Sinh tử hồ đồ là do bị vô minh che lấp. Vì sao có vô minh? Vì “nhất niệm bất giác sinh tam tế” (do một niệm ngu tối mà sinh ra ba trạng thái vi tế của tâm thức là Nghiệp tướng, Hiện tướng và Chuyển tướng). Một khi ba tướng đã phát sinh thì biến hóa vô cùng tận; do đó trong cuộc sống của mình có ngàn vạn trạng thái, đủ thứ nhân duyên. Nếu mình giác ngộ được trạng thái này thì phải mau phát tâm Bồ Ðề, cầu có trí huệ để thông suốt mọi sự.
Phật là đấng vô cùng trí huệ, hết sức thông đạt cho nên ngài được gọi là bậc ÐạI Giác. Chúng ta cần phải từ nơi chỗ hồ đồ, ngu muội mà trở về nơi minh bạch sáng suốt. Trước tiên cần phải tận lực quét sạch đi tất cả những thói hư tật xấu lỗi lầm; và lúc đó trí huệ thông minh sẽ hiện tiền.
Năm nay, Tết đến chúc các vị sinh tâm đại giác ngộ. Một ngày đã qua, Mạng cũng giảm dần, Như cá cạn nước, Thử hỏi gì vui? Ðại chúng! Hãy siêng tinh tấn, như dầu bị đốt, luôn nhớ vô thường, chớ mặc buông lung!
Thế giới có vô số những chuyện đặc biệt, kỳ dị mà chúng ta không thể tưởng tượng nổi. Song chuyện gì cũng một phần là do trời tạo, một phần là do người tạo. Trời tạo mà người không làm gì cũng không thành công; người làm mà trời không tạo thì cũng không có căn bản. Cho nên trên đời chuyện gì cũng tương đối, có thiện có ác, có âm có dương, có đúng có sai, có tốt có xấu; đó là pháp đối đãi.
Vì là pháp đối đãi, nếu người biết làm thì điều xấu có thể biến thành điều tốt, nếu người không biết làm thì tốt cũng trở thành xấu. Cũng vậy, người biết dụng công thì lúc âm khí cực thạnh cũng có thể biến thành dương khí và lúc dương khí hết sức cang cường cũng có thể làm cho điều hòa. Âm thuộc về tĩnh, về nhu; dương thuộc về động, về cương; cho nên điều tốt điều xấu đều do con người làm ra. Cổ nhân nói:
Cận chu giả xích,
Cận mặc giả hắc,
Nhiễm ư lam tắc lam,
Nhiễm ư hoàng tắc hoàng.
Nghĩa là:
Gần son thì đỏ,
Gần mực thì đen,
Nhuộm xanh thì xanh,
Nhuộm vàng thì vàng.
Ở nước Trung Hoa có một vị Á Thánh tên là Mạnh Tử. Lúc còn nhỏ, cha mất sớm, chỉ có mẹ nuôi dưỡng ngài. Lúc đầu nhà của ngài cạnh nhà người đồ tể. Vì còn nhỏ tai nghe, mắt thấy chuyện gì cũng dễ tiêm nhiễm cho nên Ngài ngày ngày học cách ngườI đồ tể thọc huyết trâu, dê. Mẹ của ngài thấy vậy thì biết rằng nếu để ngài tự do phát triển thì tương lai nhất định ngài sẽ trở thành một tên đồ tể. Vì vậy bà lập tức dọn nhà đi và dọn tới bên cạnh nghĩa địa.
Bấy giờ Mạnh Tử lại học cách người coi mộ; quét đất, thắp nhang, dâng hoa cúng tế người chết. Mẹ ngài lúc đó mớI nghĩ rằng: “Không xong rồi, con nít mà để cho phát triển tự do thì tương lai con mình sẽ trở thành kẻ coi mộ chớ có lợi gì?” Bởi vậy lần thứ hai bà lạ dời nhà đi nữa. Lần này bà dọn nhà tới cạnh trường học.
Ở cạnh trường học, ngày ngày Mạnh Tử tận tụy bắt chước những học sinh ở đó; lên lớp chào thầy, về nhà lễ cha mẹ. Tuy nhà không có tiền nhưng Mạnh Tử ra sức học hành; đối với việc đọc sách đi đứng lễ nghĩa, ông rất thành thạo. Mẹ ngài thấy như vậy quyết định sẽ ở đó luôn vì hễ con của bà bắt chước kẻ đọc sách thì tương lai sẽ thành đạt.
Nhưng không lâu thì Mạnh Tử nổi tánh phá phách ngỗ nghịch, không còn muốn đi học nữa. Một hôm mẹ ngài đang lúc dệt tơ, thấy con đi học mà bỏ ngang về nhà thì liền cắt khung cửi khiến dây tơ đứt làm hai đoạn. Mạnh Tử thấy vậy liền nghĩ rằng: “Khung cửi đứt không còn dệt được, tất sinh kế nhà mình sẽ khó khăn bởi mọi sinh hoạt hàng ngày đều dựa vào nghề dệt vải này.” Cho nên ngài mới hỏi mẹ rằng: “Tại sao mẹ lại cắt khung cửi như vậy?” Bà trả lời: “ Con nay chẳng chịu học hành thì cũng giống như khung cửi không còn dệt được nữa vậy” Mạnh Tử nghe xong hết sức hổ thẹn, quyết chí dụng công học hành. Về sau ngài trở thành một vị đại thánh nhân của Nho học.
Ở nước Mỹ này, tôi không thể nói rằng tự do phát triển là hoàn toàn không đúng. Song, nếu tự do phát triển thái quá thì đó là một điều sai lầm. Quan niệm này nếu tồn tại thì sẽ nuôi dưỡng hậu hoạn. Trẻ con cũng giống như cây non đang độ lớn; nều cây đâm chồi nảy nhánh loạn xạ tất cần phải cắt tỉa đi thì tương lai cây mới mọc thẳng, cũng như trẻ con phải được dạy dỗ chu đáo thì mới có thể trở nên trụ cột của quốc gia sau này.
Nếu con trẻ có tật viết tay trái thì không thuận tiện cho lắm. Tay mặt thuộc về tánh nhu thuần, tay trái thuộc về tánh cương cường; tay mặt là âm, tay trái là dương. Nếu trong nhà có con em viết tay trái thì tốt nhất nên sửa lại, để viết tay phải thì thuận hơn. Cũng giống như đi nhiễu Phật thì đi từ bên phải qua, mọi thứ đều từ bên tay phải mà bắt đầu, đó mới hợp với bản tánh, mới linh hoạt được. Con em thuận tay trái thì ít nhiều có đặc tính cương cường.
Tôi đề nghị với các bậc cha mẹ rằng hễ con cái có điểm nào sai lầm thì nên cấp thời sửa đổI lỗi lầm của chúng. Ðể tự do phát triển thì tương lai chúng sẽ biến thành “hippy” lưu manh, du đãng. Khi đó chúng ta phải làm gì? Có câu:
“Dưỡng bất giáo phụ chi quá,
Giáo bất nghiêm sư chi đọa.”
Nghĩa là:
Nuôi mà không dạy là lỗi của cha,
Dạy mà không nghiêm là thiếu sót của thầy.
Chẳng lẽ chúng ta không cẩn thận ngăn ngừa sao? Nếu muốn nói đến chân chính tự do phát triển thì phải bỏ trẻ con vào núi sâu rừng hoang, không có câu thúc gì cả, cho chúng tự do sinh tồn giống như thảo mộc tự nhiên sinh trưởng vậy. Nếu không thì không thể đề cập tới “tự do phát triển” được. Nếu cho rằng chìu theo ý trẻ con muốn là tự do phát triển thì đó là một quan niệm sai lầm. Trẻ con làm đúng thì cổ võ, khích lệ để cho chúng tiếp tục làm; nếu chúng làm sai thì mình phải chấn chỉnh để chúng tiến tới điều chánh, điều thiện. Ðể nhân loại tiếp tục sinh tồn trong xã hội này, mình phải duy trì hànhđộng có trí huệ; không thể dùng lầm danh từ tự do phát triển này được.
Khi để cho trẻ con tự do phóng túng thì trong tương lai chúng sẽ biến thành những thanh thiếu niên hư hỏng, hết sức bạo ngược, cang cường. Chúng không thể thành người anh tuấn mà sẽ là những phần tử hư hỏng của xã hội. Nếu đất nước thiếu những bậc lương đống, anh tài thì hậu quả thật khó lường được vậy.
(Vạn Phật Thành ngày 25 tháng 3 năm 1983)
Nhân loại ai ai cũng “hướng ngoại truy cầu.” Vì cầu ở ngoài tâm cho nên càng cầu thì càng xa gốc không sao tới được đích; mà càng không tới được đích thì càng muốn truy cầu thêm. Ðó gọi là “bỏ gốc theo ngọn, bỏ gần theo xa”.
Các vị cho điện não (computer) tivi, tủ lạnh, điện thoại … là hay là đẹp. Kỳ thật chúng tượng trưng cho vật bên ngoài đã làm cho con người mê muội, ham chấp trước không giác ngộ. Nhưng nếu mình thật sự thông suốt mọi sự thì những thứ đó có thể giúp mình giác ngộ. Lục căn (tai, mắt, mũi, lưỡi, thân, ý) là sáu tên cướp (lục tặc) làm cho con người đọa lạc, nhưng nếu biết cách dùng chúng thì có thể tu thành Ðạo Vô Thượng Bồ Ðề, thành Phật.
Tuy ở bên ngoài có điện não xuất hiện, song trong tự tánh của mình có đủ thứ vi diệu bất khả tư nghì như vậy. Xưa nay mình vốn không cần thiết để hướng ngoại truy cầu. Song bởi vì cái bảo bối kỳ diệu khó diễn bày gọi là “ thường trụ chân tâm, tánh tịnh minh thể” của chúng ta bị Ngũ ấm che khuất , cho nên bảo bối đó không thể xuất hiện được. Rồi thì do vô minh nên mình lại bỏ gốc chạy theo ngọn, bỏ cái gần chạy theo cái xa, mà không biết quay đầu nhìn lại tự tâm mình.
Có điện não bên ngoài là do có điện não trong tự tánh mình. Ðiện não đó gọi là thần não, cũng có thể gọi là Thánh não, Phật não hay Ðại Trí huệ. Hiện tại các khoa học gia tuy phát minh được đủ thứ tân kỳ, song chúng đều là những thứ bên ngoài tự tâm, càng cầu càng tìm chúng thì lại càng xa gốc. Các khoa học gia chỉ hiểu những thứ hời hợt bề ngoài mà thôi; tuy có vẻ như đạt được chỗ sở đắc, kỳ thật, họ đánh mất đi bản hữu trí huệ của họ, cho nên gọi là bỏ gốc theo ngọn.
Người tu đạo thì phải bỏ ngọn theo gốc, phải làm sao để Phật tánh bản hữu của mình được viên mãn, phải làm thế nào để phản bổn hoàn nguyên, để khôi phục lại bản hữu trí huệ, tức là Ðại Viên Cảnh Trí, Bình Ðẳng Tánh Trí, Diệu Quan Sát Trí, Thành Sở Tác Trí. Nếu đem điện não so sánh với bốn trí này thì điện não bất quá chỉ bằng một phần trong hàng trăm ngàn vạn ức của bốn trí kia. Nhiều người lấy đồng thau mà cho là vàng thiệt, thật đáng thương xót.
Cho nên chúng ta là kẻ tu đạo thì phải nhận chân được bản hữu trí huệ của mình, không cần phải truy cầu những thứ cao siêu xa vời ở bên ngoài.
Chúng ta hoàn toàn không cần đến những vật bên ngoài ấy sao? Tôi đã từng nói rằng điện não là thứ yêu quái do khoa học sinh ra, làm cho con ngườI thất nghiệp, lười biếng, giãi đãi, ưa thích phóng túng, ghét làm việc cực nhọc. Nếu tệ trạng này tiếp tục thì chẳng bao lâu loài ngườI sẽ biến thành đồ phế thải, không còn dùng được nữa. Khi con người đã vô dụng rồi thì đương nhiên cuộc hý trường tại thế gian này sẽ mau chóng bế mạc; bởi vì con người thành vô dụng thì cần con người làm gì nữa? Song ngược lại, nếu con người giác ngộ thì họ sẽ tạo ra rất nhiều sản phẩm có lợi ích cho nhân quần.
Nói tóm lại, cũng là một sản phẩm song điều quan trọng là chúng ta có biết sử dụng nói hay chăng. Mình phải sử dụng điện não, không để nó khống chế con người. Lúc đó, đương nhiên con người sẽ tạo ra rất nhiều sản phẩm có lợi ích cho nhân quần.
Nói tóm lại, cũng là một sản phẩm song điều quan trọng là chúng ta có biết sử dụng nó hay chăng. Mình phải sử dụng điện não, không để nó khống chế mình. Cho nên nói rằng:
“Kiến sự, tỉnh sự: xuất thế gian,
Kiến sự, mê sự: đọa trầm luân.”
Dịch là:
“Thấy việc, liền thức tỉnh: vượt trần gian,
Ðụng chuyện, mà lờ mờ: đọa luân hồi.”
Tích Cực Xiển Dương Kinh Lăng Nghiêm
(Vạn Phật Thành ngày 14 tháng 4 năm 1983)
Chúng ta đang ở trong thời Mạt Pháp, đã xa Phật quá lâu, song Pháp chưa hoàn toàn tiêu diệt. Các vị vẫn còn cơ hội y chiếu theo lời Phật dạy mà tu hành, các vị vẫn còn cơ hội chứng quả thành Phật.
Nếu bản thân là kẻ xuất gia thì mình phải quyết tâm giữ gìn cái tông chỉ là dù gặp hoạn nạn khó khăn tới đâu cũng không bao giờ thay đổi lập trường. Mặc ai tới phá hoại, mình đừng để bị dao động. Chỉ cần nhận thức rõ ràng việc mình làm, con đường mình đi là quang minh chính đại , rồi cứ dũng mãnh mà tiến bước.
Trong thời Mạt Pháp, thiên ma, ngoại đạo, ly mỵ, vọng lượng, sơn yêu, thủy quái, sợ nhất là chú Lăng Nghiêm vì chú Lăng Nghiêm có công năng phá tà hiển chánh, và vì chú Lăng Nghiêm mà Phật đã giảng Kinh Lăng Nghiêm, một bộ Kinh cốt tủy của Phật giáo.
Con người nếu không có xương tủy thì chết. Phật giáo không có kinh Lăng Nghiêm thì Phật pháp diệt. Cho nên phương pháp tốt nhất để hộ trì Chánh pháp trong thời Mạt pháp là học thuộc lòng Kinh Lăng Nghiêm, học thuôc lòng chú Lăng Nghiêm cho nhuần nhuyễn. Sau khi đọc và thuộc lòng đến chỗ hết sức thuần thục, hãy tận lực phát huy đạo lý của kinh và diễn thuyết cho mọi người nghe. Thế giới này nếu thiếu chú Lăng Nghiêm thì yêu ma quỷ quái chẳng sợ hãi gì nữa, chúng sẽ tha hồ hoành hành. Song bởi vì trên thế giới còn có người trì chú Lăng Nghiêm nên bọn bàng môn tả đạo, vọng lượng, ly mỵ, sơn yêu, thủy quái còn kiên sợ không dám công nhiên xuất hiện. Nếu không có chú Lăng Nghiêm thì thế giới này trở thành thế giới của bọn yêu ma, quỷ quái.
Các vị coi, hiện tại tư tưởng con người cũng hết sức cổ quái, có kẻ không bằng loài cầm thú. Ðó là do bọn yêu ma quỷ quái lộng hành ở thế gian, mê hoặc người đời, khiến họ mất đi trí huệ căn bản, biến thành hạng người tráo trở, hết biết nhân nghĩa, làm chuyện thấp hèn không bằng loài trâu ngựa nữa. Ðó cũng là do càng ngày càng ít người biết tụng kinh Lăng Nghiêm, trì chú Lăng Nghiêm nên thiên ma ngoại đạo mới hoành hành, không còn kiêng nể gì cả.
Tuy nhiên Vạn Phật Thành là nơi phát nguyên của Phật Pháp ở Tây phương, là chỗ quy tập tinh hoa của những người tu đạo chân chính trên thế gian, cho nên Vạn Phật Thành không phải là chỗ hoạt động của bọn yêu ma quỷ quái. Bọn chúng không thể nào đặt chân tới Vạn Phật Thành được. Có những kẻ không thể ở Vạn Phật Thành được là do họ không đủ đức hạnh, tư tưởng đầy rẫy những thứ tà tri, tà kiến, nên chỉ ở một thời gian là họ bị lộ nguyên hình, phải bỏ đi chỗ khác.
Từ đây về sau, ở Vạn Phật Thành, các vị xuất gia và đệ tử tại gia đều cần phải học thuộc lòng Kinh Lăng Nghiêm. Như vây đối với Phật pháp không có công lao nào lớn bằng. Bởi vì có những giáo sư nổi tiếng, những vị học giả trứ danh, thậm chí còn có cả kẻ xuất gia, hiện giờ công khai nói rằng kinh Lăng Nghiêm là giả tạo.
Vì sao họ lại điên đảo như vậy? Là do kinh Lăng Nghiêm đề cập tới bốn điều răn dạy về sự thanh tịnh và đồng thời năm mươi thứ ấm ma. Do đó bọn họ không thể chịu nổi khi đứng trước tấm kính chiếu yêu được nói đến trong Kinh Lăng Nghiêm này. Khi họ tự so sánh với năm mươi thứ ấm ma thì bản chất yêu quái của họ hiện ra rõ ràng, và khi tự so sánh với bốn điều dạy về sự thanh tịnh thì họ không làm sao giữ được những quy củ nói đến trong bộ kinh này. Bởi không chịu nổi sự thật đó nên họ mới che đậy lương tâm và dèm pha cho rằng kinh Lăng Nghiêm là giả tạo.
Cho nên đối với Kinh Lăng Nghiêm và Chú Lăng Nghiêm , chúng ta cần phải nhận thức rõ ràng là không có chú nào linh nghiệm bằng chú Lăng Nghiêm. Là vì kinh này đem tất cả những điều sai trái của thiên ma ngoại đạo, và của cả chúng sinh trình bày vô cùng rõ ràng, xiển minh hết sức tường tận.
Nếu không có chú Lăng Nghiêm thì Phật pháp chẳng còn, thiếu kinh Lăng Nghiêm thì Chánh pháp bị tiêu diệt. Vì thế, các vị hãy vì hộ trì Phật pháp mà nhất định học thuộc lòng kinh Lăng Nghiêm. Nếu lúc nào cũng có thể thuyết giảng được thì mới không hổ thẹn là một đệ tử chân chính của Phật, không hổ thẹn là đã xuất gia một cách uổng phí.
Bởi vậy cho nên các vị đừng để những “học giả trứ danh” những “giáo sư nổi tiếng” hoặc những “Ðại pháp sư” làm cho mê hoặc như kẻ đui đi theo người mù mà tin rằng kinh Lăng Nghiêm là giả tạo. Dựa vào đâu mà họ dám nói kinh Lăng Nghiêm là giả tạo? Với lời lẽ mù quáng cống cao đầy rẫy tà kiến ngã mạn cuồng vọng. Tương lai họ sẽ chịu quả báo khó tưởng tượng nổi.
Mặc cho gia phong của những đạo tràng khác ra sao, ở Vạn Phật Thành ai muốn xuất gia thì tốI thiểu phải có bằng cử nhân. Nếu các vị đỗ cử nhân ở trường khác thì cần phải gia nhập chương trình huấn luyện Tăng Già ở Vạn Phật Thành; các vị phải trải qua ba năm huấn luyện nghiêm túc để cho học vấn và đạo đức được ưu tú rồi mớI đủ tư cách thọ giới Cụ Túc làm Tỳ Kheo hoặc Tỳ Kheo Ni.
Ở thời đại này, người xuất gia nhất định cần phải xuất chúng, đặc biệt siêu việt, có bối cảnh giáo dục ưu tú thì mới có thể trở thành bậc Pháp Khí được. Nếu là kẻ không rành chữ nghĩa, cả ngày chỉ biết đi tìm cách móc nối, thủ đoạn, xin xỏ, lợi dụng; hoặc là kẻ giả làm sư để kiếm ăn qua ngày, hoặc chỉ làm những chuyện hoàn toàn không cao thượng, không thanh tịnh, chuyên môn phá hoại pháp giới thì kẻ đó chỉ làm ô nhục cửa Phật mà thôi, làm sao khiến cho Phật giáo ngày càng sáng lạng được? Làm sao khiến cho người ta sinh lòng cung kính Tam Bảo đặng?
Vì thế từ đây về sau, những ai muốn xuất gia ở Vạn Phật Thành bất cứ là nam hay nữ là già hay trẻ, trước hết cần đỗ bằng cử nhân, sau đó cần thuộc lòng chú Lăng Nghiêm và kinh Lăng Nghiêm thì mới đủ tư cách xuất gia. Ngoài ra, người xuất gia cần thuộc lòng giới Sa Di, 53 tiểu chú, kinh Phạm Võng Bồ Tát Giới và thông đạt Tứ Phần Luật (tức là giới Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni). Trước kia, trong đạo tràng này, tiêu chuẩn xuất gia tuy không nghiêm khắc như bây giờ, song tôi không thu nhận đồ đệ một cách cẩu thả. Trước khi thâu nhận ai, tôi hết sức cẩn thận, cho họ trải qua một thời gian dài để quan sát tư tưởng, ngôn hạnh của họ như thế nào rồi mới thâu nhận, thế phát cho xuất gia. Song ở thời Mạt Pháp này, tà ma lộng hành nên tôi chẳng thể không sửa đổi cho triệt để và tích cực đề cao phẩm cách đạo đức và học vấn của người xuất gia. Phàm là kẻ theo tôi xuất gia thì cần phải “đầu đội trời, chân đạp đất”, văn võ toàn tài, là long tượng trong cửa Phật. Thậm chí nếu lấy con mắt tục mà nhìn thì phải là bậc nhân tài trác tuyệt, phi phàm. Những kẻ theo tôi xuất gia đã lâu cũng cần phải học thuộc kinh Lăng Nghiêm và phải có thể sẵn sàng giảng giải nếu cần. Như vậy thì mới thực sự đảm nhận trách nhiệm hoằng dương Chánh pháp, tiếp nối sứ mệnh của Phật và cũng không uổng phí sự nghiệp xuất gia của mình.
(Vạn Phật Thành ngày 15 tháng 4 năm 1983)
Vạn Phật Thành mới được thành lập, mọi sự đều chưa ổn định nên có những chuyện tạp loạn không trật tự. Người ngoài tới đây trú ngụ thì hoàn toàn không hiểu rõ quy củ nên nhiều chuyện làm chưa được viên mãn. Trong giai đoạn này, kẻ tới Vạn Phật Thành thì có tốt có xấu, rắn rồng lẫn lộn. Kỳ thật, kẻ xấu là cái gương cho người tốt, người tốt cũng là cái gương cho kẻ xấu, cho nên hai bên làm gương cho nhau, hỗ tương thuyết pháp, hỗ tương soi chiếu nhau. Con người như vậy. Phật, Bồ Tát, Hộ pháp cũng thế và thiên ma ngoại đạo cũng vậy.
Ở đây đạo tràng mới thành lập, có rất nhiều hộ pháp, hoặc vì làm biếng muốn nghỉ xả hơi cho nên gặp chuyện rắc rối xảy ra thì họ không biết làm sao giải quyết cho êm đẹp. Cũng giống như người mới tới Vạn Phật Thành, gặp chuyện gì cũng không biết làm sao xử lý. Do đó có rất nhiều Thiên ma, yêu quái muốn nhân cơ hội tới đây thừa dịp “nước đục thả câu” để trục lợi.
Tuy nhiên, không viên mãn là sự bắt đầu của viên mãn. Những người sống ở Vạn Phật Thành tuyệt đối phải có đức hạnh; không có đức hạnh thì không thể nào ở đây được vì họ sẽ cảm thấy không tự do, tự tại. Kẻ có đức hạnh thì thấy nhân tâm rất an lạc, rất sung sướng, tự tại. Do nơi cảm giác đó mà có thể biết Vạn Phật Thành là đạo tràng như thế nào. Người có đức hạnh thì Phật, Bồ Tát, Hộ pháp hết sức hoan hỷ; song bọn ma quỷ lại không ưa. Chúng muốn làm cho những ngườI đức hạnh này phải bỏ đi; do đó chúng dùng mọi thứ yêu thông, ma thuật huyễn hoặc để làm cho họ phải loạn tâm. Thậm chí có những thứ súc sinh ngu dốt, những thứ côn trùng cũng tớI Vạn Phật Thành để thi triển bản lĩnh, tác yêu tác quái.
Trên đời có tốt thì có xấu cho nên chúng ta phải biết:
“Trạch thiên nhi tùng,
Bất thiện nhi cải.
Thị Ðạo đắc tiến,
Phi Ðạo tắc thối.”
Dịch là:
“Lựa tốt thì theo,
Không tốt thì sửa.
Là Ðạo thì tiến tới,
Không phải là Ðạo thì thối lui.”
Cần có chánh tri, chánh kiến nghĩa là cần có sự hiểu biết đúng đắn. Thế nào là hiểu biết và quan niệm đúng đắn? Tức là không tranh, không tham, không truy cầu, không ích kỷ, không làm điều tư lợi, mà cũng chẳng dối trá!
Tới Vạn Phật thành mà còn cái ngã to tướng, cho rằng mình hay mình giỏi thì các vị đã lầm lẫn rồi. Ở Vạn Phật Thành, nếu là rồng thì phải cuốn mình lại, nếu là cọp thì phải nằm phục xuống; tất cả đều phải nghiêm thủ quy luật, không có ngoại lệ. Nếu các vị nhận thức được đức hạnh và thiện căn của mình thì đừng lãng phí, đừng vào núi vàng mà chẳng biết rồi tay không rời núi.
Vạn Phật Thành và những đạo tràng khác chẳng có gì khác nhau. Chỉ có một điểm không giống nhau là Vạn Phật Thành không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi và không nói dối.
Tánh Thanh Tịnh Chân Thật, Bất Hư
(Vạn Phật Thành ngày 17 tháng 4 năm 1983)
Bốn Ðiều Răn Dạy Về Tánh Thanh Tịnh (Tứ Chủng Thanh Tịnh Minh Hối) trong kinh Lăng Nghiêm là: “Ðoạn dâm, đoạn sát, đoạn thâu, đoạn vọng” (dứt dâm dục, dứt giết chóc, dứt trộm cắp, dứt nói dối). Bốn điều đó tương quan rất chặt chẽ với nhau. Nếu phạm giới dâm thì dễ dàng phạm giới sát và cũng dễ dàng phạm giới thâu, tức là ăn cắp và giới vọng ngữ tức là nói láo. Bởi vì phạm giới dâm thì sát, đạo, vọng đều đã bao gồm trong đó rồi, cho nên tuy chia làm bốn, nhưng hợp lại mà nói thì là nhất thể.
Phật thật là vô cùng từ bi, hết lòng hết dạ dạy bảo chúng ta hết sức rõ ràng Bốn Ðiều Răn Dạy Về Tánh Thanh Tịnh. Tuy nói rõ như vậy nhưng có người lại không tin. Không phải chỉ có một số người không tin mà thôi, trong đó, những kẻ không tin lại là những học giả, những vị giáo sư, những kẻ xuất gia không giữ giới luật. Những người đó không có niềm tin nên không có cách gì cải thiện, cũng không có cách gì để bài trừ cái gốc tà kiến của họ được; bởi vì những điều hiểu biết sai lầm của họ đã chằng chịt, thâm căn cố đế, làm cho họ mất lòng tin và công nhiên cho rằng Kinh Lăng Nghiêm là giả tạo.
Trong các bộ kinh mà Phật nói ra, Kinh Lăng Nghiêm là một bộ kinh hết sức trọng yếu. Dù cho các vị học giả, giáo sư, những kẻ không giữ giới luật cho đến những kẻ dùng đủ thứ thần thông, hiện ra mười tám phép biến hóa, tới nói với tôi rằng Kinh Lăng Nghiêm là giả đi nữa thì tôi cũng không tin được. Tại vì sao? Bởi vì Kinh Lăng Nghiêm dạy đạo lý hết sức chân chính, chỉ căn bịnh của chúng sinh hết sức rõ ràng; đó là “vô minh tội nghiệp”. Kinh này chính là “đối bịnh cho thuốc” là lời khuyên răn rõ ràng nhất. Song người ta không ai muốn uống thuốc đắng, mặc dù thuốc hay thì quá đắng, khó mà chịu nổi. Nên dù có bậc thầy thuốc giỏi đưa toa thuốc ra thì họ cũng vất đi không dùng, nói rằng thuốc chẳng có hiệu lực gì, rằng thứ thuốc này chỉ để lừa người ta. Như vậy đúng là tự mình lừa mình và lừa người khác, tự mình làm hại mình rồì hại người khác vậy.
Bởi vậy cho nên những kẻ không hiểu biết cứ chạy theo những người này, nói rằng có những vị học giả danh tiếng như vầy, có những giáo sư nổi tiếng như kia, hoặc có những vị Ðại Pháp Sư có tên tuổi như nọ nói rằng Kinh Lăng Nghiêm này là giả; rồi họ chạy theo những người đó như những kẻ đui đi theo những người mù, cùng nhau kẻ xướng người họa. Người ta nói làm sao thì họ nói làm vậy, do đó rốt cuộc tà thuyết đầy rẫy.
Nếu thật sự đúng như vậy, tức Kinh Lăng Nghiêm là giả, thì các vị trong Phật giáo không cần phải giữ giới luật làm gì, cũng không cần nghe Bốn Ðiều Răn Dạy Về Tánh Thanh Tịnh này làm gì, và cũng không cần biết đến Năm Mươi Thứ Ấm Ma là ra sao, tất cả mọi thứ nhất tề vất bỏ hết. Các vị thử nghĩ coi, loại người như vậy thật ác độc vô cùng; nếu những người như thế đó mà không bị xuống Ðịa ngục Cắt Lưỡi thì thật là không còn công lý gì nữa.
Mới đây tôi có nói đến một em bé bị bịnh thần kinh (em bé này có bịnh tâm lý biến thái, hành vi quái dị, toàn thân đều có bịnh). Ðứa bé này sở dĩ có bịnh là vì kiếp trước đã từng hủy báng kinh điển Ðại Thừa, tạo nên tội nghiệp đọa địa ngục Vô Gián, bây giờ sinh ra làm người phảI chịu quả báo như vậy. Ðó cũng là vì loài người chúng ta không hiểu đạo lý, lại còn tự cho mình là hay, là giỏi, rồi công nhiên tạo ra đủ thứ tội nghiệp, còn trợn tròn mắt mà nói láo. Hành động như vậy thật là mất hết lương tri, lương năng, làm cho bản hữu trí huệ của mình bị hủy diệt đi; thật là đáng thương thay.
Bởi những kẻ hủy báng kinh điển Ðại thừa đó đã dùng tai, mắt, mũi, lưỡi, thân, ý tạo ra đủ thứ ác nghiệp nên khi họ sinh làm người thì thành những kẻ mắc bịnh tâm lý biến thái, trở nên vô tri vô giác, đến khi thọ ác báo rồi lại còn cho rằng mình là hay, là giỏi lắm.
Chúng ta không nên dùng cái “thông minh giả” của mình mà hủy báng lời Phật. Nào là những kẻ rất có tiếng tăm, nào là những nhà học giả trứ danh, nào là những vị giáo sư uyên bác, nào là các vị Pháp sư nổi tiếng, một khi họ nói ra lời hủy báng Phật Pháp thì vô hình trung lời nói của họ sẽ ảnh hưởng đến trăm ngàn vạn ức, vô lượng vô biên người khác, khiến cho những người đó đánh mất đi lòng chơn chính. Cho nên các vị thấy, tạo ra tội nghiệp như vậy không phải là tai hại vô cùng sao? Trăm ngàn kiếp về sau họ sẽ đầu thai làm kẻ thọ quả báo, trở thành những người câm. Bởi vì họ đã làm hại tri kiến của kẻ khác, nói lên những lời khiến kẻ khác hiểu lầm đạo lý, như thế thật là vô cùng nguy hại.
Các vị hãy nghĩ coi, vì sao những người đó cho rằng Kinh Lăng Nghiêm là giả tạo? Là bởi vì họ không thể làm được Bốn Ðiều Răn Dạy Về Tánh Thanh Tịnh: Không dâm dục thì họ không thể làm được, không sát sinh thì họ cũng chẳng làm nổi. Không trộm cắp thì ở trên bề mặt có thể nói rằng họ không trộm cắp nhưng thực sự có rất nhiều học giả; giáo sư thường lấy trộm văn chương của học sinh hay của kẻ khác rồi vá víu lại làm văn chương của mình; nếu đem vật sở hữu của kẻ khác mà làm của mình thì đó chính là trộm cắp vậy. Nếu một ngày nào mà họ nói những lờI lừa dối học sinh thì ngày đó họ đã nói láo rồi. Ðương nhiên không phải tất cả các vị học giả hay giáo sư đều như vậy, song ở trong hàng ngũ những người đạo đức luôn luôn có vô số những kẻ gian dối tác hại.
Bởi vì không làm được Bốn Ðiều Răn Dạy Về Tánh Thanh Tịnh đó nên sợ hãi và không thể chấp nhận lý luận trong Kinh được. Nếu họ chấp nhận lý luận của Kinh thì họ không thể tồn tại và dĩ nhiên họ sẽ mất đi địa vị của họ. Nhưng họ lại không muốn như vậy nên mới làm trái với lương tâm, mới nói rằng Kinh Lăng Nghiêm là giả. Khi có ý nghĩ như vậy là họ đã phạm tội lớn tày trời:
Khoát đạt không,
Bát nhân quả,
Mãng mãng đãng đãng, chiêu ương họa.
Nghĩa là:
Phủ nhận hết mọi thứ,
Bác bỏ luật nhân quả,
Thì tự chuốc lấy tai ương.
Trong tương lai họ sẽ thọ lãnh quả báo đọa địa ngục vô gián, lúc đó họ có hối lỗi thì cũng không còn kịp nữa.
Trong Kinh Lăng Nghiêm
Hiện tại chúng ta đang nghiên cứu Năm Mươi Thứ Ấm Ma, nhưng sợ rằng có cả năm trăm thứ ấm ma sẽ xuất hiện cả đây. Cho nên các vị đừng mở cửa để hoan nghinh chúng làm loạn. Tuy nói là ma, song nhìn bề trái của nó thì chúng đến để giúp đỡ sự tu đạo của mình, xem chí nguyện của mình kiên cố hay là chẳng kiên cố. Nếu kiên cố thì dù ngàn con ma tới mình cũng không thay đổi lập trường, vạn con ma tới mình cũng không thối lui, cái gì mình cũng không sợ cả. Nếu mình không có sở cầu thì tức là “Ðáo vô cầu xứ, tiện vô ưu” (Khi lòng tôi không mong cầu, tâm sẽ hết âu lo).
“Vô sở cầu” tức là không có điều gì sợ hãi. Sợ cái gì? Cũng giống như người sợ quỷ nghĩ rằng quỷ hết sức ghê gớm, xấu xí. Người nào cũng nghĩ rằng người chết thì biến thành quỷ nên họ sợ, nhưng không ai sợ thần. Ông thần Kim Giáp là kẻ hết sức lợi hại mà chẳng ai sợ ông ta.
Khổng Tử từng nói rằng: “Kính quỷ thần nhi viễn chi.” (Kính quỷ thần nhưng lánh xa họ). Song, mình đừng sợ quỷ cũng không sợ thần. Mình cung kính họ nhưng không cần phải thân cận họ.
Ma là đến để thử thách người tu đạo nên các vị đừng có lòng khủng khiếp, lo sợ. Nếu mình sợ sệt thì dù không muốn kêu ma lại nó cũng sẽ tới. Nếu mình không sợ thì nó muốn lại cũng không được. Ðó là mật quyết vô cùng trọng yếu: Ðừng sợ hãi! Khi mình không khiếp nhược không lo sợ thì tự nhiên mình sẽ chánh. “Chánh” thì có thể hàng phục mọi thứ, vì lẽ “tà bất thắng chánh”. Ma sợ nhất bốn chữ: Chánh ÐạI Quang Minh. Nếu mình mà “chánh đại quang minh” thì ma sẽ nép giữ quy củ, chúng sẽ hướng về mình mà đảnh lễ.
Bây giờ hãy nghiên cứu cảnh giới Năm Mươi Thứ Ấm Ma. Năm mươi thứ đó tức là sắc, thọ tưởng, hành, thức. Ðây bất quá là nói sơ lược cốt tủy mà thôi, Kể tường tận thì cảnh giới của chúng ta thật vô số, không thể kể hết được nên Phật chỉ nói có năm mươi thứ là để giúp người đời hiểu và quán sát dễ dàng. Khi sáng tỏ được đạo lý của Năm Mươi Thứ Ấm Ma thì mình sẽ không bị cảnh giới đó làm dao động, đó là điều hết sức quan trọng.
Nếu muốn đừng bị cảnh giới làm dao động thì đầu tiên mình phải trì giới. Giới là căn bản của tất cả các Ðịnh; Ðịnh là căn bản của Trí huệ; Huệ là căn bản để thành Phật. Nếu muốn thành Phật thì nhất định phải tu Giới, Ðịnh, Huệ. Tu mà không tương hợp Giới, Ðịnh, Huệ tức là mình tìm cầu pháp ở bên ngoài tâm, tức là đã “hướng ngoại truy cầu”. Khi có Giới lực thì mình đắc Ðịnh lực; có Ðịnh lực thì mình sẽ có Huệ lực, vì chúng ta là tương sinh. Giới sinh Ðịnh, Ðịnh phát Huệ, Huệ thành Phật; thiếu một thì chẳng thành được.
Do đó, hiện tại mình phải dùng thái độ khách quan mà nghiên cứu, đừng có thái độ chủ quan thì rất dễ có sự thiên lệch. Mình cần phải dùng Trạch Pháp Nhãn (con mắt biết nhận định chân lý) mà quán sát, dùng Trí Diệu Quán Sát mà nghiên cứu nhưng đừng chấp trước ở điều mình quán sát. Trí Diệu Quán Sát cũng giống như là cái gương vậy, chẳng khác gì mấy với Trí Ðại Viên Kính. Trí ÐạI Viên Kính thì chẳng dao động mà có thể hiện ra tướng thật của mọi sự; còn Trí Diệu Quán Sát thì có năng lực quán sát mọi việc khiến mình biết được mọi vật một cách rõ ràng.
Phải dùng thái độ khách quan, không thiên lệch thì mới nhận thức được cảnh giới một cách rõ ràng. Các vị mà mà nhận thức thấu đáo được cảnh giới thì sẽ không bị nó làm cho mê loạn!
Vì sao Chú Lăng Nghiêm có nhiều điều tốt đẹp như vậy? Bởi vì niệm chú Lăng Nghiêm thì có thể nhập Lăng Nghiêm Ðại Ðịnh. Lăng Nghiêm Ðại Ðịnh này không phải là định mà cũng không phải là không định. Song không lúc nào là chẳng định (vô định, vô bất định, vô hữu bất định thời). Cho nên nói rằng: “Na-già thường tại Ðịnh, vô hữu bất định thời.” (Na-già tức là rồng, lúc nào cũng ở trong định, không bao giờ chẳng định.)
Lăng Nghiêm Ðịnh là định hết sức kiên cố, phát sinh ra vô lượng trí huệ, các thứ thiên ma ngoại đạo không thể nào phá hoại nổi.
Nhưng nhập định để làm gì? Ví như tớI Disneyland vậy, nơi đó có đủ trò vui đồng thời cũng có đủ trò kinh dị, mình sẽ thấy những điều chưa từng thấy, sẽ nghe những điều chưa từng nghe. Cũng vậy, khi nhập Ðịnh mình sẽ trải qua những cảnh giới chưa từng thấy hay nghe qua. Nếu như trong Ðịnh mà “như như bất động, liễu liễu thường minh” không bị cảnh giới làm cho dao động, thì mình có thể xoay chuyển tất cả cảnh giới. Ðó chính là sự kỳ diệu khi nhập Lăng Nghiêm Ðịnh.
Không có Lăng Nghiêm Ðịnh thì mình sẽ tùy theo cảnh giới mà xoay chuyển, cái gì lại thì mình chạy theo cái đó, luôn luôn bị cảnh giới dắt dẫn. Khi mình có Lăng Nghiêm Ðịnh này thì mình không còn bị cảnh giới xoay chuyển nữa. Mắt mình nhìn hình sắc mà bên trong không có rung động; tai mình nghe tiếng nhưng trong lòng không bị lôi cuốn theo. Khi thấy việc gì xảy ra mà mình tỉnh giấc thì sẽ ra khỏi vòng phiền trược; nhưng nếu gặp việc mà mê muội không tỉnh giất thì mình sẽ rớt vào vòng luân hồi.
Ở trong định mình có thể phát sinh vô lượng trí huệ, cho nên nói rằng Ðịnh sinh Huệ. Nếu không nhập định thì không thể khai được trí huệ, cũng như chưa tới Disneyland thì không biết trong đó có gì. Cho nên có một vị cư sĩ mời tôi đi Disneyland chơi, tôi muốn coi đây coi đó; họ cho rằng tôi chưa từng thấy qua những chuyện đó bao giờ. Thật ra những hình sắc hay những đồ vật đều không có gì đặc biệt cả. Chúng ta từ vô lượng kiếp đến nay không biết đã thấy qua bao nhiêu thứ, không biết bao nhiêu chuyện nữa, bất quá mình đã nhìn qua rồi quên mất đi. Nếu như mình nhớ được một cách rõ ràng thì không cần coi lại nữa.
(Vạn Phật Thành ngày 19 tháng 4 năm 1983)
Trên thế giới này có nhiều chuyện kỳ quái, nhiềuđến độ không thể nói được. Vì sao mà có đủ sự việc kỳ quái như vậy? Bởi vì tâm lý con người “hiếu kỳ” thích chuyện kỳ quái.
Con người có lòng hiếu kỳ nên thế giới mới xuất hiện những việc kỳ quái. Những thứ đó một khi xuất hiện thì mê hoặc tâm người, khiến mình không còn làm chủ chính mình nữa. Một khi đã không có chủ, gia đình và quốc gia sẽ rối loạn. Ðã loạn thì những quỷ quái đó mặc tình hiện thần thông, làm cho con người điên điên đảo đảo, chạy bên đông, dông bên tây, đi tìm chuyện kỳ diệu, thần thông, linh nghiệm. Ðó đều là bị cảnh giới làm xoay chuyển rồi vậy.
Tại sao mình bị cảnh giới làm xoay chuyển? Là bởi vì có tâm hiếu kỳ. Tâm hiếu kỳ này vốn là tâm tham. Những chuyện kỳ quái phát sinh trên trần gian này, nếu mình nghiên cứu sâu xa tận gốc rễ của nó thì cũng do lòng tham này tạo ra. Nếu không có lòng tham thì không cần thiết phải hiện ra những thứ kỳ quái, làm ra vẻ đặc biệt kỳ quái đó để cho người ta nhìn mình là linh nghiệm như vậy, tốt đẹp như vậy, khác thường như vậy. Bởi vì con người có tâm tham nên bị những thứ kỳ quái đó hấp dẫn, lôi cuốn.
Những điều kỳ quái khác thường đó đều là những việc không chánh đáng, đều thuộc về ma nghiệp. Những việc chánh đáng là nghiệp của Phật. Cho nên hiện tại có rất nhiều người mất đi chánh tri chánh kiến, cái biết cái nhìn đúng đắn. Bạn giảng Pháp chân chánh thì họ nghe không lọt tai, giảng cách nào họ cũng không chấp nhận, thậm chí lời vào tai bên trái thì chạy ra tai bên phải. Song nếu bạn nói những điều kỳ quái, đặc biệt thì họ vĩnh viễn nhớ không bao giờ quên. Ðó chứng minh là con người bị lòng tham tác quái.
Vì sao mà họ không nhớ được điều chân chánh? Bởi vì họ cảm thấy không có lợi gì cho họ cả. Kỳ thật điều chân chánh mới thật là lợi ích. Những người trên thế gian này đa số nhận cái giả mà không chịu nhận cái chân thật, nhận kẻ cướp làm con của mình. Vì vậy khi mình nói điều ngay thẳng, chân thật thì họ chẳng muốn nghe, nhưng khi nói những điều nịnh hót thì họ hết sức vui vẻ. Thật là: “Trung ngôn nghịch nhĩ, lợi ư hành. Lương dược khổ khẩu, lợi ư bịnh.” (Lời trung thật tuy khó nghe nhưng lợi cho việc làm. Thuốc tốt tuy đắng nhưng trị lành bệnh.)
Ða số người đờI đều không muốn tiếp thọ lời trung ngôn, tức là lời nói ngay thẳng, cũng như không muốn uống thứ thuốc tốt nhưng là rất đắng. Nếu mà đưa cho họ thuốc đắng thì họ nhăn mặt làm ra vẻ khó chịu, nói rằng: “Ôi, thuốc này khó uống quá.” Nhưng thuốc khó uống như vậy thì bịnh mới lành được.
Thời đại bây giờ người ta là vậy đó, giảng chuyện của Phật của Bồ Tát thì không ai muốn nghe cả; nhưng nếu kể chuyện yêu ma quỷ quái thì họ lại thích nghe. Thí dụ như nghe kể chuyện trai gái không giữ quy củ, sống hết sức phóng túng thì người ta lại thích thú bởi vì chính họ cũng không muốn giữ quy củ. Ðó là những ý tưởng hết sức hèn hạ, hết sức tệ hại.
Cho nên có những người tới Vạn Phật Thành rồi mà không ở lâu được là vì sao? Là vì họ không có tinh thần hy sinh, không có tư tưởng chân chính vì pháp quên mình. Người chân chánh vì Pháp quên mình thì dù đuổi họ, họ cũng không đi; đánh chửi họ họ cũng chẳng chạy. Họ cảm thấy rằng đây quả thật là chỗ Chánh pháp trụ thế, họ muốn tiếp cận với Chánh Pháp.
Chúng ta ở đây đang nghiên cứu Năm Mươi thứ Ấm Ma, đối với thời đại này thì hết sức hữu dụng. Chúng ta muốn hoằng dương Phật pháp thì phải có tinh thần đại hy sinh, đừng tham lợi ích tiện nghi gì cả. Hễ có kẻ cúng dường phẩm vật mà mắt mình sáng rực, miệng mình cười toe toét thì mình thật chẳng ra gì!
Chúng sinh là do nhân duyên hòa hợp mà thành, từ mười hai nhân duyên mà biến thành người. Từ con kiến cho đến những thứ vi khuẩn đều là chúng sinh. Chúng ta không cần phải đi ra bên ngoài mà tìm chúng sinh, ngay trong tự tánh của mình cũng có vô lượng chúng sinh.
Khoa học hiện tại đã chứng minh rằng trong thân thể ngũ tạng lục phủ của con người có vô số loại vi khuẩn và vi sinh trùng; như vậy có nghĩa là có vô lượng chúng sinh. Khi con người ăn thịt loại động vật nào thí dụ như heo bò hay cá thì trong đó có vô số loại vi khuẩn. Con người ăn loại thịt đó vào trong bụng thì tự nhiên sẽ có chủng tử của những thứ vi khuẩnđó; ăn càng nhiều thì mình cùng với những thứ vi khuẩn đó kết làm quyến thuộc càng mạnh, kết duyên với nó càng sâu, cho đến chỗ là mình với nó không còn phân ly chia cách nữa.
Ăn thịt heo càng nhiều thì mình rất có cơ hội để biến thành heo, ăn thịt bò càng nhiều thì mình rất có thể sinh làm bò. Nếu mà ăn gạo càng nhiều thì mình có thể biến thành gạo chăng? Gạo là loại vô tình, còn chúng sinh là loài hữu tình. Nếu ăn loài hữu tình thì mình có thể trở thành những thứ chúng sinh hữu tình. Nếu ăn những loại vô tình (thực vật) thì mình có thể giúp cho sự phát triển của Pháp thân, Huệ mạng. Nếu con người không ăn thịt chúng sinh nào thì tức là mình độ cho chúng sinh đó, khiến chúng vượt qua khổ hải, tới bờ Niết Bàn. Con người nếu hiểu được đạo lý này thì không nên ăn thịt chúng sinh.
Khi xưa, có kẻ vì ăn thịt chúng sinh nên khi chết rồi thì bị đọa lạc xuống gặp Diêm La Vương. Lúc còn sống ông ta ăn qua những loại thịt của chúng sinh nào thì những thứ đó bây giờ đều tới để đòi nợ. Người ăn thịt tự biện hộ như vầy: “Tôi tuy là ăn thịt nhưng tội không phải thuộc về tôi mà thuộc về người bán thịt mới đúng.”
Bấy giờ Vua Diêm La mới truyền lịnh kêu người bán thịt lại; người bán thịt cũng tự biện hộ rằng: “Tôi sở dĩ mà bán thịt là vì có người mua thịt, nếu không có người mua thì bán thịt làm gì?”
Người bán thịt với người ăn thịt, hai người mới tranh luận với nhau, sau cùng thì hai người đó đổ trách nhiệm lên người anh đồ tể.
Diêm La Vương lại kêu anh chàng đổ tể vào. Anh đồ tể này cũng tự biện hộ rằng: “Tôi đúng là đồ tể nhưng vì có người mua cũng như có người ăn thì tôi mới làm nghề đồ tể. Nếu chẳng có người mua cũng chẳng có người ăn thì tôi cũng chẳng làm nghề này được.”
Vì thế, mọi người đều nói lên cái lý của mình, lý lẽ mà họ nói ra đều tạo tội nghiệp cả. Kết quả, Diêm La Vương phán rằng người ăn thịt phải bồi thường nợ máu. Cho nên chúng ta ăn thịt một loài chúng sinh nào là kết oán với loài chúng sinh đó. Có bài thơ rằng:
“Nhục” tự lý biên lưỡng cá nhân,
Lý biên nhân thực ngoại biên nhân,
Chúng sinh hoàn thực chúng sinh nhục
Tử tế tư lượng nhân thực nhân.”
Nghĩa là:
Ở trong chữ “nhục” có hai người,
Người bên trong ăn người bên ngoài,
Chính chúng sinh ăn thịt chúng sinh,
Nghĩ cho kỹ là người ăn người.
Trong kinh Lăng Nghiêm có chép: “Dương tử vi nhân, nhân tử vi dương.” (Dê chết trở làm người, người chết trở làm dê). Con dê có thể làm người thì con heo cũng có thể làm người. Nếu chưa có Thiên Nhãn thông thì mình không quán sát được nhân duyên đó nêncho rằng heo là heo, dê là dê. Con người mà ăn nhiều thịt chúng sinh thì bản hữu trí huệ của họ bị che lấp, mất linh tánh và biến thành ngu si.
Bởi vậy muốn độ chúng sinh thì trước tiên đừng nên ăn thịt. Con người muốn độ chúng sinh thì phảì độ tự tánh của chúng sinh, độ sinh thì phải ly tướng. Không có chấp trước thì mới thật sự là độ sinh vậy!
--- o0o ---