáu, và đã thừa kế tinh thần mật giáo: ông
đem theo với ông ít nhất là một cuốn kinh Mật Giáo bằng Phạn ngữ. Ta nên
nhớ Mật tông ở Trung Hoa được thành lập vào thế kỷ thứ tám. Ba vị sư Ấn
Ðộ là Subhakarasimha (637-735) Vajrabodhi (670) và Amoghavajra
(705-775) đã mang Mật Giáo vào Trung Hoa trong thế kỷ này và đã gây ảnh
hưởng lớn tại triều đình nhà Ðường. Các vua Ðường đã nhừo tới Mật Giáo
yểm trợ và che chở, cũng giống như các vua nhà lý Việt Nam vậy. Ông Hà
Văn Tấn (trong tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 76 tháng 7 năm 1965 xuất
bản tại Hà Nội) cho biết vào khoảng năm 1963, tại làng Trường Yên thuộc
kinh đô HoaLư cũng của nhà Ðinh, người ta đã đào được một cây bia đá,
trên bia có khắc câu kệ và chú Ðà La Ni, dựng vào năm 973 đời Ðinh. Bia
này là một trụ đá có tám mặt, một mặt rộng sáu phân rưỡi. Trên mỗi mặt
biađều có khắc chữ Hán, bắt đầu bằng câu “Phật Ðính Tối Tắng Già Cú Linh
Nghiệm Ðà La Ni”, ghi là do Tinh Hải Quân Tiết Chế Nam Việt Vương Ðinh
Liễn tạolập. Lại phát hiện một kinh tạng dựng năm 995 thời Lê Ðại Hành
có một bài kệ với những câu sau đây:
Chư thiên thường Phạn ngữ thanh
Văn niệm Phật đỉnh Ðà La Ni
Tắc đắc cụ túc trai giới
Những tài liệu trên cho biết sự thực hành trì chú của Mật Giáo
rất được phổ thông qua các triều đại Ðinh và Tièn Lê vậy.
Nhưng Tỳ Ni Ða Lưu Chi không phải là nguồng gốc duy nhất cho
yếu tố Mật Giáo của thiền phái mang tênông. Yếu tố Mật Giáo còn thâm
nhập do những ngõ ngáhc khác: sự du học của các tsvn ở Ấn Ðộ, ảnh hưởng
của Phật Giáo Chiêm Thành và sự viếng thăm crnx thiền sư Mật Giáo ngoại
quốc.
Trong số những người đi du học Ấn Ðộ, có thiền sư Sùng PHạm
(mất 1087) đệ tử của thiền sư Vô Ngại tại chùa Hương Thành. Sùng Phạm
thuộc thế hệ 11 thiền phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi. Ông ở lại Ấn Ðộ chín năm,
sau khi về nước ông mở trường dạy tại chùa Pháp Vân, đẹ tử theo học drất
đông, trong số đố có thiền sư Ðạo Hạnh sau này rất nổi tiếng về phù chú
Mật Giáo (Ðạo Hạnh cũng đã lên đường đi Ấn, nhưng chỉ tới Miến Ðiện thì
quay trở về; sau khi tìm thầy được gặp Sùng Phạm). Vua Lê Ðại Hành
nhiều lần triệu thỉnh Sùng Phạm vào kinh khuyết để tham khảo đạo Phật.
Ðạo phong của Sùng Phạm còn khiến cho vua lý Nhân Tông sau này làm một
bài kệ tán ca tụng:
Tên Sùng Phạm, nhưng người Nam Quốc
Phật trường về đỗ được Tâm Không
Tai dài tướng tốt đoan trang
Hạnh ngôn đúng pháp trăm đường không chê
( Sung Phạm cư nam Quốc
Tâm Không cập đệ quy
Những trường hồi thụy chất
Pháp Pháp cái ly vi).
Sùng Phạm còn một vị đệ tử khác tên là Trì Bát (mất 1117)
thuộc thế hệ thứ 12 của thiền phái. Trì Bát cũng học với Sùng Phạm tại
chùa Pháp Vân. Thiền học của Trì Bát cũng thấm nhuần Mật Giáo. Trong bài
kệ thị tịch nói về sinh tử, trì Bát đã kết thúc bài kệ bằng một câu mật
ngữ “án rô tô rô tất rị” [4].
Trong số những vị sư gốc Chiêm Thành ta có thể kể tên thiền sư
Ma Ha Ma Gia (Mahamaya), thuộc thế hệ thứ 10 của thiền phái Tỳ Ni Ða
Lưu Chi.. thiền sư Ma Gia nổi tiếng về pháp thuật, đã từng theo học với
Pháp Thuận.
Cái tên Mahamaya cho ta thấy nguồn gốc tín ngưỡng Siva của
thiền sư này. Ta biết drằng vào năm 875 Indrapura lập một tu viện Phật
Giáo tại Chiêm Thành mà những di tích còn lại chứng tỏ sự có mặt của
Phật giáo đại thừa ở đây vào thế kỷ thứ chín. Ðó là tu viện
Lakshmindralokesvara (Les états Hindouisés d'Indochine, Georges coedès,
1984). Vào thế kỷ thứ chín và thứ mười tại Chiêm Thành tín ngưỡng đại
thừa được phối ngưỡng với tín ngưỡng Siva, và chính từ trong bối cảnh
tín ngưỡng này mà gia đình thiền sư Mahamaya xuất hiện. Theo tín ngưỡng
Siva, thần Siva (Tự Tại Thiên) là thực tại tối cao, là nguyên nhân đầu
tiên; còn Skati (Xá Chi) là năng lực vô tận cho sự sáng tạo, trong khi
đó Mahamaya (nghĩa là Ðại Ảo Tưởng tức là chất liệu dùng để sáng tạo.
Trong tín ngưỡng tổng hợp của Chiêm Thành hồi đó người ta đã thờ tượng
đức Quan AÂm (Lokesvara), đức Dược Sư và cả đức Ðại Tự Tại Thiên Vương
nữa. Cái tên Mahamaya không thể là một cái tên thuần túy trong Phật giáo
Chiêm Thành mà là một cái tên chứng tỏ yếu tố tín ngưỡng Siva trong
Phật Giáo Chiêm Thành. Theo Edward Coze (A Short History of Buddhism,
1960) hồi đó giáo lý Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ (Sarastivada) và Tam Di Ðể
Bộ (Sammitiyas) cũng được lưu truyền tại Chiêm Thành.
Thuyền Uyển Tập Anh cho biết thiền sư Mahamaya người gốc Chiêm
Thành sau lấy họ Dương; cha là Bối Ðà rất giỏi về văn học Phạn ngữ, làm
quan ở nhà Tiền Lê. Mahamaya học thông cả tiếng Phạn lẫn tiếng Hán. Ông
trụ trì tại chùa Quán Ái và mở lớp giảng kinh Phạn ngữ. Ta biết rằng
căn bản Mật Giáo của ông đã được bồi đắp do sự học hỏi với thiền sư Pháp
Thuận (mất 991) thuộc thế hệ thứ mười của thiền phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi
Mahamaya. Chính Pháp Thuận dạy ông pháp hành sám và trì tụng thần chú
Ðại Bi. Sau đó ông cũng đi Trường An để bồi đắp thêm sở học. Sách Thuyền
Uyển Tập Anh nói ông đắc pháp Tổng Trì Tam Muội và có thể thực hành
nhiều pháp thuật. Vua Lê Ðại Hành nghe tiếng, ba phen triệu ông đến: hỏi
gì ông cũng không đáp, chỉ chắp tay cúi đầu. Hỏi đến lần thứ ba ông mới
nói: “Tôi là ông thầy tu khùng của chùa Quán Ái”. Vua Lê Ðại Hành giận
quá liền bảo quân h ầu giữ ông lại trong chùa Vạn Tuế ở đại nội, khóa
cửa lại không cho ông ra. Ðến sáng người ta đến thì đã thấy ông đứng thơ
thẩn bên ngoài, cửa phòng vẫn còn khóa như cũ. Vua lấy làm lạ, từ đó để
ông tự do muốn đi đâu thì đi, làm gì thì làm. Ông đi vào Thanh Hóa nơi
đó dân chúng rất hâm mộ sự thờ phụng quỷ thần, hay giết hại loài vật để
cúng tế. Khi ông khuyên họ nên dùng thức ăn chay để cúng, không cần phải
sát sinh hại vật thì họ nói: “Vấn đề phúc họa chúng tôi đâu dám làm
trái ý thần”. Ông bảo: “Các ngài cứ bỏ ác làm lành, nếu có tội gì tôi
xin chịu thế cho”. Người làng nói: “Miền này thiên hạ đau ốm chết chóc
nhiều, thầy thuốc đều bó tay, nếu ông chữa họ lành bệnh, chúng tôi sẽ
theo ông”. Ôn liền đọc chú vào nước lã và phun thì bệnh đều lành. Tuy
vậy dân làng vẫn chưa theo. Họ đem rượu thịt đến ép ông ăn và nói: “Nếu
hòa thượng cùng ăn uống vui vẽ với chúng tôi thì chúng tôi theo”. Ông
trả lời: “Tôi không dám từ chối chỉ sợ ăn vào thì bệnh đau bụng tái phát
thôi”. Người hương hào họ Ngô vui vẽ nói: “Nếu đau bụng thì tôi xin
chịu thay cho hòa thượng.” Ông liền thuận theo; khi ăn xong bụng căng
lên, sôi như sấm; ông la lớn: “Ông Ngô đâu rồi, ra chịu thay cho tôi
đi”. Ông này cuống quýt không biết làm sao. Mahamaya liền chắp tay niệm
Phật, pháp, Tăng rồi mửa ra nào tôm nào cá nào thú vật, loài nào loài ấy
đều nhảy đi như thật... Dân làng đều bái phục và nghe lời ông.
Tên tuổi những vị sư Ấn Ðộ sang truyền Mật Giáo ở xứ ta không
được ghi chép trong Thuyền Uyển Tập Anh. Nhưng Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư
của Ngô Sĩ Liên có nói đến một vị thiền sư Mật Giáo Tây Tạng tên Du Chi
Bà Lam đến Việt Nam vào thời của Trần Nhân Tông. “Ông dung mạo đen sạm,
tự nói là ba trăm tuổi, có thể ngồi xếp bằng nổi trên mặt nước, lại có
thể thu cả ngũ tạng lên ở trên ngực, làm cho trong bụng lép đi như không
có gì, chỉ có da bụng và xương sống thôi. Ông chỉ ăn lưu hoàn, mật và
rau dưa. Ở nước ta mấy năm lại về nước. Ðến đây (1311) lại sang với con
gái là Ða La Thanh. Vua tuyển vào cung. Du Chi Bà Lam ở lại, cuối cùng
mất ở kinh sư”. Sách Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư thêm rằng vào đời Trần Ming
Tông cũng có một vị sư Mật Giáo khác từ Ấn Ðộ sang. Ông này tên là Bồ
Ðề Thất Lý, cũng có thể nổi trên mặt nước.
Theo Thuyền Uyển Tập Anh, ngoài Sùng Phạm Mahamaya, trong
thiền phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi có nhiều vi thiền sư giỏi về Mật Giáo: các
thiền sư Vạn Hạnh (thế hệ thứ 12, mất 1068), Thiền Nham (thế hệ thứ 13,
mất 1163) đều đã học tập Tổng Trì Tam Ma Ðịa [5]. Vạn Hạnh vừa giỏi về
Phật học vừa giỏi về Khổng học, còn Thiền Nham thì giỏi về kinh điển
Phạn ngữ.
Về pháp thuật, ta không thể không nói đến thiền sư Ðạo Hạnh.
Hiện giờ tại Bắc Việt có hai nơi còn thờ thiền sư Ðạo Hạnh: chùa Láng và
Sài Sơn. Vài ba năm hội chùa Láng lại được tổ chức một lần, dân làng
diễn tả lại sự tích thiền sư Ðạo Hạnh.
Ðạo Hạnh tên tục là Từ Lộ. Cha ông là Từ Vinh, làm chức tăng
quan đô án, ông Từ Vinh bị Diên Thành Hầu mượn tay pháp sư là Ðại Ðiên
dùng pháp thuật đánh chết và quăng xác xuống sông Tô Lịch. “Tử thi Từ
Vinh trôi đến cầu Quyết, trước nhà Diên Thành Hầu thì dựng đứng dậy như
người sống, không trôi nữa, chỉ tay vào nhà Hầu suốt một ngày. Hầu sợ,
chạy đi tìm Ðại Ðiên. Ðại Ðiên đến đọc câu kệ “Người xuất gia có giận ai
cũng không quá một đêm ngày”. Tử thi bèn trôi đi. Ðạo Hạnh suy nghĩ
cách thức báo thù cho cha, nhưng chưa biết cách gì. Một hôm gặp Ðại
Ðiên, định đánh, bỗng nghe trên không có tiếng kêu: “Ấy, đừng, đừng!” Sư
sợ hãi bỏ gậy mà đi. Sư muốn đi Ấn Ðộ cầu học pháp thuật linh dị để
chống lại Ðại Ðiên, nhưng khi đến xứ Kim Xỉ [6] thấy đường xá hiễm trở
quá thì về. Từ đó ở ẩn trong núi Từ Sơn, ngày ngày chuyên trì tụng Ðại
Bi Tâm Ðà La Ni, tụng đủ một vạn tám nghìn lần thì thấy một thần nhân
đến trước mặt nói: “Ðệ tử là Trấn Thiên Vương cảm công đức ngài trì kinh
cho nên đến hầu ngài để sai bảo”. Sư biết đạo pháp mình đã viên thành,
thù cha có thể trả, liền tìm đến cầu Quết quang chiếc gậy xuống dòng
nước chảy xiết. Gậy bèn lội ngược nước như con rồng, đến cầu Tây Dương
mới ngừng. Sư mừng nói: Pháp ta có thể thắng được rồi”. Và đến chỗ Ðại
Ðiên ở. Ðại Ðiên thấy sư hỏi rằng: “Ngươi quên câu chuyện ngày trước rồi
sao?” Sư ngữa mặt lên trời, không thấy gì, bèn lấy gậy đánh Ðại Ðiên.
Ðại Ðiên phát bệnh rồi chết. Từ đó oán cừu tiêu tán, niềm tục lạnh như
tro tàn, sư liền đi khắp tùng lâm tìm thầy ấn chứng. Nghe nói đến thiền
sư Trí Huyền đang hóa đạo ở Thái Bình, sư liền tìm đến tham yết đặt câu
hỏi về chân tâm như sau:
Lẫn với bụi đời tự bấy lâu
Chân tâm vang ngọc biết tìm đâu?
Cúi xin rộng mở bày phương tiện
Thấy được chân như sạch khổ sầu.
(Cửu hổn phàm trần vị thức kim
Bất tri hà xứ thị chân tâm
Nguyện thùy chỉ đích khai phương tiện
Liễu kiến như như đoạn khổ tầm)
Trí Huyền đáp lại bằng một bài kệ:
Trong ngọc vang ra tiếng diệu huyền
Mỗi âm đều hiển lộ tâm thiền
Bồ đề hiện rõ ngay tầm mắt
Tìm kiếm lại càng ngăn cách thêm
( Ngọc lý bí thanh diễn diệu âm
Cá trung mãn mục lộ thiền tâm
Hà sa cảnh thị bồ đề đạo
Nghĩ hướng bồ đề cách vạn tầm)
Sư hoang mang kinh hiểu. Khi đến nghe Sùng Phạm giảng kinh ở
chùa Pháp Vân, sư hỏi: “thế nào là chân tâm?” Sùng Phạm hỏi trở lại:
“cái gì không phải là chân tâm?” Lần này sư thoạt nhiên tỏ ngộ bèn nói: “
Làm thế nào để giữ gì?” Sùng Phạm nói: “Ðói thì ăn, khát thì uống” Từ
đó pháp lực tăng tiến, thiền duyên càng chín, có thể sai sử điều phục
sơn đà dã thú, cầu mưa mưa tạnh, chú thủy trị bệnh, không gì là không
ứng nghiệm...(Thuyền Uyển Tập Anh).
SẤM VĨ HỌC, PHONG THỦY HỌC VÀ Ý THỨC ÐỘC LẬP QUỐC GIA
Sự sử dụng thuật sấm vĩ và địa lý trong thiền phái Tỳ Ni Ða
Lưu Chi nhất là trong lĩnh vực chính trị, rất là quan trọng.
Sấm vĩ học là môn học suy trắc về tương lai, căn cứ trên lý
thuyết âm dương và lý thuyết ngũ hành tương sinh tương khắc. Có nhiều
khoa sấm vĩ;khoa thì căn cứ trên Kinh Dịch, gọi là Dịch Vĩ; khoa thì căn
cứ trên Kinh Thư, gọi là Thư vĩ v.v...
Còn phong thủy học là một môn học xem xét đại thể để xây chùa
tháp, nhà cửa, mộ phần và thành quách. Môn học này dựa trên sự tin tưởng
rằng mặt đất chịu ảnh hưởng của tinh tú trên trời và các gò đống sông
ngòi mô phỏng theo cách sắp xếp của tinh hệ và tinh vân. Ðịa thế và long
mạch đóng một vai trò rất quan tọng trong sự an nguy và thịnh suy của
một nhà, một họ, một vùng hay một nước. Phong thủy học có lẽ phổ thông ở
Việt Nam từ những thế kỷ đầu của kỷ nguyên Tây lịch, và trong dân gian
ai cũng tin vào việc tìm phương định hướng theo môn học này để chọn nơi
xây mồ mã lăng tẩm hay dựng nhà cửa, đền chùa, cung phủ và thành quách.
Trong thiền phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi, có nhiều thiền sư học rộng
không những về Phật Lão Khổng mà còn về cấc khoa sấm vĩ và phong thủy
nữa. Chính sách hà khắc ngu dân của nhà Ðường đã hạn chế sự học hỏi của
quần chúng; kẻ sĩ ngoài đời không có bao lăm còn bị dòm ngó, nên tăng sĩ
ngoài vai trò hướng dẫn sinh hoạt đạo đức, còn phải lo về các nhu cầu
thực tế của dân. Không ai dạy cho dân học và viết thì các nhà sư mở lớp
dạy chữ ở chùa. Trẻ em đến học ở chùa không hẳn là đi xuất gia, như
trường hợp Lý Công Uẩn vậy. Thiếu người làm thuốc trị bệnh thì các nhà
sư, sẵn có kiến thức về y khoa, chẩn mạch hốt thuốc. Cho đến những việc
cầu an, ma chay, chọn đất cất nhà, chọn ngày lành tháng tốt để khai
trương buôn bán, dân chúng đều có thể nhờ vào các vị sư. Là những người
có học và gần gũi dân chúng như thế mà không thuộc về giai cấp thống trị
theo đuôi chính quyền đô hộ, cố nhiên các nhà sư này thông cảm và chia
xẻ những nỗi khổ của dân; do đó các chùa đã trở nên những trung tâm xây
dựng ý thức độc lập quốc gia. Trong bối cảnh đó, sự thực hành pháp thuật
cũng như sử dụng thuật sấm vĩ và phong thủy và phong thủy đã góp phần
vào công việc xây dựng ý thức dân tộc về một quốc gia độc lập.
Khi nhà Ðường bắt đầu suy yếu và bộ máy cai trị của thực dân
bắt đầu lỏng lẻo, các cuộc quật khởi của dân chúng bắt đầu xuất hiện.
Mai Hắc Ðế, Bố Cái Ðại Vương chưa thành công vì lúc ấy nhà Ðường còn
mạnh; nhưng Khúc Thừa Dụ, Khúc Hạo, Khúc Thừa Mỹ, Dương Diên Nghệ và Ngô
Quyền đã tiếp nối nổi dậy chống lại nhà Ðường và nhà Nam Hán một cách
hữu hiệu. Tiếp theo Ngô Quyền, các triều đại Ðinh, Tiền Lê và Lý đã nỗ
lực xây dựng một nền độc lập quốc gia về mọi mặt vh, kinh tế, chính trị
và quân sự. Sự đóng góp của các thiền sư trong buổi đầu đã quan trọng.
Về phong thủy học, các thiền sư Ðịnh Không (730-808), La Quý
An (852-936) và Vạn Hạnh (mất 1068) đều là những người nỗi tiếng. Ta có
nhiều lý do để tin rằng quốc sư Vạn Hạnh, thầy của Lý Công Uẩn, là người
đã thuyết phục vua này dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long trong ý nguyện
bảo vệ cho nền độc lập được lâu dài. Theo bài Chiếu Dời Ðô của Lý Thái
Tổ, đất Hoa Lư là nơi “thế địa không dài, vận số ngắn ngủi, trăm họ hao
tổn, vạn vật không nên” trong khi đất Thăng Long thì “ở giữa khu vực
trời đất, có địa thế rồng cuốn hổ phục, ở giữa Nam Bắc Ðông Tây, tiện
hình thế núi sông sau trước: đất rộng mà bằng phẳng, chỗ cao mà sáng
sủa, dân cư không khổ vì ngập lụt, muôn vật rất thịnh mà phồn vinh” (Ðại
Việt Sử Ký Toàn thư). Ta có thể nghĩ rằng thiền sư Vạn Hạnh vừa là
người thảo chiếu, vừa là người thiết kế họa đồ cho kinh đô Thăng Long
vậy.
Trước đó hai thế kỷ, trong khi đất nước còn nằm dưới ách cai
trị nhà Ðường, thiền sư Ðịnh Không đã nhen nhóm đức tin về một nền độc
lập quốc gia, bảo rằng chính địa thế của làng ông sẽ sản xuất ra nhân
vật chính trị có thể thực hiện được nền độc lập đó, và căn cứ vào sự
tiên đoán của ông, nhân vật này sẽ là người họ Lý, một hôm đào đất đắp
nền dựng ngôi chùa Quỳnh Lâm ở làng Dịch Bảng (năm 785) ông tìm thấy
mười chiếc khánh và một chiếc lư hương, khi đem xuống sông rửa, một
chiếc khánh chìm xuống nước. Cảm hứng về chuyện này, ông nói: “mười
chiếc” là “thập khẩu” viết chung là chữ “cổ” “một chiếc rơi xuống nước
chìm đi” là “thủy khứ” viết chúng là chữ “pháp”; thôi ta đặt cho cuộc
đất linh thiêng này là “Cổ Pháp”. Ông làm bài thơ sau:
Ðất trình hai pháp khí
Phẩm chất tinh đồng
Ðưa Phật Pháp đến thuở hưng long
Ðặt tên làng là Cổ Pháp
Pháp khí xuất hiện
Mười chiếc chuông đồng
Nhà Lý hưng vương, tam phẩm thành công
(Ðịa trình pháp khí
Nhất phẩm trinh đồng
Tri Phật Pháp chi hưng long
Lập hương danh chi Cổ Pháp
Pháp khí xuất hiện
Thập khẩu đồng chung
Lý hưng vương, tam phẩm thành công)
Ông còn dặn lại đệ tử là Thông Thiện: “Ðất Cổ Pháp này là đất
quan trọng, sau này có thể có kẻ dị nhân đến phá hoại, ngươi phải giữ
gìn”. Ý ông thì nếu cuộc đất này bị phá hoại thì vĩ nhân không còn có
thể xuất hiện từ cuộc đất ấy để cứu nước và làm hưng thịnh Phật Pháp.
Thông Thiện ghi lại lời của Ðịnh Không ở ngôi tháp được dựng
lên thờ Ðịnh Không (*) tại phía tây chùa Lục Tổ, và trước khi mất thì
dặn dò lại cho đệ tử là La Qúy An (852-936). Thiền sư La Quý An cho biết
là trong thời đại ông cuộc đất đó một lần bị phá hoại rồi. Người phá
hoại đó là Cao Biền, một vũ tướng nhà Ðường đã sang Việt Nam năm 865 để
đánh giặc Nam Chiếu. Cao Biền rất giỏi thuật phong thủy và đã viết một
cuốn sách về tình trạng phong thủy địa lý của nước Việt. Tên sách là Nam
Cảnh Ðịa Lý Chư Cát Lục. Sách này có khi còn gọi là Cao Vương Di Cảo,
Cao Biền Tấn Thư hay Ðịa Lý Cao Biền Cảo, Nguyễn Ðổng Chi trong sách
Việt Nam Cổ Văn Học Sử (Hà Nội,1942) có trích một đoạn trong một bài tựa
sách ấy do nhà xuất bản viết năm 1720 như sau: “Ðời vua Ðường Ý Tông
(860-873) gồm cả đất An Nam làm quận huyện. Nghĩ đến việc Triệu Ðà xưng
làm Hoàng Ðế, vua bèn sai thái sử là Cao Biền làm đô hộ An Nam. Khi Biền
sắp ra đi, vua triệu vào điện bảo rằng: Trẩm nghe nói ở An Nam có nhiều
ngôi đất thiên tử, ngươi tinh thông về địa lý học thì nên hết sức yểm
đi và vẽ tình thế đất ấy về cho trẫm xem. Biền đến An Nam, qua núi sông
nào tốt thì yểm cả. Biền có làm tờ tấu tâu rằng chỉ có núi Tản Viên là
rất thiêng, yểm không được, cho nên không động đến”.
Theo La Quý An, Cao Biền khi đắp thành ở sông Tô Lịch đã biết
đất Cổ Pháp là đất có khí vương giả nên cho đào 19 địa điểm để yểm phá,
và chính Lê Quý An đã cho lấp 19 địa điểm để yểm phá và chính La Quý An
đã lắp cả 19 nơi như cũ. Ông lại xác định là thế nào đất này cũng có một
nhân vật có mệnh đế vương xuất hiện để phù trợ quốc gia và chính pháp,
nên đã làm hai việc:
1) Quyên góp tài sản và đúc một tượng Lục Tổ bằng vàng, chôn ở
gần tam quan để khỏi bị trộm cắp, dặn rằng khi nào có các bậc minh
vương ra đời để giúp dân cứu nước thì đào lên, lấy vàng ủng hộ, còn khi
nào ám chúa còn ngự trị thì phải cất dấu dưới đất.
2) Trồng một cây gạo ở chùa Minh Châu để trấn áp và dặn đệ tử
sau này phải đắp nền xây tháp, nếu cần thì cất giữ tượng vàng Lục Tổ
trong ấy, đừng cho kẻ khác thấy.
Năm thiền sư trồng cây gạo là năm Bính thân (936), cũng là năm
ông thị tịch. Khi trồng cây, ông có để lại một bài sấm như sau:
Trên núi lớn, có đầu Rồng xuất hiện
Sau đuôi Rắn có ẩn ngọc minh châu
Mười tám chàng trai [7]
Nhất định công thành
Hình Rồng hiện từ gốc cây miên mộc
Trong tháng chuột, vào ngày gà, giờ thỏ
Mặt trời lên rực rỡ trên mây xanh
(Ðại sơn long đầu khởi
Xà vĩ ẩn minh châu
Thập bát tử định thành
Miên thọ hiện long trình
Thố kê thử nguyệt nội
Ðịnh kiến nhật xuất thanh)
Bài sấm đó tiên đoán sự thành công của Lý Công Uẩn căn cứ vào
phong thủy sấm vĩ.
Về độn số, hai thiền sư Pháp thuận (mất 991) và Vạn Hạnh
(mất1016) là những người nổi tiếng. Thiền sư Pháp Thuận họ Ðỗ, xuất gia
hồi còn thơ, học với thiền sư Phù Trì chùa Long Thọ. Sau khi ông đắc
pháp, những điều ông nói đều phù hợp với phù sấm. Chính ông đã dùng nghệ
thuật phù sấm để giúp vua Lê Ðại Hành (980-1005) nắm lấy quyền bính,
chấm dứt tình trạng xáo trộn nguy hiểm trong triều đình hồi cuối Ðinh.
Thuyền Uyển Tập Anh nói rằng ông là một nhà bác học, giỏi về nghệ thuật
và thi ca, có tài phụ tá nhà vua trong việc chính trị và thông hiểu tình
hình thực tại của đất nước (bác học công thi, phụ vương tá chi tài,
minh đương thế chi vụ). “Trong buổi đầu sáng nghiệp của triều Lê, ông có
công trù tính và quyết định kế hoạch cùng chính sách, nhưng khi thiên
hạ đã thái bình rồi thì không chịu phong thưởng. Vua Lê Ðại Hành rất
kính trọng, không gọi tên, chỉ xưng hô là Ðỗ Pháp sư mà thôi”(Thuyền
Uyển Tập Anh ). Hồi sứ giả nhà Tống là Lý Giác qua, thiếu người cư sĩ để
ứng đối, vua mới nhờ ông cải trang là người đưa sứ sang sông, đồng thời
quan sát cử động của Lý Giác. Thuyền đang đi, bỗng ông đại sứ nhà Tống
thấy đôi bạch nga bơi, liền ngâm:
Nga nga lưỡng nga nga
Ngưỡng diện hướng thiên nha
(Thầy Mật Thể dịch:
Song song ngỗng một đôi
Ngữa mặt ngó ven trời)
Pháp Thuận vốn giỏi thi ca, liền nối vần lập tức:
Bạch mao phô lục thủy
Hồng trạo bãi thanh ba
(Thầy Mật thể dịch:
Lông trắng phơi dòng biếc
Sóng xanh chân hồng bơi)
Lý giác rất thán phục. Sau này khi vua Lê Ðại Hành hỏi về sự
bền vững của vận nước, thiền sư Pháp Thuận đáp bằng một bài kệ:
Vận nước như dây quấn
Trời Nam ôm thái bình
Ðạo đức ngự cung điện
Muôn xứ hết đao binh
(Quốc tộ như đằng lạc
Nam thiên lý thái bình
Vô vi cư điện các
Xứ xứ tức đao binh)
Ý thiền sư muốn nói sự đoàn kết nương tựa lẫn nhau và sự thực
hành đạo từ bi sẽ khiến cho ngôi vua vững bền và hòa bình trường cửu.
Pháp Thuận có sáng tác cuốn Bồ Tát Hiệu Sáng Hối Văn, ngày nay không
còn.
Thiền sư Vạn Hạnh là bậc đàn em của thiền sư Pháp Thuận, nhưng
cũng đã cùng Pháp Thuận phù tá vua Lê Ðại Hành. Vạn Hạnh, mà sau này
được nhà Lý tôn xưng Quốc sư, rất giỏi về chính trị và đã sử dụng sấm vĩ
một cách tài tình trong cuộc cách mạng bất bạo động đưa Lý Công Uẩn lên
ngôi vua.
Vạn Hạnh là người họ Nguyễn, quê làng Cổ Pháp, từ thuở nhỏ
thông minh siêu dị, học thông Nho, Lão, Phật và nghiên cứu hàng trăm bộ
luận Phật giáo, xem giàu sang xe ngựa không vào đâu. Năm hai mươi mốt
tuổi ông xuất gia, cùng tu học với bạn là thiền sư Ðịnh Tuệ dưới sự chỉ
dẫn của thiền sư Thiền Ông tại chùa Lục Tổ, siêng năng đêm ngày. Sau khi
Thiền Ông mất, ông bắt đầu chuyên thực tập vềTổng Trì Tam Ma Ðịa, và
sau đó, hễ nói lời gì đều được thiên hạ cho là lời phù sấm. Vua Lê Ðại
Hành rất tôn kính ông. Năm 980, Hầu Nhân Bảo của nhà Tống mang quân sang
đóng ở núi Cương Giáp Lãng định xâm chiếm Việt Nam. Vua triệu Vạn Hạnh
và nói nếu đánh thì thắng hay bại. Vạn Hạnh bảo: Nọi trong vòng từ ba
đến bảy ngày giặc sẽ rút lui. Lời nói này sau quả ứng nghiệm. Khi vua Lê
Ðại Hành muốn can thiệp vào Chiêm Thành để cứu sứ giả Việt Nam bị Chiêm
Thành bắt giữ nhưng còn do dự, thì Vạn Hạnh nói đây là cơ hội đừng để
mất. Sau quả y lời, trận ấy quân Lê thành công.
Trong cuộc vận động Lý Công Uẩn lên ngôi, Vạn Hạnh đã vận động
dư luận quần chúng bằng sấm truyền rất hữu hiệu. Sách Thuyền Uyển Tập
Anh nói những loại sấm truyền và tiên tri Vạn Hạnh dùng có rất nhiều
thứ. Không kể ra hết được. Sách này kể ra một vài phương sách đã dùng:
1) Hồi Lê Ngoại Triều đang thi hành chính sách bạo ngược[8] , bị thiên
hạ ghét bỏ, thì tại Cổ Pháp, có một con chó trắng xuất hiện trên lưng nó
có hai chữ “thiên tử” lấm tấm bằng lông đen. Thiên hạ bèn đồn rằng con
chó là tượng trưng cho năm Tuất, và một bậc thiên tử sẽ sinh vào năm
Tuất sẽ xuất hiện cũng vào năm Tuất (năm 1010, năm cách mạng thành
công); 2) Sét đánh lên cây gạo do thiền sư La Quý An trồng ngày xưa, inh
thành chữ. Ðại Việ Sử Ký Toàn Thư nói rằng dân làng đọc được những chữ
sau đây trên thân cây gạo:
Gốc cây thăm thẳm
Ngọn cây xanh xanh
Cây hòa đao rụng
Mười tám hạt thành
Cành đông xuống đất
Cây khác lại sinh
Ðông mặt trời mọc
Tây sao ẩn hình
Sáu bảy năm nữa
Thiên hạ thái bình
(Thụ căn diểu diểu
Mộc biểu thanh thanh
Hòa đao mộc lạc
Thập bát tử thành
Ðông a nhập địa
Dị mộc tái sinh
Chấn cung kiến nhật
Ðoài cung ẩn tinh
Lục thất niên gian
Thiên hạ thái bình
Sách Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư nói tiếp: “Nhà sư Vạn Hanh tự
đoán riêng rằng: Trong câu: “thụ căn diểu diểu” chữ căn là gốc, gốc tức
chỉ là vua, chữ diểu đồng âm với chữ yểu, thế là nhà vua chết yểu; trong
câu: mộc biểu thanh thanh”, chữ biểu là ngọn, ngọn là bầy tôi, chữ
thanh là xanh, đồng âm với chữ thanh là thịnh, thế là một người trong số
quần thần sẽ lên nắm chính quyền; ba chữ hòa đao mộc góp lại là Lê, lạc
là rớt, tức là nhà Lê rớt; ba chữ thập bát tử góp lại là chữ Lý, “thập
bát tử thành” là nhà Lý lên; trong câu “đông a nhập địa”, chữ đông và
chữ a hợp lại là chữ Trần, nhập địa là người phương bắc vào cướp; câu
“dị mộc tái sinh” tức là họ Lê khác lại nổi lên; trong câu “chấn cung
kiến nhật” thì chấn là phương Ðông, kiến là mọc ra, nhật là thiên tử,
thiên tử xuất hiện ở phương Ðông; trong câu “đoài cung ẩn tinh” thì đoài
là phương Tây, ẩn là lặn, tinh là người tầm thường, người tầm thường
mai một ở phương Tây. Mấy câu này có ý nói vua thì non yếu, tôi thì
cường thịnh, họ Lê mất, họ Lý nổi lên, thiên tử ở phương Ðông mọc ra thì
thứ nhân ở phương Tây lặn mất, trong vòng sáu bảy năm nữa thì thiên hạ
thái bình; 3) Trong chùa Song Lâm côn trùng ăn lá cây si thành chữ
“quốc” là nước; 4) Ban đêm ở mộ Hiển Khánh Ðại Vương, người ta nghe
tiếng thần nhân ngâm kệ từ bốn phương vọng tới, các bài kệ đều báo trước
sự lên ngôi của Lý Công Uẩn.
Ngày Lý Công Uẩn được suy tôn hoàng đế trong cung thì Vạn Hạnh
đang ở chùa Lục Tổ. Ông biết trước về việc này và nói cho mọi người
xung quanh nghe. Họ hoảng hốt chạy về kinh sư nghe tin, thì đó quả là sự
thực.
Vạn Hạnh không những là một vị lãnh đạo đời sống tâm linh mà
còn là một người lãnh đạo hành động. Kiến thức của ông rất rộng: những
hiểu biết của ông về Nho học cũng được ông đem ra sử dụng trong phạm vi
hành động, và sử dụng trong tinh thần tự do phá chấp của đạo Phật. Thái
độ của ông đượm nhuần tinh thần tự do phá chấp ấy. Triết học hành động
của ông tóm lược trong câu nói của ông với môn đệ trước khi ông qua đời:
“Các vị nên nương tựa vào đâu? Tôi thì tôi không nương tựa vào nơi có
thể không nương tựa và cũng không nương tựa vào chỗ không thể nương
tựa”. Câu này thật thấm nhuần tinh thần Bát Nhã và cho ta thấy đâu là bí
quyết thành công của ông. Ta còn thấy lập trường về triết học hành động
của ông rõ ràng hưon nữa, khi ta đọc bài kệ Thị tịch ông để lại để dặn
dò đệ tử về vấn đề sinh diệt, thịnh suy và thành bại. Ông nói:
Thân như sấm chớp, có rồi không
Cây cối xuân tươi, thu héo hon
Nhìn cuộc thịnh suy, đừng sợ hãi
Thịnh suy: ngọn cỏ giọt sương hồng
(Thân như điện ảnh, hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô
Nhậm vận thịnh suy, vô bố úy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô)
Vua Lý Nhân Tông (1072-1127) sau khi nghe nói đến hành trạng
Vạn Hạnh, đã viết bài thơ sau đây để ca ngợi vị thiền sư có công nhất
trong buổi đầu lập quốc của nhàLý:
Hành tung thấu triệt ba đời
Ngữ ngôn phù hợp muôn lời sấm xưa
Quê hương Cổ Pháp bây giờ
Dựng cây tích trượng, kinh đô vững bền
(Vạn Hạnh dung tam tế
Chân phù cổ sấm ky
Hương quan danh Cổ Pháp
Trụ tích trấn vương kỳ)
TÓM LƯỢC NHỮNG ÐẶC TÍNH CỦA THIỀN PHÁI TỲ NI ÐA LƯU CHI
Thiền phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi bắt nguồn từ tư tưởng Bát Nhã, Tam
Luận và Hoa Nghiêm, có khuynh hướng thiên vọng về Mật Giáo, theo tinh
thần bất lập văn tự nhưng vẫn chú trọng sự nghiên cứu kinh luận, chủ
trương thực tại siêu việt không hữu, chú trọng việc truyền thụ tâm ấn,
có khuynh hướng nhập thế giúp dân và biết sử dụng các thuật phong thủy
sấm vĩ. Thiền phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi hầu như chỉ chịu ảnh hưởng của Phật
Giáo Ấn Ðộ mà ít chịu ảnh hưởng Trung Hoa. Ðây là một thiền phái rất có
tính cách dân tộc Việt Nam, vừa biểu lộ được sinh hoạt tâm linh siêu
việt của Phật Giáo vừa biểu lộ được đời sống thực tế và đơn giản của
quần chúng nghèo khổ.
[1]
Trần Văn Giáp nói ông không hiểu câu: “Kim hựu hữu Pháp Ðắc Hiền Thượng
Pháp Sĩ ư Tỳ Ni Ða Lưu Chi truyền tam tổ Phái, vi bồ tát trung nhân...”
Ông nói: “Bao nhiêu tên người được kể ra trong sáu chữ Pháp, Ðắc, Hiền,
Thượng, Pháp, Sĩ này?” Theo chúng tôi, đây là một lối ấn loát. Hai chữ
“Ðắc và Pháp” đã được đặt nhầm chỗ. Ðáng lý phải để: “Kim hựu hữu Pháp
Hiền thượng sĩ, đắc pháp ư Tỳ Ni Ða Lưu Chi, truyền tam tổ phái, vi bồ
tát trung nhân”. Nghĩa câu này trở nên rõ ràng: nay lại có thượng sĩ
Pháp Hiền (thượng sĩ là danh hiệu tôn xưng một vị cao đức, như thượng sĩ
Tuệ Trungv.v...) đắc pháp với Tỳ Ni Ða Lưu Chi, truyền tông phái của
tam tổ, là một vị bồ tát sống...”
[2]Trần Văn Giáp trong Le bouddhisme En Annam Des Origines Au
XIII è Siècle, nêu ra nghi vấn cho rằng nếu Ðàm Thiên mất vào khoảng
479-484 thì làm sao biết Tỳ Ni Ða Lưu Chi và Pháp Hiền vốn đã hành đạo
vào cuối thế kỷ kế tiếp. Và ông cho rằng Tùy Cao Ðế nói tới trong Thuyền
Uyển Tập Anh phải là Tề Cao Ðế... Thực ra Ðàm Thiên không những sống
qua thời đại nhà Tề mà còn sống vào thời đại nhà Trần và Tùy nữa. sách
Thích Thị Thông Giám (cuốn 6) của Bản Giác nói: Ðàm Thiên, khi nước Tề
diệt thì vào nước Trần thì gặp được tác phẩm Nhiếp Ðại Thừa Luận mà đất
Bắc chưa bao giờ nghe nói đến. Khi nhà Tùy ủng hộ chính pháp, Ðàm Thiên
liền vượt sông đem kinh qua. Sách Phật Tổ Thống Ký (quyển 40) cũng nói:
“Tùy Văn Ðế, năm thứ bảy sau khi lên ngôi chiếu ban cho pháp sư Ðàm
Thiên hiệu Chiêu Huyền Ðại Sa Môn Thống. Năm thứ 14, chiếu lập chùa
Thiền Ðịnh, triệu Pháp sư Ðàm Thiên triệu tập 120 vị danh đức hải nội về
ở”. Vua Văn Ðế nhà Tùy (Tùy Cao Tổ) lên ngôi năm 582, ngay sau thời
gian Phật giáo bị vua Võ Ðế nhà Bắc Chu đàn áp, bắt tăng đồ hoàn tục,
lấy tự viện cho các vị công hầu sử dụng. Tùy Văn Ðế ngay sau khi lên
ngôi đã ra lệnh thiết lập lại mọi tự do hành đạo và ủng hộ Phật giáo hết
mực. Ðàm Thiên cộng tác với vua trong việc trùng hưng đạo Phật, hẳn
biết rõ về tình trạng Phật giáo Giao Châu. Dẫn chứng của Thông Biện rất
hợp với những sự kiện này.
[3]Mạn Ðà La: Phạn ngữ là Mandala, đồ hình tròn trong đó các
Ðức Phật và Bồ tát được sắp xếp theo những lề lối khác nhau để tượng
trưng cho Kim Cương Giới và Thai Tạng Giới nói đến trong Mật Giáo. Thai
Tạng Giáo là tượng trưng cho nguyên lý (lý) và nguyên nhân (nhân) trong
khi Kim Cương Giới tượng trưng cho trí tuệ (trí) và kết quả (quả).
[4]Nguyên văn bài kệ:
Có tử tất có sinh
Có sinh tất có tử
Tử khiến cho người buồn
Sinh làm người vui vẻ
Buồn vui thật vô cùng
Bổng nhiên sinh bỉ thử
Với chuyện tử sinh đừng để tâm chi
Án tô rô tô rô tất rị!
(Hữu tử tức hữu sinh
Hữu sinh tất hữu tử
Tử vi thế sở bi
Sinh vi thế sở hỷ
Bi hỷ lưỡng vô cùng
Hốt nhiên thành bỉ thử
Ư chư sinh tử bất quan hoài
Án tô rô tô rô tất rị!)
[5] Tam Ma Ðịa (Samadhi) là thiền định: Tổng trì Tam Ma đại
(Dharanisamadhi) là thiền định về tổng trì
[6] Kim xỉ là răng vàng. Có lẽ là xứ Miến Ðiện
[7] Mười tám đứa con là thập bát tử, viết chung lại thì thành
chữ Lý, tức nhà Lý.
[8] Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư chép: “Vua thích giết người; phàm
người bị hành hình thì sai lấy cỏ tranh quấn vào người mà đốt cho lửa
cháy gần hết; hoặc sai người ... (lược) lấy dao ngắn, dao cùn, xẻ từng
mảnh để không cho chết chóng... (lược). Ði đánh dẹp bắt được tù thì giải
đến bờ sông, khi nước triều rút, sai người làm lao dưới nước, dồn cả
vào trong ấy, đến khi triều lên thì ngập nước mà chết... (lược), từng
róc mía ở đầu sư Quách Ngang, giả lỡ tay, lưỡi dao trượt xuống đầu nhà
sư chảy máu, rồi cả cười..