Chương
VIII: Tổng quan về Phật Giáo đời Nhà Lý (1010 - 1225)
CHÂN ÐỨNG
Như ta đã thấy, đạo Phật Việt Nam của thế kỷ thứ thứ năm chỉ
còn lại tên tuổi của hai vị thiền sư: đó là Dharmadeva và Huệ Thắng.
Thế kỷ thứ sáu ghi lại hai vị thiền sư Việt Nam: Quán Duyên và
Pháp Hiền. Chính trong thế kỷ này mà thiền sư Tỳ Ni Ða Lưu Chi đến Việt
Nam, và lập ra thiền phái mang tên ông.
Ba thế kỷ tiếp theo: thế kỷ thứ bảy, tám và chín là ba thế kỷ
thuộc Ðường. Sự cai trị hà khắc. Tuy vậy trong thế kỷ thứ bảy và thứ
tám, cao tăng xuất hiện khá nhiều. Ngoài tên tuổi của những thiền sư
trong thiền phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi, ta còn có tên tuổi của những vị tăng
sĩ từng qua giảng kinh bên cung vua Ðường, những vị tăng sĩ thông hiểu
cả Hán ngữ lẫn Phạn ngữ, thường đi chu du qua Ấn Ðộ và Trung Hoa. Trong
thế kỷ thứ chín, thiền sư Vô Ngôn Thông qua Việt Nam và lập một thiền
phái nữa mang tên ông.
Thế kỷ thứ mười là thế kỷ Việt Nam bắt đầu thực sự giành được
quyền tự chủ. Khúc Thừa Dụ, Khúc Hạo, Khúc Thừa Mỹ, nối nhau dấy nghiệp,
rồi Ngô Quyền phá quân Nam Hán. Tiếp đến Ðinh Tiên Hoàng dẹp 12 sứ
quân, lập ra nước Ðại Cồ Việt độc lập. Mật Giáo và Thiền là hai hệ thống
Phật giáo hưng thịnh nhất của thời đại. Chính trong thế kỷ này mà những
trụ đá về Mật Tông được tạo dựng ở Hoa Lư. Chính trong thế kỷ này mà
đạo Phật tích cực đóng góp vào việc dựng nước. Năm 971, vua Ðinh Tiên
Hoàng định giai cấp cho tăng sĩ và ban chức tăng thống cho Ngô Chân Lưu
của thiền phái Vô Ngôn Thông, cho ông hiệu Khuông Việt Thái Sư, chính
nhận thức Phật giáo làm nguyên tắc chỉ đạo tâm linh cho chính sự. Cũng
chính trong thế kỷ này mà vua Lê Ðại Hành mời thiền sư Pháp Thuận và
thiền sư Vạn Hạnh của thiền phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi làm cố vấn chính sự.
Các thiền sư Khuông Việt, Pháp Thuận và Vạn Hạnh cũng đã tiếp tục giúp
vua Lý Thái Tổ trong thế kỷ kế tiếp.
ÐẠO PHẬT VÀ CHÍNH TRỊ
Có nhiều lý do khiến các thiền sư đời lý tham dự chính sự
(tham dự chính sự mà không tham dự chính quyền, bởi vì họ không nhận
chức vụ trong nội các, chỉ tới giúp ý kiến và công việc, rồi về chùa).
Lý do thứ nhất: họ là những người có học, có ý thức về quốc gia, sống
gần gũi với quần chúng và biết được những khổ đau của người dân đang bị
một chính sách đô hộ hà khắc bóc lột. Lý do thứ hai: họ không có ý muốn
tranh ngôi của vua, không giành quyên bính và địa vị ngoài đời, nên vua
tin họ. Lý do thứ ba: họ không cố chấp và thuyết trung quân (chỉ biết
giúp một vua mà thôi) như các nhà Nho, nên họ có thể cộng tác với bất cứ
ông vua nào có thể đem lại hạnh phúc cho dân. Lý do thứ tư: các vua cần
sức học của họ; nhất là trong đời Ðinh, Lê, các vua đều không phải
thuộc giới trí thức. Nho sĩ thì chắc là không có mấy người, mà lại chỉ
trung thành được với một triều đại.
Trong phần nói về thiền phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi, ta thấy hành
động chính trị của các thiền sư Pháp Thuận và Vạn Hạnh. Thiền phái Vô
Ngôn Thông có thiền sư Ngô Chân Lưu cũng đóng góp nhiều trong lĩnh vực
chính trị. Danh hiệu Khuông Việt Ðại Sư mà vua Ðinh Tiên Hoàng ban cho
ông đủ nói lên tầm quan trọng của công tác ông. Khuông Việt có nghĩa là
“giúp nước Việt”. Năm 986, khi sứ Tống làLý Giác đi qua, vua Ðại Hành
nhờ ông ra ứng đối, bởi vì ông là người có khả năng nhất lúc bấy giờ.
Chính người đi đón tiếp Lý Giác cũng là một thiền sư: Pháp Thuận làm thơ
trên thuyền, và khiến cho lý Giác khâm phục. Sau cuộc viếng thăm, Lý
Giác đã làm bài thơ tỏ ý khâm phục vua Việt. Vua Lê Ðại Hành liên nhờ
Khuông Việt làm một bài thơ khác để tiễn Lý Giác về nước:
Trời xanh, gió thuận, gấm buồm giương
Thần tiên về cố hương
Hành trình vạn lý biển mênh mang
Xa xôi hút dặm đường
Lòng càng quyến luyến chén chưa tàn
Cầm tay nhau thở than
Xin đem thâm ý của Nam Bang
Bày tỏ với Thượng Hoàng.
(Tường quang, phong hảo, cẩm phàm trương
Thần tiên phục đế hương
Thiên lý vạn lý thiệp thương lương
Cửu thiên quy lộ trường
Nhân tình thảm thiết đối ly trường
Phan luyến sứ tin lang
Nguyện tương thâm ý vị Nam cương
Phân minh báo Ngã hoàng).
Chắc hẵn công trình của Khuông Việt trong chính sự khá lớn,
cho nên sách Thuyền Uyển Tập Anh mới chép “Vua Lê Ðại Hành rất kính
trọng, phàm những việc quân quốc trong triều đình đều đưa cho ngài cả”
(Lê Ðại Hành hoàng đế vưu gia lễ kính, phàm triều đình quân quốc chi sự,
sư giai dữ yên).
Tuy giúp vua Tiền Lê, những khi thấy tình trạng tệ lậu của
quốc gia do Lê Long Ðỉnh tạo ra, thiền sư Vạn Hạnh đã không ngần ngại
ủng hộ Lý Công Uẩn trong việc chấm dứt chế độ dã man này. Sau khi Lê Ðại
Hành mất, con là Long Việt lên ngôi 3 ngày thì bị Long Ðỉnh giết. Thấy
thế, và biết trước là Long Ðỉnh sẽ rất tàn bạo, Lý Công Uẩn đã thất vọng
ôm xác Long Việt mà khóc. Vạn Hạnh cũng thấy rõ nguy cơ ấy nên bắt đầu
nuôi ý đưa Lý Công Uẩn lên chính quyền.
Các vua đời Lý so sánh với các vua Ðinh Lê thì giỏi hơn rất
nhiều phương diện học thức. Sự sùng Phật của các vua Lý cũng có tính
cách tâm linh và trí thức hơn. Họ đều có học Phật và thường với các
thiền sư đến để đàm luận về giáo lý. Trong triều đã xuất hiện nhiều
người có Nho học, trong số này có nhiều người do các thiền sư đào tạo.
Vì vậy, các thiền sư chỉ đóng góp về phương diện chỉ đạo tinh thần mà
khỏi phải trực tiếp làm những việc như tiếp sứ, thảo chiếu dụ và văn
thư, đưa sách lược kinh tế và chính trị.
Vào hạ bán thế kỷ thứ mười hai đã xuất hiện những nho thần như
Ðàm Dĩ Mông cực lực bài xích Phật Giáo, nhưng dù sao ảnh hưởng của các
thiền sư trên triều đình vẫn còn mạnh. Lý Cao Tông (1175-1210) bị tăng
phó Nguyễn Thường khuyên can chớ nên hát xướng chơi bời xa hoa quá độ.
Ông nó; “Tôi nghe bài tựa Kinh Thi nói: âm nhạc làm loạn nước thì nghe
như oán giận. Nay dân loạn, nước khốn, chúa thượng thì rong chơi vô độ.
Triều đình rối loạn, dân tâm ly tán, đó là triệu chứng mất nước”. Ngữ
khí của thiền sư cho ta thấy ảnh hưởng Phật giáo trong dân gian còn
mạnh. Thiền sư Viên Thông trước đó cũng đã ân cần nói với vua Thần Tông
về lẽ trị loạn “Thiên hạ cũng như bất cứ cái gì, hễ đặt nó vào chỗ an,
thì an, đặt vào chỗ nguy thì nguy: điều này trông vào hành động của bậc
nhân chủ (vua). Nếâu đức tôn trọng sự sống của vua mà hợp với lòng dân
khiến cho dân yêu mến như cha mẹ, ngưỡng mộ vua như mặt trời mặt trăng,
như thế là đặt thiên hạ vào đúng chỗ an đó. Trị và loạn cũng do ở sự
dùng người; nếu có người tốt giúp rập thì trị, mà không có thì loạn. Tôi
thấy các bậc đế vương đời trước không ai không vì dùng bậc quân tử mà
hưng, không ai không vì dùng tiểu nhân mà vong. Tình trạng không phải
chuyện một sáng một chiều mà từ từ xảy ra vậy. Trời đất không phải từ
lạnh đổi sang nóng ngay tức khắc, mà phải đi dần từ xuân sang thu, bậc
vua chúa không hưng hay vong đột ngột mà hưng vong từ từ tùy theo tính
cách thiện hay ác của họ. Bậc thánh vương đời xưa biết thế nên mới bắt
chước đức của trời mà tu thân không ngừng, noi theo phép của đất mà an
dân không nghỉ. Tu thân là thận trọng ở bề trong, run sợ như dẫm lên
băng mỏng. An dân là kính trọng kẻ dưới, hãi hùng như cưỡi ngựa nắm dây
cương mục. Theo đó thì hưng mà không theo thì vong. Sự hưng vong chỉ từ
từ mà xảy đến.”
Hồi ban đầu lập quốc các thiền sư đã mở những cuộc vận động
gây ý thức quốc gia, đã sử dụng các môn học phong thủy và sấm vĩ trong
các cuộc vận động ấy, đã trực tiếp thiết lập kế hoạch, thảo văn thư,
tiếp ngoại giao đoàn, bàn luận về cả những vấn đề quân sự. Nhưng sau đó,
khi trong triều đình đã có đủ người lo các việc ấy thì họ chỉ giữ vai
trò hướng dẫn tinh thần và cố vấn đạo đức. Nhưng dù sao những thiền sư
thân cận với chính quyền vẫn ít. Ngoài các vị Pháp Thuận, Khuông Việt,
Vạn Hạnh, Huệ Sinh, Viên Chiếu, Mãn Giác, Chân Không, Giác Hải và Không
Lộ là những vị thường có đi lại cửa khuyết mỗi khi có triệu thỉnh, nhiều
thiền sư đã từ chối về kinh sư khi có chiếu mời. Nhưng những thiền sư
có tham dự chính sự như Vạn Hạnh trong khi làm việc vẫn giữ thái độ xuất
thế của mình, không muốn hòa minh trong vòng danh lợi, xong việc thì
rứt lui về chùa. Triết học hành động của Vạn Hạnh tiêu biểu cho thái độ
chung của các thiền sư: làm thì làm, nhưng không mắc kẹt vào công việc,
không nương tựa vào hữu vi. Ðó là triết lý vô trụ [1].
ÐẠO PHẬT VÀ VĂN HÓA
Ý hướng xây dựng một nền văn hóa Việt Nam độc lập của các
thiền sư rất rõ rệt. Về phương diện địa lý họ đã muốn dời kinh đô tới
một nơi có thể dựng nên sự nghiệp độc lập lâu dài. Về phương diện học
thuật, họ có công đào tạo một lo ứp trí thức không cố chấp, biết dung hợ
các ý thức dị biệt như Nho, Lão, Phật. Về phương diện văn hóa, họ dựng
nên được cả một triều đại thuần từ, lấy đức từ bi làm căn bản cho chính
trị. Về văn hóa, họ là những người đóng góp vào vaans dề sáng stác nhièu
nhất trong nước, dù phần lớn những sáng tác này nằm trong chủ đề Phật
giáo. Về mỹ thuật, những công trình kiến trúc và điêu khắc của Phật giáo
cũng là những đóng góp mỹ thuật quan trọng nhất trong thời đại.
Trong phần nói về thiền phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi, chúng ta đã bàn
về sự sử dụng phong thủy học của các thiền sư. Ta cũng nói đến đồ án
kinh thành Thăng Long như công trình suy tư của thiền sư Vạn Hạnh. Những
ngôi chùa xây dựng trong nội cung hay trong kinh thành để các vua tĩnh
tâm, tham thiền và nghiên cứu đạo Phật hẵn cũng được xây dựng theo sự
gợi ý của các thiền sư.
Về học thuật, ta biết rằng các thiền sư đã mở trường dạy học,
không những cho tăng sĩ mà còn cho cư sĩ nữa. Vạn Hạnh đã đào tạo nên Lý
Công Uẩn tại chùa LuÏc Tổ; Trí thiền sư trên núi Cao Dã đã đào tạo nên
Tô Hiến Thành và Ngô Hòa Nghĩa. Nhiều thiền sư am tường cả tam giáo
(Khuông Việt, Vạn Hạnh, Ðạo Hạnh, Viên Thông, Mãn Giác, Bảo Giám
v.v...); họ đã dạy cho môn đệ những điều tinh hoa nhất trong khoa học xã
hội và chính trị của Nho giáo. Các thiền sư Viên Thông và Nguyễn Thường
khi cố vấn và can gián các nhà vua, đã dùng lý luận của Nho giáo một
cách rất cởi mở và với tinh thần không phân biệt. Kiến thức Nho giáo
được sử dụng theo tinh thần Phật giáo quả đã đóng góp khá nhiều cho học
thuật và chính trị đời Lý, sau này những nhà nho thiếu căn bản Phật học
đã trở nên giáo điều, cố chấp và hẹp hòi. Thái độ đó đã gây chia rẽ và
tạo nên sự loạn lạc trong xứ. Thái độ này trái ngược với thái độ dung
hợp các ý thức hệ của các vị thiền sư. Họ giảng dạy Nho giáo, họ khuyến
khích học Nho học. Năm 1070, vua Thánh Tông lập văn miếu ở kinh thành
đúc tượng Khổng Tử, Chu Công, Nhan Tử, Tăng Tử, Tử Tư và Mạnh Tử để thờ,
và còn vẽ tranh 72 vị tiền hiền để treo. Vua Anh Tông cũng hai lần lập
miếu thờ Khổng Tử.
Về phương diện sáng tác, các vị thiền sư thường để lại mỗi
người ít ra một bài thơ. Có nhiều thi tập có đến ngàn bài, nhưng đều đã
mất. Những bài thơ còn được giữ lại là nhờ sách Thuyền Uyển Tập Anh .
Trong số những bài thơ ấy có nhiều bài rất đẹp, nhưng vì ít biết về từ
ngữ Phật giáo và không quen thuộc với Thiền học nên nhiều người cho đó
là những bài kệ khô khan, sau đây chúng tôi trích một vài ví dụ. Trước
hết là bài của thiền sư Không Lộ:
Chọn nơi địa thế đẹp sông hồ
Vui thú tình quê quen sớm trưa
Có lúc trèo lên đầu chót núi
Kêu dài môt tiếng lạnh hư vô
(Trạch đắc long xà địa khả cư
Dã tình chung nhật lạc vô dư
Hữu thời trực thướng cô phong đỉnh
Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư)
“Kêu dài một tiếng, lạnh hư vô” là một thi hứng siêu thoát
trầm hùng ít thấy ở thi ca. Một bài khác nữa của thiền sư Mãn Giác.
Xuân đến trăm hoa nở
Xuân đi trăm hoa rơi
Trước mắt đời diễn biến
Trên dầu già đến nơi
Ðừng nói xuân đi hoa rụng hết
Ðêm qua sân trước một cành mai
(Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tòng đầu thượng lai
Mạc vị xuân tàn hoa tận lạc
Ðình tiền tạc dạ nhất chi mai).
Cành mai ấy phải chăng là hiện tướng của bản thể chân như bất
sinh bất diệt của vạn pháp? Một bài của thiền sư Ngộ Ấn:
Chân tính vô khó đến nơi
Chỉ hư tâm đạt đến mà thôi
Trên núi ngọc thiêu mầu vẫn thắm
Trong lò sen nỏ sắc thường tươi
(Diệu tính hư vô bất khả phan
Hư vô tâm ngộ đắc hà nan?
Ngọc phần sơn thượng sắc thường nhuận
Liên phát lô trung thấp vị can).
Chân tính thì vô tướng, không nắm bắt được. Nhưng nếu chân
tính đã vô tướng, tại sao ta không dùng tâm vô tướng để bắt nó? Dó là bí
quyết của thành công. Hình ảnh hòn ngọc tươi thắm trên núil ửa và bông
sen nở trong lò than hồng là những hình ảnh mô tả sự nhiệm mầu của chân
tâm đạt tới do một tâm trạng vô tướng như thế.
Về thi ca, đời Lý có:
- Ngộ Ðạo Ca Thi Tập của Khánh Hỷ
- Viên Thông Tập của Viên Thông. Cuốn này có tới một ngàn thơ,
tiếc thay không còn.
Về trước tác, đời Lý có:
- Tán Viên Giác Kinh của Viên Thông
- Thập Nhị Bồ Tát Hạnh Tu Chứng Ðạo Tràng của Viên Thông
- Tham Ðồ Hiển Quyết của Viên Thông
- Dược Sư Thập Nhị Nguyện Văn của Viên Thông
- Bồ Tát Hiệu Sám Hối Văn của Pháp Thuận
- Chư Ðạo Tràng Tán Khánh Văn của Huệ Sinh
- Nam Tông Tự Pháp Ðồ của Thường Chiếu
- Hồng Chung Văn Bi Ký của Viên Thông
- Chư Phật Tích Duyên Sự của Bảo Giác
- Tăng Già Tạp Lục của Bảo Giác
Về bia minh, đời Lý có:
- Bia chùa Báo Ân, núi An Hoạch, làng An Hoạch, dựng năm 1100,
nói về sự nghiệp Lý Thường Kiệt, không biết do ai soạn.
- Bia chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh ở làng Duy Tĩnh, dựng năm
1110, do thiền sư Pháp Bảo (Hải Chiếu) soạn.
- Bia tháp Sùng Thiện Diên Linh, núi Long Ðội, dựng năm 1121,
do Mai Bật soạn.
- Bia chùa Hương Nghiêm, núi Càn Nê, làng Phủ Lý dựng năm
1124, không biết ai soạn.
- Bia chùa Linh Xứng, núi Ngưỡng Sơn, làng Ngọ Xá dựng năm
1126, do thiền sư Pháp Bảo (Hải Chiếu) soạn.
- Bài minh quả chuông chùa Thiên Thcú trên núi Phật Tích do
thiền sư Huệ Hưng soạn năm 1109.
- Bài minh trên tháp bia Hội Thánh ở núc Ngạc Già do thiền sư
Lê Kim soạn năm 1092
- Bài văn bia tháp Lăng Già do thiền sư Lê Kim soạn năm 1092
- Bài minh quả chuông và bài văn bia của chùa Viên Quang, do
thiền sư Dĩnh Ðạt soạn 1122.
- Bài văn bia chùa Diên Phúc, thôn Cổ Việt, do Nguyễn Diệm
soạn năm 1121.
Những bài bia và minh trên đây phần lớn được ông Lê Quý Ðôn
nhắc đến trong sách Kiến Văn Tiểu Lục[2].Một vài bài khác được nhắc tới
trong sách Lý Thường Kiệt của ông Hoàng Xuân Hãn. Nói về các bài minh và
bài bia trên, Lê Quý Ðôn phê bình như sau: “Văn đời Lý và văn biền
ngẫu, có nhiều vẻ, sánh được với văn thể đời Ðường”. Ðây là một bài minh
do thiền sư Pháp Bảo soạn vào năm 1126, đọc thấy trong đoạn cuối của
bia chùa Linh Xứng, nói về đạo Phật và công lao Lý Thường Kiệt trong
việc dựng chùa Linh Xứng:
Ba cõi luân hồn, bốn loài lăn lóc
Vì vọng niệm sinh, vướng vòng tâm, sắc
Buông mở tham sân, triền miên ái dục
Biết mấy cho vừa, không sao yên được...
Lớn thay chân như! Thể tựa thái hư
Mầu nhiệm không lường, hóa hiện có dư
Mưa xuống một trân, cỏ cây đề nhờ
Phpá tràng dựng lên, tà pháp tiêu trừ
Lý Công nước Việt,theo dấu người xưa
Giữ đất yên dân, đánh đâu thắng đó
Tiếng vang Chiêm Thành, danh lừng Ðông Ðộ
Phật giáo quy sùng, cất chùa đồ sộ
Núi cao ngất chứ, thấu hư không!
Hiền tể coi chừ, đã quyết công!
Ðiện tháp cao chừ, đẹp không cùng!
Tượng vàng nghiêm chừ, chúc thánh quân
Nghiệp báu bền chừ, thêm xương long!
Ân đức lan chừ, đến mọi nẽo
Ghi lời bia đá chừ, để lại non sông.
(Tam giới luân hồi, tứ sinh trì trục
Vọng niệm sở sinh, sắc tâm điên phúc
Thượng tứ tham sân, khiên triền ái dục
Khởi tự hoàng an, vô năng yếm túc
Chí tai chân như! thể lượng thái hư
Thân nhi bất trắc, hóa chi hữu dư
Nhất vũ bái nhuận, tam thảo manh thư
Pháp tràng đại thụ, tà võng đốn trừ
Việt hữu Lý Công, cổ nhân duy thức
Mục quận ký ninh, chưởng sư tất khắc
Danh dương cức hạ, thanh chấn hà vực
Tông giáo quy sùng, cảnh phúc thị tổ
Sơn chi tuấn hề, tủng tình không
Hiền tể trị hề, sưởng quyết công
Tuyệt đỉnh nguy hề, điện tháp sùng
Trắc kim nghiêm hề, chúc thần trung
Bảo lịch miên hề, tích hà cùng
Khắc minh vĩnh trác, yên nham trung).
Ngoài ra còn có những bài văn như bài chiếu của vua Lý Thái Tổ
trước khi dời đô về Thăng Long, bài chiếu khuyên nông, bài chiếu miễn
thuế cho dân của vua Lý Thái Tông, bài chiếu di mệnh của vua Lý Nhân
Tông, bài chiếu di mệnh của vua Lý Nhân Tông v.v... Những bài này đều
mang ít nhiều tư tưởng hòa ái của đạo Phật, và có thể có bài đã do những
cây bút thiền gia viết nên. Trong sách Vũ Trung Tùy Bút, Phạm Ðình Hổ
nói về văn Lý và Trần như sau: “Ta thường xét văn hiến nước ta, văn đời
Lý thì cổ áo xương kích, phảng phất như văn đời Hán, đến đời Trần tuy
hơi kém hơn đời Lý nhưng cũng còn điển nhã hoa thiệm, nghị luận phô bày
đề có sở trường cả”.
ÐẠO PHẬT VÀ MỸ THUẬT
Những công trình mỹ thuật của đạo Phật đời Lý rất nhiều nhưng
những di tích còn lại rất ít.
Năm 1010, lúc vừa lên ngôi, Lý Thái Tổ đã xây tám ngôi chùa ở
quê vua là phủ Thiên Ðức, tỉnh Bắc Ninh. Tại Thăng Long vua cho dựng
chùa Hưng Thiên Ngự, và gần điện Thái Hòa, chùa Vạn Tuế. Tiếp đó vua cho
lập các chùa Thiên Quang, Thiên Ðức, Thiên Vương, Thắng Nghiêm, Cẩm Y,
Long Hưng, Thánh Thọ. Khắp trong nước chừng 300 ngôi chùa được tạo dựng
và những chùa đã hư nát thì sửa chữa lại. Năm 1024, vua lại lập thêm
chùa Chân Giáo. Năm 1036, vua Lý Thái Tông làm lễ khánh thành tượng Phật
Ðại Nguyện vừa đúc xong.
Năm 1040, vua lại khánh thành một nghìn pho tượng Phật bằng
gỗ, một nghìn bức tranh Phật và một vạn cờ phướng. Năm 1041, đúc tượng
Phật Di Lặc bằng đồng nặng 7.560 cân đặt tại viện Thiên Phúc. Năm 1049,
vua dựng chùa Diên Hựu, tức chùa Một Cột.
Năm 1055. Vua Lý Thánh Tông xây chùa Ðông Lâm và chùa Tĩnh Lự ở
núi Ðông Cứu (Bắc Ninh). Năm 1056, vua khởi công xây chùa Sùng Khánh
Báo Thiên, phát 12.000 cân đồng để đúc chuông và tự tay thảo bài minh
khắc trên chuông. Năm 1057, trước chùa này, một ngọn tháp tên Ðại Thắng
Tư Thiên được xây lên, 12 tầng, cao 20 trượng. Cũng năm này xây hai chùa
Thiên Phúc và Thiên Thọ cùng đúc hai tượng Phạm Vương và Ðế Thích bằng
vàng thờ ở hai chùa này. Năm 1057, vua san lang tướng là Quách Mãn tạc
tượng A Di Ðà bằng đá ở huyện Tiên Du. Năm 1058, vua xây điện Linh
Quang, Kiến Lễ và Sùng Nghi. Phía trước điện dựng lầu chuông một cột,
sáu cánh, hình hoa sen. Cũng năm này tháp núi Ðồ Sơn (cao 42 mét) xây
xong vua ban hiệu là tháp Trường Long. Năm 1070, dựng chùa Nhị Thiên
Vương. Năm 1071, vua viết chữ “Phật” cao một trượng sáu thước khắc vào
bia đá để tại chùa núi Tiên Du.
Năm 1086 vua Lý Nhân Tông dựng chùa Lâm Sơn và xây tháp đá tại
huyện Quế Dương. Năm 1091, vua dựng tháp Linh Tế. Năm 1105, vua dựng ba
tháp đá tại chùa Lãm Sơn. năm 1108, dựng đài Ðộng Linh. Năm 1114, dựng
lầu Thiên Phật. Năm 1117, khánh thành tháp Vạn Phong Thành Thiện ở núi
Chương Sơn. Năm 1118, khánh thành tháp Thất Bảo. Năm 1121, dựng chùa
Quảng Giáo ở núi Tiên Du và khánh thành điện Trùng Minh ở chùa Báo
Thiên. Năm 1122, khánh thành Sùng Thiện Diên Linh ỏ núi Ðội Sơn. Năm
1124, dựng chùa Hộ Thánh và xây đài Uất La. Năm 1127, khánh thành chùa
Trùng Hưng Diên Thọ. Năm 1129, vua Lý Thần Tông khánh thành 84.000 bảo
tháp bằng đất. Năm 1130, khánh thành chùa Quảng Nghiêm Tư Thánh. Năm
1133, dựng các chùa Thiên Minh và Thiên Thành. Năm 1134, khánh thành ba
tượng tam tôn bằng vàng.
Trên đây là một số công tác kiến trúc và điêu khắc Phật giáo
đời Lý được nhắc đến trong các sách Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư và Việt Sử
Lược.
Những gi tích còn lại ngày nay cho thấy nghệ thuật kiến trúc
và điêu khắc đời Lý còn mang nhiều ảnh hưởng nghệ thuật Chiêm Thành. Một
Nghi Thần Kinnari, thiên nữ đầu người mình chim đang chơi nhạc khí,
được đào lên dưới nền chùa Phật Tích tỉnh Bắc Ninh. Những chạm trổ trên
đá tìm được trên chùa Phật Tích có những con rồng mình rắn, mũi dài,
miệng rộng kiểu thủy quái Makara của mỹ thuật Chiêm Thành và Nam Dương.
Những di tích này thuộc đời vua Lý Thánh Tông (1054-1072). Ảnh hưởng mỹ
thuật Trung Hoa biểu lộ một cách hiển nhiên, nhưng sắc thái riêng biệt
Việt Nam của mỹ thuật đời Lý rất là rõ rệt.
Tháp Báo Thiên ở chùa Sùng Khánh được xây năm 1057 (cái chóp
bằng đồng phía trên là công trình Không Lộ) cao 20 trượng, 12 tầng, là
một trong những công trình lớn đời Lý. Tháp này năm 1414 bị tướng nhà
Minh là Vương Thông phá để lấy gạch đá chống cự vua Lê Lợi trong khi bị
quân vua vây bọc. Nên tháp to bằng một khu chợ (có thời được dùng để họp
chợ). Trong sách Tang Thương Ngẫu Lục, Tùng Niên nói: “Năm giáp dần
1791, khi dỡ ra để lấy gạch đá xây thành người ta còn thấy 8 pho tượng
Kim Cương, chia đứng trấn bốn cửa, những tượng người tiên, chim muông
cho đến những giường ghế chén bát không kể xiết, đều bằng đá cả. Mỗi
viên gạch đều có in niên hiệu “Long Thụy Thái Bình”.
Ngoài tháp Báo Thiên, còn chuông Quy Ðiền, đỉnh Phổ Minh và
tượng Quỳnh Lâm; bốn công trình này đều là những công trình mỹ thuật đời
Lý, được gọi là “An Nam Tứ Ðại Khí”.
Những bảo tháp đời Lý nay đều bị đổ nát, chỉ còn tháp Bình Sơn
ở chùa Vĩnh Khánh là còn nguyên vẹn. Chùa này ở làng Bình Sơn, huyện
Lập Thạch, tĩnh Vĩnh Yên. Chiều cao của tháp này là 15 mét. Tháp xây
toàn bằng gạch nung già, màu đỏ xẫm. Ông Nguyễn Bá Lăng trong Kiến Trúc
Phật Giáo Việt Nam nói rằng “Tuy tháp cũng chịu ảnh hưởng của kiến trúc
Chàm về điểm các tháp Chàm để trần như các tháp khác đời Lý” nhưng lại
khác tháp Chàm về điểm “các tháp Chàm mặt xây gạch đề cỡ rồi điêu khắc
trực tiếp ngay vào” trong khi tháp Bình Sơn “có những phiến gạch điêu
khắc điêu khắc hoặc dập khuôn trước rồi mới đem xếp ghép lại, gắn vào
thân tháp bằng những cái móc”. Theo ông “tác phẩm này được tượng trưng
cho sự phối hợp giữa hai nguồn văn hóa chính là Trung Hoa và Chiêm Thành
để tạo ra một sắc thái văn hóa Việt Nam tồn tại cho đến cuối đời Trần,
Hồ”
ÐẠO PHẬT VÀ PHONG HÓA
Hoàng Xuân Hãn viết trong sách Lý Thường Kiệt: “Ðời Lý có thể
gọi là đời thuần nhất trong lịch sử nước ta. Ðó chính là ảnh hưởng của
đạo Phật”.
Trong hai triều Ðinh và Lê, ta thấy việc triều đình còn dùng
những cực hình như vạc dầu, chuồng hổ để trừng trị kẻ có tội. Ðời Ðinh
thì Ðỗ Thích giết Ðinh Tiên Hoàng và Ðinh Liễn. Ðời Lê thì Ngọa Triều
giết Lê Trung Tông. Nhưng sang đời Lý thì các vua có đạo đức và đời sống
tâm linh, có độ lượng khoan hồng với dân và ngay với kẻ cừu địch. Có
thể từ bi là một đường lối chính trị, nhưng chính trị từ bi là một nền
nhân bản đáng được ủng hộ. Vua Lý Thái Tông đã tha tội cho Nùng Trí Cao,
không giết, còn vua Lý Thánh Tông cũng đã không giết vua Chiêm Thành là
Chế Củ.
Năm 1065, vua Lý Thánh Tông, trong một phiên xử kiện ở điêïn
Thiên Khánh, đã chỉ vào công chúa Ðộng Thiên đứng hầu bên cạnh mà bảo
ngục lại rằng: “Lòng ta yêu con ta, cũng như lòng cha mẹ dân yêu dân,
dân không biết mà mắc vào hình pháp, ta rất lấy làm thương. Từ nay về
sau, không cứ gì tội nặng nhẹ, đều nhất luật khoan giảm” (Ðại Việt Sử Ký
Toàn Thư).
Cũng nhà vua này, vào mùa đông năm Ất mùi 1055, trời giá rét,
đã bảo với các quan: “Trẫm ở trong cung nào lò sưởi ngự, nào áo lót cầu
mà còn rét như thế này, nghĩ đến người tù giam trong ngục, khổ sở về
gông cùm, chưa biết rõ ngay gian mà không được no bụng, áo không kín
mình, gió rét khổ thân, hoặc có thể chết không nơi nương tựa, trẫm rất
thương xót. Vậy hạ lệnh cho hữu ty phát chăn chiếu và mỗi ngày cho ăn
hai bữa cơm” (Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư).
Thái hậu Ỷ Lan vợ vua Nhân Tông xuất thân là một cô gái quê
nên biết rõ những khổ đau của nông dân. Bà đã khuyên vua Nhân Tông nên
phạt nặng những kẻ trộm trâu và giết trâu gây nên tình trạng không có
trâu cày. Năm 1013, thái hậu lấy kho chuộc những người đàn bà con gái
nghèo phải đem thân đi thế nợ, không thể đi lấy chồng.
Với những nhà chính trị có từ tâm và những người xuất gia biết
lo giáo dục sự thực hành đạo từ bi trong dân chúng, đời sống xã hội đời
Lý trở thành thuần từ và đẹp đẽ. Ðạo đức và từ bi đã không làm cho dân
nghèo nước yếu; trái lại, những yếu tố này đã tạo nên phú cường. Những
chiến thắng Chiêm Thành và Tống quốc, sự vắng mặt của bạo động trong
nhân gian và trong cung khuyết, sự gần gũi giữa với dân; những điều đó
nói lên được đặc tính của xã hội đời Lý. Thiền sư Pháp Thuận đã nói
trước điều đó:
Vận nước như dây quấn
Trời Nam ôm thái bình
Ðạo đức ngự cung điện
Muôn xứ hết đao binh.
TĂNG SĨ, TỰ VIỆN VÀ KINH ÐIỂN
Vua Ðinh Tiên Hoàng là vị vua đầu tiên đã định giai cấp cho
tăng lữ. Năm 971, một vị thiền sư tên Ngô Chân Lưu được phong làm Tăng
Thống. Chế độ tăng thống tại Việt Nam bắt đầu từ đấy.
Trong thời Lý, các vua thỉnh thoảng cũng đặt lại giai cấp tăng
sĩ và đạo sĩ, nhưng vẫn theo quy chế từ đời nhà Ðinh. Những chức vụ
tăng thống, tăng lục, tăng chính, đại hiền quan có giá trị về phương
diện tổ chức giáo hội liên hệ tới chính quyền và xã hội, chứ không phải
những chức vụ liên hệ tới đời sống hành đạo trong nội bộ tu viện như hòa
thượng, yết ma, giáo thụ, giám viện, trụ trì, v.v..
Những vị tăng sĩ được xem như lãnh đạo tinh thần cho triều
đình và cho cả nước được gọi là Quốc Sư. Chữ quốc sư ở đây không có ý
nghĩa là chức vụ cố vấn chính trị của vua mà chỉ có nghĩa là bậc thầy
dạy đạo của cả nước. Sau Vạn Hạnh, các vị Khô Ðầu, Không Lộ, Thông Biện
và Viên Chiếu là những người được ban hiệu là quốc sư. Các vị này đều là
những vị học rộng. Trong đời vua Lý Thái Tổ đã chọn người xuất sắc cho
đi xuất gia. Bốn năm sau tăng thống Thẩm Văn Uyển lập giới đàn ở chùa
Vạn Thọ để tăng đồ thọ giới. Năm 1016, hơn 1.000 người ở kinh đô Thăng
Long được tuyển chọn để xuất gia làm tăng sĩ và đạo sĩ.
Năm 1019, lại một lần nữa độ dân làm tăng sĩ. Ðến năm 1134 vua
Lý Thần Tông lại tổ chức độ tăng một lần nữa.Số lượng người xuất gia
đông dần. Vào cuối đời Lý, năm 1198, số tăng sĩ lên nhiều quá, tệ lậu
sinh ra trong giới xuất gia, vua Lý Cao Tông cho chọn lọc và sa thải bớt
tăng sĩ không xứng đáng. Trước đó, năm 1179, vua đã cho khảo hạch các
tăng quan.
Về chùa thì về những ngôi chùa do vua quan lập nên, còn có
nhiều ngôi do dân chúng xây cất. Năm 1088 vua Lý Nhân Tông theo sự đề
nghị của văn quan và đề lại, phân các chùa làm ba loại:
1) đại danh lam, chùa lớn
2) trung danh lam, chùa vừa vừa
3) tiểu danh lam, chùa nhỏ
Chùa có nhiều tăng sĩ tu học, có ruộng và có người cày do Nhà
nước cấp.
Về kinh điển, năm 1011, vua Lý Thái Tổ đã cho dựng nhà tàng
kinh Trần Phúc để tàng chứa kinh điển. Năm 1018, vua này sai hai người,
Nguyễn Ðạo Thành và Phạm Hạc sang Tống để thỉnh Tam Tạng kinh.
Tam Tạng kinh ở đây chắc chắn là ấn bản năm 983, ấn bản Tam
Tạng kinh đầu tiên ở Trung Hoa, do vua Tống Thái Tổ ban chiếu khắc từ
năm 972. Tạng kinh này khắc trong 11 năm, gồm cả thảy 13.000 bản gỗ, có
tất cả 1.076 kinh, 480 tập và 5.048 quyển. Tới năm 1020, Nguyễn Ðạo
Thành và Phạm Hạc mới chỡ kinh về tới Quảng Châu. Vua nhờ thiền sư Phi
Trí đi đón. Năm 1021, vua cho dựng tàng kinh Bát Giác để chưa Ðại Tạng
vừa được thỉnh năm 1023, vua lại sai người chép chép ra một bản Ðại Tạng
nữa, và dựng thêm tàng kinh Ðại Hưng để cất giữ. Năm 1027, vua lại sai
chép thêm một Ðại Tạng khác.
Năm 1034, vua lại dựng thêm tàng kinh Trùng Hưng và sai ông Hà
Thụ và Ðỗ Khoan đi sứ Tống. Lần này vua Tống lại tặng cho một Ðại Tạng
kinh nữa. Ðây cũng là ấn bản năm 983. Năm 1036, một bản Ðại Tạng nữa
được chép để chứa vào kho sách Trùng Hưng. Như vậy là tại kinh sư hồi ấy
đã có tới năm bản Ðại Tạng cho các tăng sĩ và nhà học Phật nghiên cứu.
Năm 1081, vua lại sai Lương Dụng Luật sang Tống xin Ðại Tạng.
Và năm 1098, khi Nguyễn Văn Tín đi sứ sang Tống, vua cũng xin thêm một
bản Ðại Tạng khác. Ta thấy nhu cầu sử dụng Ðại Tạng thời bấy giờ rất
lớn.
Ấn bản Ðại Tạng thứ hai tại Trung Hoa bắt đầu từ năm 1080,
nhưng mãi đến 1176 mới hoàn thành. Ấn bản này có 6.434 quyển gọi là Sùng
Ninh Vạn Thọ Ðại Tạng. Vậy tất cả các bản Ðại Tạng mà nhà Lý thỉnh từ
Tống quốc thời đó đều là ấn bản năm 983.
Những bản kinh thông dung như kinh Kim Cương, Dược Sư, Pháp
Hoa, Viên Giác, v.v... có lẽ đã được bắt đầu khắc bản và in tại Việt Nam
sau đó. Ta không biết nghề in ở Việt Nam bắt đầu từ thời nào. Sách
Thuyền Uyển Tập Anh nói rằng tổ phụ của thiền sư Tín Học (mất 1190) đã
làm nghề khắc bản in lâu đời. Trần sau này, khi mà kỹ thuật khắc bản gỗ
của ta được cải thiện nhờ những người đã học nghề in tại Trung Quốc.
VẤN ÐỀ MÊ TÍN
Vì những ghi chép về một ít những chuyện thần bí pháp thuật
như chuyện giang hồ, chuyện tự ý đầu thai, v.v... nên ta có cảm tưởng
Phật giáo đời Lý đầy dẫy những mê tín. Kỳ thực, trong bất cứ thời nào,
kể ngay trong hiện đại, cũng có những hiện tượng mê tín như thế. Vấn đề
là những chuyện mê tín như vậy được ghi chép lại hay không. Không phải
vì điển tịch đã ghi chép lại một số chuyện mê tín đời Lý mà ta cho rằng
chỉ vào đời Lý, Phật giáo mới có những tín ngưỡng dị đoan.
Phật giáo đời Lý, như ta thấy trong lịch sử và nội dung tư
tưởng của các thiền phái, có một chiều sâu tâm linh rất đáng kể. Có
nhiều thiền sư học rộng, hiểu nhiều bài bác những tín ngưỡng và pháp
thuật dị đoan, đóng góp lớn lao trong phạm vi học thuật, phong hóa và xã
hội. Tính chất mê tín dị đoan ở những thời đại Phật giáo suy đồi như
trong đời Lê Sơ và trong thời Pháp thuộc.
[1]
(43) Bất bạo động [2] (44) Kiến Văn Tiểu Lục: “Tôi có thu thập văn còn sót trên
đá và trên đồng được vài chục bài... (lược). Nhân đây lục ít bài có
danh để biết đại khái cách thức: bài minh trên chuông chùa Thiên Phúc,
núi Phật Tích, dựng niên hiệu Nguyên Hóa thứ 9 triều Lý, sư Huệ Hưng
soạn; bài minh trên bia chùa Hội Khánh ở Sùng Nghiêm, Ái Châu, dựng niên
hiệu Ðại Khánh thứ 9, sư Pháp Bảo soạn; bài minh trên bia tháp Hội
Khánh ở núi Ngọc Già, dựng niên hiệu Hội Phong thứ nhất, pháp sư Lê Kim
soạn; bài bia ở bảo tháp Sùng Thiện Diên Linh ở núi Long Ðội (thuộc
huyện Duy Tiên) dựng niên hiệu Duệ Vũ thứ hai, binh bộ viên ngoại lang
là Mai Công Bật soạn; bài bia chùa Linh Xứng núi Ngưỡng Sơn, làng Ngọ
Xá, huyện Vĩnh Phúc, dựng niên hiệu Duệ Vũ thứ bảy, sư Pháp Bảo soạn;
bài bia chùa Diên Phúc, làmg Cổ Việt, dựng năm Ðại Khánh thứ tư, do môn
khách của Ðỗ Anh Vũ là Công Diệm soạn...”