Chương
IX: Nền tảng của Phật Giáo đời Trần
THIỀN PHÁI YÊN TỬ
NỀN PHẬT GIÁO THỐNG NHẤT
Vào đầu thế kỷ thứ mười ba, ba thiền phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi, Vô
Ngôn Thông và Thảo Ðường dần dần nhập lại là một. Do ảnh hưởng lớn lao
của Trần Thái Tông và Tuệ Trung thượng sĩ, sự sát nhập của ba thiền phái
trên đây vào nhau đã đưa tới sự phát triển lớn của thiền phái Yên Tử
thành thiền phái Trúc Lâm, tức là thiền phái duy nhất đời Trần. Ðời Trần
có thể được gọi là thời đại Phật Giáo Nhất Tông, tức là thời đại của
một phái Phật Giáo Duy Nhất. Tông phái này xuất hiện từ núi Yên Tử mà vị
tổ khai sơn là thiền sư Hiện Quang. Thiền sư Viên Chứng hiệu Trúc Lâm,
thầy của vua Trần Thái Tông, là tổ thứ hai của Phái Yên Tử, được vua tôn
xưng là quốc sư. Vị tổ truyền thừa thứ ba là Ðại Ðăng quốc sư đồng sư
với vua Trần Thái Tông. Một vị quốc sư khác tượng trưng cho sự lãnh đạo
nền Phật Giáo thống nhất đời Trần là Nhất Tông quốc sư, đệ tử của thiền
sư Ứng Thuận thuộc thế hệ thứ 16 của thiền phái Vô Ngôn Thông. Danh từ
Nhất Tông mà vua Trần Thái Tông dùng để tôn xưng vị quốc sư hẳn có ý
nghĩa về tình trạng thống nhất Phật Giáo trong một tông phái duy nhất.
Trước hết ta hãy xét về những ảnh hưởng tương hỗ giữa ba thiền
phái đời Lý. Như ta biết, thiền phái Thảo Ðường không có cơ sở trong
đại chúng bình dân, cũng không có truyền thống tu viện đặc thù, nhưng có
ảnh hưởng sâu đậm tới mặt học thuật tư tưởng và thi ca trên hai thiền
phái đương thời: Tuyết Ðậu Ngữ Lục đã trở thành một văn kiện được trọng
dụng ở cả hai thiền phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi và Vô Ngôn Thông. Thiền sư
Thường Chiếu, thuộc phái Vô Ngôn Thông, đã sang làm tọa chủ ở chùa Lục
Tổ, vốn là một tổ đình rất xưa của thiền phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi: điều này
chứng tỏ hai thiền phái này lúc bấy giờ hầu như đã sát nhập nhau thành
một. Thường Chiếu và đệ tử là Thần Nghi sinh hoạt trong lòng thiền phái
Tỳ Ni Ða Lưu Chi đã thu thập khá nhiều tài liệu về thiền phái này để ghi
chép lại trong sách Thuyền Uyển Tập Anh. Thiền sư Thường Chiếu có thể
được gọi là người khởi đầu cho sự tổng hợp giữa ba thiền phái Tỳ Ni Ða
Lưu Chi, Vô Ngôn Thông và Thảo Ðường và cũng là gạch nối giữa Phật Giáo
đời Lý và Phật Giáo đời Trần. Ðịa vị của ông rất quan trọng. Ta hãy nhìn
đồ biểu sau đây:
(vẽ biểu đồ)
Ba vị đệ tử quan trọng của Thường Chiếu là Thần Nghi, Thông
Thiền và Hiện Quang.
Thần Nghi với đệ tử là Ẩn Không đã có trách nhiệm truyền lại
các tài liệu lịch sử Phật Giáo của Thường Chiếu, như các sách Thuyền
Uyển Tập Anh và Nam Tông Tự Pháp Ðồ.
Thông Thiền nối tiếp truyền thống Vô Ngôn Thông truyền xuống
cho Tức Lự, rồi Ứng Thuận. Các đệ tử của Ứng Thuận như Nhất Tông, Giới
Minh, Giới Viên, Tiêu Diêu đều là những ngôi sao sáng trong Phật học
giới và đều đóng góp nhiều cho nền Phật Giáo Thống Nhất đời Trần. Họ là
những người của thế hệ cuối cùng của thiền phái Vô Ngôn Thông.
Thiền sư Hiện Quang khai sơn núi Yên Tử mở đầu cho thiền phái
Trúc Lâm, nền Phật Giáo Thống Nhất đời Trần.
Trước hết ta hãy nói về thiền sư Thường Chiếu, người có thể
đại diện được cho ba thiền phái cuối đời Lý và gạch nối giữa nền phát
triển ba-tông-phái đời lý và nền Phật Giáo một-tông-phái đời Trần.
THIỀN SƯ THƯỜNG CHIẾU
Thường Chiếu người làng Phù Ninh, họ Phạm. Hồi chưa xuất gia,
ông đã từng làm quan dưới triều vua Ly Cao Tông, chức lệnh đô tào ở cung
Quảng Từ. Sau đó, ông bỏ quan tước để đi xuất gia dưới sự hướng dẫn của
thiền sư Quảng Nghiêm, chùa Tịnh Quả. Ðược tâm truyền của thiền sư
Quảng Nghiêm, ông ở lại chùa Tịnh Quả thêm vài ba năm để hầu thầy, rồi
sau đó ông lui về một ngôi chùa cổ ở làng Ông Mạc để dạy học trò. Năm
ông rời chùa Tịnh Quả có lẽ là năm 1190, bởi vì sách Thuyền Uyển Tập Anh
nói thẩy ông là thiền sư Quảng Nghiêm tịchv ào năm ấy. Có lẽ ông đã ở
lại hầu thầy đến khi thầy tịch.
Sau đó không lâu, thiền sư Thường Chiếu dời sang chùa Lục Tổ,
vốn là một tổ đình rất xưa của phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi; chùa này được
thành lập vào khoảng thế kỷ thứ tám do thiền sư Ðịnh Khuông và đệ tử là
thiền sư Thông Thiền tạo dựng.
Sự kiện Thường Chiếu của thiền phái Vô Ngôn Thông đến mở
trường dạy học tại chùa Lục Tổ, một tổ đình lớn của phái Tỳ Ni Ða Lưu
Chi, cho ta thấy rằng cao tăng của phái sau này, sau thiền sư Viên
Thông, đã bắt đầu thưa thớt đến nỗi sự giáo hóa Phật pháp tại một tổ
đường đã phải nhờ đến một thiền sư thộc phái Vô Ngôn Thông. Ðã đành còn
có các vị cao tăng như Ðạo Lâm, Tĩn Thiền, Ðịnh Hương và Y Sơn, nhưng
các vị này cũng còn phải trụ trì các tổ đường khác của môn phái.
Chính vì hành đạo tại một tổ đường Tỳ Ni Ða Lưu Chi mà thiền
sư Thường Chiếu đã thu thập được nhiều tài liệu để bổ túc cho tập sử
liệu Phật Giáo do thiền sư Thông Biện để lại hiện có trong tay ông.
Ngoài công việc đó. Thường Chiếu còn viết thêm một tài liệu Phật Giáo
khác lấy tên là Nam Tông Tự Pháp Ðồ. Còn tập sử liệu kia sau này trở
thành sách Thuyền Uyển Tập Anh. Cả hai tài liệu này ông đã trao lại cho
đệ tử là Thàn Nghi. Tại chùa Lục Tổ, số môn đồ đến thụ giáo với Thường
Chiếu càng ngày càng đông đảo.
SỰ QUAN TRỌNG CỦA TÂM HỌC
Thường Chiếu chủ trương sự tu học chứng ngộ cần được căn cứ
trên một nền tâm học vững chãi mới có thể thành tựu được. Ông nói:
“Người tu đạo nếu biết rõ về tâm minh thì sẽ phí sức ít mà dễ thành
công. Người tu đạo nếu không biết gì về tâm mình thì sẽ phí sức ít mà dễ
thành công. Người tu đạo nếu không biết gì về tâm mình thì phí công vô
ích”. Thấy được tâm mình là ở đây là thấy được sự liên hệ giữa chủ thể
và đối tượng nhận thức. Tâm học ở đây có nghĩa gần như tâm lý học, đó là
Duy thức học. Một vị đệ tử Thường Chiếu câu hỏi sau đây: “Khi chủ thể
nhận thức và đối tượng nhận thức xúc tiếp nhau thì sự việc xảy ra thế
nào?” (Vật ngã phan duyên thời như hà?). Thường Chiếu đáp, trong tinh
thần chính thống của Duy Thức học: “Khi ấy, cả chủ thể và đối tượng nhận
thức không còn. Tâm thức của ta vô thường, thay đổi sinh diệt từng sác
na, thì làm sao có một chủ thể thường tại mà tiếp xúc với đối tượng? Tuy
vậy, sinh là các hiện tượng sinh, diệt là các hiện tượng diệt; còn đối
tượng chứng ngộ thì không bao giờ sinh diệt”(Vật ngã lưỡng vong! Tâm
tính vô thường, dị sinh dị diệt, sát-na bất đình, thùy thị phan duyên?
Sinh vi sinh vật, diệt vi diệt vật, bỉ pháp sở đắc thường vô sinh diệt).
ÐỐI TƯỢNG CHỨNG ÐẮC
Trong câu nói trên, Thường Chiếu cho ta thấy rằng sự chứng đạo
không phải được thực hiện trên liên hệ chủ thể và đối tượng của nhận
thức, bởi cả hai đều sinh diệt không ngừng. Nếu sự chứng đắc mà cũng
sinh diệt như thế đâu có sự chứng đắc. Cho nên đừng tìm quả vị giác ngộ
như một đối tượng nhận thức; quả vị giác ngộ phải được thực hiện ngay
trong tự thể của tâm. Mọi tìm cầu bên ngoài đều vô hiệu.
Ðiều này còn rõ ràng hơn nữa khi Thường Chiếu trả lời một
người đệ tử hỏi về pháp thân.
Thân tuy sống trên đời
Tâm là như lai tạng
Chiếu rạng cả mười phương
Nhưng tìm thì biệt dạng.
(Tại thế vi nhân thân
Tâm vi như lai tạng
Chiếu diệu thả vô phương
Tầm chi cánh tuyệt khoáng)
Pháp thân hay tự tính giác ngộ vốn hiện hữu tràn đầy: biết mở
con mắt vô phân biệt mà nhìn thì sự thực chứng được hiện hữu tràn đầy
đó. Nhưng nếu có chủ định đi tìm nó như một đối tượng thì tự nhiên nó
biệt tăm biệt dạng. Một hôm một đệ tử là cư sĩ Thông Sư hỏi ông: “Làm
sao chứng đắc được Phật pháp?”. Thường Chiếu trả lời: “Phật pháp không
thể chứng đắc được. Chư Phật đều đã tu học trên căn bản chư pháp bất khả
đắc ấy”.
TÙY TỤC
Khi ông gần mất,vị đệ tử lớn là Thần Nghi hỏi: “Những nhân vật
như sư phụ mà khi thời tiết đến cũng phải tùy tục chết đi như vậy như
người thường sao?”, Thường Chiếu hỏi; “Ngươi thấy được ai là kẻ không
tùy tục nào?”. Thần Nghi:” Bồ Ðề Ðạt Ma là một. Ông ta không chết mà chỉ
lướt biển trở về Ấn Ðộ”. Thường Chiếu: “Ðó chỉ chẳng qua là chó sủa
bóng thôi”. Thần nghi hỏi: “Vậy hòa thượng có tùy tục không?”. Thường
Chiếu nói: “Ta cũng tùy tục”. Thần Nghi hỏi: “Tại sao lại như thế?”
Thường Chiếu trả lời: “Ðể cho giống với kẻ khác”, nhờ câu này mà Thần
Nghi tỉnh ngộ.
Sau này Thần Nghi hỏi thầy: “ Con ở với hòa thượng đã nhiều
năm, nhưng chưa biết thủ truyền của tông phái ta là ai, xin ngài chỉ dạy
thứ bực truyền thừa để kẻ hậu học biết được nguồn gốc”. Thường Chiếu
liền lấy tập tài liệu lịch sử của Thông Biện biên tập và bản ghi chép
các tông phái cùng những thế hệ truyền thừa trao cho Thần Nghi. Thần
Nghi xem qua hỏi: “Tại sao hai hệ phái Ðại Ðiên và Bát Nhã không được
chép vào đây?”. Thường Chiếu: “ Ðó là ý của Thông Biện. Thông Biện đã
nghĩ kỹ nên mới quyết định như thế”.
Sau này Thần Nghi trao lại các tài liệu lịch sử Phật Giáo trên
cho đệ tử là Ẩn Không.
Thường Chiếu có ba người đệ tử xứng đáng: Thiền sư Hiện Quang
người sẽ khai sơn thiền phái Yên Tử đời Trần: thiền sư Thần Nghi, người
đã truyền lại tài liệu lịch sử Phật Giáo Việt Nam; và cư sĩ Thông Sư,
người đã đào tạo nên thiền sư Tức Lự. Thường Chiếu có công nhiều trong
việc dung hợp ba thiền phái phát triển đời Lý và thâu thập nhiều tài
liệu về các thiền phái này. Tiếc rằng Nam Tông Tự Pháp Ðồ hiện nay chưa
tìm ra được. Có lẽ tác phẩm này mất hẳn. Ông là người có đạo học uyên
thâm. Bài kệ ông đọc trước lúc lâm chung biểu lộ được phong thái của
người đã giải thoát, tìm thấy rằng thực hữu tràn đầy kia không nơi đâu
và không lúc nào không phải là quê hương mình:
Ðạo vốn không nhan sắc
Mà ngày càng gấm hoa
Trong ba ngàn cõi ấy
Ðâu chẳng phải là nhà?
(Ðạo bản vô nhan sắc
Tân tiên nhật nhật khoa
Ðại thiên sa giới ngoại
Hà xứ bất vi gia?)
VỊ TỔ KHAI SƠN PHÁI YÊN TỬ: HIỆN QUANG THIỀN SƯ (mất 1220)
Vị tổ khai sơn chùa Hoa Yên ở núi Yên Tử là thiền sư Hiện
Quang, đệ tử của thiền sư Thường Chiếu chùa Lục Tổ. Nhưng Hiện Quang
không phải chỉ là người truyền thừa tông chỉ của Thường Chiếu phái Vô
Ngôn Thông. Ông còn học với thiền sư Trí Thông chùa Thánh Quả và thiền
sư Pháp Giới ở núi Uyên Trừng, phủ Nghệ An nữa. Ta không rõ thiền sư Trí
Thông và Pháp Giới thuộc giáo hệ nào, ta chỉ biết ảnh hưởng của họ trên
thiền sư Hiện Quang có thể còn quan trọng hơn cả ảnh hưởng của Thường
Chiếu, bởi lúc Thường Chiếu viên tịch thì Hiện Quang mới có hai mươi mốt
tuổi, chưa thọ tỳ kheo giới và “chưa kịp có thì giờ suy cứu về tông chỉ
thiền môn” (Thuyền Uyển Tập Anh ).
Sau khi Thường Chiếu viên tịch, Hiện Quang thấy sức học của
mình về thiền kém cỏi quá, tự than rằng: ta cũng như đứa con của đại phú
gia, khi cha mẹ còn sống thì không biết trong nhà đầy châu báu, khi cha
mẹ chết thì trở nên bần cùng nghèo khổ”. Hiện Quang liền đi chu du
trong giới thiền lâm để cầu tham học, gặp được thiền sư Trí Không chùa
Thánh Quả nhờ một câu nói của ông này mà tâm tư khai sáng. Hiện Quang
dáng người và vẻ mặt thanh tú, giọng nói êm ái. Vì Hoa Dương công chúa
hay lui tới cúng dường nên ông bị người ta nói ra nói vào. Do đó ông bỏ
vào núi Uyên Trừng theo Pháp Gới thiền sư, thọ giới tỳ kheo để tu học.
Ông nói: “Nếu ta không lấy nhẫn nhục làm áo giáp và tinh tấn làm khí
giới, thì ta không thể nào phá được ma quân phiền não và đạt được quả
giác ngộ vô thượng”. Sau một thời gian tu học tại đây, không muốn nhận
cúng dường của tín thí nữa, ông vào rừng sống trong mười năm. Về sau,
ông vào núi Từ Sơn làm am cư trú. Ði kinh hành trong rừng ông mang theo
bao vải; đến nơi thích hợp ông trải bao ra ngồi thiền, loài dã thú thấy
ông không hề xúc phạm. Vua Lý Huệ Tông nghe tiếng cho người đi mời ông.
Ông cho đệ tử trả lời như sau: “Bần đạo sinh trên đất của vua, ăn lộc
của vua, ở trong núi thờ Phật đã lâu năm, công đức chưa thành tựu, rất
lấy làm hổ thẹn. Nay nếu về thăm vua, thì chẳng có ích gì cho việc trị
an của vua mà lại còn bị chúng sinh bài báng. Huống chi bây giờ Phật
pháp đang hưng thịnh, các bậc sư tượng trong đạo nhiều người đang tụ tập
ở kinh đô diện các, một ông thầy tu thô lậu áo drách trong núi về kinh
làm gì?”. Nói rồi quyết không xuống núi. Không biết Hiện Quang đến khai
sơn Yên Tử năm nào. Một hôm có một vị tăng hỏi ông; “Hòa thượng lâu này
làm gì trong núi?” Ông đáp:
Theo Hứa Do người cũ
Ðâu biết mấy xuân rồi?
Vô vi nơi khoáng dã
Làm người tự tại thôi!
(Ná dĩ Hưa Do đức
Hà tri thế kỷ xuân?
Vô vi cư khoáng dã
Tiêu diêu tự tại nhân)
Năm 1220, tức năm Tân tỵ, niên hiệu Kiến Gia thứ 11, thiền sư
ngồi trên một phiến thạch đọc một bài kệ sau đây trước khi tịch:
Pháp huyễn đã là huyễn
Tu huyễn cũng là huyễn
Lìa được hai huyễn ấy
Là lìa được mọi huyễn
(Huyễn pháp giai thị huyễn
Huyễn tu giai thị huyễn
Nhị huyễn giai bất tức
Tức thị trừ chư huyễn)
Là tổ khai sơn chàu Hoa Yên núi Yên Tử, Hiện Quang được xem
nhưa là người đích thực sáng lập truyền thống Yên Tử. Truyền thống này
sau lấy tên là Trúc Lâm. Trần Nhân Tông, thuộc thế hệ thứ sáu phái Yên
Tử, lấy hiệu là Trúc Lâm đầu đà.
TRÚC LÂM QUỐC SƯ
Sách Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư gọi vị thiền sư trên núi Yên Tử
mà Thái Tông lên tham yết là Phù Vân, bạn cũ của Thái Tông. Ðiều này sợ
sai, bởi vì Phù Vân là hiệu của thiền sư Tĩnh Lự, thuốc thế hệ thứ 10
của thiền phái Yên Tử, đệ tử của thiền sư An Tâm, trù trì chùa Hoa Yên.
Trong bài tựa Thiền Tông Chỉ Nam, Thái Tông chỉ gọi vị thiền sư núi Yên
Tử là Trúc Lâm đại sa môn, tôn xưng là quốc sư, mà không bao giờ gọi là
ông Phù Vân quốc sư. Vị thiền sư này là đệ tử của Hiện Quang, mà theo
Thuyền Uyển Tập Anh có pháp danh là Ðạo Viên; sách Thánh Ðăng Lục, sách
Yên Tử Sơn Trúc Lâm Trần Triều Thiền Tông Bản Hạnh và tài liệu truyền
thừa chùa Hoa Yên (theo hòa thượng Phúc Ðiền) đều nói tên thiền sư là
Viên Chứng. Viên Chứng hay Ðạo Viên hay Trúc Lâm quốc sư cũng là một
người. Thiền sư Hiện Quang tich năm 1220, lúc vua Thái Tông mới lên 3
tuổi, thành thử Hiện Quang không phải là người vua gặp trên núi. Ðạo
Viên thiền sư làm lễ an táng thầy trên núi Yên Tử; năm thầy mất, Ðạo
Viên ít ra cũng 20 tuổi. Nói Ðạo Viên là bạn cũ của Thái Tông e cũng
không đúng, bởi vì hồi tám tuổi Thái Tông đã làm vua. Hơn nữa, trong bài
tựa Thiền Tông Chỉ Nam, Ðạo Viên đã dùng tiếng lão tăng để tự chỉ mình.
Sách Trần Triều Thiền Tông Bản Hạnh cũng nói Ðạo Viên là “lão tăng thầy
già”. Vậy liên hệ giữa hai người là liên hệ thầy trò mà không phải là
bạn hữu.
Vào khoảng năm 1248, Trúc Lâm có xuống kinh sư theo lời mời
của vua Thái Tông để kiểm điểm lại các bộ kinh và lục trước khi đem khắc
bản gỗ để ấn loát phát hành. Vua Thái Tông thỉnh ông ở lại chùa Thắng
Nghiêm, tôn xưng là quốc sư. Vua cũng trình ông một tác phẩm ông vừa mới
viết tên là Thiền Tông Chỉ Nam. Ông khen ngợi và khuyên nên khắc bản để
in luôn trong dịp ấy.
Năm 1236 khi vua Thái Tông bỏ lên núi Yên Tử định đi tu, Trúc
Lâm quốc sư hỏi vua muốn tìm gì mà lên núi. Vua nói chỉ muốn đi tìm
thành Phật. Ông nói: “Trong núi vốn không có Phật, Phật ở trong tâm ta.
Nếu tâm ta lắng lại và trí tuệ xuất hiện thì đó chính là Phật. Nếu bệ hạ
giác ngộ được chân lý ấy thì tức khắc thành Phật ngay tại chỗ, không
phải đi tìm cực nhọc bên ngoài (bài tựa Thiền Tông Chỉ Nam).
Khuyên Thái Tông trở về nhậm nhiệm vụ trị dân, thiền sư nói:
“Ðã làm vua thì không còn có thể theo ý thích riêng mình nữa. phải lấy ý
muốn của dân làm ý muốn của mình; phải lấy lòng dân làm lòng của mình.
Nay dân muốn vua về mà vua không về thì làm sao được?” Thiền sư buộc vua
trở về với bổn phận bằng một lý luận đanh thép. Nhưng ông an ủi: tuy
vậy, vua vẫn có thể làm nghề trị dân vừa tu học Phật pháp. Thiền ân cần
dặn vua đừng quên học Phật và tham thiền.
Không biết sau khi hoàn tất việc in kinh, Trúc Lâm quốc sư có
lưu lại kinh sư một thời gian trước khi về núi hay không. Ảnh hưởng của
ông không những lớn lao trên sự tu học của Trần Thái Tông mà trên nhiều
mặt khác nữa. Ít ra ông ông cũng đã đóng góp về phương diện văn hóa
trong việc san định và ần hành kinh lục, và đã cống hiến cho đời thêm
một vị đệ tử xuất sắc là Ðại Ðăng quốc sư người đã ảnh hưởng nhiều tới
tư tưởng thiền phái Trúc Lâm sau này.
ÐẠI ÐĂNG QUỐC SƯ
Ðại đăng quốc sư thuộc thế hệ thứ ba truyền thống Yên Tử, anh
em đồng sư với Trần Thái Tông. Hiện ta không có tài liệu nào về tư tưởng
và thi văn của Ðại Ðăng. Ta chỉ biêt theo Thánh Ðăng Lục và Trần Triều
Thiền Tông Bản Hạnh rằng tuy tiếp nhận truyền thừa phái Yên Tử nhưng ông
cũng tiếp nhận truyền thừa Lâm Tế do thiền sư Thiên Phong từ Trung Hoa
đưa qua. Thiên Phong từ Chương Tuyên đến, thuộc về thiền phái Lâm Tế.
Huệ Nguyên trong bài Lược Dẫn Thiền Phái Ðồ in ở đầu sách Thượng Sĩ Ngữ
Lục nói rằng Thiên Phong là cư sĩ. Trần Triều Thiền Tông Bản Hạnh¸, nói
ông là “thầy nước ngoài” và trí tuệ cao tài kinh lịch chư bang”. Khi
Thiên Phong đến Việt Nam, vua Thái Tông nghe tiếng liền mời đến viện Tả
Nhai, hội họp các bậc thiện tri thức lại để cdùng tham học. Trong số
những bậc “Kỳ Ðức” tham dự các buổi học tập này chắc chắn đã có Ðại
Ðăng. Lúc này Ðại Ðăng đã được Trúc Lâm quốc sư gửi về kinh thành hành
đạo. Trong số những người nghe Thiền Phong giảng đạo. Ðại Ðăng là người
được Thiên Phong chính thức truyền cho tâm ấn. Một trong những đệ tử
xuất sắc của Ðại Ðăng là Liễu Minh quốc sư.
TIÊU DIÊU THIỀN SƯ
Tiêu diêu thiền sư thuộc thế hệ thứ tư truyền thống Yên Tử.
Ông là học trò Ðại Ðăng, đồng thời cũng đắc pháp với thiền sư Ứng Thuận
của thiền phái Vô Ngôn Thông. Cùng học Ứng Thuận trong thế hệ ông còn có
các thiền sư Giới Minh, Giới Viên và Nhất Tông quốc sư. Tiêu Diêu là
thầy của Tuệ Trung thượn sĩ, một trong những cây đuốc sáng nhất của
thiền học đời Trần.
Huệ Nguyên, người san định sách Thượng Sĩ Ngữ Lục năm 1763,
nói rằng Tiêu Diêu, thầy của Tuệ Trung, là người Trung Hoa qua Việt Nam
truyền đạo. Sự thực thì không phải thế. Tiêu Diêu là người Việt Nam, đẹ
tử của Ứng Thuận phái Vô Ngôn Thông, đồng thời cũng là người thừa kế
thiền sư Ðại Ðăng, tổ thứ bachùa Hoa Yen núi Yên Tử. sự kiện Tiêu Diêu
đắc pháp với Ứng Vương được nói đến trong Thuyền Uyển Tập Anh, nhưng Huệ
Nguyên không được đọc tác phẩm này. chính vì mặc cảm cho rằng tổ sư
Trung Hoa mới giỏi và mới chính thống nên ông đã cho rằng Tiêu Diêu,
thầy của Tuệ Trung phải là người Tàu. Không được đọc Thuyền Uyển Tập Anh
nên trong bài Lược Dẫn Thiền Phái Ðồ (đầu trang Thượng Sĩ Ngữ Lục) ông
đã viết những giòng mơ hồ sau đây về thiền phái Vô Ngôn Thông: “Thiền
phái truyền vào nước ta không biết người nhận lãnh đầu tiên là ai, chỉ
biết Thiền Nguyệt truyền cho Nguyễn Thái Tông rồi lần xuống Ðịnh Hương
trưởng lão, Viên Chiếu, Ðạo Huệ, sau đó còn lần lượt trao truyền, nhưng
tên tuổi các ngài lúc ẩn, lúc hiện khó nhận ra manh mối”. Ta thấy Huệ
Nguyên nhắc đến tên một số các vị thiền sư phái Vô Ngôn Thông nhưng
không biết gì về nguyên ủy của thiền phái này.
Thiền sư Tiêu Diêu còn được gọi là Phúc Ðường đại sư, cư trú ở
Phúc Ðường tịnh xá. Không biết tịnh xá này ở đâu. Có thể là trên núi
Yên Tử. Tuệ Trung thượng sĩ có một bài thơ “Lên thăm thiền sư Tiêu Diêu ở
Phúc Ðường tịnh xá” và một bài thơ “Cảnh vật Phúc Ðường” trong đó có
câu “Thả hỷ lâm thâm thoại thú tàng” (vui chốn rừng sâu trong đó có ẩn
nhiều loại thú lành). Tụe Trung là một tay cự phách trong rừng thiền
nhưng đối với thiền sư Tiêu Diêu rất mực cung kinh khâm phục. Trong bài
“Lên Thăm Thiền Sư Tiêu Diêu ở Phúc Ðường” ông nói:
Cho hay Phật sống trần gian đấy
Sen nở trên lò rực lửa hồng.
(Tu tri thế hữu nhân trung Phật
Hưu quái lô khai hỏ lý liên)
Tuy Huệ Tuệ là pháp tử chính thức của Tiêu Diêu, trù trì chùa
Yên Tử, nhưng chính Tuệ Trung thượng sĩ mới là học trò xuất sắc nhất của
Tiêu Diêu vậy. Nhưng trước khi nói đến Tuệ Trung, ta hãy nói đến Trần
Thái Tông và sự nghiệp Phật học của vua này.