Ðó là bài thơ do ngài Hám Sơn đại sư viết; bài kệ này là một trong sáu bài vịnh tâm con người. Chúng ta đều biết rằng chim Ðại Bàng Kim súy điểu khi trương đôi cánh ra thì có thể bao phủ 360 do tuần (một tiểu do tuần là 40 dặm, một trung tuần là 60 dặm, một đại do tuần 80 dặm). Chim Ðại bàng khi vỗ cánh thì có thể làm cho nước biển hoàn toàn khô sạch. Nó có thể vỗ cánh làm cho nước biển dời đi chỗ khác, cho nên mới thấy sức mạnh vô cùng của nó. Song chim Ðại bàng thì cũng có ngày sẽ chết. Khi nó chết thì xương đều hủy hoại nhưng chỉ có trái tim là không hủy diệt.
Chim Ðại bàng này ăn uống như thế nào? Nó chuyên môn ăn rồng. Rồng là vật có thần thông, có thể biến lớn, có thể biến nhỏ, có thể tàng hình, có thể hiện thân. Song khi rồng mà thấy Ðại bàng thì dù có thần thông cách nào nó cũng chịu thua, chỉ có cách chờ Ðại bàng tới ăn thịt mà thôi. Bởi vậy khi Ðại bàng ăn nhiều thịt rồng quá thì vua rồng chỉ còn cách cầu cứu với Phật. Y than phiền với Phật rằng “Nếu Ðại bàng cứ tiếp tục ăn rồng như vậy thì loài rồng chúng tôi chẳng bao lâu sẽ hoàn toàn tuyệt diệt; xin Phật nghĩ phương pháp giúp cho, để đại bàng đừng ăn hết giống rồng.”
Bởi vậy, người xuất gia trước khi ăn thì cúng dường cho chim đại bàng này, gọi là thí thực (tức là bố thí đồ ăn cho chim đại bàng). Ðây là bài kệ được tụng lúc đó:
Khi cúng cho con Kim súy điểu này ăn thì cũng cúng cho mấy thứ quỷ thần nơi khoáng dã và mẹ con loài quỷ La sát. “Khoáng dã” tức là chỗ hoang vu, không người ở; những chỗ cây lớn, rừng rậm rạp là nơi quỷ thần ở. Có mẹ con loài quỷ xuất hiện, trên đời không ăn được gì cả, chỉ chuyên ăn thịt con nít sơ sinh. Chúng cho rằng thịt con nít rất mềm, rất thơm tho, đầy chất bổ, so sánh với vitamins thì còn công hiệu hơn nhiều!
Bà mẹ quỷ có một ngàn đứa con mà đứa nào cũng thích thịt trẻ thơ. Nếu con nít mà bị chúng ăn thì nhân loại mau tuyệt chủng, bởi vậy nên Phật không thể khoanh tay đứng nhìn. Ngài liền dùng thần thông bắt đứa con nhỏ nhất của bà mẹ quỷ đem giấu trong bình bát của ngài. Khi bà mẹ đi ăn thịt con nít về thì phát hiện đứa con út của mình biệt tích rồi. Vì bà ta cũng có thần thông nên biết được Phật đã bắt nó, bà tới vấn tội Phật rằng: “Tại sao chẳng duyên cớ gì ngài bắt cóc con tôi?” Phật dạy rằng: “Bà cũng biết là bà cần con bà sao? Nếu bà kiếm con kẻ khác mà ăn thì kẻ khác kiếm con ai mà ăn?” Bà mẹ quỷ nói rằng: “Tôi ăn thịt là để duy trì tánh mạng tôi, hiện ngài bắt cóc con tôi mà ngài thì không ăn nó, vậy ngài bắt nó làm gì?”
Từ đó về sau bà mẹ quỷ La sát này mới đổi ác làm lành, không ăn thịt trẻ nhỏ nữa.
Chim Ðại Bàng lúc sống rất có thế lực nhưng chết rồi thì xương thịt đều tiêu sạch, lại trở về với Tứ Ðại (đất, nước, gió, lửa). Song, trái tim thì không bị mất; dù cho lửa đốt, nước dìm cũng không bị hủy hoại, mà vẫn y nguyên như xưa. Trái tim này tròn trịa có thể phóng ra hào quang sáng chói. Nếu vua rồng lấy được trái tim này thì nó trở thành viên ngọc rồng (Long châu). Khi đặt viên ngọc này tại Long cung, thì Long cung sẽ phát hào quang sáng chói. Nếu vị chuyển Luân Vương được trái tim này thì có thể biến nó thành viên ngọc Như ụ (Như ụ bảo châu) để cứu độ tất cả tai ương hoạn nạn, với sức thần thông diệu dụng không thể nghĩ bàn. Song, viên ngọc quý này phải chăng loài người chúng ta chẳng có dự phần vào? Không phải đâu, mỗi người chúng ta đều có một viên ngọc vô giá! Viên ngọc Như ụ này có trong tự tánh của mỗi người, song bị vô minh che lấp khiến cho mai một đi, chẳng thể phóng quang được. Dù dùng đủ cách cũng không tìm ra được nó, cho nên viên ngọc đó chẳng thể dùng đặng. Ðó là chuyện hết sức đau lòng!
Con người ở đời cứ bỏ gốc mà chạy theo ngọn, quay lưng lại với sự giác ngộ, hòa mình với bụi trần, không chịu phản bổn hoàn nguyên, không muốn xả trần lụy để quay về bờ giác. Cho nên mỗi một vị sáng lập tôn giáo đều hết sức tận lòng, tận tâm giáo hóa loài người, là vì chỉ muốn dạy mình mượn cái giả mà tu cái chân, lìa mê mà giác ngộ, quay về với nguồn gốc, nhận thức được “bản địa phong quang” của chính mình, cái gia tài quý giá vốn đầy đủ ngọc Như ụ ấy của mình,
Song chúng ta ai ai cũng muốn truy cầu những điều bên ngoài mà không biết quay ngược nhìn về bên trong để tìm đáp án nơi chính mình. Bởi vậy cho nên đời này đến đời khác luôn luôn lưu lạc trong biển khổ. Có kẻ muốn tu hành nhưng lại không thể buông bỏ được ý hưởng thụ, muốn sung sướng; cho nên từ đầu đến cuối không muốn trở về với thanh tịnh, xả bỏ trần lụy. Ðó là điều thật đáng thương thay!
Thử nhìn xem những ví dụ lịch sử về kẻ giàu nhất, người sang nhất, kẻ nghèo nhất, và người bần tiện nhất:
Xưa nay, người có tiếng giàu nhất là Thạch Sùng, ngườI đời nhà Tấn; người ta gọi ông là “phú khả địch quốc” giàu bằng cả mấy nước vậy. Có lần Thạch Sùng và người bạn ăn tiệc, người bạn mới lấy trong kho ra một cây san hô cao hai thước tám tấc để cho Thạch Sùng ngắm. Thạch Sùng nhìn rồi nói: “Cái này có đáng gì đâu.” Liền lấy chân đạp nát cây san hô. Người bạn vô cùng buồn rầu nói rằng: “Tôi không biết tìm đâu ra vật quý như cây san hô này, nay lại bị anh đạp nát như vậy thật đáng tiếc quá!” Thạch Sùng nói: “Bạn tiếc làm gì, cái đó có chi đáng giá! Trong nhà tôi, đầy nhóc thứ rác rưởi đó, mời bạn tới nhà tôi mà xem!” Anh bạn này liền tới nhà coi thử, thì quả nhiên trong nhà Thạch Sùng có cả hàng trăm cây san hô cao ba thước. Thạch Sùng nói: “Bạn tùy ý lấy, thích cái nào thì lấy cái đó nhé!”
Cho nên vật mà người bạn coi là quý báu thì đối vớI Thạch Sùng chẳng có giá trị gì. Ðó là nói rằng ông ta giàu có vô cùng không cách gì mà biết được.
Phạm Dũng là một người ăn mày, chẳng có đồ vật gì cả. Hằng ngày phải đi ăn xin, có được bao nhiêu thì ăn bấy nhiêu, không chịu ra ngoài làm việc, ăn rồi thì lại đi xin nữa cho nên nói rằng:
Bản thân không có một chỗ để dựng cái chùy.”
Ông ta tới đâu thì chỗ đó là nhà. Tuy rất nghèo phải ra ngoài để xin ăn, song về sau ông góp được chút ít lương thực. Có lần Khổng Phu Tử và mấy người học trò bị tuyệt lương ở nước Trần, vì không có gì ăn nên Khổng Tử mới phái người đến nhà Phạm Dũng để mượn gạo. Các vị xem, Khổng Phu Tử là một người có rất nhiều đệ tử mà bây giờ ngài phải đến một kẻ ăn mày để xin gạo, như vậy không phải là điều đáng buồn cười sao?
Lúc đó Tử Lộ theo lời dạy của Khổng Tử tới nhà Phạm Dũng và thưa rằng: “Thầy của tôi hiện tại chẳng có đồ ăn, bởi vì nước Trần tuyệt hết lương thực, cho nên tôi mới tới đây để mượn một ít gạo.” Phạm Dũng nói rằng: “Bạn muốn mượn gạo cũng được, song tôi có mấy vấn đề hỏi bạn, nếu bạn đáp không được thì tôi không cho mượn.” Tử Lộ trong lòng đầy tự tin mới nói rằng: “Ðược, bạn cứ hỏi đi.” Phạm Dũng hỏi: “Bạn hãy nói cho tôi nghe trong trời đất cái gì là nhiều, cái gì là ít; cái gì là vui vẻ, cái gì là buồn; nếu bạn đáp đúng thì tôi sẽ cho bạn mượn gạo vô điều kiện; nếu bạn đáp không đúng thì tôi không cho bạn mượn gạo. Ðó là điều tôi phải giao ước rõ ràng!” Tử Lộ nói: “Câu hỏi dễ quá, thật là hết sức đơn giản! Trong trời đất thì ngôi sao là nhiều mà mặt trăng là ít; vui vẻ là khi đám cưới, buồn bã là khi người chết.” Phạm Dũng nghe xong khoát tay nói: “Chẳng đúng, chẳng đúng!” Tử Lộ tự nhận thấy lời đáp của mình thật là tuyệt hảo, đúng không chỗ sai và chẳng có câu trả lời nào có thể hay hơn được. Ông cho rằng Phạm Dũng vì không muốn cho mượn gạo mà tìm cách chối từ; song ông cũng không có cách gì khác nên đành tức giận bỏ về. Khi gặp Khổng Phu Tử, ông nói: “Thưa thầy, tên Phạm Dũng này thật khả ố, chẳng biết đạo lý gì cả.” Sau đó Tử Lộ nhất nhất kể lại lời đối đáp của đôi bên cho Khổng Tử nghe, Khổng Tử nghe xong nói: “Con đã trả lời sai rồi đó.” Tử Lộ kinh ngạc vô cùng hỏi lại: “Phạm Dũng nói con sai là bởi vì y đứng trên lập trường của y. Thầy phải đứng trên lập trường của con mà nói, tại sao thầy cũng nói con trả lời sai?” Khổng Tử đáp: “Con hãy nghe lờI ta nói đây: Trong trời đất kẻ tiểu nhân thì nhiều mà người quân tử thì ít; lúc vui vẻ là lúc cho kẻ khác mượn, lúc buồn bã là lúc mượn kẻ khác! Con hãy trở lạI gặp Phạm Dũng mà nói như vậy.” Bấy giờ Tử Lộ trở lại nhà Phạm Dũng và lặp lại lời Ðức Khổng Tử. Phạm Dũng nghe xong thì nhận ngay rằng lời đáp thật chính xác vô cùng nên ông đem gạo lại cho Tử Lộ mượn. Ông lấy đầy một gánh gạo cho Tử Lộ gánh về. Song đòn gánh này là vật bảo bối, gạo bỏ vô rồi thì ăn không bao giờ hết, dùng bao nhiêu nó lại đầy bấy nhiêu; cho hay kẻ nghèo cùng cũng có bảo bối!
Ðời Tần Thủy Hoàng có một vị tên là Cam La, năm 12 tuổi làm Tể tướng; song đó là đã trễ ba năm rồi. Anh ta đáng lẽ phải làm tể tướng năm 9 tuổi. Khương Tử Nha lúc 80 tuổi thì gặp Văn Vương; như vậy là đã sớm 3 năm rồi, đáng lẽ ông phải gặp Văn Vương lúc 83 tuổi. Cam La còn trẻ đã làm tể tướng, mà Khương Tử Nha đến lúc rất già mới gặp Văn Vương.
Bàng Tổ sống đến hơn 800 tuổi cho nên tuổi thọ rất cao; nhưng Nhan Uyên đệ tử của Khổng tử chỉ sống đến 30 tuổi rồi chết, nên gọi là yểu mạng. Nhan Uyên tuy rằng mạng ngắn nhưng trong các đồ đệ của Khổng Phu Tử, ông là người thông minh nhất. Ông cũng là người hiếu học bậc nhất, chỉ cần nghe qua một là biết được mười, trong khi Tử Cống thì chỉ nghe một biết hai. Lúc Nhan Uyên mất, Khổng Tử vô cùng thương tiếc mà nói rằng: “Thiên táng dư, thiên tang dư!”. Ý nói: Trời làm cho đạo ta mất đi vậy.
Sáu người này có kẻ thì hết sức giàu có, có kẻ vô cùng nghèo khốn, có kẻ sớm có địa vị cao, có kẻ trễ lên quý phẩm, có kẻ hết sức sống lâu, có kẻ lại chết sớm. Song sáu người này không ra khỏi vận mệnh của Ngũ hành (kim, mộc, thủy, hỏa, thổ). Họ đều ở trong vòng Ngũ hành quay đi lộn lại, tuần hoàn trong vòng luân hồi; cho nên nói: “Ðời người thật là như giấc mộng ảo hóa, như giọt sương đầu lá, như ánh điện chớp. Hãy nên quán chiếu như vậy và đừng nên chấp trước!” Lúc đó mình sẽ không có phiền não. Tu hành mà biết thấy suốt rồi buông xả thì càng tốt hơn nữa. Nếu không thể nhất thời buông hết mọi thứ thì phải từng bước từng bước, từng việc từng việc mà buông xả. Ðừng nên lưu luyến ở mãi trong Lục đạo luân hồi này làm gì!
23. Vạn Ma Không Lùi Bồ Ðề Tâm
(Vạn Phật Thành ngày 19 tháng 6 năm 1982)
“Yếu học hảo, oan nghiệt trảo,
Yếu thành Phật, tiên thọ ma.”
Dịch là:
“Muốn học tốt, oan nghiệt tìm,
Muốn thành Phật, trước gặp ma.”
“Muốn học tốt, oan nghiệt tìm.” Mình muốn làm chuyện tốt thì thế nào oan nghiệt cũng tìm. Càng làm tốt thì oan nghiệt kiếm mình càng gắt bởi vì nó muốn thanh toán nợ nần với mình!
Từ vô lượng kiếp đến nay, đời này qua đời khác mình tạo nghiệp thiện ác lẫn lộn, không có rõ ràng; bởi vậy khi muốn tu đạo thì chủ nợ tới tìm mình để đòi nợ. Ví dụ có kẻ mượn người khác tiền mà chưa trả sòng phẳng , lúc y chưa phát tài thì chủ nợ biết y không có tiền nên chẳng đến đòi; nhưng khi y phát tài thì chủ nợ liền đập cửa đòi nợ. Vì sao? Vì chủ nợ biết y có tiền! Nếu không tới đòi thì chẳng biết lúc nào đòi đặng, cho nên phải đòi.
Bởi vậy, trong quá trình tu đạo mình sẽ gặp nghịch cảnh, mà gặp nghịch cảnh thì mình càng phải dũng mãnh tinh tấn, không có thối thất tâm Bồ Ðề. Những nợ nần mà chủ nợ đến đòi thì mình phải trả cho hết; tức là đem công đức của mình hồi hướng tới chủ nợ, tới những người oán, kẻ thân; để khi họ nhận được công đức của mình họ sẽ ly khổ đắc lạc, liễu sinh thoát tử, đến lúc đó món nợ của mình mới hoàn toàn phủi sạch.
Từ vô lượng kiếp tới nay, do đủ thứ nhân duyên nên mình mắc nợ không phải ít. Ngay đời này thử suy nghĩ một cách chín chắn coi mình đã giết bao nhiêu sinh mạng rồi? Có bao nhiêu chuyện không công bình mình đã tạo ra? Ðối với chúng sinh, nếu mình chưa giết qua một sinh vật nào, thí dụ như sư tử, voi, heo, gà, trâu, bò…nhưng rất có thể là mình đã sát hại những sinh vật nhỏ như ruồi, muỗi, dế, thằn lằn…Dù nói rằng mình chưa từng giết những sinh vật nhỏ như vậy, nhưng chắc chắn mình vẫn có ý niệm sát sanh tồn tại trong lòng.
Lúc nhỏ, vì mình không để ý, bất giác giết hại rất nhiều côn trùng nhỏ, cái đó gọi là Vô tri tội, tội sát mà không có cố ý. Nhưng những chúng sinh bị mình đoạt mạng thì giờ đây khi mình muốn tu đạo, bọn chúng chắc chắn sẽ tìm tới để đòi nợ. Cái thứ nợ này không phải chỉ có một hai mà thôi, mà là vô số bởi vì đời này qua đời khác mình tích lũy nó nhiều không kể hết.
Do vậy đừng nói rằng ông Trời bất công: “Tôi bây giờ tu hành rồi, tôi không muốn nhận tất cả những oan gia nghiệp báo, nợ nần hồi xưa.” Nghĩ như thế thì vĩnh viễn mình không thể thành đạo được. Bởi vì lòng ta không công bình. Tâm mà công bình thì mình phải nhận nợ. Cho nên nói rằng: “Muốn học tốt, oan nghiệt tìm.”; Khi mình trở nên giàu có đột ngột thì bạn bè nghèo sẽ tới đập cửa để đòi nợ.
“Muốn thành Phật, trước gặp ma” Phật mà thành đạo là do ma giúp đỡ. Nếu như không có ma thì không có Phật. Ma đến khảo nghiệm làm cho mình tiến bộ, nên nói rằng: Dục cùng thiên lý mục, cánh thượng nhất tằng lâu. (Muốn thấy tận cùng ngàn dặm, phải bước lên thêm một tầng lầu.)
Ma coi thử “hỏa hầu” của mình có đủ chưa. Nếu đủ thì ngàn con ma tới mình cũng không thay đổi, vạn con ma tới mình cũng không thối lui, không thối thất tâm Bồ Ðề. Càng khốn khổ gian nan bao nhiêu, thì càng tinh tấn bấy nhiêu. Hễ nơi nghịch cảnh chằng chịt rối ren bao nhiêu, thì tâm càng phải an nhiên bình thản bấy nhiêu. Ðừng nghĩ là bất công, cũng đừng oán trời trách người.
Nghịch cảnh lại thì thuận theo nó mà tiếp nhận, để tu hạnh nhẫn nhục Ba La Mật.
Ðó là công phu mà mình phải tập, khi ma chướng lại thì mình không có đối đầu với chúng, mình chỉ nhịn thêm một chút khổ cũng chẳng hề chi; mình phải phát nguyện độ bọn ma đó, làm cho chúng quy y Tam Bảo, phát tâm Bồ Ðề. Ðối với người nào cũng vậy, đừng sinh ra lòng oán cừu, được vậy thì mình có thể biến gươm giáo thành ngọc cẩm, biến cừu hận thành an tường. Do đó phảI luôn tìm đến điểm tốt nơi bề xấu của sự tình. Cho nên nói: “Hành hữu bất đắc, Tắc phản cầu như kỷ.” (Làm mà không xong thì phải quay ngược về mình mà làm.)
Ðừng bao giờ làm luật sư tự biện hộ cho chính mình. Bất cứ chuyện gì cũng phải nghĩ rằng:
“Chân nhận tự kỷ thác,
Mạc luận tha nhân phi.
Tha phi tức ngã phi,
Ðồng thể danh Ðại bi.”
Dịch là:
“Nhận thật rằng mình sai,
Ðừng để ý lỗi người.
Lỗi người tức lỗi ta,
Cùng thể tức Ðại bi.”
Vì đồng một thể nên bao quát ma quỷ. Ma là một bộ phận của tự tánh. Nếu tự tánh có ma thì mình mới làm bọn ma bên ngoài xâm nhập được. Tự tánh không có ma thì ma bên ngoài không có cách gì tiến vô đặng. Thế nào là tự tánh ma? Tức là tham sân si! Nhược vô miêu thực oản, Tắc bất chiêu thương dăng. (Nếu bát đồ ăn của mèo không để ra thì không có ruồi tới.)
Khi biết mình còn “vẩn đục” thì ma tìm cách “thừa nước đục thả câu”, muốn làm chuyện rối loạn, muốn hiển lộ cái “ma thông” của nó. Cho nên mỗi cử chỉ hành động, mỗi lời nói phải hết sức chân thật: “Ngôn tất trung tín, hành tất đốc kính.” (Lời nói phải trung thật, thành tín, hành động phải hoàn toàn cung kính.) Không được nói dối trá, không dám nhận lỗi, lúc nào cũng che đậy tội lỗi của chính mình: Ðó không phải là hành vi của người tu đạo. Cho nên mình phải hết sức chân thành mà bộc bạch, hết sức khẳng khái nói ra lỗi lầm của mình. Luôn luôn cư xử theo đạo đức lương tâm. Nếu những đìều gì không hợp với đạo đức lương tâm thì đừng bao giờ làm cả. Người tu đạo cần có đủ trí huệ chân chánh. Kẻ có trí huệ chân chánh thì không bao giờ khen ngợi chính mình và hủy báng người khác, cũng không bao giờ nói rằng: “Bạn coi tôi đây, tôi là số một, thanh cao nhất, còn những người kia toàn là thứ tệ hại, bần tiện.” Phàm những kẻ tự khen thì không còn đường tiến nữa; tuy sống nhưng thực ra là như kẻ đã chết rồi; bởi vì là họ đã đi ngược lại với đạo đức lương tâm, khinh thường kẻ khác, chỉ biết có chính họ. Ðó là những ngườI mà chư Phật, chư Bồ Tát không bao giờ hoan nghinh.
Nếu muốn được Phật, Bồ Tát hoan hỷ bảo vệ thì điều mình nói và việc mình làm phải nhất trí: Ngôn cố hành, hành cố ngôn. (Lời nói theo việc làm, việc làm theo lời nói) Ngôn và hành không được mâu thuẫn nhau. Ðừng nên lúc nào cũng tự khoe là tôi tốt thế này, tôi tốt thế kia, song đến khi làm thì toàn những chuyện bại hoại.
Người tu đạo không nên có tâm ích kỷ, tâm tư lợi, trái lại phải làm lợi ích kẻ khác. Ðừng làm hại người để lợi mình, hoặc coi thường người khác. Cho nên các vị phải biết hồi quang phản chiếu, xét lại chuyện quá khứ đã làm, chuyện hiện tại đang làm, rồi quán chiếu đến chuyện tương lai. Lúc nào cũng vậy, bất cứ giờ nào phút nào cũng không quên lương tâm đạo đức, thì qua một thời gian lâu thiện căn sẽ tự nhiên tăng trưởng, tâm Bồ Ðề sẽ lớn vững. Bấy giờ mình mới có thể thực hành đạo Bồ Tát, làm lợi ích cho chúng sinh được; cho nên cái quan hệ đó là liên đới.
Ta đừng vì sợ ma mà thối thất tâm Bồ Ðề. Ma chướng là thử thách, khảo nghiệm. Cũng như học sinh lúc mới bắt đầu đi học thì cảm thấy bài học rất khó, nhưng thời gian qua khi đã nhập môn biết chút đỉnh rồi thì không còn thấy khó nữa. Từ lúc học Tiểu học, lên Trung học rồi đến Ðại học, ai ai cũng có tâm trạng như vậy. Cho nên nói rằng: Bất kinh nhất phiên hàn triệt cốt, trẫm đắc mai hoa phát tỵ hương? (Không qua một phen lạnh thấu xương, sao đặng hoa mai nở ngát hương?)
Và: Thập niên hàn song vô nhân vấn, nhất cử thành danh thiên hạ tri! (Mười năm cửa lạnh không ai hỏi, một sớm thành danh mọi người hay!)
Giống như chàng tú tài bỏ mười năm học đơn côi, lạnh lẽo chẳng ai thèm để ý, chừng khi anh ta đỗ đạt nổi danh thì lúc đó ai cũng biết. Lúc mình tu hành, đừng vọng tưởng muốn “xuất phong đầu”, muốn ngườI ta để ý tới mình.
Sau khi xuất gia rồi nếu còn cầu danh, cầu lợi thì đó là chuyện thật chẳng ra gì. Chúng ta đã xuất gia rồi thì phải nhận chân tu hành một cách thiết thực, phải tài bồi cái gốc phước huệ của mình. Tu phước thì phải làm lợi ích người khác, tu huệ thì phải nghiên cứu kinh điển. Thường làm chuyện lợi ích thì mới sinh được phước đức.
Có người hỏi làm thế nào để lợi ích người khác? Phải chăng là dùng tiền làm chuyện công đức? Chẳng phải vậy. Chỉ cần tâm mình đừng có lòng giết hại, đừng có lòng trộm cắp, đừng có lòng tà dâm, đừng có lòng dối trá, cũng đừng rượu chè thì đó là mình bồi đắp cho ruộng phước của mình rồi. Cho nên nói: Từ bi khẩu, phương tiện thiệt, hữu tiền vô tiền, đô tác đức. (Với miệng từ bi, với lưỡi phương tiện, dù có tiền hay không, cũng làm được chuyện có đức.) Nếu miệng mình không chửi rủa người khác, chẳng nói lời thô kệch, độc ác, làm tổn thương người khác thì đó là công đức. Bất cứ ở mọi nơi phải biết tiếc phước đức của mình, đừng làm việc tổn phước. Ở chỗ nào mình cũng phải tu phước tu huệ. Tu phước tu huệ không phải một ngày một đêm mà thành đặng; phải cần một thời gian mà mỗi giờ mỗi phút mình phải làm liên tục không ngừng. Không thể là Nhất nhật bộc chi, thập nhật hàn chi. (Một ngày phơi nắng, mười ngày để lạnh. Hay: một ngày làm, mười ngày nghỉ)
Nếu mình như vậy thì vĩnh viễn không tiến bộ được. Cho nên phải nhận định tông chỉ, dũng mãnh tinh tấn, đừng thụt lùi thối chuyển. Ðó là điều căn bản mà người tu đạo phải có đủ.
24. Tất Cả Chúng Sanh Ðều Có Phật Tánh
(Vạn Phật Thành ngày 20 tháng 6 năm 1982)
“Nhất thiết chúng sanh,
Giai hữu Phật tánh,
Giai kham tác Phật.”
Ðó là câu nói từ Kim Khẩu của Phật. Chỉ vì vọng tưởng chấp trước nên chúng sinh không chứng được trí huệ, đức tướng của Như Lai. Từ nơi câu nói này có thể suy ra mọi chúng sinh đều có tánh Phật; đã vậy thì mình không nên sát sinh, không nên trộm cắp, không nên tà dâm, không nên vọng ngữ, không nên uống rượu; mà phải trì Ngũ Giới.
Khi sát sinh là giết mười phương chư Phật, vì chúng sinh là do Phật thị hiện mà ra. Do một niệm không giác ngộ nên sinh ra một thứ vô minh rất vi tế (nghiệp tướng, hiện tướng, chuyển tướng), vì vậy mình mới trầm luân trong biển khổ, mất đi cái Chân Ðạo. Ðạo lý này rất là nông cạn nhưng các vị hãy quán tưởng xem: Quán tưởng rằng tất cả chúng sinh đều là cha mẹ của mình trong quá khứ, đều là những vị Phật trong tương lai, cho nên mình phải tôn kính họ, mình phải đối với chúng sinh như là đối với ba đời chư Phật vậy. Suy nghĩ như vậy thì tự nhiên hết khinh thường, bất kính hay nhiễu loạn chúng sinh.
Chúng sinh không phải chỉ có loại hữu hình, thậm chí loại vô hình như quỷ, thần, tiên, ma đều là chúng sinh cả, cho nên mình phải bình đẳng cung kính, tôn trọng họ, không nên coi thường họ.
Người học Phật cần phải tin vào lý nhân quả một cách sâu sa; đừng trồng nhân xấu, nếu không thì tương lai mình sẽ nhận quả xấu. Nếu trồng nhân tốt thì tương lai nhất định sẽ gặt quả tốt. Nhân quả không thể sai lệch dù cho một chuyện nhỏ như là sợi tóc. Nếu mình giết cha người khác thì sẽ có người giết cha mình; nếu mình giết anh người khác thì cũng có kẻ sẽ giết anh mình. Thế nên đừng vì lợi mà dùng thủ đoạn hại người; hại người thì chung cuộc là tự hại mình. Vả lại: “Thượng thiên hữu hiếu sanh chi đức.” Trời cao có đức hiếu sanh, không muốn làm hại chúng sinh cho nên mình đừng bao giờ làm những chuyện trái với lý nhân quả. Các vị phải biết rằng: “Nhất túc thành thiên cổ hận. Nhất thất nhân thân, vạn kiếp nan phục.” Nghĩa là: một lần sảy chân, ngàn đời ôm hận. Mất đi người vạn kiếp khó phục hoàn. Không tin gì cả cũng được, song chẳng thể không tin luật nhân quả. Chối bỏ cho rằng không có luật nhân quả là việc làm hết sức nguy hiểm. Chư vị Bồ Tát chỉ sợ lúc gieo nhân có sai lầm, song chẳng sợ khi quả đã chín mùi. Nếu chư Bồ Tát có lỡ làm sai mà chẳng biết, thì lúc thọ quả báo các ngài không bao giờ có tâm oán hận. Các ngài không oán trời cũng không trách người. Chúng sinh thì sợ chịu quả báo mà chẳng sợ lúc trồng nhân. Lúc chúng sinh trồng cái nhân thì hết sức tùy tiện, điên đảo; nhưng khi thọ quả báo thì rủa trời, trách đất, oán người.
25. Rắn Lại Nghe Pháp
Chú dẫn: Ngày Chủ Nhật, 20 tháng 6 năm 1982, đúng lúc cử hành Pháp diên, bốn chúng đệ tử trong Vạn Phật Thành mớI cùng nhau niệm A Di Ðà Phật. Trên đường về đại điện, thì phát hiện một con rắn lục có vằn nằm ngay nơi cửa trước đại điện, dài khoảng ba bốn bộ, hình dạng rất nhỏ và dài. Ðại chúng thấy rắn thì sợ không dám tiến vào. Bấy giờ vị Tăng giám thị, Thầy Hằng Vô, muốn đem con rắn vứt ra ngoài, song lúc đó thì Hòa Thượng cũng đang tiến lại, Ngài mỉm cười nói rằng: “Không cần thiết đâu, tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, con rắn tới là để thân cận Tam Bảo, để nghe Pháp, không nên đuổi nó đi.” Kỳ lạ thay, con rắn này không giống như là những con rắn bình thường khác, mình nó trườn dài ra mặt đất, tuy có trăm người bước qua mình mà nó không sợ hãi gì cả. Nó hết sức thuần thục và hiền lành. Khi Hòa Thượng lên đài thuyết pháp thì Ngài dạy rằng: “Kêu con rắn đó vào đây mà nghe Pháp đi.” Con rắn nghe như vậy thì lập tức tiến vào. Nó bò từ từ vào chánh điện, không hề làm kinh sợ những người hai bên. Rồi từ nơi đại điện ở phía trái nó bò qua bên phải, rồi mới nhiễu quanh tượng Phật một vòng, xong từ từ nằm phục xuống ở Pháp tòa cũng giống như là quỳ trước tượng Phật vậy và nằm im nghe Pháp. Hòa Thượng mới khai thị cho nó như vầy:
“Nhất thiết chúng sanh
Giai hữu Phật tánh,
Giai kham tác Phật.
Ðó là câu nói từ kim khẩu của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni. Chỉ vì vọng tưởng chấp trước nên chúng sinh không chứng được trí huệ đức tướng của Như Lai. Từ nơi câu nói này chúng ta có thể suy ra mọi chúng sinh đều có Phật tánh; đã vậy thì không nên sát sinh, không nên trộm cắp, không nên tà dâm, không nên nói dối và không nên cờ bạc rược chè, mà phải trì Ngũ Giới. Sát sinh là giết mười phương chư Phật vì chúng sinh là do chư Phật thị hiện ra. Do vì một niệm không giác ngộ nên sinh ra ba thứ vô minh rất vi tế (nghiệp tướng, hiện tướng, chuyển tướng) chúng sinh mới trầm luân trong biển khổ, xa lìa rồi vĩnh viễn mất đi nền đạo chân thật.
Các vị tu đạo hãy quán xem: Hãy quán tưởng rằng tất cả chúng sinh đều là cha mẹ của mình, trong quá khứ, đều là những vị Phật trong tương lai. Cho nên mình phải có lòng hiếu thuận với họ, giúp họ ly khổ đắc lạc, cắt đứt sinh tử, không còn bị ràng buộc trong vòng luân hồi nữa. Bởi họ là các vị Phật trong tương lai nên khi họ chưa thành Phật mình cũng phải tôn kính họ. Mình phải đối với chúng sinh như là đối với ba đời chư Phật vậy. Suy nghĩ như vậy thì tự nhiên hết khinh thường, bất kính hay nhiễu loạn chúng sinh. Chúng sinh không phải chỉ là thứ hữu hình, thậm chí kẻ vô hình như quỷ, thần, tiên, ma đều là chúng sinh cả. Cho nên mình phải bình đẳng cung kính, tôn trọng họ, không nên coi thường họ.
Hôm nay con rắn mà các vị gặp ở Phật điện cũng là một chúng sinh. Song do nó thị hiện thân rắn, nên chúng ta thấy sợ, thấy mà không nhận thức, thậm chí còn bị lừa nữa. Rắn này tới đây chỉ để thân cận Tam Bảo, để nghe Pháp, nghe Kinh. Nếu không vậy thì sao nó vào đây mà hết sức hiền hòa, nằm phủ phục chẳng động đậy gì cả nơi bục cửa?
Tuy nhiên lấy mắt nhìn thì nó chỉ là con rắn nhỏ; kỳ thực rắn này có sức thiên biến vạn hóa; có thể ẩn hình, có thể thu nhỏ, biến lớn, lại biết đằng vân giá vũ, bay qua lượn lại trong không trung. Chúng ta không thể biết được bản lĩnh của nó. Rắn này tương lai tu hành thành công cũng sẽ đắc đạo. Phật kinh có đề cập tới Thiên Long Bát Bộ, thì rắn này thuộc một trong tám bộ đó; tức là Ma Hầu La Già (Ðại mãng xà)
Quán sát nhân duyên rắn này, có thể là: ở thời nhà Châu, rắn này là một vị đại thần, song tâm địa rất xấu xa, hiểm ác. Vì âm mưu soán đoạt ngôi vua, cho nên y dùng một con dao găm có tẩm rượu độc bỏ trong tay áo rồi đi hành thích nhà vua. Tuy nhiên chẳng những y không soán đoạt được ngôi vua mà ngược lại còn làm cho trời giận, dân oán. Vị đại thần đó khi lâm chung thì sinh tâm hết sức sân hận độc địa cho nên chết rồi đọa làm thân rắn, rồi có đời chuyển thành con trăn lớn.
Ở trên thế gian có hai thế lực là âm và dương hay thiện và ác. Nếu theo đường thiện mà tận lực tu phước và huệ thì có thể thành Tiên, thành Thánh, thành Bồ Tát, thành Phật. Nếu theo đường ác mà luyện tập thì thế lực càng ngày càng lớn, song toàn làm những chuyện hắc ám nào là hãm hại, tàn sát, oán hận, báo thù do đó mỗi ngày mỗi chồng chất oán khí dày đặc, lớn lao; kẻ tích tập oán khí sâu dày đó sau này sẽ biến thành độc xà, độc long v.v…
Những thứ rắn độc hay rồng độc không phải là thứ mắt phàm thấy đặng, song chúng đầy dẫy trong thế giới này. Thứ rắn độc, rồng độc đó là tâm tham, sân, si tích lũy thành. Cho nên khi bọn chúng tới chỗ nào là chỗ đó có tai họa. Thiên tai, nhân họa, phi thi (xác chết biết đi), tà quỷ (quỷ phá làng phá xóm), yêu tinh (những thứ thực vật và khoáng chất…hấp thụ tinh khí trời đất mà thành), ma yếm (quỷ tu luyện lâu năm thành ma), hay hoạch dịch lưu hành (những thứ bịnh nan y) đều do những thứ rắn độc này tác quái. Còn rồng độc, dịch quỷ thì chuyên phóng khí độc làm loạn tâm người hoặc đoạt tinh khí của người làm cho người ta kinh sợ, điên cuồng.
Cho nên, hiện thời lưu hành đủ thứ bịnh tâm lý như là tinh thần phân liệt, hoặc là điên cuồng, khiếp sợ và đủ thứ bịnh tật sinh lý…, tất cả đều không ra ngoài phạm vi làm sóng gió của bọn yêu ma quỷ quái này. Tâm lý học và y học hiện đại không hiểu được một cách sâu sắc nguyên do của những chứng bịnh đó cho nên không thể đối bịnh cho thuốc để chữa trị. Ðương nhiên là Phật Pháp thì có linh dược triệt để trừ hết được tai nạn, dứt hết được tai ương!
Lại nói đến nhân duyên của rắn độc này: vì sẵn có tâm sân hận, lại thêm tu luyện cái tâm sân hận đó cho nên mới thành tinh. Rắn luyện pháp thuật càng ngày càng cao. Trải qua một thời gian lâu dài thì nó thông thiên triệt địa, nhưng chỉ lấy chuyện hại người làm vui. Những chuyện tương tợ như con rắn này trong trời đất có nhiều vô số kể, nên tôi hy vọng bọn chúng mau sinh tâm sám hối, đừng làm chuyện yêu nghiệt gieo họa cho nhân gian nữa.
Cho tới đời nhà Tống thì rắn này trở thành một con rồng độc. Nó ngự trị nơi một con sóng lớn chuyên làm sóng gió mưa bão, sát hại không biết bao nhiêu thuyền chài, ngư phủ và khách qua song. Cả một thời gian dài nhân dân ở đó hết sức lo sợ kinh hoàng. May thay có một vị thánh tăng pháp thuật rất cao cường đặc biệt tới để giải cứu. Vị đó tay cầm tích trượng đứng bên bờ sông lớn tiếng khiển trách rồng độc. Rồng độc nghe được thì vô cùng tức giận, mới trổ hết bản lĩnh hiện ra thân hình con mãng xà dài ngàn trượng. Song vị pháp sư vì có Kim Cang Tam Muội chấp trì nên chẳng hề sợ hãi. Ngài dùng pháp Câu triệt và pháp Hàng phục (hai phương pháp để chế phục quỷ thần), trải qua ba ngày đêm sống chết chiến đấu vớI nó, cuối cùng thì ngài chiết phục được rồng độc. Tà không thắng chánh! Khi ác thuật bị phá rồI thì rồng độc chẳng còn cách gì khác hơn là phải đầu hàng. Bấy giờ vị pháp sư này mới thuyết rằng: “Tất cả mọi thứ đều là khổ, là không, là vô thường, là vô ngã và chỉ có nghiệp là cái theo thân mình.” Ðồng thời ngài dạy nó nên sinh lòng từ bi, dùng pháp thuật để giúp ích chúng sinh chớ không thể gia hại sinh linh nữa.
Rồng nghe pháp rồi thì thức tỉnh nên được con mắt thanh tịnh. Vị pháp sư mới truyền thọ cho nó Tam quy, Ngũ giới rồi biểu nó tới một sơn động nọ để tu hành đừng làm não loạn nhân dân nữa; rồng độc liền tuân theo lờI dạy. Từ đờI Tống đến nay đã trải qua mấy trăm năm lịch sử rồi, con rồng đó đã trở thành một trong Thiên Long Bát Bộ, thần thông biến hóa vô cùng.
Có lần trong Vạn Phật điện có một vị Tỳ kheo ni nói rằng: “Mấy ngày trước, khi đi qua Ðại Hỷ Xả viện tôi thấy đuôi con rắn này thò ra ngoài, cho nên tôi lấy cây gắp bỏ vô hộp gỗ định đem đi xa rồi thả để nó đừng gây hại người. Ai ngờ chỉ quay đầu lại mở hộp ra thì rắn đã biến mất rồi. Rõ ràng rắn không có cách gì có thể thoát ra được, nhưng lạ thay, thật là nó có thần thông.”
Hòa thượng cườI mà nói rằng: “Con rắn này tôi đã biết nó từ trước rồi. Hai mươi năm trước khi tôi còn ở chùa Từ Hưng trên núi Ðại Dư ở Hương Cảng thì nó đã từng tới chùa để nghe kinh. Tuy nó không làm hại ai nhưng ai cũng đều sợ nó. Sợ cái tướng rắn. Có lần có người cũng nhặt nó bỏ trong lồng rồi đem đi thật là xa không biết bao nhiêu dặm. Chừng khi mở lồng ra để thả nó thì rắn không cánh mà bay mất. Ngày nay Phật pháp truyền sang Tây phương, rắn này cũng không chối từ đường xá xôi bay qua Mỹ để hộ pháp.”
Sau cùng Hòa Thượng giảng dạy như sau: “Chúng sinh học Phật cần phải tin sâu nhân quả. Nếu không trồng nhân ác thì tự nhiên chẳng kết quả ác. Nếu trồng nhân tốt thì tương lai chắc chắn sẽ kết quả tốt. Nhân, quả không sai một mảy may. Ðừng nghĩ rằng có thể tùy tiện làm chuyện ác, làm chuyện ác sẽ hết sức tổn hại cho mình. Vì sao? Vì trời cao có đức hiếu sinh, không muốn cho chúng sinh làm hại chúng sinh. Khi mình làm sai với lý nhân quả thì: thân người mà mất đi, vạn kiếp khó có lại được. Cho nên chuyện gì không tin cũng được, nhưng chẳng thể không tin lý nhân quả. Nếu bài bác lý nhân quả thì tương lai sẽ hết sức nguy hiểm. Bồ Tát sợ nhân mà không sợ quả, cho nên hết sức thận trọng lúc trồng nhân. Nếu vì vô ý mà trồng nhân ác thì lúc thọ quả báo ác các ngài đốI mặt tiếp thọ quả báo, không chạy trốn, không oán trờI cũng không trách người. Ngược lại, chúng sinh thì sợ quả báo mà không sợ lúc trồng nhân. Lúc trồng nhân thì hết sức tùy tiện làm chuyện điên đảo, đến lúc thọ quả báo thì hết sức sức sợ hãi vô cùng, oán người, trách trời: “Tại sao tôi phải chịu đau khổ thế này? Tại sao tôi phải chịu báo ứng bất công thế này?”
Các vị có biết đâu rằng nếu như khi xưa không trồng nhân như vậy thì bây giờ sao gặt quả như thế? Hôm nay gặp nhân duyên này, có Thiên Long Bát Bộ hiện thân thuyết pháp cho nên tôi nhân cơ hội nói cho các vị biết tiền nhân hậu quả.
“Chỉ nhân nhất trước thác,
Thâu liễu mãn bàn kỳ.”
Nghĩa là: Chỉ đi sai một bước mà thua cả ván cờ. Sai lầm chỉ một niệm mà kiếp phận khó vãn hồi. May thay là con rắn này đã quy y Tam Bảo, tương lai nó còn có cơ hội để minh tâm kiến tánh. Nếu các vị không tin vào nhân duyên này thì cứ tự mình thí nghiệm xem; còn nếu tin nhân quả thì đừng nên nghi ngờ gì chuyện này cả.
26. Tự Tại Phi Tha Tại
(Vạn Phật Thành ngày 16 tháng 9 năm 1982)
Trên thế giới mỗi ngày mọi chuyện đều biến. Loài người, vạn vật, thời gian, không gian đều biến.
Mùa này đáng lẽ không mưa, song lại mưa; đó là khí hậu bất thường. Do có nhiều nhân duyên đặc thù nên nó mới biến. Như núi lửa bộc phát là vì lòng đất chứa áp lực lên khối đất bên trên quá lớn; đó cũng gọi là biến. Con người thất thường thì người ta gọi là điên (bịnh thần kinh). Khí hậu bất thường thì ta gọi đó là bịnh thần kinh của khí hậu; chắc chắn là phải có chuyện bất thường xảy tới. Ðó là đều không phải là hiện tượng tốt. Trong lúc này đủ thứ tai ương tật bịnh phát sinh mình cần phải dụng tâm tu hành, phải biến điều u tối thành điều kiết tường, phải làm cho tai họa trở thành bình an. Nếu mình không tu cho tốt thì khi khí hậu thay đổi, mình cũng thay đổi theo. Khi con người biến đổi về tâm lý thì nhiều vấn đề phát sinh. Nên kẻ học Phật pháp có lúc sự biến hóa phát sinh thì phải đặc biệt dụng công tu hành hoặc là niệm Phật cho nhiều, hoặc là trì chú, tụng kinh cho nhiều. Khi có sức lực thì phải ráng làm nhiều chuyện tốt lành bởi: Ðức đại oan nghiệp tiêu. (Ðức lớn thì oan nghiệp mới tiêu trừ được.)
Ở vào thời không bình thường thì mình phải tùy duyên bất biến. Theo duyên mà không thay đổi. Ðiều quan trọng nhứt là đừng sinh lòng nóng giận, vì nóng giận thì tức là biến, là thay đổi. Con người muốn liễu sinh tử thì phải chịu nỗ lực. Nỗ lực tức là sao? Nghĩa là làm bất cứ việc gì đều phải hết sức chân thật. Khi gặp điều tai họa, chuyện nghịch ý, rắc rối thì đừng động tâm, đừng sinh lòng bực tức nóng giận. Ðó tức là nuôi dưỡng cái tánh Trời, tánh Ðất trong người mình. Làm đặng như vậy thì có thể vá trời lấp biển, trở thành kẻ chân chánh tu đạo, chân chánh học Phật cầu Pháp. Cho nên cần phải nghiên cứu một cách rõ ràng sâu sắc, không nên chấp trước mọi chuyện mọi việc. Hễ chấp trước thì mình không giải thoát, tự tại.
“Khám phá, phóng hạ, tự tại.” Khám phá tức là nhìn suốt; phóng hạ tức là buông xả, vất bỏ. Hễ khám phá thì hiểu suốt rõ ràng mọi sự; hễ phóng hạ thì giải thoát; hễ giải thoát thì mới chân chánh tự tại. Không giải thoát thì không thể tự tại được. Tự (mình) mà không tại tha (kẻ khác) tại. Tha tại tức là vọng tưởng đầy dẫy. Nếu theo mặt chữ mà nói thì đầy ý nghĩa: Tha tại tức là người khách chiếm đoạt cương vị người chủ; người chủ bây giờ không còn làm chủ nhà nữa. Các vị chú ý điểm đó; Người chủ mà không quản lý được nhà mình thì thật là điên đảo. Chuyện gì cũng sẽ không có quy củ.
Phóng hạ tức là giải thoát, nghĩa là đã tốt nghiệp trường Giới Luật rồi và đã ra khỏi phiền não, vô minh. Khi tốt nghiệp, lãnh bằng cấp chứng nhận tức là đã giải thoát. Có giải thoát thì mới tự tại; nếu tự mà không tại thì tha tại. Giặc mà lại thì bao nhiêu vật báu trong nhà đều bị y vét sạch cả. Tha tức là vô minh, vọng tưởng, phiền não, thiên ma, ngoại đạo, quỷ quái. Nếu mình không thể chăm sóc được nhà cửa của mình thì đương nhiên kẻ khác sẽ chiếm đoạt. Cho nên các vị phải hết sức chú ý, cẩn thận: nhất định là phải tự tại!
Nhưng muốn tự tại thì trước hết mình phải nhìn cho xuyên thủng, phải thấu suốt rõ ràng mọi sự:
“Nguyện tiêu tam chướng, trừ phiền não,
Nguyện đắc trí huệ chân minh liễu,
Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ,
Thế thế thường hành Bồ Tát đạo.”
Dịch là:
“Nguyện tiêu ba chướng, sạch phiền não,
Nguyện đạt trí huệ thật suốt rõ,
Tất cả tội chướng nguyện tiêu trừ,
Ðời đời luôn tu Bồ Tát Ðạo.”
Ðó là tự tại, tự mình làm chủ chính mình. Nếu muốn giải thích một cách sâu sa thì tự mà không tại tức là Phật tánh không hiện tiền; khi đó ma vương ngự trị bên trong nhà và chính mình bị lục tặc xâm phạm, nên dù muốn về nhà cũng không về đặng. Do đó từ sáng đến tối mình cứ luôn luôn có ý nghĩ phạm giới. Tuy chưa thật sự phạm giới nhưng lúc nào cũng có tư tưởng phạm giới, vậy không phải ngu si là gì?
Cho nên tự mà không tại thì bị giặc xâm phạm; tự mà tại thì mới làm được chủ nhà mình. Tự mà không tại thì không tự chủ, cứ như bị dòng nước trôi, tùy theo cảnh giới mà luân chuyển. Hợp với người mà không a dua với đám đông. Ðó là ý nghĩa không bị cảnh giới làm lay chuyển. Cho nên kẻ tu hành dụng công chẳng ở đâu khác: ngay nơi thân này, nơi mạng này, nơi tánh này. Làm chuyện gì mình cũng phải thấu suốt rõ ràng. Ðược vậy mình sẽ không làm chuyện hồ đồ mà sẽ đạt đến chỗ tri hành hợp nhất!
27. Yêu Quái Xuất Thế
(Vạn Phật Thành ngày 30 tháng 9 năm 1982)
Thời Mạt Pháp là thời “ma cường pháp nhược”, thế lực của ma càng ngày càng mạnh, thế lực của Phật thì càng thu hẹp. Phật không chú trọng đến thế lực mà chú trọng đến oai đức. Lúc phước báu của chúng sinh còn lớn thì lúc đó “pháp mạnh ma yếu”; lúc phước báu của chúng sinh mà ít thì “ma mạnh pháp yếu”.
Hiện tại toàn thể nhân loại giống như một trái núi do nhiều quả trứng nhỏ bé hợp thành vậy. Nếu một quả trứng nào bể thì cả núi trứng sẽ sụp đổ. Cho nên sinh mạng của con người thật sự bị đe dọa. Chính vì vậy nên ở chỗ nào cũng thấy ma vương và bè lũ quyến thuộc của nó.
Chân lý nói ra thì chẳng có người nghe, song điều tà nói ra thì không biết bao nhiêu người tin theo! Như lúc giảng kinh thuyết pháp này thì tuy có người đến nghe song họ rất miễn cưỡng, không phải thật sự vui vẻ mà nghe; nhưng nói đi nghe ca hát, đi coi chiếu bóng, đi khiêu vũ thì tranh nhau đi, cho đó là điều hay nhất tốt nhất. Các vị có thể thấy: Lòng người không như xưa nữa, đạo đức đã suy đồi! Ðiều đó cho thấy ma vương đã dùng thế lực và “ma thông” để nhiễu loạn thế giới!
Hiện tại yêu quái lớn nhất là điện não (computer). Sau khi máy này được phát minh thì con người trở thành phế vật, không còn chỗ dùng nữa bởi vì máy điện não có thể giải quyết mọi vấn đề. Ðiện não làm cho con người tê cứng đi không còn lòng nhân nghĩa, cũng làm cho con người trở nên ủy mị không còn phấn chấn được nữa. Chuyện gì cũng chẳng hiểu được thấu đáo, như sinh ra trong cơn say, chết đi trong giấc mộng. Cho nên điện não không phải là ma quái là gì? Pháp thuật này là do trí khôn của ma quỷ mà phát sinh ra.
Còn một thứ yêu quái khác là truyền hình (T.V), một sản phẩm làm cho con người bị mê hoặc không phân biệt được trắng đen, thị phi sự lý. T. V dạy trẻ nít làm chuyện mê muội, điên đảo, làm sao để giết người đốt nhà, trộm cắp, cưỡng dâm, hút ma túy. Ðó là điều do ảnh hưởng của T.V mà ra. Cho nên điện não và T.V là hai thứ quái vật. Tuy là quái vật song người đời không nhận thức rõ ràng, lại coi là của quý nên bỏ ra một số tiền lớn để mua về dùng.
Lại còn một thứ quái vật khác nữa là hỏa tiễn vệ tinh. Bởi vì loại vệ tinh này bắn lên không trung rồi thì có thể hướng dẫn đầu đạn nguyên tử, khinh khí hay tia laser để giết người. Tia laser tiếng Trung Hoa gọi là tử quang, là một danh từ hết sức không tốt. Bởi vì tử quang có nghĩa là ánh sáng giết người. Ðây cũng là một thứ do ma vương phát minh ra để tiêu diệt nhân loại. Ngoài ra con người còn dùng mọi phương pháp để giúp sức cho quái vật này, phóng ra đủ thứ khí độc để làm ô nhiễm con người, làm cho con người lạc vào mê hồn trận, đông tây nam bắc không còn phân biệt là đâu nữa. Ðó là do quyền lực của bọn ma này làm ra.
Hiện tại có một loài ma từ không gian tới muốn hủy diệt thế giới, với mọi thủ đoạn để tiêu diệt nhân loại. Chúng tung ra độc khí, hễ trúng vào ngũ cốc lúa gạo thì người ăn vào trúng độc; hễ trúng vào súc vật thì người ăn thịt của chúng cũng trúng độc. Hễ trúng vào cá, hải sản thì người ăn cũng trúng độc, sinh ra đủ thứ bịnh ung thư rồi chết.
Chúng ma này còn dùng chất độc có tác dụng chậm, bôi trên đồ vật mình dùng hàng ngày như là giấy vệ sinh chẳng hạn. Giấy vệ sinh có mùi rất thơm làm người ta thích dùng, song lại có hại vô cùng, bởi vì nó sinh ra bịnh ung thư hoặc các bịnh khác. Xưa kia con người không có dùng giấy vệ sinh thơm tho và cũng không có nhiều thứ quái bịnh như bây giờ.
Nhưng thứ độc dược nguy hại nhất chính là đồng tiền giấy mà không ai có thể xả bỏ được. Trên tiền giấy có thứ độc dược, con người mà đụng tới nó thì sinh ra bịnh tham lam đến nỗi chuyện gì cũng phải cần tiền nhiều. Bất luận là ăn là ở, muốn làm cái gì cũng càng nhiều tiền càng tốt; nên chỉ tìm đủ cách để kiếm tiền. Khi đầu óc lúc nào cũng nghĩ tới tiền thì sẽ sinh ra bịnh ung thư mà cái độc này thì không có gì cứu nổi.
Ở trong Tam thiên, Ðại thiên thế giới, bởi vì có chư Phật ở nơi Vạn Phật Thành nên ta mới có thể viễn ly được độc khí đó. Các vị học Phật ở đây phải không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tư lợi, không nói dối thì mớI không bị trúng độc của đồng tiền.
Các vị không ăn thịt, chỉ ăn chay thì cái độc trong thịt cũng không xâm nhập vào ngườI được. Chay lạt từ thực vật thiên nhiên, bản chất nó có sức giải độc, cho nên bất luận là yêu ma quỷ quái phóng độc gì nếu ăn chay một thờI gian thì chất độc đó tự nhiên tiêu giải; do vậy ăn chay là phương pháp tốt nhất để kiện khang, trường thọ.
Hôm nay nói các vị nghe rồI, sau đây các vị hãy suy nghĩ coi thử mình có phạm vào lỗi lầm gì không, nếu có thì mau mà cải đổi. Ðừng nên tranh, tham, cầu, ích kỷ, tự lợi, nói dối. Nếu bỏ sáu tập khí xấu xa đó đi rồi thì không thể trúng độc được.
Ðiều quan trọng nhất là phải quét sạch đi rác rưởi của chính mình. Quét sạch tâm hận, oán, não, nộ, phiền. Hễ ai còn lòng tạp nhiễm trên thì rác rưởi trong lòng người đó còn chưa quét sạch. Tâm mình mà sạch sẽ thì tự nhiên không hận ai, không oán ai, không sinh lo buồn, phiền não, không có nổi giận, cũng không sinh lòng phiền hà gì ai cả.
Phàm là đệ tử quy y tôi, bất luận là tại gia hay xuất gia, chân chánh tin tưởng tôi thì phải biết cải thiện thói quen lỗi lầm của mình. Phải đổ sạch thùng rác trong tâm mình như vậy thì thời đại Mạt Pháp này mình có thể phóng hào quang làm cho thế giới được sáng lạng. Thế giới này sớm hay muộn sẽ hủy hoại, song nếu có người chân chánh tu hành thì thế giới tăng thêm chánh khí, giảm bớt tà khí; thế lực của Phật sẽ mạnh hơn, thế lực của ma sẽ yếu đi.
Các vị đừng coi lời nói của tôi giống như gió thổi qua tai, bởi nó rất trọng yếu và quan hệ thiết thực tới vấn đề hiện tại.
28. Pháp Giới Duy Tâm Tạo
(Vạn Phật Thành ngày 2 tháng 10 năm 1982)
Chúng sinh trong thế giới có nhiều loài khác nhau. Mỗi một vị Phật thì có quyến thuộc của vị đó; mỗi quyến thuộc lại có vô số chủng loại khác nhau. Bồ Tát, Duyên Giác, Thinh Văn các ngài thì cũng vậy. Ðó là bốn pháp giới của chư Thánh Hiền. Mình là phàm phu thì sự cách biệt giữa mình với các Thánh rất là xa, khó mà diễn bày đặng trình độ và trí huệ của các ngài.
Hiện đang nói về sáu Pháp Giới của kẻ phàm, thì trên cả là Pháp giới loài Trời. Trời cũng có đủ thứ bất đồng. Trời cộng thêm A Tu La và loài Người, là ba Thiện Ðạo. Ba Ác đạo là địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh; mỗi thứ đều có đủ thứ quyến thuộc của chúng với đủ thứ thiên sai vạn biệt. Ở mỗi loại còn phân ra đủ thứ chủng loại khác nhau nữa. Mười Pháp giới từ đâu lại? Chúng từ nơi một tâm niệm hiện tại của mình (hiện tiền nhất niệm tâm)! Cái tâm có thể tạo ra Pháp giới, tâm có thể tạo ra vạn vật, tâm có thể tạo ra đủ thứ hình tướng, đủ thứ chủng loại: Nhất thiết duy tâm tạo. (Mọi thứ đều do tâm tạo ra.) LạI nói:
“Nhược nhân dục liễu trí,
Tam thế nhất thiết Phật,
Tam thế nhất thiết chư Bồ Tát,
Tam thế chư Thanh Văn,
Tam thế chư Thiên,
Ðại, Tiên, Nhân,
Chủng chủng A Tu La,
Chủng chủng chư Súc sanh,
Chủng chủng chư Ngạ quỷ,
Chủng chủng chư Ðịa ngục,
Ưng quán Pháp giới tánh,
Nhất thiết duy tâm tạo.”
Nghĩa là:
“Nếu người muốn rõ biết,
Ba đời tất cả Phật,
Ba đời chư Bồ Tát,
Ba đời chư Thanh Văn,
Ba đời chư vị Trời,
Ðại Tiên cùng với người,
Các loại A Tu La,
Vô số thứ Súc sanh,
Vô số loại Quỷ đói,
Vô số lớp Ðịa ngục,
Nên quán tánh Pháp giới,
Mọi thứ do tâm tạo.”
Cái tâm có thể tạo ra Thiên đường, tạo ra Ðịa ngục. Tâm làm mình thành Phật, Tâm có thể làm mình thành Ngạ quỷ, thành Súc sanh, đọa Ðịa ngục, thành Bồ tát, Thanh Văn. Vì mọi thứ do tâm tạo, nên mọi thứ đều chỉ ở nơi tâm này. Nếu tâm muốn thành Phật thì Phật Pháp giới là quyến thuộc của mình. Các Pháp giới còn lại cũng như thế.
Mọi thứ không rời khỏi tâm này, vì tâm này tạo ra mọi thứ: cho nên các vị chú ý: đi, đứng, nằm, ngồi lúc nào cũng phải biết “khắc kỷ phục lễ” (chế phục chính mình theo đúng lễ nghĩa). Mình chỉ làm điều chân thật không làm điều hư ngụy, cẩu thả bê bối; phải tránh trường hợp: Chỉ nhân nhất trước thác, thâu liễu mãn bàn kỳ. (Chỉ đi sai một nước, mà thua cả ván cờ.)
Tạo Pháp giới của Phật thì phải có lòng Từ, Bi, Hỷ, Xả; biết lợi ích chúng sinh, song không chấp trước rằng có chúng sinh. Ðừng dụng công hời hợt, tu ngoài da; phải thật sự từng bước từng bước mà dụng công.
“Tại sao tôi muốn tạo Pháp giới của chư Phật? Nếu tạo không xong thì sao?” Chỉ do tâm niệm không chuyên nhất, ý chí không kiên cố, cứ tùy theo duyên mà xoay chuyển rồi bị cảnh giới dẫn dắt, cho nên mình mới quên mất mọi chuyện: Quên mất là mình phải tạo Phật, tạo Bồ Tát, tạo bốn thứ Thánh, do vậy mình chỉ biết tạo địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Cho nên nói rằng: Niệm động bách sự hữu, niệm tịnh vạn sự vô. (Tâm động thì trăm sự đều có, tâm tịnh thì vạn sự đều không.)
Lại nói rằng:
“Tâm chỉ niệm tuyệt: chân phú quý,
Tư dục đoạn tận: chân phước điền!”
Nghĩa là:
“Ý niệm dứt, tâm dừng, chính là giàu sang,
Lòng tư dục đoạn tuyệt mới là ruộng phước!”
Có người hỏi: Vì sao ma không phải là một Pháp giới? Trả lời: Ma thì giống như là bọn thổ phỉ hay là du kích, lúc nào cũng lưu lạc trong bốn phương, không có xứ sở nhất định, cũng không có người cai quản. Kẻ cướp là loài người nhưng không phải người nào cũng là kẻ cướp. Cho nên không nói pháp giới của loài cướp. Ðạo lý này giải thích loài ma cũng tương tự như vậy.
Trên trời cũng có ma. Trong A tu La cũng có ma. Thành phần thiện thì thuộc một pháp giới, thành phần không thiện thì thuộc về ma giới; vì ma biến khắp cả Lục phàm Pháp giới, thậm chí nó có thể biến hóa, xâm nhiễm phá phách Tứ Thánh Pháp Giới.
Phật hay ma đều là do một niệm sai mà ra. Phật thì có tâm từ bi, ma thì có tâm tranh thắng. Giống như Ðề Bà Ðạt Ða là người có tâm thắng phụ rất mạnh, lúc nào cũng muốn cùng Phật đấu tranh, song Phật thì không tranh với ông ta. Ðề Bà Ðạt Ða cũng có Phật tánh, bất quá y lỡ bước, lầm đường lạc lối quá sâu, không thể quay đầu lại nên mới rơi vào ma giới. Theo tinh thần Ðại thừa, Phật vì giáo hóa loài ma cho nên cũng thị hiện thân ma để giáo hóa loài ma. Ma thì biến khắp lục phàm pháp giới nên không cần thiết phải lập thêm một pháp giới. Tuy biến khắp các pháp giới nhưng đó là thứ giả, hư ngụy, không thật. Giống như ở đời có kẻ tự mình chiếm hòn núi, tự mình xưng vương; giặc cướp cũng mạo xưng là quân đội nhưng đi tới đâu là phóng hỏa giết người tới đó. Ma cũng tương tự như vậy!
29. Cái Học Tạo Mệnh
(Vạn Phật Thành ngày 7 tháng 10 năm 1982)
Lão tử nói rằng:
Quân tử hữu tạo mệnh chi học,
Mệnh do ngã lập,
Phước tự kỷ cầu.
Họa phước vô môn,
Duy nhân tự chiêu.”
Nghĩa là:
“Quân tử có cái học tạo mệnh,
Mệnh do mình lập,
Phước do mình cầu.
Phước với họa chẳng có cửa,
Chỉ do mình tự chiêu cảm lấy.”
“Quân tử hữu tạo mệnh chi học.” Trời, Ðất, Người gọi là Tam Tài. Người là đại biểu của trời, đất; trời không thể nói được mà đất cũng không thể nói được. Chỉ có người mới có ngôn từ, có động tác. Sinh mạng con người không phảI là nhất định, nhưng cũng có thể là nhất định. Tại sao nhất định? Cũng như là mình chia đồ vật vậy: Anh một phần, tôi một phần; đó gọi là nhất định. Thế nào là không nhất định? Giống như đồ vật của anh thì anh dùng hết rất mau, mà đồ vật của tôi thì tôi không dùng cho nên vẫn còn nguyên; đó gọi là không nhất định. Cho nên nói: “Quân tử có cái học tạo mệnh.”
Khi sinh ra, chẳng ai kêu mình làm chuyện ác cả, song mình cứ làm ác; đó là mình tự cải biến vận mạng của chính mình. Sinh ra chẳng có ai kêu mình làm chuyện thiện cả nhưng mình cứ làm chuyện thiện thì đó là mình siêu thoát ra khỏi vận mệnh. Thí dụ như khách bộ hành muốn đi hướng đông thì nhắm hướng đông mà đi, muốn đi hướng tây thì nhắm hướng tây mà đi. Mệnh vận của người quân tử thì rất linh hoạt chứ không phải là cứng ngắc; tất cả mọi chuyện đều do nơi tay mình làm nên, bởi thế: “Quân tử có cái học tạo mệnh.”
“Mệnh do ngã lập.” Mình có thể cải biến vận mệnh của chính mình. Nếu như khi có bệnh mà biết giữ gìn thì không đi đến tình trạng nguy hiểm đến tánh mạng. Ðó là tự mình có năng lực kiểm soát chính mình, không phải ỷ lại người khác. Ðáng lẽ phải sống chết luân chuyển trong Lục đạo, nhưng nếu biết tu đạo thì có thể siêu thoát ra khỏi vận mệnh, cắt đứt vòng sinh tử; đó cũng gọi là tạo mệnh.
“Phước tự kỷ cầu.” Phước từ nơi mình mà cầu: Nếu mình biết tu phước thì có phước, biết tu huệ thì có huệ. Phước huệ cùng tu thì càng tốt hơn nữa.
Tu phước thì phải hướng về bên trong mà cầu; cầu nơi chính mình coi thử mình có đức hạnh hay không. Có đạo đức là có phước, không đức hạnh là kẻ vô phước. Quân tử cầu nơi chính mình, tiểu nhân thì cầu cạnh nơi người khác. Tiểu nhân lúc nào cũng hướng ra bên ngoài mà cầu.
“Họa phước vô môn. Duy nhân tự chiêu.” Họa phước không có cửa ra vào, chỉ do mình tự chuốc lấy; có nghĩa là: Bịnh tùng khẩu nhập, họa tùng khẩu xuất. (Bịnh từ miệng mà vào, họa từ miệng mà ra.) Con người gặp phải đủ thứ tai họa, hoạn nạn là do ăn nói bậy bạ mà ra. Kẻ ham ăn vị ngon, cá thịt, gà vịt, đồ biển … tuy rằng nhất thời sướng cái miệng song sẽ mang nhiều bịnh tật. Khi ăn ngon thì thấy ngon thiệt nhưng dần dà khi chất độc ngấm vào sinh bịnh thì sẽ hết thuốc chữa! Hiện tại thịt động vật có chất độc mà không có thuốc nào chữa được, cho nên khi ta ăn thịt thì thứ độc ấy truyền vô người mình. Thực vật là loại không có sinh mạng nên dù có chất độc thì cũng rất ít. Chất độc trong thịt là 100%, còn độc trong đồ chay chỉ có 1%, cho nên có thể nói rằng ăn thịt với ăn chay khác nhau một trời một vực.
Các vị học Phật pháp đừng nên tham ăn đồ ngon, đừng tham ngon miệng. Sau một thời gian ăn chay, chất độc trong ngườI có thể bài tiết ra hết mà không mắc phải những bịnh quái gở. Hy vọng các vị chú ý nghiên cứu lời tôi nói. Thời đại bây giờ vô cùng tệ hại nên mọi người hãy mạnh dạn khuyến khích nhau đừng sát sinh mà phải bảo vệ sinh mạng thì mới tránh được họa diệt vong. Mong các vị hãy thận trọng và hãy tự chế.
30. Ăn Thịt Thì Cũng Giống Như Là Ăn Chất Ðộc Vậy
Tất cả thịt của chúng sinh đều có chất độc. Chất độc này không phải một ngày một đêm tích tụ mà thành, cũng không phải mới một đời một kiếp mà có. Chất độc ấy tích lũy trong nhiều kiếp, từ sự hỗ tương tàn sát giữa người với ngườI đã tạo thành một thứ oán độc mà chẳng thể nào xóa bỏ được.
Khi mình giết súc vật thì cũng tạo ra một thứ oán hận trong tâm chúng; lúc gần chết vì quá khủng khiếp và sợ hãi nên chúng nảy sinh long cừu hận muốn báo thù. Bởi vậy từ nơi lòng oán hận phẫn uất ấy phát tiết ra một độc tố thấm suốt da thịt chúng nên hễ ai ăn thịt chúng thì giống như là ăn chất độc vậy. Lúc ăn thì không thấy hại nhưng dần dà sẽ mắc đủ chứng bịnh kỳ quái mà chẳng có thuốc gì cứu nổi.
Thời đại bây giờ thì oán khí đầy trời. Oán khí đó so với đầu đạn nguyên tử thì lợi hại hơn nhiều, bởi vì nó vô hình vô tướng song có thể tận diệt toàn thể nhân loại.
Có bài kệ rằng:
“Thiên bách niên lai oản lý canh,
Oán thâm tự hải hận nan bình.
Dục tri thế thượng đao binh kiếp,
Thả thính đồ môn dạ bán thanh!”
Dịch là:
Ngàn năm oán hận ngập bát canh,
Oán sâu như biển hận khó tan.
Muốn biết vì sao có chiến tranh,
Hãy nghe lò thịt lúc nửa đêm!”
Trăm ngàn năm nay miếng thịt trong bát canh chứa đựng sự oán hận sâu như biển, khó mà san bằng được. Nếu các vị muốn biết nguyên nhân của chiến tranh trên thế giới này thì hãy lắng nghe tiếng kêu thảm thiết của những con vật nơi nhà kẻ đồ tể vào lúc nửa đêm. Cho nên cổ nhân nói ra bài kệ này là có nhân duyên, có căn cứ. Chúng ta phảI thấu triệt đạo lý đó thì mới có thể trị được tật bịnh của chính mình.
--- o0o ---