Phật học cơ bản
Khai Thị (Tập 2)
Đại Sư Tuyên Hóa Việt dịch: Ban Phiên Dịch Đại Học Pháp Giới, Vạn Phật Thánh Thành
06/06/2554 10:23 (GMT+7)
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

Phần 02

 

11. Khai thị nhân ngày lễ Phật Ðản

12. Bách khổ giao tiên

13. Bát khổ

14. Tu đạo không cần quá thông minh

15. Những côn trùng tác quái trên thân của mình

16. Bí quyết tu đạo: Tiết thực, quả dục

17. Ăn thịt tức là ăn người

18. Tu đạo cần phải bỏ ác làm lành

19. Ðạo cả suy thì có người nhân nghĩa

20. Tu đạo cần có tâm kiên trì không đổi

 

11. Khai Thị Nhân Ngày Lễ Phật Ðản 

(Vạn Phật Thành ngày 1 tháng 5 năm 1982)

 

Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni trong quá khứ đã: Tam kỳ tu phước huệ, Bách kiếp chủng tướng hảo. Nghĩa là trong ba A-Tăng-Kỳ kiếp Ngài tu phước, huệ và hàng trăm kiếp thì vun trồng tướng hảo. Ngài tu khổ hạnh, làm những việc khó ai làm được; tu hạnh nhẫn nại, chịu đựng những chuyện người đời khó nhẫn nại được. Vì chúng sinh mà Ngài phát tâm bồ đề, tu Nhất Thiết Trí, không tiếc thân mạng để giáo hóa chúng sanh. Kiếp này qua kiếp khác, Ngài nhẫn khổ nại lao; ăn những thứ mà người ta không muốn ăn, nhường nhịn những chuyện mà người ta không thể nhường nhịn. Cho nên Ngài mới thành Phật, chứng quả Bồ Ðề.

Phật không phải tu một ngày một đêm mà thành; Ngài phải tu ba A-Tăng-Kỳ kiếp, rồi sau đó thị hiện Tám Tướng Thành Ðạo (3). Tám Tướng Thành Ðạo này là gì? Tướng thứ nhứt là từ nơi Trời Ðâu Suất giáng sinh. Cõi Trời Ðâu Suất là nơi Pháp Vương Tử chuẩn bị thành Phật (Bổ Xứ) trú ngụ. Tướng thứ nhì là Trụ Thai. Phật ở trong bào thai thì Ngài luôn chuyển Pháp Luân giáo hóa chúng sinh, vì tất cả chúng sinh hữu duyên mà Ngài thuyết Pháp. Tướng thứ ba là Xuất Thai. Phật ra khỏi thai là ngày mồng 8 tháng tư. Sau khi ra khỏi thai rồi thì Ngài một tay chỉ trời một tay chỉ đất mà nói:

"Thiên thượng thiên hạ, Duy ngã độc tôn!"

Nghĩa là:

"Trên trời dưới đất, Không ai tôn quí bằng ta."

Có phải chăng Ð?c Phật hết sức cống cao ngã mạn? Tôi không phải là luật sư biện hộ cho Phật, nhưng Phật đích thực xứng đáng được mang danh hiệu như vậy. Mới sinh ra mà đã nói vậy là Ngài muốn giới thiệu cho chúng sinh hiểu Ðạo. Ngày Phật ra đời có chín con rồng phun nước tắm Ngài; lớn lên trong cung, Ngài học đủ pháp thế gian. Tất cả những kỹ năng của người đời Ngài đều học qua. Nói là học nhưng thật ra Ngài thông đạt vô ngại.

Một hôm ngài đi dạo chơi bốn cửa thành thì thấy cảnh sinh, lão, bịnh, tử nên ý thức được đời người toàn là khổ đau, trải qua sinh, trụ, dị, diệt, cũng là thành, trụ, hoại, không. Nhận thấy rằng sinh, lão, bịnh, tử khổ thật là đầy dẫy phiền não, đời người chẳng có ý nghĩa gì nên ngài mới xả bỏ địa vị phú quí mà ra đi; đó là một trong Tám Tướng Thành Ðạo.

Phật tu hạnh Ðầu Ðà có thể nói là giỏi bậc nhất. Khi ở núi Tuyết Sơn thì mỗi ngày Ngài dụng công tu hành, chỉ ăn một hạt mè để duy trì sinh mạng, chẳng hề uống vitamin A, B, C gì cả. Sau đó Ngài thọ sữa dê do một cô gái cúng dường rồi đi đến gốc Bồ Ð? tịnh tọa và phát nguyện rằng:

“Nếu ta không chứng được Chánh Ð?ng Chánh Giác thì nhất định không đứng dậy.” Liền đó Ngài ngồi trong 49 ngày. Cơ duyên thành thục, nửa đêm Ngài nhìn thấy sao mai rồi ngộ Ðạo, thốt nhiên chứng đắc trạng thái không sinh không diệt, không tăng, không giảm, không dơ không sạch, bổn lai thanh tịnh bản thể, diệu minh chơn tâm.

Là đệ tử của Phật ở thời mạt pháp này, chúng ta cần phải làm người Phật tử chân chánh. Phải biết rằng Phật và các Tổ Sư trong quá khứ tu hành không phải dễ dàng. Bây giờ mình mỗi ngày tuy không phải ăn một hạt mè, song chỉ cần đừng ham ăn đồ ngon, đừng ham vitamin, ham bổ dưỡng là được. Thân này là bọc thịt thối do bốn đại giả hợp, chẳng quí báu gì; bây giờ lại vì cái túi da hôi hám này mà làm trâu làm ngựa, làm nô lệ! Không biết mình làm nô lệ như vậy bao lâu rồi, không biết tạo ra bao nhiêu nghiệp ác rồi mà bây giờ cũng chưa chịu nhìn cho thông suốt và buông bỏ nó, vẫn tiếp tục làm trâu ngựa; thật là chẳng có giá trị gì cả. Cho nên mình phải quay về cội nguồn nguyên thủy của mình.

Học Phật, tu hành, là để biết rõ nhân sinh và thống khổ, rồi chứng quả thành Phật, đó mới chính là chân lý. Nên hôm nay, nhân ngày Phật Ðản, chúng ta phải y lời Phật dạy, lấy thân Phật làm thân mình, lấy tâm Phật làm tâm mình, lấy nguyện của Phật làm nguyện của mình, lấy chí của Phật làm chí của mình. Phải nhẫn nại học hỏi tinh thần không sợ gian nan, khổ cực. Ðược vậy thì ai cũng thành Phật, đạt ngộ liễu sanh thoát tử.

Vì cầu Nhất Thiết Trí nên Phật không tiếc thân mạng, phát khởi tinh thần dũng mãnh tu hành. Bây giờ mình không chịu được cực nhọc thì làm sao mà thành Phật được? Khi đã xuất gia lại không chân chính tu hành thì thật là cô phụ tấm lòng của chư Phật, chư Bồ Tát và các Tổ Sư! Nếu một ngày mà lòng tham không trừ, lòng tranh không dẹp, lòng cầu danh lợi chẳng phá bỏ, lòng ích kỷ tự lợi cứ tăng trưởng, thì còn mặt mũi nào đối diện với Phật, với cha mẹ tổ tiên được? Ðừng nên nghĩ tới thân mình mà phải vì kẻ khác. Phải tinh tấn tu hành; đừng uổng phí thời giờ. Con quỷ Vô Thường không biết chừng nào lại; khi nó tới thì dù mình muốn sống thêm vài ngày cũng không xong:

“Mạc đãi lão lai phương học Ðạo,

Cô phần đô thị thiếu niên nhân."

Dịch là:

"Ðừng chờ già lão mới chịu tu,

Mộ phần đầy dẫy bọn trẻ măng.”

Ở đời, sinh rồi chết, chết rồi sinh; nếu sống không xứng đáng thì chết làm súc sinh. Khi thân này đã mất thì vạn kiếp khó phục hồi. Nên chi đừng tự lừa dối mình, đừng làm ông luật sư để tự biện hộ. Cứ nghĩ rằng chẳng cần tu hành, có ngày Phật sẽ giúp mình thành Phật! Ngay như Tôn giả A-Nan là em của Phật, song Phật cũng không thể ban bố Tam Muội cho ngài A-Nan, mà chính Ngài A-Nan phải tự nổ lực tu hành.

Vì thế, các vị tới Vạn Phật Thành tức là tới tuyển Phật trường (nơi thi tuyển để thành Phật); các vị phải học cho giỏi thì đến lúc làm bài thi mới có thể đậu được. Ðừng chờ tới khi thi rớt, lúc đó hối hận thì đã trễ!

 

12. Bách Khổ Giao Tiên 

(Vạn Phật Thành ngày 1 tháng 5 năm 1982)

 

Lúc Ðức Phật Thích Ca rời Hoàng cung tu đạo thì bên cha có ba người, (4) bên mẹ có hai người cùng theo Ngài; song những người này cuối cùng đều rời bỏ Phật. Nhân duyên như thế nào? Ba người nói Phật tu quá khổ, họ chịu không nổi nên bỏ Phật để tu pháp môn khác; còn hai người kia khi thấy Phật uống sữa dê thì cho là Phật không chịu khổ, tham hưởng thụ do đó họ cũng bỏ Phật. Các vị thử quan sát xem: căn tánh của chúng sinh khó mà làm vừa lòng được; nên nói: "Chư Phật nan mãn chúng sanh nguyện."

Chúng sinh ham muốn đủ thứ. Hễ muốn gì thì tham cái đó, tham không đáy. Nên nếu bạn làm vừa lòng họ điều này, thì họ lại tham muốn thứ khác. Tham dục là cái túi tham không đáy. Không lúc nào lòng tham dục này có thể mãn túc được; hết tham cái này lại tham cái kia. Ðẻ ra là đã bắt đầu tham rồi; từ trẻ thơ cho đến lúc tráng niên, từ tráng niên đến già lão, từ già đến chết, cả môt đời là tham cầu. Tham cầu danh thì chết vì danh; tham cầu lợi thì chết vì lợi. Tham danh thì bị lửa thiêu cho chết, tham lợi thì bị nước dìm cho chết; cho nên đó là hai cái nạn về nước và lửa. Còn nếu mình ham cầu vinh hoa phú quý thì chết vì gió. Ðó là ba mối họa của người đời (Tam Tai). Chúng sinh coi trọng thế sự quá sức, không chịu buông bỏ!

Ðức Phật Thích Ca khi tu hành thì biết nhẫn khổ nại lao, thế mà bạn đồng đạo lại bỏ ngài để tu pháp ngoại đạo khác. Hiện tại chúng ta theo Pháp Phật tu hành nên có rất nhiều người không đồng ý, cho rằng quá sức khổ, lại chịu thiệt thòi quá lớn đi. Những kẻ đó không phát lòng chân thành, không sinh nguyện chân thật. Nhiều vị xuất gia rồi thì chỉ biết ăn rồi chờ chết, không lý hộ được vấn đề sinh tử của mình, rồi hết sức tùy tiện bê bối mặc cho ngày tháng trôi qua, khi con quỷ Vô Thường tới thì không có chỗ nào để bám víu cả, sống hay chết đều chẳng được tự do.

Những người xuất gia như vậy thật lãng phí thời gian. Ðừng nên nghĩ rằng mình theo Phật Giáo rồi tha hồ tùy tiện tạo nghiệp. Nếu nghĩ vậy thì mình là những kẻ tội nhân. Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni tu pháp môn khổ hạnh mà người khác không chịu nổi nên cuối cùng Ngài mới khai ngộ thành Phật. Lúc đầu Ngài dạy pháp Tứ Ðế: Khổ, Tập, Diệt, Ðạo. Khổ thì có ba loại khổ (Tam Khổ), có tám loại khổ (Bát Khổ), có vô lượng khổ. Ba loại khổ thì gồm có Khổ khổ, Hành khổ và Hoại khổ.

Khổ khổ là gì? Tức là cái khổ của những kẻ bần cùng. Hoại khổ là cái khổ của những kẻ phú quí. Hành khổ là cái khổ của những kẻ không giàu không nghèo.

Khổ khổ, hay cái khổ của những kẻ bần cùng là gì? Là không có nhà cửa để ở, không có quần áo ấm để che lạnh, không có áo quần mỏng để mặc khi trời nóng, lại cũng không có thực phẩm để mà ăn. Ðó là hoàn cảnh hết sức khổ, cái khổ ở trong cái khổ, cái khổ ở trên cái khổ, vạn cái khổ quấn quít với nhau. Tại sao phải chịu khổ như vậy? Bởi vì kiếp xưa chẳng chịu tu hành, hoặc là lừa sư diệt tổ, hoặc là khinh pháp mạn giáo, làm đủ thứ ác nghiệp, chỉ theo danh lợi hão huyền, nghe theo lời xúi giục xảo quyệt của lòng mình, không biết tu hành nên mới đọa lạc, chịu tất cả các khổ não đó. Những kẻ thọ khổ, đại đa số là do hàng thú vật đầu thai; bởi vì kiếp trước hủy báng Ðại thừa, lừa sư diệt tổ, nên đọa lạc xuống địa ngục, rồi từ địa ngục chuyển thành quỷ đói, rồi thành súc sanh, sau cùng làm người. Nhưng làm người thì các căn không đầy đủ, ngũ quan không có đoan chánh.

Thứ hai là Hoại Khổ. Ðólà cái khổ không phải người nghèo chịu nhưng là cái khổ của những người phú quý chịu. kẻ giàu thì quần áo, ăn mặc, nhà cửa đều vẹn toàn; có xe hơi, tàu thủy, có đủ điều sung sướng, nhưng đột nhiên gặp phải hỏa hoạn tiêu sạch hết mọi thứ vật dụng chẳng còn gì cả. Hoặc bị rớt máy bay, hay ngồi thuyền bị chết chìm trong biển. Ðó đều là Hoại khổ. Giàu đương nhiên là tốt rồi nhưng bất ngờ , khi tai họa xảy ra, cái gì cũng không còn cả, đó gọi là "hoại". "Hoại” ở đây không phải là phá hoại sự khổ sở mà là phá hoại phước báu của mình.

Thứ ba là Hành khổ, tứ là cái khổ mà kẻ giàu người nghèo gì cũng chịu. Kẻ bình thường, từ trẻ thơ tới tráng niên, rồi từ tráng niên đến già, rồi từ già đến chết, trải qua biến chuyển từng phút từng giây mà tự mình không làm chủ được. Lúc già rồi thì mắt mờ, tai điếc, thậm chí tay chân không còn linh hoạt nữa. Ðó là hình tướng của Hành khổ.

Ba cái khổ trên đây có thế lực rất lớn ở thế gian này. Tất cả anh hung hào kiệt đều chạy không thoát những cái khổ này, thậm chí chết vì khổ. Các vị nghĩ coi điều này có đáng thương xót chăng? "Thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo." Báo ứng chỉ là chuyện sớm muộn mà thôi;họa, phước nhỏ như sợi lông cũng không bao giờ sai. Cho nên mình đừng theo bản tánh của mình mà làm càn, tạo đủ thứ ác nghiệp. Nhất thất túc thành thiên cổ hận, Tái hồi đầu dĩ bách niên thân! (Khi sẩy chân, sẽ ân hận ngàn thu, Quay đầu lại đời ngườI đã trăm năm!)

? thế gian, bất luận mình làm gì cũng phải có chánh khí. Người xuất gia cần phải hộ trì Chánh Pháp, hành trì Chánh Pháp, lúc nào cũng phải theo khuôn khổ nề nếp, không nên phạm giới, dù hết sức nhỏ. Nếu mình không cẩn thận thì rất dễ tạo nghiệp; cho nên nói: "Ðịa ngục môn tiền Tăng Ðạo đa." (Cửa địa ngục đầy ắp kẻ tu hành.)

Người xuất gia nếu không giữ giới luật, theo quy củ, thì nhất định sẽ đọa địa ngục, chẳng có ngoại lệ gì đâu! Bởi vì mình đã biết rõ mà còn cố phạm thì tội tăng gấp ba lần người thường. Ðây không phải là chuyện nói đùa đâu; đừng nghĩ rằng Phật, Bồ Tát không thấy chuyện mình làm, rồi mình muốn làm gì thì làm. Trong lòng các vị nghĩ chuyện gì thì trời đều biết cả, hà huống là Phật và Bồ Tát! Ðừng cho rằng Phật và Bồ Tát không có mắt rồi mình mặc tình làm loạn, làm càn. Ðó giống như là “yếm nhĩ đạo linh,” bịt tai đánh chuông ăn cắp rồi chạy trốn mà cứ tưởng người khác không nghe. Thật là tự mình lừa dối chính mình, sau cùng sẽ chịu quả báo, lúc đó có hối hận thì cũng đã muộn.

 

13. Bát Khổ 

 

Lão tử nói rằng:

“Ngô sở dĩ hữu đại hoạn giả, vi ngô hữu thân;

Cập ngô vô thân, ngô hữu hà hoạn?"

Dịch là:

"Ta có họa lớn vì có thân này,

Thân ta chẳng có thì họa sao còn?"

Con người có đủ thứ chấp trước song không chịu xả bỏ là do bị nhốt trong chuồng Ngũ Uẩn. Vì không thoát đặng nên ở trong vòng Ngũ ấm này mà phát sinh đủ thứ chấp trước, đủ thứ phân biệt, đủ thứ vọng tưởng, không tài nào thoát khỏi sinh tử được.

Trong Phật Giáo nói về khổ thì khi trước tôi đã nói về Tam Khổ rồi; bây giờ nói về Bát Khổ. Bát khổ này bao quát tám loại; thực tế không phải chỉ có tám khổ thôi, mà có vô lượng vô biên nỗi khổ.

Bát khổ là gì? Ðó là: Sinh, lão, bịnh, tử khổ, Ái biệt ly khổ, Oán tăng hội khổ, Ngũ ấm xí thạnh khổ, Cầu bất đắc khổ. Tám cái khổ này làm hại con người trên thế gian nhiều lắm.

1.Sanh khổ: Con người sinh ra là đã chịu khổ nạn vô cùng rồi. Khi còn trong bụng mẹ, mẹ ăn đồ lạnh thì con cảm giác như là ở trong núi tuyết vậy; mẹ ăn đồ nóng thì con tưởng như ở trong núi lửa vậy. Rồi đủ chuyện không như ý phát sinh. Ð?n lúc sinh ra thì cũng như bị ép giữa hai hòn núi vậy; nên con nít sinh ra là khóc oa oa: "Khổ quá, khổ quá!" Ðó là vì con nít muốn than khổ nhưng không thể nói nên chỉ khóc.

Nếu con người không có thân thể thì không có cảm giác đau khổ gì cả. Nhưng khi có thân thể thì có đủ thứ cảm giác thống khổ. Nên lúc sinh ra cũng như lúc con rùa bị nứt khỏi mu vậy. Thống khổ khó mà nhẫn nại được.

2.Tử khổ: Có sinh thì phải có chết. Lúc chết thì Tứ Ðại phân tán, bị gió nghiệp thổi đi. Ðau khổ đó thật khó mà diễn bày được.

3.Bịnh khổ: Thân thể con người do đất, nước, gió, lửa giả h?p mà thành. Nếu lửa nhiều thì nước ít. Nếu gió nhiều thì đất ít, nếu nước nhiều thì lửa ít. Tứ đại không điều hợp, không quân bình thì tự nhiên sinh bịnh; có bịnh thì có đau đớn.

Con người mà đầu đau, chân nhức hoặc là tay, lưng, tỳ, vị, thận…sanh bịnh đều có nguyên nhân của nó. Nếu kẻ nào mà hiếu sắc thì thận dễ bịnh; kẻ tham tài thì tim dễ bịnh, kẻ thích nóng giận thì gan rất dễ bịnh, kẻ nào buồn phiền thì phổi dễ sinh bịnh, kẻ nào lòng chứa oán ghét thì tỳ dễ sinh bịnh. Tâm, can, tỳ, phế, thận có bịnh đ?u do hận, oán, não, nộ, phiền sinh ra. Người có tâm sân hận thì hại trái tim, ngườI có tâm oán nặng thì hại tỳ, ngườI có lòng buồn rầu lo lắng thì hại phổi, người có lòng nóng giận nhiều thì hại gan, người có lòng phiền nhiều thì hại thận. Nên bốn đại không điều hợp thì do hận, oán, não, nộ, phiền vào thất tình tác quái. Nếu vui nhiều quá, sợ hãi nhiều quá hoặc là dục vọng nhiều quá đều làm cho Tứ Ðại không điều hợp, sinh ra đủ thứ bịnh hoạn. Có bịnh thì rất dễ già, nên sau khi bịnh rồi thì tới lão.

4.Lão khổ: Khi già thì mắt hoa, tai điếc, răng rụng, chân run, thân thể đứng không vững nữa.

Sinh, lão, bịnh, tử là bốn thứ khổ làm cho con người không tự tại, phát sinh ra đủ thứ phiền não.

5. Ái biệt ly khổ: Vì sao mình làm người? Bởi vì mình có ái có yêu nên mới tới thế giới Ngũ Trược này. Nếu yêu đương mà ít thì mình không tới thế giới này đâu, mà sẽ sinh về Cực Lạc Thế Giới, Lưu Ly Thế Giới hoặc những thế giới khác.

Cổ nhân nói rằng: "Ái bất trọng bất sanh Ta Bà, Nghiệp bất không bất sanh Cực Lạc." (Ái tình mà không nặng đâu sinh Ta Bà, Nghiệp chướng chẳng hết sao về Cực Lạc.) Nghiệp hết, tình không thì thành Phật; nghiệp nặng, tình nhiều tức là phàm phu. Kẻ phàm phu thì bị tình ái mê loạn, không phá thủng nổi lưới tình, lại cho rằng ái tình là cao quý nhất. Người đời cho rằng ái tình trai gái là chuyện hết sức quí giá. Kỳ thật, ái càng nặng thì tình càng thâm, càng hãm mình vào vòng ngu si mê muội. Có kẻ biết là bẫy rập nhưng rồi cũng chui vào lưới tình. Con trai, con gái khi trưởng thành rồi thì chỉ nghĩ tới chuyện mau mau mà kết hôn. Thật là quen đường cũ quá rồi! "Ái" là thứ cảm tình quyến luyến. Có người thì yêu tiền, có người thì yêu sắc. Tiền tài là vật ở ngoài thân, sắc đẹp thì cảm nhận ở trong lòng. Tình cảm quyến luyến cũng là do yêu thương mà ra. Tinh thần đau khổ thì tâm không tự tại, đủ thứ khó chịu là cũng vì có ái tình này. Ái biệt ly khổ là cái khổ chia ly khi hai người đang thương yêu nhau. Hai kẻ yêu nhau như keo sơn, như cá với nước thì đột nhiên có chuyện xảy ra khiến họ bất đắc dĩ phải chia tay. Họ lâm vào tình cảnh thật khó ly biệt, khó chia tay; còn có nỗi khổ nào bằng không dễ khống chế được, cho nên gọi là Ái biệt ly khổ.

6. Oán tăng hội khổ: Khi mình gặp mặt nói chuyện với người có nhân duyên thì cảm thấy rất dung hợp, làm việc với nhau rất dễ dàng, không có xung đột. Nhưng có những người khi mình mới gặp mặt thì cảm thấy không có nhân duyên, muốn ghét họ liền nên mới tìm cách tránh mặt đối phương, tìm chỗ khác để đi. Nào ngờ tới chỗ khác cũng lại gặp kẻ đó! Mình càng ghét họ bao nhiêu thì càng đốI đầu với họ bấy nhiêu. Ðó cũng là một nỗi khổ.

7. Cầu bất đắc khổ: Có mong cầu là bởi có lòng tham. Tham mà không thỏa thì sinh phiền não, cho nên đó cũng là khổ. Cầu danh, cầu lợi, cầu tiền, cầu sắc mà không được thì khổ, vì chẳng thỏa mãn tâm nguyện mình muốn.

Cầu mà được cũng chưa kể là sung sướng. Thí dụ như khi chưa kiếm được tiền thì sợ là không kiếm được; khi kiếm được thì lại sợ sẽ mất đi, cho nên ngày đêm đề phòng. Bởi vậy cầu được đã khổ mà cầu chẳng được lại còn khổ hơn! Do đó đối với việc khác, cứ theo đây mà suy ra. Chưa có thì sợ không kiếm được, có rồi thì lại sợ mất. Ðó đều là trạng thái lòng không bình thản, không tự tại, không an lạc.

8. Ngũ ấm xí thạnh khổ: Ngũ ấm tức là sắc, thọ, tưởng, hành và thức; cũng gọi là Ngũ Uẩn. Nó là thứ rất khó hàng phục, rất khó thể thấy nó là không. Ngũ Ấm này phừng phừng phát hiện giống như lửa vậy, thiêu đốt tâm thần của mình, làm mình thống khổ vô vàn. Nếu mình có pháp An tâm, pháp An thân thì tám cái khổ này chẳng thể động chạm tới mình đặng, nên nói:

"Lão tăng tự hữu An thân pháp,

Bát khổ giao tiên dã vô phòng."

Dịch là:

"Sư già vốn có phép An thân,

Tám khổ chằng chịt chẳng nhằm gì."

 

14. Tu Ðạo Không Cần Quá Thông Minh 

(Vạn Phật Thánh Thành ngày7 tháng 5 năm 1982)

 

Lão tử nói:

"Dưỡng thành đại chuyển phương vi xảo,

Học đáo như ngu thủy kiến kỳ.”

Dịch là:

"Dưỡng tâm như dại là tuyệt xảo,

Học tới như ngây mới diệu kỳ."

Mình cần học "ngây ngô." Song học ngây ngô không phải là chuyện dễ, bởi vì kinh nghiệm thường dạy mình rằng đừng có ngây ngô. Cho nên nếu dưỡng tâm như khờ dại thì đó mới gọi là tinh xảo. Tu hành tức là muốn dưỡng "chuyết" dưỡng tâm như kẻ khờ khạo; càng khờ càng tốt.
Sao gọi là khờ? Khờ có nghĩa là hoàn toàn chẳng có vọng tưởng. Không khờ thì vọng tưởng đầy dẫy. Vọng tưởng mà nhiều thì tự nhiên muốn tìm chuyện xưa, muốn biết chuyện nay rồi muốn xen vào đủ chuyện tạp nhạp, muốn hiểu đủ thứ báo chí tin tức lăng nhăng. Ðó là những điều chướng ngại cho sự tu hành. Sự khờ khạo, dốt nát chân chính là như thế nào? Tức là nhập Ðịnh. Nếu nhập Ðịnh thì đông, tây, nam, bắc chẳng biết tới; cùng thế giới vô tranh, tự tại vô ngại.

Tại sao mình không thể tự tại vô ngại được? Là bởi vì còn có lòng tranh, lòng tham, lòng cầu, lòng ích kỷ, lòng tự lợi; do đó chẳng thể tự tại được. Muốn tự tại cũng làm không được. Khi đã bất mãn hiện tại, bất mãn quá khứ, bất mãn tương lai, cứ cho rằng người khác đối với mình không tốt, cho rằng mình cư xử tốt với người, tự biện hộ, tự đứng trên cương vị không thua ai cả, rằng mình hơn người, thì không thể tu đạo được. Tu đạo tức là chẳng biện hộ, chẳng giảo hoạt, chẳng nói chuyện thị phi; cho nên nói: Ma Ha Tát, bất quản tha, Di Ðà Phật, các cố các. (Ðại Bồ Tát, chẳng xen vào chuyện người. A Di Ðà Phật, ai lo chuyện nấy.)

Luôn luôn canh gác thân tâm không nghĩ loạn xạ, đó tức là chân chính tu đạo. Kẻ không chân chính tu đạo thì lúc nào cũng nghĩ này nọ, loạn xạ, lúc nào cũng tìm phương cách để làm lợi cho mình. Vì thế kẻ chân chính tu hành thì phải: Vạn duyên phóng hạ, Nhất niệm bất sanh. (Buông xả mọi chuyện, một niệm không khởi.) Buông xả tất cả danh lợi, tiền tài, sắc đẹp, ăn uống, ngủ nghĩ. Không khởi ý niệm nên không có ngã, nhân, chúng sinh, thọ, giả; luôn luôn tự tại an lạc.

Chân chính tự tại là gì? Tức là không khởi vọng tưởng! Nếu tối ngày cứ khởi vọng tưởng thì mình không có tự tại; tư tưởng loạn xạ của mình sẽ tới khắp cùng hư không, Pháp Giới. Nếu không muốn tu thì chẳng cần nói làm gì, bằng nếu muốn chân chính tu hành thì đừng nghĩ loạn xạ, hãy đem tâm mình cột chặt một chỗ, nhất tâm chuyên niệm. Hễ chuyên nhất thì mới linh ứng; hễ tâm phân tán thì trở nên u mê. Cho nên người muốn tu thì phải biết đạo lý này vậy.

 

15. Những Con Trùng Tác Quái Trên Thân Của Mình 

(Vạn Phật Thành ngày 8 tháng 5 năm 1982)

 

Người đến Vạn Phật Thành xuất gia đều là tự ý, không phải bắt buộc. Hoặc là người Mỹ, hoặc là người Hoa, các vị đó đều tự nguyện, khẩn cầu nhiều lần rồi mới được hứa khả cho xuất gia. Người quy y cũng vậy, họ tới Vạn Phật Thành đều do tự ý muốn quy y. Nếu họ không muốn, cũng không ai ép buộc họ cả. Bởi vì ép buộc không phải là pháp cứu cánh; cho nên nói: Cưỡng trích chi qua bất điềm. (Dưa mà hái một cánh miễn cưỡng thì không ngọt.)

Nếu ngườI không tự ý xuất gia thì dù bạn có cho họ đi tu cuối cùng họ cũng hoàn tục. Có kẻ chân chính muốn xuất gia nhưng thời gian lâu dài còn thối tâm hoàn tục, huống gì kẻ không thật tâm đi tu. Ðó là những trường hợp có thể xảy ra.

Xuất gia là chuyện quang minh lỗi lạc, là việc của bậc đại trượng phu, không phải chuyện của kẻ đạo tặc, hèn hạ, nhỏ mọn hay làm việc tiểu nhân. Làm người xuất gia thì phải rõ bổn phận của người xuất gia, nhận thức rõ ràng địa vị và tông chỉ kẻ tu hành, đừng a dua với đám đông giống như kẻ thế tục vậy. Ð?ng có người ta nói dạ thì mình dạ, người ta nói đi thì mình đi, tự mình không có tông chỉ, không nhận thức rõ ràng.

Quy y Tam Bảo hay hộ trì Tam Bảo thì cũng vậy; khi các vị quy y Tam Bảo thì cần phải hộ trì Tam Bảo, không phải là mình quy y Tam Bảo rồi muốn Tam Bảo hộ trì mình. Ðừng tìm tiện nghi ở trong Phật Giáo, nếu như vậy thì sau này sẽ chịu thiệt thòi, có hối hận thì đã trễ rồi đó.

Chúng ta người nào cũng đầy dẫy vọng tưởng, vọng tưởng nhiều như hạt bụi. Tại sao có vọng tưởng nhiều như vậy? Là bởi vì trong thân mình có rất nhiều vi trùng, có con lớn, có con nhỏ, có con già, có con trẻ. Những con vi trùng đó có con thì có thần thông, có con thì có quỷ thông, có con thì có nhân thông, có con thì có thiên thông, có con thì có địa thông. Lũ trùng ấy ở trên thân ta thi triển pháp thuật, tác yêu tác quái. Chúng nó cũng biết đánh điện tín! Hễ chúng đánh điện tín tới tâm mình một cái, thì mình khởi lên cái vọng tưởng! Cho nên vọng tưởng của mình thật không lúc nào ngừng nổi. Hễ một vọng tưởng này xẹp xuống thì điện tín kia truyền lại, khiến mình lại nổi lên vọng tưởng khác. Ðó đều là do lũ trùng trong thân mình tác quái.

Những thứ trùng này tuy là trùng nhưng nó là đặc vụ! Có thứ thì có thiên thông, tức là đặc vụ trên trờI xuống; có thứ thì biết thần thông tức là đặc vụ của mấy ông thần; có thứ thì biết nhân thông tức là đặc vụ của con ngườI; có thứ thì gọi là quỷ thông, súc sinh thông. Có thứ trùng trợ giúp mình tu hành để phát Bồ Ðề tâm thì đó là thứ trùng có Phật thông; có thứ trùng kêu gọi người ta làm chuyện thiện, tức đó là Bồ Tát Thông. Tóm lại, trong trời đất thiên địa, sâm la vạn tượng, ở trong phòng ốc, xá trạch, tận hư không biến Pháp Giới, không có một loài nào mà chẳng sinh ra ở nơi thân của mình cả.

Vì sao chúng ta uống vitamin? Là vì mình muốn nuôi dưỡng những thứ vi trùng đó; nuôi dưỡng cho chúng mập mạp ra. Tuy rằng mình không thể ăn được những th? trùng đó nhưng chúng có thể ăn thịt của mình. Trong kinh Hoa Nghiêm nói rằng: "Thân người là do vô lượng, vô số vi trùng tích tụ thành." Các vị thử nghĩ coi: Thân mình là do từng con vi trùng này hợp thành; bây giờ mình lại đi làm tôi tớ cho chúng, muốn ăn ngon, mặc đẹp, ở nhà sang trọng, thế chẳng phải là điên đảo sao? Có lần những vi trùng này họp hội nghị, làm cho mình sinh bịnh. Bác sỹ tới trị, trị cũng không lành. Lúc đó lũ trùng này mới vỗ tay cười ha hả. Chúng rất hứng thú bởi vì mình phải đầu hàng chúng. Vì vậy những người không thích làm chuyện thiện, chỉ muốn làm chuyện xấu, muốn chiếm tiện nghi đều do lũ trùng xấu ác dẫn dắt. Chúng làm mình không phát Bồ Ðề Tâm được, vì muốn mình đọa lạc, muốn làm mình mất tin tưởng.

Nếu các vị không tin thì cứ thử dùng dao xẻ thịt mình coi! Qua vài ngày bọn trùng này sẽ lại ra hoạt động. Thế nên loài người thật đáng thương xót! Coi thân thể mình như trân bảo ngọc ngà, nuôi dưỡng các thứ trùng đó, thật là chuyện sai lầm. Các vị tin tôi cũng nói, mà các vị không tin tôi cũng nói. Tôi nói ra là để cho bọn vi trùng này nghe để cho chúng biết rằng trên thế giới này cũng có người biết được các hoạt động vi tế của chúng!

 

16. Bí Quyết Tu Ðạo: Tiết Thực Quả Dục 

(Vạn Phật Thành ngày 9 tháng 2 năm 1982)

 

Thế giới có thành, trụ, hoại, không; loài người có sinh lão bịnh tử; đó là đạo lý rất tự nhiên. Các vị nên hiểu rõ đạo lý này: thành tức rồI sẽ trụ, rồi sẽ hoại, rồi sẽ không; sinh rồi sẽ già rồi sẽ bịnh, rồi sẽ chết. Nếu chẳng có thành thì chẳng có trụ, chẳng có hoại, chẳng có không; nếu không có sinh thì cũng không có lão, không có bịnh, không có tử.

Song nếu ta dùng vọng tưởng chấp trước để phân biệt chuyện này, thì dù phân biệt đến hết mấy đại kiếp cũng không phân biệt rõ ràng đặng. Phân biệt bao nhiêu cũng là hồ đồ. Vừa mới hiểu rõ được một chút thì lại hồ đồ, thế nên ở mãi trong vòng luân hồi không thoát ra được. Nếu muốn thoát luân hồi phải đả phá cái đạo lộ si mê vọng tưởng này thì tu hành mới thành đạo, chứng ngộ bổn lai, Phật quả. Xưa nay vốn chẳng đi chẳng đến, chẳng dơ, chẳng sạch cũng không tăng, không giảm, cũng không sinh không diệt, chẳng có gì là âu sầu phiền não. Tất cả những thứ Ngũ trược, Lục trược đều chẳng có. Song loài người không biết buông bỏ cái giả, nên không nắm được cái chân thật; nên nói rằng:

"Xả bất liễu giả,

Thành bất liễu chân;

Xả bất liễu tử,

Hoán bất liễu sanh".

Dịch là:

"Không vất bỏ cái giả,

Sao có đặng cái thật;

Không buông xả cái chết,

Sao đổi thành cái sống".

Nếu không kiềm chế tánh hư vọng cuồng dại thì trí huệ chân chính không bao giờ xuất hiện được. Tự tánh bị che đậy bởi vô minh. Vô minh có hai kẻ giúp đỡ, có hai tên làm kế hoạch. Bọn chúng là gì? Thứ nhất là thức ăn, thứ hai là sắc đẹp; một cái gọi là thực dục, một cái gọi là sắc dục! Hai thứ này giúp đỡ cho vô minh làm đủ thứ chuyện xấu, cho nên sách Nho có nói rằng: "Thực, sắc tánh dã" Nghĩa là háo ăn, háo sắc đều là thực tánh của chúng sanh vậy. Song, mình phải biết tại sao vô minh chẳng phá đặng? Tại sao phiền não cũng không đoạn được? Trí huệ tại sao chẳng hiện? Ðó chính là do mình có lòng tham ăn, lòng háo sắc!

Ăn uống thì trợ giúp cho dục vọng, dục vọng lại làm tăng trưởng vô minh. Con người sinh ra thì biết ăn, con nít sinh ra là biết uống sữa. Không có sữa thì nó khóc, uống rồi lại muốn thêm nữa. Ðúng vậy! Lòng tham này mới sinh ra đã có, sau khi có lòng tham rồi thì sinh ra lòng tham sắc.
Con trai thì ham nữ sắc, con gái thì ham nam sắc, quyến luyến nhau, ham muốn không chịu buông bỏ, không thể nhìn suốt được. Ăn uống bao nhiêu thứ tinh hoa đều biến thành tinh. Hễ tinh mà sung mãn thì sinh ra lòng sắc dục, cho nên người xưa nói rằng: "Bão noãn tư dâm dục, Cơ hàn khởi đạo tâm." (No ấm thì nghĩ chuyện dâm dục, Ðói lạnh mới khởi lòng trộm cắp.) Khi ăn no rồi, con trai nghĩ đến con gái, con gái thì nghĩ đến con trai, chỉ có khởi dục niệm này. Khi người nghèo nghĩ cách trộm cắp cũng vì để có đồ ăn, ăn rồi tình dục khởi lên. Thến nên ăn cho đủ chất dinh dưỡng, mập mạp phì nộn rồi chỉ khởi lòng dâm. Con người trước tiên là khởi lòng tham ăn, muốn ăn thật ngon miệng, muốn ăn để thân thể cường tráng. Song ăn ít thì không đủ, mà ăn nhiều làm sao thỏa mãn được lòng tham? Cho nên người ta chết vì sắc, vì thực. Nếu vô minh không có thực và sắc toa rập thì chẳng có thể tác hại được ai.

Người xuất gia ăn đồ càng dở càng tốt, không có dinh dưỡng thì lại càng tốt nữa. Thế nên đối với vấn đề ăn uống đừng có quá coi trọng. Ăn là để duy trì mạng sống mà hành đạo; không cần phải có quá nhiều chất dinh dưỡng nhưng cũng không ăn những đồ hư hoại, khiến cho cơ thể sinh bịnh, đó là thực hành Trung Ðạo.

Tôi rất cảm phục một người ở Ðài Loan, vị đó tức là Thủy Quả Hòa Thượng, (5) Ngài không ham tiền cũng không ham sắc. Ngài chẳng thèm nhìn đến những phẩm vật người ta cúng dường Ngài. Ðó là việc mà kẻ phàm phu không làm được, bởi vì không ai có thể buông bỏ được lòng tham, thậm chí còn coi tiền tài như tánh mạng. Nhưng Ngài thì rất thanh thoát, coi nhẹ tiền tài, lễ vật chất đống một chỗ ai muốn lấy thì lấy, Ngài không để ý tới, và để cho đồ đệ muốn ăn cắp bao nhiêu tiền cũng được (những kẻ ăn cắp sau này đều hoàn tục). Các vị thấy đó, phải chăng sau đó Ngài đã quản lý tiền một cách chặt chẽ hơn? Không phải vậy đâu! Không những ngài không quản lý tiền bạc, mà ngay đến nhìn Ngài cũng không thèm nhìn nữa. Các vị coi Ðịnh lực của Ngài cao như thế nào! Ngài chỉ ăn trái cây, đậu phụng, không ăn những thứ nào có mùi vị hay đồ nấu, xào, luộc. Bởi vì ngài không nhập theo sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, cho nên chứng được sơ quả A La Hán. Ngài tu hành cảm ứng rất lớn nên Ngài thường bảo hộ Ðài Loan này. Có người nhận ra được Ngài là ai, nhưng cũng có người chẳng biết được đức hạnh của Ngài, do đó nhục mạ Ngài, gọi Ngài là “Á Dương Tăng”( ông thầy ngu dốt).

Năm nay thân thể Ngài yếu đi nên Ngài chỉ ăn một chút cháo, song có kẻ lại phỉ báng nói Ngài đọa lạc rồi. Kỳ thật, những người đó không hiểu được và họ đã sai lầm. Ăn hay không ăn cháo là chuyện của Ngài, tại sao phải tìm các xoi mói Ngài? Nếu như ai ai cũng tu hành như Lão Hòa Thượng Thủy Quả, chẳng tham, chẳng nhiễm, thì Phật Giáo nhất định ngày càng sáng tỏ và phát triển, Chánh Pháp sẽ trụ thế. Ngài đã làm tôi hết sức hoan hỷ, là vị đồng tu đồng Ð?o, hợp lý với tôi lắm vậy.

Không thể nói rằng tất cả ở Vạn Phật Thành đều tốt đẹp, đều là Phật Pháp cả. Song mọi người ở đây đều y chiếu Phật Pháp mà thi hành, không chú trọng đến chuyện ăn ngon mặc đẹp, ở tốt; họ chỉ chú trọng làmsao duy trì cái thân Tứ Ðại giả hợp này để sống là đủ rồi. Nhu yếu của chúng ta là Pháp, là mùi vị Pháp Vô thượng. Thế nên mỗi ngày ở Vạn Phật Thành đều có giảng Kinh thuyết Pháp. Lúc nghe Kinh thì cần phải dũng mãnh tinh tấn, hết lòng mà nghe giảng Kinh Hoa Nghiêm, đừng lười biếng. Các vị nghe giảng Kinh không phải vì Sư Phụ, mà nghe là vì mình mà nghe. Nếu các vị chuyện gì cũng biết thì không cần phải nghe, song không phải là chuyện gì các vị cũng biết cả. Những điều mình biết là thứ Thế Trí Biện Thông, thứ thông minh có thể biện biệt, thấu đạt chuyện đời của kẻ phàm phu. Học Phật Pháp tức là vì mình mà học, không phải là vì Sư Phụ hay là vì người khác học. Các vị hãy ghi nhớ, đừng để cho thời gian trôi qua vô ích, rồi sau đó có hối tiếc thì đã trễ.

 

17. Ăn Thịt Tức Là Ăn Người 

(Vạn Phật Thành ngày 30 tháng 5 năm 1982)

 

"Thiên bách niên lai oản lý canh,

Oán thâm tự hải hận nan bình.

Dục tri thế thượng đao binh kiếp,

Thả thính đồ môn dạ bán thanh!”

Dịch là:

"Ngàn năm oán hận ngập bát canh,

Oán sâu như biển hận khó tan.

Muốn biết vì sao có chiến tranh,

Hãy nghe lò thịt lúc nửa đêm!"

Từ xưa đến nay có rất nhiều người hy sinh thân mạng kẻ khác để lợi ích cho chính mình, cam tâm giết hại kẻ khác để bồi duỡng cho bản thân mình. Thế nên miếng thịt ở trong tô canh chứa chấp lòng oán hận thâm sâu như biển cả. Ðời này qua đời khác sát hại lẫn nhau, ăn thịt lẫn nhau. Tất cả chúng sinh đều ham sống sợ chết, song con người vẫn dùng thủ đoạn áp bức để áp bức tàn sát những kẻ yếu kém hơn mình.

Trong tâm thức của những con thú trước khi chết đã kết tinh lòng oán hận rất lớn, chúng chỉ muốn tìm cách báo thù, không có cách gì để thoa dịu ý tưởng cừu hận này được. Các bạn muốn biết trên thế giới, nguồn gốc của chiến tranh từ đâu ra? Thí dụ như chiến tranh Việt Nam hay là chiến tranh giữa Á Căn Ðình và Anh quốc? Ðều là do nghiệp sát quá nặng, quá sâu, cho nên mới dùng phi cơ, đại pháo, thiết hạm, thủy lôi để hủy diệt nhau! Nếu ban đêm mình lắng nghe nơi nhà người đồ tể tiếng kêu la rên xiết của con heo, con bò hay con dê xin cứu mạng, thì mình sẽ biết được nguyên nhân của chiến tranh ở đâu mà ra. Có bài thơ rằng:

"Nhục" tự lý biên lưỡng cá nhân,

Lý biên trác trước ngoại biên nhân.

Chúng sanh hoàn thực chúng sanh nhục,

Tử tế tư lượng nhân thực nhân!

Dịch là:

Trong chữ "nhục" gồm có hai người,

người ở trong dòm người ở ngoài,

Chúng sanh lại ăn thịt chúng sanh,

Suy nghĩ kỹ là người ăn người.

Tiếng Trung Hoa chữ "nhục" nghĩa là thịt, gồm có chữ "khẩu" tức là miệng mở ra, và hai chữ "nhân" tức là hai ngườI; ở bên trong có một người và bên ngoài có một người. Người ở bên ngoài chờ người bên trong. Người ở ngoài muốn đi vô nhưng không vô được, người ở trong muốn chun ra ngoài nhưng không ra nổi là vì người bên ngoài đứng cản, không cho anh ta chạy thoát. Nên chữ "nhục" này chính là một kẻ ăn thịt và một kẻ bị ăn thịt. Kẻ ăn thịt thì ở bên ngoài, và là một con người. Kẻ bị ăn thịt thì ở bên trong và cũng là một con người, nhưng y đã biến thành súc sinh, lại còn bị chận không cho chạy ra, chạy lên cũng không được, chạy xuống cũng không xong, như là bị vây khốn, không chạy thoát được. Tuy là miệng mở khá rộng nhưng vì người bên ngoài đã chận, nên kẻ bên trong không thể chạy khỏi vòng vây. Vòng vây này có thể là chuồng dê, chuồng heo, hay là chuồng bò, chuồng trâu. Người bị ăn thịt thì ở trong chuồng, mà người ăn thịt thì ở bên ngoài chận không cho ra. Vì sao mà chận không cho anh ta ra? Là bởi vì muốn ăn thịt anh ta! Người bị ăn thịt và người ăn thịt có một mối quan hệ: đó chính là sự oán hận không thể nào hòa giải được!

Con người là chúng sinh, miếng thịt mình ăn cũng là chúng sinh. Hễ là động vật, là dê, là trâu, là gà là ngựa, là chó, là heo v.v…đều là một loạI chúng sinh cả. Nếu có kẻ nói rằng những thứ động vật này do trời sinh ra để ngườI ăn, như vậy thì người sinh ra để ai ăn? Bởi vậy trời sinh động vật không nhất định là để cho người ăn, bất quá bởi vì con người ỷ mình trí óc cao minh nên mới ăn thịt động vật. Do đó sự quan hệ ăn thịt này, nếu nghĩ cho kỹ thì chính là người ăn thịt người! Nếu nói rằng người ăn thịt người, thì thử hỏi xem kẻ bị ăn thịt, (tức là bây giờ đã biến thành dê, heo, ngựa v.v…) đối với mình có quan hệ thế nào?

Trong Kinh Lăng Nghiêm có nói rằng: "Con dê trở lại biến làm người." Con dê mà có thể biến làm người thì tất cả các động vật khác cũng có thể biến làm người, cũng như là cải đầu hoán diện, thay đổi bộ mặt thôi, mà mình không biết loài thú vật đó là ai. Các vị có biết chăng những thứ động vật heo, trâu, dê, gà v.v…đó không chừng đều là bà con quyến thuộc, là họ hàng thân thích của mình? Mối quan hệ đó, nói xa xôi như vậy, chớ nói gần hơn thì chúng nó biết đâu chính là cha mẹ mình kiếp trước, hoặc là cha mẹ mình kiếp này, hay là cha mẹ không biết bao nhiêu kiếp về trước! Nghĩ như vậy thì nếu ăn thịt cha mẹ, thì thật là bất hiếu. Cho nên nghĩ kỹ thì mớI biết rằng ăn thịt động vật chính là người ăn thịt người vậy!

Người mà ăn thịt heo thì con heo có thể biến thành người. Khi heo thành người, nó lại ăn thịt heo do người kia biến thành. Nhân duyên cứ luân chuyển mãi, hỗ tương ăn thịt lẫn nhau: mình ăn nó, nó ăn mình. Do đó cừu hận càng ngày càng sâu; cừu hận càng sâu thì càng muốn ăn thịt; tánh thích ăn đồ ngon là do oan nghiệp dẫn dắt, làm mình cảm thấy hợp lý khi giết sinh mạng của kẻ khác để bổ trợ cho sinh mạng của chính mình.

Nếu các vị không tin thì tôi kể cho nghe một chuyện có thật như vầy: Vào thời vua Lương Võ Ðế thì Phật Giáo hết sức hưng thịnh. Lúc bấy giờ có một vị tên là Chí Công, là một người đã giác ngộ rồi (Minh Nhãn Thiện Tri Thức). Ngài có thể biết được tiền nhân hậu quả mọi sự. Thời bấy giờ Phật Giáo đi tới chỗ các thầy chỉ đi tụng niệm cho người đời. Gia đình nào có chuyện vui chuyện buồn gì cũng mờI các thầy tới tụng kinh kiết tường, tụng chú kiết tường. Có lần một nhà giàu nọ làm đám cưới cho con gái nên mới mời ngài Chí Công tớI để tụng kinh cầu phước. Bởi vì Phật Pháp không ra ngoài thế gian pháp, nên Tổ Sư cũng tùy thuận theo phong tục của người đời mà đáp ứng. Vừa đặt chân tới nhà, ngài liếc nhìn và nói rằng: "Cổ quái, cổ quái! Cháu lấy bà ngoại. Con gái ăn thịt mẹ, con trai đập da bố. Heo, dê ngồi nơi ghế, họ hàng nấu trong nồi. Chúng sanh lại tưng bừng, ta thấy thật là khổ."

Ngài Chí Công nói: "Thật là ‘cổ quái’!" Chuyện gì mà cổ quái? Ðó chính là cháu lấy bà ngoại của mình. Bởi vì khi đứa cháu mới sinh thì bà ngoại nó bịnh. Lúc gần chết bà cầm tay thằng cháu này, nói rằng bà sợ không có ai lo lắng cho thằng nhỏ, tương lai ai là người giúp nó để thành gia lập nghiệp? Do vậy, lúc bà ngoại thở hơi cuối cùng thì tay vẫn nắm thằng cháu, quyến luyến không đành. Bà ngoại xuống Âm phủ gặp vua Diêm La, mới khóc lóc cầu xin: "Diêm La vương ơi! Xin ngài ban cho tôi một việc: Ở thế gian tôi có một đứa cháu nhỏ dại không ai săn sóc, xin ngài cho tôi về lo cho nó được không?” Vua Diêm La từ bi vô cùng, mới đáp lời thỉnh cầu nói rằng: "Ðược, tốt lắm! Bà về lại trần gian săn sóc thằng nhỏ đi. Bà là bà ngoại của nó, bây giờ bà về làm vợ của nó được chăng?”

Bà đó không thể làm chủ được nghiệp báo của mình cho nên đầu thai lên dương thế làm con gái. Ðứa con gái này lớn lên rồI lấy thằng cháu đó. Thật là cải đầu hoán diện, đổi mặt đổi mày mà thôi, như thử mặc bộ y phục mới không ai nhận biết được cả. Chỉ có ngài Chí Công biết được chuyện đó nên nói: "Cổ quái, cổ quái! Cháu lấy bà ngoại."

Ngài Chí Công lại thấy đứa con gái nhỏ đang ăn miếng thịt heo nên nói rằng: “Con gái ăn thịt mẹ.” Là vì mẹ đứa con gái này vốn làm đủ thứ ác nghiệp nên chết rồi thì hóa kiếp làm heo; nay bị đồ tể giết, bị nấu làm món ăn ngon và bây giờ đứa con gái này ăn thịt mẹ của mình.

Khi ngài thấy ở sau vườn có đứa con trai đang cao hứng đập cái trống bằng da lừa, ngài mới nói rằng: “Con trai đập da bố.” Nghĩa là bố của thằng nhỏ này vì tạo nghiệp báo nên mới đầu thai làm con lừa. Chết rồi bị người ta lột da làm trống; bây giờ đứa nhỏ này chẳng biết cha nó miếng da làm thành trống, nên chỉ biết vui mừng thì đánh trống mà thôi.

Ngài Chí Công lại đi xuống nơi dãy ghế ngồi, nhìn qua thì thấy những kẻ ngồi đó toàn là trâu, bò, dê… hồi xưa bị người ta ăn thịt, bây giờ biến thành người, làm bà con thân thuộc với nhau. Những loại thịt trong nồi đều là những bà con quyến thuộc của họ, nên ngài Chí Công nói rằng: “Quý vị tới đây tiệc tùng hết sức vui vẻ, hân hoan để chúc mừng ông chủ nhà làm đám cưới cho con. Sự thật, ta thấy thật là khổ! Người nào cũng ở trong luân hồi hỗ tương vay trả quả báo, tàn sát lẫn nhau, ăn thịt lẫn nhau; đó là nỗi khổ khó nói cho biết được.”

Sau khi ngài Chí Công nói xong, có rất nhiều người hiểu rồi phát tâm ăn chay, niệm Phật, tu hành.

Từ xưa đến nay, nếu các vị không ăn thịt kẻ khác thì kẻ khác cũng không ăn thịt các vị. Có người nói: "Thầy nói thế nào đi nữa tôi cũng không tin." Nếu các vị không tin thì tôi cũng không có các gì khác, cứ thí nghiệm thử xem sao!

 

18. Tu Ðạo Cần Phải Bỏ Ác Làm Lành 

(Vạn Phật Thành ngày 30 tháng 5 năm 1982)

 

"Vãng tích sở tạo chư ác nghiệp,

Giai do vô thủy tham sân si,

Tùng thân ngữ ý chi sở sanh,

Nhất thiết ngã kim giai sám hối."

Dịch là:

"Tất cả ác nghiệp tạo từ xưa,

Ðều do vô thủy tham sân si,

Theo thân miệng ý mà phát sanh,

Con nay hết thảy xin sám hối."

Chúng ta từ xa xưa đến nay tạo nghiệp ra có thứ ác, thứ thiện; thiện ác trộn lẫn chẳng rõ ràng. Cho nên có lúc thì mình sinh tâm lành, có lúc thì sinh ra ý niệm ác. Một niệm thiện thì "không làm điều ác mà làm tất cả điều lành." Nhưng khi khởi niệm ác thì chỉ nghĩ làm tất cả điều ác không làm điều lành.

Bởi vì từ vô lượng kiếp đến nay lẫn lộn thiện ác như vậy, nên ngày nay làm thiện song ngày mai lạI muốn làm ác, rồi ngày mốt thì tạo ra điều chẳng thiện chẳng ác. Ðến khi tu đạo thì mình khó mà thoát khỏi nghiệp báo. Nên có lúc thì muốn tu hành, có lúc thì chẳng muốn tu, có lúc muốn thanh tịnh, có lúc lại muốn nhiễm ô. Cứ mặc cho ngọn sóng đưa đẩy, không biết phiêu lưu tới chỗ nào. Ðó đều do những ý niệm dấy khởi hồi xa xưa bây giờ kết thành cái quả. Có ý niệm lúc đầu muốn tu hành, mà ý niệm sau thì muốn hoàn tục; ý niệm trước thì muốn hoằng dương Phật pháp nhưng ý niệm sau thì muốn hủy diệt Phật pháp. Thật là vô cùng phức tạp. Như vậy thì phải làm sao? Thì cần phải học trí huệ Bát Nhã nghĩa là:

"Trạch thiện nhi tùng.

Phi thiện tắc cải.

Thị Ðạo tắc tiến,

Phi Ðạo tắc thối!"

 

Dịch là:

“Lựa điều lành mà làm theo,

Hễ điều xấu thì sửa.

Nếu là Ðạo thì tiến tới,

Không phải là Ðạo thì thối lui!"

Lúc nào mình cũng phải đề cao cảnh giác tựa như là đi bên bờ vực thẳm, hệt như là đi trên mặt băng mỏng. Tu hành cần phải vô cùng cẩn thận như vậy! Nên nói: Sai chi hào ly, mậu chi thiên lý. (Sai một ly, đi một dặm.)

Cho nên tu hành là: “Cử động hành vi quản tự kỷ, Hành, trụ, tọa, ngọa bất ly gia." (Phải quản chế cử động, hành vi của chính mình, Ði, đứng, nằm, ngồi thì không rời "nhà".) Lúc nào mình cũng cần có ý niệm thanh tịnh, ý niệm sáng suốt quang minh; đừng khởi ý niệm nhiễu ô, đừng khởI ý niệm hắc ám. Phải hết sức cẩn thận trong mỗi một suy tư, mỗi một ý nghĩ. Mỗi ý niệm nếu là thiện thì quang minh càng nhiều, nếu ý niệm là ác minh thì càng hắc ám. Người thiện thì có ánh hào quang trắng, người ác thì chỉ toàn là khí đen. Thế nên làm thiện hay làm ác đều tự nhiên biểu hiện nơi hình tướng của mình.

Các vị có thể lừa người nhưng không thể lừa quỷ, thần, Phật, Bồ Tát. Do vậy, bất luận là kẻ xuất gia hay kẻ tại gia, nếu lừa dối như vậy thì chỉ tạo ác nghiệp, chẳng có công lao gì với Phật Giáo. Phải hiểu rằng vì sao mà từ vô lượng kiếp đến nay mình không thoát khỏi cái khổ luân hồi sanh tử, luôn luôn hồ đồ ngu tối như vậy? Là bởi vì cái "trương mục ngân hàng" của mình không có rõ ràng; đầy những thứ hỗn tạp, cái thanh tịnh và cái nhiễm ô mỗi thứ một nửa, cho nên không ra khỏi Lục Ðạo luân hồi! Nếu mình muốn chân chính tu hành thành Phật thì trước khi thành Phật mình phải dũng mãnh tinh tấn, không được tùy tiện. Cần phải biết rằng: Một ngày đã qua, mạng cũng giảm dần, như cá cạn nước, thử hỏi gì vui? Ðại chúng! Hãy siêng tinh tấn, như dầu bị đốt, chỉ nhớ vô thường, chớ mặc buông lung.

Có người hoài nghi: "Phải chăng có ông Diêm La Vương và có con quỷ Vô Thường (Thần Chết) thật?" Cái đó phải xét coi các vị có thể chẳng chết không? Nếu các vị có thể chẳng chết tức là không có con quỷ vô thường. Nếu các vị có bản lãnh ghê gớm, không thọ quả báo tức là không có ông Diêm La Vương. Bạn có thể chẳng chết hay không? Nếu không thể được thì đương nhiên có ông Diêm La Vương và có con quỷ Vô Thường; các vị đừng cho rằng mình hết sức thông minh, “tự bịt tai đi ăn cắp chuông, vừa rung chuông vừa chạy" tự mình lừa dối chính mình. Các vị phải biết, từ vô lượng kiếp đến nay bởi vì không tin có ông Diêm La Vương hay có quỷ Vô Thường cho nên mình mới ở trong Lục Ðạo luân hồi, quay đi quay lại, chẳng cách gì thoát khỏi vòng sanh tử được!

 

19. Ðạo Cả Suy Thì Có Người Nhân Nghĩa 

(Vạn Phật Thành ngày 5 tháng 6 năm 1982)

 

"Lòng ngườI chẳng như xưa, đạo đức đã suy đồi.”

 

Thế giới ngày nay không biết thăng tiến mà còn càng ngày càng xuống dốc. Hồi xưa không có nhiều trường học cũng chẳng có nhiều kẻ đọc sách, song con người chẳng có nhiều thứ điên đảo băng hoại. Hiện tại trường học nhan nhãn, không biết bao nhiêu là học sinh, song trong thế giới kẻ xấu càng ngày càng nhiều.

Người xưa học là cốt để minh lý, tức là hiểu rõ đạo lý làm người, thế nào để đừng làm ác, thế nào để luôn làm lành, sao cho có hiếu vớI cha mẹ, có tình với anh em, có trung với đất nước, có tín với bạn bè, có lễ với mọi người, có nghĩa với dân tộc, liêm khiết trong việc làm và có lòng hổ thẹn với chính mình. Hiện giờ kẻ đi học thì vì danh lợi!

Chữ minh lý và chữ danh lợi trong tiếng Trung Hoa phát âm giống nhau, nhưng trên thực tế thì ý nghĩa khác nhau một trời một vực. Những kẻ học vì danh lợi thì chỉ muốn học môn nào để kiếm thật nhiều tiền. Cũng giống như có kẻ muốn học y khoa hay khoa học, song chỉ biết rằng sẽ kiếm được nhiều tiền, không nghĩ rằng tôi học là vì muốn tương lai có thể đem lại hạnh phúc cho nhân dân, rằng tôi học y khoa là muốn cứu đời, muốn lợi ích cho người khác.

Hiện tại đa số học sinh chỉ biết tự lợi mà không biết làm lợi cho kẻ khác. Lại có những giáo sư công khai cổ võ học sinh hút ma túy, làm chuyện dâm dục bừa bãi, hoặc làm đủ thứ nhiễu loạn thế sự. Cho nên thế giớI càng ngày càng suy đồi. Lão Tử nói rằng:

"Ðại đạo phế hữu nhân nghĩa,

Trí huệ xuất hữu đại ngụy,

Lục thân bất hòa hữu hiếu từ,

Quốc gia phân loạn hữu trung thần."

Nghĩa là:

"Khi Ðạo lớn mất, kẻ nhân nghĩa xuất hiện,

Người trí huệ tới, bọn giả dối đầy dẫy,

Khi gia đình bất hòa, kẻ hiếu thảo ra đời,

Lúc quốc gia phân loạn thì có bậc trung thần."

Khi Ðạo lớn không còn nữa thì người ta mới nói tới nhân tới nghĩa. Nếu Ðạo lớn còn thì nhân nghĩa chẳng ai nói tới, vì nhân nghĩa đã nằm trong Ðạo lớn rồi. Khi có kẻ trí huệ ra đời thì đương nhiên có kẻ giả mạo hư ngụy đồng thời cũng xuất hiện để lừa bịp kẻ khác. Khi gia đình hòa thuận với nhau, không ai tranh chấp cả thì đương nhiên cha hiền từ, con hiếu thảo, anh em vui vẻ sống chung, gia đình hết sức hòa vui. Nhưng đến khi sáu họ bà con bất hòa; cha không hiền từ, con hiếu sẽ ra đời. Cũng như thời ông Thuấn vậy: Phụ ngoan, mẫu dâm, đệ ngạo, Thuấn vi khắc tận hiếu đạo. (Cha ngoan cố, mẹ dâm đãng, em ngạo mạn; song ông Thuấn hết lòng làm tròn đạo hiếu.)

Cha của vua Thuấn rất ngoan cố. Tên của ông ta là Cổ Tẩu (ông già mù), ý nói rằng ông tuy có mắt nhưng không tròng vậy, vì ông không biết đạo lý trắng đen, đúng sai, thẳng cong, thiện ác gì cả. Ông có con là vua Thuấn, một người con rất hiếu thảo mà cũng không biết nữa. Bà mẹ của vua Thuấn là bà mẹ kế; bà này dâm loạn, nham hiểm, chẳng bao giờ nói tới luân lý, chỉ nghĩ đến chuyện vô luân. Ông Thuấn có người em khác mẹ tên là Tượng cũng hết sức ngạo mạn, không cung kính anh mình. Tuy vậy, trong gia đình, ông Thuấn hết sức hiếu thảo với cha mẹ, hết sức thương yêu lo lắng cho em.

Lúc bấy giờ ngườI em của ông Thuấn với bà mẹ kế nghĩ cách làm hại ông, nên một ngày nọ kêu ông vào kho gạo để quét dọn. Chờ đến khi ông đi vào trong rồi thì Tượng mới tức khắc nổi lửa đốt nhà. Nhà kho bắt lửa phừng phừng cháy dữ dội. Lúc đó họ nghĩ rằng ông Thuấn sẽ bị lửa đốt chết nên hai người mới ra về, trong lòng hết sức vui mừng. Nhưng chẳng mấy chốc ông Thuấn cũng về lại nhà. Người em vô cùng kinh ngạc hỏi: "Anh ở trong nhà kho dọn dẹp, sao nhà cháy mà anh chẳng bị đốt chết?” Ông Thuấn đáp rằng: “Khi tôi thấy lửa cháy, tôi lượm hai cái bửng cỏ che thân rồi leo lên mái nhà nhảy thoát ra ngoài cho nên chẳng bị tổn thương, cũng không bị thiêu đốt."

Một lần khác khi ông Thuấn đi ra giếng lấy nước thì hai ngườI ấy lại nghĩ cách hại ông. Lúc ông Thuấn leo xuống giếng thì họ đem một tảng đá lớn đến bít miệng giếng, không cho ông lên. Họ tin rằng ông Thuấn lần này sẽ chết. (Tục ngữ có câu "lạc tỉnh hạ thạch", nghĩa là rớt xuống giếng rồI lấy đá bịt lại, tức là hại người ở bước đường cùng, là từ điển tích này mà ra.)

Song, ở dưới đáy giếng lại có một cái động! Ông Thuấn xuống giếng rồi thì nơi động đó bò lên (có người nói rằng nơi địa đạo này có một con hồ ly trắng thường lui tới ở đó; chính nó tới để cứu ông Thuấn). Tuy hai người đó lúc nào cũng tìm cách hại ông nhưng ông Thuấn không hề tức giận, lúc nào cũng hết sức hiếu thảo với cha mẹ và hết sức thương yêu người em của mình.

Bấy giờ tên Tượng nghĩ rằng ông Thuấn đã chết, nên về nhà nói với cha mẹ chuyện chia gia tài. Y nói rằng: "Ngưu dương phụ mẫu, thương lẫm phụ mẫu, can qua trẫm, cầm trẫm, chỉ trẫm, nhị tẩu trẫm thê." Dụ muốn nói rằng: "Dê vớI bò thì để cha mẹ, lương thực cũng để cha mẹ. Tôi không cần những thứ đó, tôi chỉ muốn cây đàn huyền cầm của ông Thuấn, cái ống tiêu của ông Thuấn, những đồ luyện võ của ông Thuấn. Ðó là những thứ mà tôi muốn. Hai bà vợ của ông Thuấn tôi cũng muốn; biểu hai ngườI đó lại phục dịch tôi." (Ông Thuấn có hai bà vợ; một tên Nga Hoàng, một tên Nữ Anh, hai ngườI này đều là con gái của vua Nghiêu. Vua Nghiêu đặc biệt hứa gả hai người này để phục dịch ông Thuấn.)

Tên Tương nói xong liền vô phòng ông Thuấn. Nhưng vừa vô thì thấy ông Thuấn ngồi chễm chệ trên giường. Tượng sợ quá tưởng rằng hồn phách của ông Thuấn hiện về. Ông Thuấn liền lên tiếng an ủi người em đừng sợ hãi.

Trong thời Nghiêu Thuấn bấy giờ, lòng người xấu xa như vậy, song ông Thuấn vẫn hết sức làm tròn chữ hiếu, làm tròn đạo con. Thế nên nói rằng trong gia đình, bà con sáu họ mà không hòa thuận thì có kẻ hiếu thảo ra đời.

Khi đất nước ly loạn thì có kẻ trung thần xuất hiện. Khi đất nước bình an vô sự thì khó thấy bậc trung thần. Khi đất nước rối ren loạn lạc thì ai là trung thần, ai là gian thần có thể thấy được rất dễ dàng.

Thời Tống có hai triều Nam với Bắc. Lúc quốc gia hết sức phân loạn thì tên gian thần Tần Cối xuất hiện. Tần Cối giết Nhạc Phi; nhưng Nhạc Phi thì lưu danh thiên cổ còn Tần Cối thì tiếng xấu ngàn năm. Bởi vậy "lưu danh thiên cổ" và "di xú vạn niên" đều là cái tên, nhưng một là cái tên tốt, một là cái tên xấu. Cũng như đời Nam Tống có ông Văn Thiên Tường; lúc quốc gia hết sức hỗn loạn thì ông là người hết sức trung thành với Tống. Từ đầu đến cuối ông bảo vệ quốc gia, không chịu đầu hàng; đó là một vị trung thần. Cho nên khi quốc gia hỗn loạn mới có thể thấy xuất hiện được những bậc trung thần.

Bây giờ đang kiến lập đạo tràng cũng chính là lúc khốn khổ gian nan vô cùng. Chính trong lúc này mới có thể thấy kẻ nào là chân, kẻ nào là giả. Vị hộ Pháp chân thật thì lấy Phật Giáo làm nhiệm vụ của chính mình; lấy việc hộ trì Tam Bảo làm trách nhiệm của riêng mình.

Bây giờ Vạn Phật Thành mỗi ngày một phát triển, rất cần nhiều người lại ủng hộ, cần rất nhiều người lại hợp tác. Kẻ nào có sức thì ra sức, kẻ nào có tiền tài vật chất thì giúp tiền tài vật chất. Không nên có thái độ "tọa thủ bàng quan" tôi nhìn anh, anh nhìn tôi; vì như vậy thì chẳng bao giờ tận sức lập công cho Phật Giáo được. Phải đem sự hoằng dương Phật Pháp làm nhiệm vụ cá nhân, hộ trì Phật Giáo là trách nhiệm của mỗi người. Ðược vậy thì Phật Giáo nhứt định sẽ phát triển rực rỡ trong tương lai.

 

20. Tu Ðạo Cần Có Tâm Kiên Trì Không Ðổi 

(Vạn Phật Thành ngày 6 tháng 6 năm 1982)

 

Thân cây, mỗi ngày mỗi cao lớn nhưng ta không thấy sự sinh trưởng của cây. Tuy ta chẳng để ý, nhưng cây cứ cao lớn dần, chờ đến mười năm hoặc trăm năm sau thì cây đó biến thành vật hữu dụng.

Cây thì vậy, người tu Ðạo cũng thế. Ðừng quá gấp gáp, đừng nghĩ rằng hôm nay tu hành thì ngày mai khai ngộ. Chẳng phải dễ dành như vậy đâu! Mà cần phải ngày ngày tu luyện, ngày ngày trau dồi, chẳng cần biết là có tiến bộ hay không. Không thối lui có nghĩa là tiến bộ rồi; tham sân si mỗi ngày thối lui tức là tiến bộ rồi; đừng có muốn mau chóng cho nên nói:

"Kỳ tấn huệ giả, kỳ thối tốc"

Nghĩa là:

"Tiến càng nhanh thì lùi cũng rất mau"

Tới thật mau tức là lùi cũng mau, cho nên cần phải có cái tâm hằng thường mà tu hành, ngày ngày phải sám hối để sửa đổi lỗi lầm:

"Nhất nhật vô quá khả cải, tức nhất nhật vô công khả tạo".

Nghĩa là:

"Một ngày chẳng sửa lỗi lầm, là một ngày chẳng tạo công đức."

Cho nên tu hành cần bỏ tập khí, lỗi lầm xấu xa, bỏ đi những tư tưởng lầm lạc, khiến cho trí huệ quang minh bản hữu của mình xuất hiện. Trí huệ quang minh này người nào cũng có cả, nhưng rất tiếc là bị vô minh che khuất. Khi không thể dùng trí huệ quang minh này, bởi vô minh che phủ, sẽ làm cho mình cứ muốn trụt xuống, không muốn đi lên; nếu hiển lộ được trí huệ thì tự nhiên mình sẽ tiến tới, đi lên mãi. Ðó gọi là "nghịch lưu" (Ði ngược dòng nước)!

Cho nên tu hành không phải chỉ có một ngày một đêm, mà cần phải hàng giờ hàng phút hàng ngày. Buổi sáng như vậy, buổi chiều cũng như vậy. Năm này tháng nọ đều tu hành như vậy, hằng thường bất biến. Thời gian lâu rồi thì mình mới trưởng dưỡng được trí huệ Bát Nhã. Ðừng nên một ngày nóng mười ngày lạnh, một ngày tu mười ngày nghỉ, nếu như vậy thì chẳng thể thành tựu đặng. Phải như thân cây, mỗi ngày lớn lên một chút, ngày ngày đem lòng thành mà tu hành.

Trong thời gian tu hành, nếu gặp những cảnh giới gì, dù ma chướng hay nghịch duyên hay thuận duyên…, cũng phải thái nhiên, bình thản. Thuận cảnh hay nghịch cảnh mình đều phải tinh tấn, coi như mọi sự vật đều đang nói diệu pháp cho mình. Mỗi diễn biến đều là bài pháp, thì sẽ biết được sự kỳ diệu mà ngôn ngữ không thể diễn tả được.

Nếu hiểu được vậy thì sẽ biết được “bản lai diện mục” của chính mình, biết được con đường về nhà rồi đó. Cho nên mượn pháp thế gian mà vượt khỏi pháp thế gian, không bị vạn pháp làm mê lầm, không bị mọi hình tướng làm mê hoặc. Lúc tất cả cảnh giới tới, nếu mình bình tĩnh sáng suốt, không bị chướng ngại, thì lâu ngày trí huệ của mình sẽ hiện ra.

Nguyên nhân mà trí huệ không hiển lộ là do mình không chịu dấn bước tới trước mà tu; chỉ muốn thụt lùi! Gặp duyên lành thì lại nghi ngờ không quyết định, gặp phải duyên ác thì liền chạy theo. Cho nên mãi mãi lưu lạc trong Lục Ðạo luân hồi, mà không cách gì siêu thoát đặng. Càng bị hãm vào thì càng dấn sâu, càng dấn sâu thì chân càng lún kéo ra không nổi. Cho nên nếu thấy thông suốt thì lại không buông bỏ được, cuối cùng không thể tự tại giải thoát được. Do đó sinh rồi lại chết, chết rồi lại sinh. Hồ đồ sinh ra, hồ đồ chết đi, trong khoảng thời gian đó mình không biết làm gì, chỉ toàn là chuyện điên điên đảo đảo, tìm không ra cái lý do chính đáng.

Các vị! Cuộc sống con người nếu vậy là cuộc sống hồ đồ; chỉ toàn là vì danh, vì lợi, vì sự thành công của chính mình. Kỳ thật, việc người thế gian cho là thành công thì Thánh, Hiền cho là thất bại. Cho nên hễ có nợ nần thì phải ráng thanh toán cho phân minh. Mình phải làm một người hoàn toàn sáng suốt. Khi sáng suốt thì phải vĩnh viễn sáng suốt, do đó mới phá được cửa sinh tử, ra khỏi vòng luân hồi. Như vậy mới là cung cách của bậc đại trượng phu.

--- o0o ---