[03]
Chủ đề TỘI PHƯỚC
HỎI: Thưa
ông, những lời ông dạy thật là dễ hiểu. Nhưng tôi còn thắc mắc rằng không biết
phước có rửa sạch tội không?
ÐÁP: Xin ông
nhớ kỹ, những gì mà ông đã nói, tôi nhắc lại tóm tắt là: Người cố ý làm phước
là được phước, chớ phước ấy không thể rửa tội được. Song khi người tạo phước
nhiều thì ngăn không cho nghiệp ác trả quả tạm thời để tùy tiện mà chạy khỏi
khổ thôi. Ðây cũng như câu nói "Giục huỡn cầu mưu" vậy. Chớ phước
không thể nào rửa tội được. Khi người dể duôi thì tội ấy có cơ hội trả quả liền.
Người tu Phật hằng biết mình
rằng: Nghiệp ác mà mình đã làm sẽ trả quả cho mình, người ấy cố gắng làm lành
là thực hành đúng theo chính pháp để ngăn ngừa nghiệp ác trả quả và sám hối cải
thiện cố tránh khi gặp hoàn cảnh phải tái phạm. Người này cố hết sức mình để
ngăn đón và diệt hết tội ác sắp đến hay đã xâm nhập vào tâm. Ngày nay, người ấy
lười biếng thì nghiệp ác hay tội lỗi đã làm sẽ nổi dậy và cũng nhờ cơ hội ấy là
nghiệp ác cũ lại nhập vào.
Tóm lại: Phật tử là người ngăn
ngừa nghiệp ác trả quả bằng pháp tu hành tinh tấn, không giãi đãi, chớ không
phải làm phước để bù tội hay rửa tội mà mình đã tạo ra.
HỎI: Thưa
ông, ông đã nói phước, tội đều theo ta như bóng với hình, thì ta làm sao trốn
khỏi tội cho được vì nó là bóng của ta.
ÐÁP: Ðược chớ
sao không? Khi người ta đã đắc đạo quả Niết bàn rồi không còn hình ảnh nữa thì
đaâu có bóng. Hơn nữa cũng có khi còn có hình mà cũng không có bóng. Như khi
chúng ta núp trong một cái bóng mát lớn thì bóng nhỏ của hình người không lộ ra.
Ðây tôi cũng ví như khi người sinh lên cõi Trời thì tội không trả quả được,
nhưng khi ra khỏi cõi Trời thì còn tùy theo nghiệp thiện còn oai lực trả quả
hay không.
Một lẽ nữa, người tu hành chân
chính là người đang núp dưới cái bóng mát vĩ đại là thiện pháp. Ðiều người cần
nhớ nhất là muốn cho có bóng mát mãi mãi thì nên thu thúc lục căn, cần có trí
nhớ, trí tuệ để nhìn thấy tội lỗi mà tránh, tìm lấy thiện nghiệp mà tạo thêm.
HỎI: Thưa
ông, không biết tại sao, người không ai thích tội lỗi, điều hung ác, mà người
lại tạo toàn là những điều hung ác?
ÐÁP: Sự thật
không ai ưa xấu, không thích cái xấu đến với mình. Nhưng vì chúng sinh chưa
diệt trừ được tam độc là tham lam, sân hận và si mê nên vẫn còn làm ác.
LOBHATIKA - Tham lam, có ba chi
khác nhau là:
- Lobha, Tham.
- Màna, Ngã mạng.
- Ditthi, Tà kiến.
DOSACATUKA - Sân hận, có bốn chi:
- Dosa, Sân.
- Isasa, Ganh tỵ
- Macchàriya, Bỏn sẻn.
- Kukkucca, Phóng tâm.
MOHACATUKA - Si mê, có bốn chi:
Ahirika, Không hổ thẹn tội lỗi.
Anottappa, Không ghê sợ tội lỗi.
Udhacca, Hôn trầm.
Thinamiddha vicikicchà, Lười biếng, hoài nghi (về nhân quả tội phước).
Ðây là những nguyên nhân đưa
người đi tới nơi tội lỗi.
HỎI: Thưa
ông, người đã nhiễm sâu vào tham lam, sân hận và si mê từ lâu làm sao mà trừ
được để khỏi luân hồi?
ÐÁP: Muốn
diệt trừ được chúng phải có những pháp sau đây: Trước hết là trí nhớ, phạn ngữ
gọi là Sobhanacetasika, có nghĩa là tác ý thiện, có ý là trí nhớ, là tác ý hành
việc thiện.
Phương pháp tập cho có trí nhớ
càng ngày càng gia tăng, đại khái có ba:
1/- Học Pháp bảo (có nghĩa là
phải học thông Tam Tạng pháp bảo, hiện nay rất ít người, cả tăng lẫn tục, thuộc
được Tam Tạng. Theo ý tôi thì ta học được càng nhiều càng hay chớ khó thuộc hết
Tam Tạng).
2/- Học Thiền định. Thiền định
có hai là:
- Samatha: Chỉ quán.
- Vipassanà: Minh sát.
Chỉ quán có 40 đề mục tùy theo
căn cơ và duyên lành của hành giả. Hành giả học đề mục nào phải cố chuyên cần,
làm sao cho đắc được định. Ðịnh mới chỉ là một phương pháp làm cho tâm không
vọng động, chớ chưa phải là giải thoát, vì vậy cần phải có điều thứ hai gọi là
Minh sát.
3/- Học Minh Sát Tuệ, nghĩa là
dùng trí tuệ quan sát cho thấy thân này vô thường, khổ não và vô ngã, khi suy
nghĩ như vậy mới có thể tiêu diệt được 16 điều phiền não.
Muốn hiểu rõ 16 điều này xin xem
"Tam độc và pháp đối trị" (cùng một tác giả đã xuất bản).
Dưới đây tôi xin giải sơ lược về
phương pháp hành minh sát tuệ có 14 chi là:
1. Phải phân biệt rõ ràng trong
con người chúng ta có hai phần là danh và sắc. Danh tức là thọ, tưởng, hành,
thức. Sắc là thân tứ đại này.
2. Thấy nguyên nhân sinh ra danh
sắc này đó là ái dục.
3. Thấy rõ danh Sắc còn ở trong
vòng tam tướng là vô thường, khổ não và vô ngã.
4. Thấy rõ danh và sắc này hằng
sinh và diệt trong mỗi Sát na và không bao giờ ngừng nghỉ, ý nói tiếp tục sinh
dieät như thế mãi nên người phải bị khổ (người hằng nhận thấy như thế, người ấy
mới bước vào được ngưỡng cửa của người có trí nhớ).
5. Thấy rõ sắc này có một trạng
thái là bị tiêu diệt không ở với ta mãi được.
6. Thấy danh và sắc là nhân đem
khổ vĩ đại đến ta.
7. Thấy danh và sắc này hằng đem
tai hại đến ta từng giờ từng phút.
8. Chán nản danh và sắc nghĩa là
không còn quyến luyến đến danh và sắc nữa.
9. Hằng muốn chạy trốn danh và
sắc.
10. Cương quyết hành phương pháp
nào để diệt trừ danh và sắc.
11. Coi sự sinh diệt của danh và
sắc là chuyện thường mà đã là chúng sinh thì không ai chạy khỏi. Ðó là một định
luật tự nhiên vậy.
12. Thấy rõ theo pháp Tứ diệu đế
(nghĩa là thấy rằng danh sắc này khi đã sinh lên thì cái diệt đi kèm theo không
sớm thì muộn cũng tiêu hoại).
13. Thấy danh và sắc tiêu diệt
chớp nhoáng chỉ trong một Sát na mà thôi.
14. Khi đạo tuệ phát sinh lên
thì không còn kinh sợ gì nữa và cũng chẳng còn ham muốn thương yêu quyến luyến
gì nữa.
Khi người có tròn đủ 14 pháp
trên đây mới gọi là người có đủ trí nhớ. Người như vậy sẽ không bao giờ làm tội
lỗi.
HỎI: Theo
lời ông thì chắc chắn rằng, trên thế gian này chưa có ai được đầy đủ 14 pháp
trên, vậy làm sao có đủ khả năng chống phiền não để đi đến nơi giải thoát.
ÐÁP: Ðúng như
nhận xét của ông, nhưng xin ông chớ nên ngã lòng nản chí. Phàm người muốn đắc
đến nơi siêu việt không phải hành một ngày một buổi được, mà phải có nhiều công
phu và thời gian dài để tu tập. Như người muốn đaéc được quả vị nhỏ là thinh
văn duyên giác cũng phải gia công tu hằng hai A tăng kỳ và trăm ngàn kiếp. Phần
đông, người nghe thuật lại việc đắc đạo quả của những vị chỉ nghe qua một câu
kinh đắc quả vị dễ dàng nên nghĩ tu cũng dễ, có người nghĩ "tu nhất kiếp
ngộ nhất thời". Nhưng nên nhớ rằng chư vị mà đắc được dễ dàng như thế phải
trải qua bao nhiêu kiếp tu hành diệt trừ phiền não... và phiền não của các Ngài
đã giảm đi hầu hết rồi, chỉ còn đợi Ðức Chánh Ðẳng Chánh Giác, nhắc đúng nhân
đúng chỗ là giải thoát được.
Xin nhắc lại một lần nữa để ông
nhớ rằng: Trên đời này không có việc gì khó, nhưng chỉ khó ở chỗ người không
chịu khó thực hiện theo chính pháp mà thôi, nên ông cố gắng thực hành đi, mỗi kiếp
thêm một ít, thì làm sao không đắc thành sở nguyện.
HỎI: Thưa
ông, tôi được biết hiện nay có rất nhiều người học và nghiên cứu giáo lý của
Phật. Những người ấy thường dạy đời "Làm lành gặp lành, làm ác gặp
ác". Nhưng chính tôi biết rõ là họ không làm lành mà lại làm ác. Không
biết tại sao vậy?
ÐÁP: Rất hân
hạnh được nghe ông hỏi câu này. Phần đông người đời đều thuộc nằm lòng câu ấy,
thậm chí họ lại nói nguyên văn câu ấy là "Tích thiện phùng thiện, tích ác phùng
ác". Nói mà không thực hành, nói để người khen là thông hiểu đạo đức,
nhưng kỳ thực là con vẹt thôi. Thật sự thì họ nói thuộc lòng chớ không thâm
nhiễm được giáo lý. Người nói được nhưng không thực hành theo là do ba nguyên
nhân:
1. Vì không nhận định và không hiểu rõ lành và dữ đúng
theo đường lối của Ðức Phật.
2. Vì không biết cách làm lành lánh dữ.
3. Không phân biệt hay không biết rõ kết quả của việc lành và dữ lợi hại như
thế nào.
HỎI: Thưa
ông, ông vừa dạy phải nhận xét lành và dữ đúng theo giáo lý của đức đại giác
khác hơn lề lối thông thường của người đời. Xin ông vui lòng giảng giải thêm
cho dễ phân biệt.
ÐÁP: Nhiều
người nghĩ thiện ác theo lẽ đạo cũng giống như ngoài đời, nhưng sự thật thì có
khác nhau.
Người đời hiểu "Lành"
theo sự việc thọ hưởng và thỏa mãn lòng ham muốn của họ. Chẳng hạn như được yêu
thương, quí mến, gặp được gì mà họ hằng mơ ước, họ cho rằng đó là lành hay gọi
là phước. Nếu có ai bảo rằng: Những sự việc mà mình được hưởng trong đời này
không chắc toàn lành thì không bao giờ họ tin. Muốn biết sự thật thử hỏi mấy ông
thích uống rượu và hút thuốc phieän coi có phải các ông ấy nói đó là thú vui
không? Nhưng trái lại các bậc trí thức không nhận là lành. Như vậy ta thấy
người đời hieåu hai tiếng lành dữ khác nhau hơn lời Phật dạy.
Theo lời Phật dạy: muốn biết
lành dữ thì nên tìm hiểu nguyên nhân và hậu quả của sự việc. Nếu việc làm nào
do thân, khẩu, ý không trong saïch, tâm sân hận, tác ý ác, hành động như vậy sẽ
làm cho con người khổ, đó là điều ác. Trái lại việc làm nào tác ý mát mẻ không
lẫn phiền não là tham lam, sân hận và si mê, những sự việc ấy sẽ làm cho lòng
mình mát mẻ vui vẻ, mà người khác cũng được vui và lợi ích điều ấy gọi là lành.
HỎI: Thưa
ông, người đời cho rằng lợi lộc, quyền tước, khen tặng và an vui là lành. Vậy
bốn điều này theo Phật pháp có công nhận là lành hay không?
ÐÁP: Cũng có
thể gọi là lành, nhưng đó là lành của thế gian, nghĩa là cái lành của người còn
phiền não, cái lành ấy còn làm cho người phải luân hồi mãi. Cái an vui của bốn điều
nói trên cũng ví như cái ngọt của mật mà trong ấy có chất độc giết người lần
mòn mà không ai hay. Vì vậy Ðức Thế Tôn khuyên chúng sinh nên tìm cái lành, an
vui hạnh phúc của lòng thanh tịnh, của tâm giải thoát khỏi vòng phiền não. Sự
thanh tịnh ấy mới là an vui tuyệt đối và vĩnh cửu.
HỎI: Thưa
ông có nhiều người cho rằng: Phước là chuyện nói khích lệ con người thôi, chắc
gì có thật. Vì họ nói đã làm nhiều việc lành mà có thấy trả quả gì đâu.
ÐÁP: Hạng
người này thuộc về hạng thứ hai mà tôi đã nói khi nãy. Người nói đã làm lành mà
không hưởng quả là vì người ấy chưa biết phương pháp làm lành, hay đã biết mà làm
chưa đúng. Ví như người làm nước mắm chấm, cũng nước mắm, chanh, đường, ớt và
tỏi đó, nhưng có người làm ngon có người làm không ngon. Tại sao? Tại vì làm
không đúng độ lượng của mỗi thứ thì làm sao ngon được.
Người làm phước cũng vậy, chưa
làm đúng cách hay còn thiếu chưa đúng độ nên chưa có kết quả mỹ mãn đó thôi. Dù
vậy cũng không phải là mất hết công đức nhưng chỉ vì còn quá ít nên chưa trả
quả thôi.
Vì vậy Ðức Thế Tôn dạy cần phải
học cho làu thông Tam Tạng để biết cách làm lành. Người làm việc mà thiếu trí
tuệ thì không có kết quả mỹ mãn. Khi làm việc thiếu trí tuệ, thì công việc ấy không
được chu đáo, giảm bớt phần kết quả tốt đẹp.
Hơn nữa người làm lành mà chưa
được hưởng quả là vì chưa tới phiên nó, hay là nó chưa có cơ hội để chen vào.
Hoặc vì ác nghiệp còn nhiều năng lực đang mạnh, quá nặng và dày hơn phước báo,
còn phước ta mới làm đã ít, nhỏ thì làm sao có đủ khả năng chen vào trả quả cho
được. Nếu là người Phật tử chân chính không bao giờ nghĩ gì khác hơn là: Cố
gắng làm lành, càng ngày càng nhiều để diệt trừ phiền não. Người còn vui, còn
khổ là vì còn nhiều phiền não. Khi đã hết phiền não thì đâu còn vui khổ nữa.
HỎI: Thực ra
nếu ai ai cũng hiểu như ông nói thì không cảm thấy có gì ràng buộc. Nhưng thưa
ông, tôi còn nghi ngờ làm thế nào để phân biệt rõ kết quả lợi hại của lành và
dữ.
ÐÁP: Câu này
ám chỉ: Người không tin tưởng làm lành được lành, làm dữ gặp dữ như vậy là bởi
ba lí do sau đây:
1. Vì người thiếu sáng suốt để nhận thức được lành thực sự
theo lời Phật dạy là cái gì?
2. Không thông hiểu phương pháp làm lành đúng theo lẽ đạo.
3. Không có trí tuệ suy xét lành và dữ có tính cách khác nhau như thế nào?
Câu thứ ba có ý nói: Người làm
lành cần biết trạng thái của việc làm lành có hai điều là:
- Quả của việc lành.
- Ảnh hưởng của việc lành.
Xin ví dụ cho dễ hiểu, như người
kia trông thấy kim thân Ðức Phật phát tâm tín thành trong sạch đảnh lễ ngài.
Khi làm như thế người ấy sẽ được những gì? Tâm người ấy được trong sạch khi
đảnh lễ đó là quả của sự làm lành. Tâm người ấy được vui vẻ vì lành. Nhưng
người đời mấy ai có đủ trí tuệ sáng suốt để hiểu thấu như vậy. Phần đông đều
nghĩ rằng làm lành sẽ được giàu sang, phú quí danh vọng mà họ cho là phước.
Vì hiểu lầm như vậy nên khi làm
lành rồi không được toại nguyện, họ phàn nàn cho là làm lành mà không được
phước gì cả, cũng do hiểu biết sai lầm như thế mà đâm ra hoài nghi Phật pháp.
Hơn nữa người làm phước hằng
mong được phước thì không khác nào con buôn hay người cho vay muốn được lời
nhiều. Vì vậy nên quả báo của việc thiện lại bị giảm bớt đi vì lẽ người làm
phước ấy bằng tâm tham lam chớ không phải tâm từ bi hay vì lòng vị tha mà làm.
HỎI: Ông vừa
nói về phước. Vậy xin ông cho biết phước theo Phật giáo ngụ ý chỉ vật chi? Có
phải là giàu sang, danh vọng, quyền tước ... như người đời thường quan niệm hay
không?
ÐÁP: Theo
tiếng phước của chúng ta, tôi không hiểu ý nghĩa cao thâm như thế nào, nhưng
theo phạn ngữ "Punna" hay "Punya" (pun-nha) có nghĩa là:
1. Rửa chùi, mài tâm cho không
còn tý nhơ bợn nào của phiền não nữa.
2. Làm sao cho tâm nhẹ nhàng thơ thới, còn chìm đắm trong cảnh đau khổ là biển
trầm luân.
Thế nào là cho tâm trong sạch,
hay là chùi mài rửa tâm. Lẽ cố nhiên tâm con người vì lẫn trong đời và quá
nhiều kiếp trầm luân nên phiền não càng ngày càng đóng dày ra những phiền não
ấy nhất là tham lam, sân hận và si mê làm cho tâm không còn phân bieät đâu là
đường lối giải thoát. Phước là nhân kì mài chùi rửa tâm cho hết những chất rong
độc là phiền não. Khi tâm được chùi rửa sạch phiền não, tâm ấy được an nhàn
thong dong tự tại, cái vui ấy là phước.
Tâm nhẹ nhàng thơ thới không còn
chìm đắm. Ý nói tâm con người hằng chìm đắm trong tam độc không khác nào người
bị cột đá nặng vào lưng rồi đem thả giữa đại dương. Người bị khổ hình ấy chỉ phải
chịu chết mà thôi, nếu người nào có tài bơi lội giỏi chăng nữa cũng khó sống.
Nếu người thông minh nên cố cởi bỏ những tảng đá nặng mới có thể bơi được.
Phước là sự cởi bỏ những tảng đá đeo ở lưng. Tâm có khỏi bị chìm là nhờ có sự
cởi bỏ được đá.
Theo Phật giáo: Quả của phước là
tâm được trong sạch, được kỳ mài, chùi rửa hết phiền não, và không còn chìm đắm
trong vòng luân hồi nữa. Người không còn bị sự hành hạ cho đau khổ nữa nên gọi là
phước. Phước là sự được giải thoát khỏi luân hồi.
Còn quả của phước mà người đời
ham muốn nào là sự an lạc trong cõi nhân thiên như là sang giàu, quyền chức, vợ
đẹp, con khôn, đaây cũng là quả của phước, nhưng người làm phước không được thọ
hưởng liền khi vừa làm phước xong, vì còn đợi một thời gian sau mới được hưởng.
Còn quả hiện tại mà người làm
phước được liền trong khi đang làm là sự vui vẻ trong tâm, làm cho tâm thơ
thới, đó mới là phước thực sự. Ðiều này chỉ có các bậc trí thức mới nhận thấy
rõ.
HỎI: Thưa
ông, nếu nói đến phước, người đời ai cũng nghĩ đến sự bố thí hay giúp đỡ người
nghèo khổ hoặc người bị hoạn nạn ... Vậy có phải bố thí là làm phước hay không?
Xin ông vui lòng giải thích làm phước cách nào cho hợp theo lẽ đạo?
ÐÁP: Nghĩ như
ông cũng đúng một phần nào là vì bố thí (hay đem của ra cho) là nhân diệt trừ
phiền não, là tham lam bỏn sẻn. Nhưng sự tham lam mới chỉ có một trong Tam độc.
Vì vậy nên Ðức Thế Tôn còn dạy thêm nhiều cách làm phước khác nữa mới mong diệt
được tất cả các phiền não.
Ðây, tôi xin ví dụ cho dễ hiểu
hơn. Trì giới để ngăn ngừa tham lam và trừ sân hận. Thiền định để
làm cho tâm an trụ và trừ si mê. Hai pháp sau này người hành theo cũng gọi là
làm phước được, vì phước là nhân đem lại sự an vui và rửa sạch phiền não ở
trong lòng người. Với sự Bố thí, mình tự diệt tâm bỏn sẻn, chặn đứng
tham lam và đồng thời làm cho người được mình giúp đỡ an vui. Vì vậy nên người
mới tu Phật đều nghĩ chỉ có sự bố thí mới gọi là làm phước. Còn ít khi họ nghĩ
trì giới, tham thiền, Nhẫn nại, từ bi mà hành giả hành là tạo phước. Khi người
trì giới được chín chắn là chặn đứng lòng tham lam, diệt trừ sân hận. Tham thiền
là nhân tiêu diệt si mê cho chính bản thân mình mà người bên mình cũng được vui
lây vì nhờ ảnh hưởng sự tu hành của mình. Ðoạn này tôi có giải rõ trong quyển "Phiền
não và pháp đối trị" đã ấn tống xong.
Tóm lại bố thí, trì giới,
tham thiền cũng là phước làm cho tâm ta trong sạch nhẹ nhàng thơ thới. Pháp
ấy là pháp đối trị của tam độc là Tham, Sân, Si.
Hành ba pháp kể trên cũng đều
gọi là làm phước hay làm lành. Khi ta được an vui do lòng hỉ lạc phát sinh đó
là hưởng phước vậy.
HỎI: Nói đến
sự bố thí, tôi thấy có một chuyện cần phải hỏi lại ông để thông đạt, khỏi nghi
ngờ, vì tôi thường thấy Phật giáo tiểu thừa như ở Campuchia, Lào, Thái Lan,
Miến điện, khi cúng dường đến chư sư họ rất là cung kính, chuyện ấy đã đành, vì
các ngài là bậc có giới đức. Còn đàng này họ cho người đi ăn xin cũng tỏ ra rất
cung kính, nên đây là một lý do mà tôi nghi ngờ. Có lúc nọ tôi chưa biết ông,
tôi gặp ông ở rạp chiếu bóng. Ông cho tiền người ăn xin mà tôi thấy ông trịnh
trọng đưa cho người ấy hai tay. Tôi không biết vì lí do gì ông làm vậy, xin ông
cho biết.
ÐÁP: Trước
hết tôi xin lỗi ông là không nên dùng chữ "Ðại thừa và tiểu thừa". Vì
Phật giáo không có vấn đề "Ðại - Tiểu", người ta đặt ra để gọi vậy thôi.
Ðúng ra phải gọi các nhà sư những xứ ông vừa kể là Nam tông hay là Nguyên thủy. Còn
đại thừa đó là Bắc tông hay là Tân tiến.
Bây giờ tôi xin hỏi, ông trả lời
theo ý ông. Vậy ông có thể cho một người ăn xin bằng cách trân trọng kính nể
hay không?
HỎI: Thật ra
mà nói thì chắc không được.
ÐÁP: Xin hỏi
ông tại sao ông không thể làm như vậy được? Chắc ông khó trả lời, nhưng tôi có
thể trả lời thế cho ông là: Vì các người ấy thiếu những yếu tố cho ông kính trọng:
người ấy thuộc tầng lớp thấp kém trong xã hội. Người ấy là người không có học
thức rộng. Người ấy còn trẻ tuổi hơn ông.
Người đời vì ngã chấp cái ta cao
quí hơn người, giàu có hơn người, học cao hiểu rộng hơn người, dòng quí phái,
hạng thượng lưu trong xã hội. Những điều mà tôi kể đây là một trong chi nhánh
của si mê. Những phiền não mà tôi kể cho ông nghe thường ngự trị trong tâm của
tất cả người trên vũ trụ này, tuy coi những phiền não ấy không phải vĩ đại lắm
nhưng mà thật là khó diệt trừ được. Vì chấp cái ta ấy mà chúng ta bị trói buộc
mãi trong vòng luân hồi khổ, tâm không được an vui thơ thới, để phải chìm đắm
mãi mãi.
Những Phật tử mà ông thấy trên,
đã cung kính người ăn xin thọ thí vì họ nhận thấy rằng: chúng sinh ai cũng có
giá trị và nhân phẩm ngang nhau. Sở dĩ người kia kém hơn mình vì người ấy ít
phước nên sinh vào gia đình nghèo khổ, tàn tật. Ta không nên vì thế mà xem
thường họ. Hơn nữa, thí chủ không nghĩ rằng kính trọng người thọ thí của mình
mà chỉ kính trọng sự cúng dường hay sự giúp đỡ người quyến thuộc. Khi làm được như
vậy trong một lúc thí chủ diệt được hai pháp là: Diệt lòng bỏn sẻn và đánh ngã
được cái chấp ta hay thường gọi là ngã mạn của mình.
Khi phụng dưỡng cha mẹ, cúng
dường các bậc đáng cúng dường như người xuất gia là hạng có giới đức, hay đem
vật dụng lại biếu thầy tổ ta tỏ ra rất cung kính, đó là ta kính trọng công ơn
và đức hạnh của các ngài. Ðó thuộc về hạnh biết kính trọng người trưởng thượng,
làm như thế thật tương đối dễ dàng hơn. Trái lại, sự kính trọng người thấp hơn
mình về đẳng cấp là việc làm thực khó, rất ít người làm được. Nhưng ta nên cố
gắng thực hành để tâm mình bớt cái chấp ta, ông nên nghĩ khi người ăn xin kia
được thọ lãnh của một người cao sang hơn bằng cách cung kính họ, họ sẽ nghĩ
sao? Chắc chắn là họ cảm thấy có sự an ủi là không bị người khinh bạc.
Biết kính trọng người thọ lãnh
của bố thí của mình kiếp sau sanh lại trong hoàn cảnh nào, ở đâu và đi đến nơi
nào cũng đều có người thương mến kính trọng. Ðây là quả báo của sự biết trọng người
thọ thí.
HỎI: Thưa
ông, bố thí cũng có phước, trì giới cũng có phước và tham thiền cũng có phước,
vậy những phước ấy có giống nhau hay khác nhau thế nào? Xin ông cho tôi nói ý
kiến tôi, và ông thử nhận định coi tôi có thể hiểu được lý đạo tí nào chưa.
Theo tôi hiểu thì chắc có chỗ khác nhau, vì ba điều ấy thấy tên cũng khác mà
hành vi cũng không giống nhau, thì chắc quả cũng khác nhau chớ.
ÐÁP: Ông nhận
thức đúng rồi. Phước là nhân đem sự an vui lại cho người tạo phước, phước có
một mùi vị là an vui. Nhưng nói về quả thì có chỗ khác nhau.
Thí dụ, người bố thí thì kiếp
sau được giàu sang nếu không có giữ giới, chẳng hạn thiếu giới không sát sinh
thì kiếp sau sinh ra thực giàu có nhưng sẽ không sống lâu để trọn hưởng nhiều
của cải ấy. Còn nói nếu người bố thí mà không giữ giới, không trộm cắp, trong
sạch, kiếp sau sinh lại có của cải, nhưng thường bị người ta lường gạt hay trộm
cướp, hay bị cưỡng đoạt lấy của thì chắc người có của ấy cũng chẳng yên vui gì mà
còn khổ về sự mất của là khác.
Còn người không thọ giới không
tà dâm trong sạch, khi mình giàu có, nhưng con gái làm việc đồi phong bại tục,
vợ nhà cũng không có pháp tri tuùc, ý tôi muốn tránh tiếng ngoại tình vậy. Thử
hỏi người giàu ấy có hạnh phúc với gia đình hôi thối ấy không.
Còn nói về thiếu giới không ẩm
tửu. Người uống rượu bị cái quả là sanh về kiếp nào cũng thường kém trí nhớ,
nếu nặng lắm là khùng, hay điên; người giàu có mà tâm trí không được bình tĩnh
để hưởng thì cái giàu ấy chẳng ích chi.
Vì vậy Ðức Thế Tôn dạy trước khi
bố thí muốn cho trong sạch cần phải trì giới cho trong sạch để mình làm việc
lành cho được trọn lành. Người đã có bố thí trì giới rồi mà không có thiền định
cũng chưa cao quý. Vì người có hai pháp ấy mà thiếu thiền định thì khi sanh về
kiếp sau tầm thường hay vọng động hay chạy theo cảnh trần, hoặc tâm ấy thiếu
cương quyết, làm việc gì cũng không hoàn toàn tin mình. Ðiều trọng đại nhất là
thiếu trí tuệ, nên vì mùi chung đỉnh quên cả sự tu hành của mình. Như ông thấy
có lắm người giàu sang, nhưng không bao giờ nghĩ đến việc làm phước và nghĩ đến
việc tu hành.
HỎI: Nói vậy
thì người tu cần phải hội đủ ba pháp là Bố thí, Trì giới và Tham thiền. Nhưng
thưa ông, như chúng ta là người cư sĩ tại gia thì làm gì có thời gian nhàn rỗi
để tham thiền?
ÐÁP: Tại sao
ông nghĩ như vậy, có ai bắt ông phải ngồi Tham thiền cả ngày đâu. Như tôi đã
nói, mỗi ngày, sau khi làm xong mọi vieäc, mình nên để ra nửa giờ để làm lễ
Phật, quan sát việc làm của mình để xem lại trong ngày mình đã làm những gì?
Nguyện bỏ việc ác, hành việc thiện. Rồi bỏ ra chừng 10 hay 15 phút quán tưởng
cho thấy rõ ba tướng là vô thường, Khổ não và Vô ngã. Khi hành theo phương pháp
này gọi là hành theo Minh Sát Tuệ. Sự quán tưởng của ta mỗi đêm như thế lần lần
đi đến chỗ nhận thấy rõ thân này và phát sinh trí tuệ. Nhờ sự ăn sâu vào Tâm
nên sinh vào kiếp nào cũng thấy chán với thân này và không bao giờ quên được. Ðây
là nhân duyên để người không quên tu hành và cũng là gây thêm duyên lành để gặp
Phật, khi ấy để đắc đạo quả. Ông nên nghĩ kỹ lại coi, chỉ cần 30 phút trong một
ngày mà ta gieo được duyên giải thoát. Hỏi vậy có đáng cho chúng ta thực hành
hay không? Xưa kia các bậc thánh nhân cũng nhờ con đường đi ấy nên ra khỏi tay
Ma vương, vậy ta tiếc gì mà không đi theo vết chân các Ngài.
Ðể khích lệ thêm tôi xin nhắc
lại chuyện tích vị Ðại đức tên Yassa (Hán âm là Dá xá) là vị đệ tử đắc A La Hán
quaû sau năm vị Kondanna (Kiều Trần như). Ngài là vị A La Hán thứ sáu.
Khi Ðức Thế Tôn ngự tại vườn Lộc
Giả trong thành Bàrànasì (Hán âm Ba Nại La), có một vị Trưởng giả, ông ta chỉ
có một người con trai cưng hơn cả châu báu mà ông đã có. Người con ấy có tên là
Yassa; ông Yassa được cha mẹ chiều chuộng, được hưởng hạnh phúc trên đời này
giống như Thái tử Siddhattha (Sĩ Ðạt Ta) khi còn tại vị.
Ðêm nọ, bỗng dưng ông cảm thấy
không có hứng thú gì với sự ăn uống, ca xang của mỹ nữ, bèn cho dẹp hết mọi thú
vui và đi nghỉ. Sau khi ngủ được một lúc, ông tỉnh lại giữa đêm trường tịch
mịch, bỗng thấy những mỹ nữ nằm ngủ quanh đấy không còn veû mỹ lệ như hàng
ngày, trái lại thấy họ như những tử thi sình phát ra mùi hôi thối không chịu
nổi, khiến ông cảm thấy như đang sống giữa bãi tha ma. Tiếng ngáy của mỹ nữ như
tiếng giành ăn thịt của loài dã thú. Ông lấy làm kinh sợ; ông chán với cảnh thê
lương ấy. Liền khi đó ông nảy ra ý nghĩ: Lẽ cố nhiên người còn trong vòng tại
gia là người rất gần với sự tai hại đủ điều. Ông bèn lần bước xuống lầu mở cửa
ra đi, mà chính ông cũng không biết phải đi đâu. Khi ấy chư Thiên muốn hộ trì
ông xuất gia cho dễ dàng, nên bước đi của ông không có tiếng động.
Lúc đó, Ðức Thế Tôn đang đi kinh
thành. Thấy ông Yassa từ xa đi đến, Ngài liền lên ngự trên pháp tọa.
Ông Yassa vẫn đi mà không định
phương hướng, vừa đi, vừa lẩm bẩm: Nơi đây thật bẩn chật.
Ðức Thế Tôn dạy: Này Yassa, nơi
đây là nơi không có sự tai hại, người hãy đến và ngồi nơi đây. Như Lai sẽ
thuyết pháp cho người nghe.
Khi nghe tiếng thanh tao và rất
êm ái như tiếng mẹ ru con ông liền tỉnh lại như người tỉnh cơn mê, và cởi giày
vào hầu Phật. Ðức Thế Tôn thuyết bài kinh gọi là Anupubbikatha có nghĩa là Pháp
đi theo tuần tự. Sau khi nghe xong thời pháp ông đắc quả Tu đà hườn. Tích này
còn dài, nhưng tôi chỉ tóm lại nơi đây một đoạn để ông thấy. Tại sao trước kia
ông Yassa thấy lầu đài mỹ nhân cho là đẹp mà đêm ấy lại coi như tử thi và bãi
tha ma? Nơi đây chỉ cho ta thấy duyên lành của ông đã đến làm cho ông chán naûn
kinh khiếp cảnh giàu sang mà xuất gia.
HỎI: Thưa
ông, làm phước về Bố thí thì tôi thích lắm, nhưng vì bận nhiều việc nên tôi
không đủ thời giờ rảnh. Vậy có cách nào giản tiện xin ông làm ơn chỉ dạy?
ÐÁP: Trước
khi giúp ông, xin ông vui lòng trả lời câu này: "Khi ông thấy người khác
hay người nhà ông bố thí ông có thỏa thích trong việc làm của người ấy không?"
-- Có,
chẳng những tôi thỏa thích với việc làm của họ mà tôi càng khuyến khích và nhắc
nhở họ nên làm như vậy cho thường.
-- Nếu ông
thỏa thích trong sự bố thí hay nhắc người nhà bố thí luôn luôn thì ông cũng đã
được phước y như chính ông bố thí. Vì vậy, nếu không có thời gian rảnh nhiều
ông cũng vẫn có thể nhờ người nhà thay ông bố thí. Tôi xin nhắc lại ông nhớ
rằng bố thí cần phải có ba yếu tố sau đây, phước báu mới tròn đủ:
1/- Tác ý trong sạch trước khi
làm phước. Ý nói trước khi làm phước, ông nên nghĩ đó là việc làm lành, diệt
trừ được phiền não bên trong là lòng bỏn sẻn, và giúp đỡ người khi thấy lòng thoả
thích, rồi sắp đặt mua sắm vật dụng đeå bố thí.
2/- Trong khi đang bố thí lòng
rất hân hoan, vui vẻ thoả thích, làm mình không hề biết mệt. Và khi dâng đến
tay người thọ lãnh bằng cách kính thành, không bao giờ nghĩ đến việc tiếc công
tốn của.
3/- Sau khi bố thí xong, hằng
nhớ đến phước của mình làm, vui vẻ thoả mãn với việc làm, nghĩ đến sự diệt trừ
được lòng bỏn sẻn bên trong là một chuyện thật khó có người làm được. Người đời
có thể ngăn được tham lam, nhưng khó diệt trừ được lòng bỏn sẻn. Vì người không
tham là người không trộm cắp hay lường gạt vì nhiều lẽ, hoaëc sợ tội với Pháp
luật hay danh giá. Còn bỏn sẻn mà người có chăng nữa cũng chẳng sao, vì không
phạm Pháp luật của Nhà nước mà cuõng không làm hại ai. Nhất là phải đem của
mình ra cho người khác là chuyện khó làm nhất. Nên người làm phước là người
được nhiều điều hạnh phúc: Diệt lòng bỏn sẻn, vun trồng thêm đức Từ ái. Cứu
người trong cơn thiếu thốn, Làm cho người vui mừng. Ðược nhiều người thương yêu
kính mến. Ði đến nơi nào cũng có nhiều người biết tên tuổi, mau được giải thoát.
Ðể cho ông dễ nhớ, dễ hiểu, tôi
xin nhắc sơ lược chuyện tích của một ông Trưởng giả có tiền của nhiều vô số,
nhưng tánh ông ta rất là bỏn sẻn, ăn toàn đồ không ngon, mặc toàn đồ rẻ tiền.
Có người đến hỏi Ðức thế Tôn vì
nguyên nhân nào ông Trưởng giả ấy lại quá bỏn sẻn, keo kiệt, không dám ăn ngon,
mặc sang?
Ðức Thế Tôn mới nhắc lại tiền kiếp
của ông như vầy:
Trong kiếp quá khứ ông sinh làm
người, nhưng không có đức tin với Phật giáo. Nhưng ngày nọ, ông ta thấy một Ðức
Phật Ðộc giác đang đi khất thực, tướng hảo quang minh lục căn thu thúc. Ông
phát tâm kính thành trong sạch với Ngài, muốn cúng dường một bữa. Nhưng vì bận
công việc phải đi ngay, nên mới bảo vợ rằng: Em ở nhà lo làm vật thực dâng cúng
đến Ngài Ðại đức, tôi đi có chuyện cần một lúc lại về.
Bà vợ là người có đức tin muốn
làm việc lành đã lâu nhưng không dám, vì ông chồng chưa cho phép. Ðược cơ hội
thuận tiện bà lo món ăn thật quí cúng dường cho Ngài. Khi Ðức Phật Ðộc giác thọ
lãnh xong trở ra thì ông chồng về tới. Gặp Ðức Phật Ðộc giác ông ta mới hỏi:
"Người nhà tôi có cúng dường cho Ngài chưa? Và xin coi bát của Ngài."
Ðức Phật Ðộc giác giở bát cho
ông xem. Khi thấy những món ăn quí ông ta lấy làm tiếc và nghĩ thầm "Uổng
quá, phải chi để những món ăn này cho kẻ ăn người ở trong nhà ta ăn, họ còn có
thể giúp ích cho ta trong gia đình còn hơn. Cúng cho vị Ðại đức này, khi Ngài
ăn xong về rừng, không có ích lợi gì cho ta hết."
Vì sự suy nghĩ hối tiếc ấy nên
hiện nay ông giàu có thật, nhưng ông ta ăn mặc cũng như kẻ nô tỳ hèn hạ.
Ðức Phật lại dạy thêm rằng: Phải
chi ông không ân hận hối tiếc như vậy, ông ta sẽ được sinh làm Trưởng giả như
thế cho đến chín đời. Mặc dầu sinh làm trưởng giả, nhưng không hưởng được sự
hạnh phúc gì hết, ông chỉ khác hơn kẻ tôi đòi của ông ta là không ai làm quyền
vậy thôi.
Sở dĩ tôi nhắc tích này lại đây
để cho ông thấy rằng: Khi đã làm phước rồi không nên ân hận hối tiếc và nên làm
cho tâm mình có đầy đủ 3 yếu tố trên thì phước căn mới tròn đủ được.
HỎI: Thưa
ông, tôi muốn biết tại sao trong kinh có nhiều chỗ nói khác nhau, có nơi nói ai
tu nấy đắc, ai làm phước thì người ấy được phước. Tại sao có nơi dạy khi làm
phước xong phải đem phước ấy ra cho thân nhân đã quá vãng. Thưa ông tôi thắc mắc
chỗ đem phước mình ra cho như thế thân nhân mình có hưởng được hay không?
ÐÁP: Sự thật
thì ai làm phước người ấy hưởng, cũng như người nào ăn thì người ấy no. Kẻ này
ăn thế cho người kia không được. Nhưng trong trường hợp này là trong gia đình
có người làm phước như Bố thí, Trì giới hay Tham thiền chẳng hạn, khi làm xong
việc phước thiện ấy cho người trong gia đình biết rằng mình có làm việc lành
ấy, và xin chia phần phước của mình cho người nhà. Người nào trong nhà có tâm
kính thành và trong sạch tỏ lòng hoan hỉ phước ấy, người tỏ lòng hoan hỉ ấy
cũng được phước như thường. Phước lành này theo Phật dạy gọi là
Pattànumodanàmaya, nghĩa là quả phước mà được ấy do nơi sự hoan hỉ thọ nhận
phước của người khác chia cho. Tôi xin ví dụ như ông làm việc lãnh lương đem về
cho người trong gia đình. Người nào chịu nhận lấy tiền ấy thì người ấy có tiền
bằng không lấy thì không có.
HỎI: Thưa
ông vì muốn làm phước mới được phước, nhưng lại bảo đem phước đi cho hết thì
còn gì?
ÐÁP: hình
như câu này tôi có viết trong quyển "Ba ngày luận đạo". Nhưng nay ông
hỏi thì tôi xin nhắc lại sơ lược, ông hiểu như thế cũng có lý của ông, nhưng sự
thật thì người cho phước càng được nhiều phước. Người thế gian của chúng ta ăn
vật thực, mặc quần áo, nên cần tiền mua sắm. Riêng người sinh về cảnh giới khác
ngoài cõi này thì họ chỉ cần dùng phước báo mà thôi. Khi người ta cần dùng phước
mà ta cho phước thì người ở cảnh ấy vui mừng thỏa thích, thế nào họ cũng cầu
chúc cho ta an vui hạnh phúc. Cũng như ta bố thí trong kiếp hiện tại này người
được của họ vui mừng. Nói tóm lại người đời bố thí của cải, vật thực, chỗ ở,
thuốc uống, nhưng người ở cảnh giới khác họ cần phước, thì ta lấy phước của ta
đem cho như cho của cải trong cõi này thì ta còn được phước lần thứ nhì nữa.
Hơn nữa người Phật tử cố tâm
giải thoát chỉ cần dứt bỏ mọi phiền não dục vọng trong Tâm mà thôi, chớ không
còn mong được phước hay chi chi hết. Vì ta còn mong được phước, sợ hết phước,
vì ta còn muốn sinh lại một nơi nào. Vì vậy nên phiền não vẫn còn mãi và cũng
vì vậy nên không thoát khỏi vòng trói buộc của Ma vương.
Tóm lại là người càng diệt được
nhiều phiền não chừng nào thì càng mau giải thoát chừng ấy... Phước cao thượng
và chân chính nhất là lòng không còn ham muốn mong mỏi một điều gì, mà điều ấy còn
trong vòng Luân hồi khổ.
HỎI: Thưa
ông tôi vẫn chưa hết nghi ngờ vì câu nói "ai làm nấy hưởng". Vậy chia
sao cho được?
Thực ra nếu điều này đối với
người còn tại tiền thì rất dễ, nhưng đối với các bậc ân nhân đã quá vãng của
chúng ta thì làm sao chúng ta biết được các vị ấy có hưởng hay không. Nếu một
khi các vị ấy không thọ hưởng được thì phước ấy đi về đâu?
ÐÁP: Nói cho
dễ hiểu hơn: Một khi ta vui lòng chia phước người thọ hưởng ấy phải biết vui
mừng thọ hưởng mới được. Ðiều này có thể thí dụ cho dễ hiểu là: một người ở Sài
Gòn muốn cho người thân ở Mỹ vật chi chẳng hạn, người gửi có thể gửi qua Bưu
điện hay bằng phương tiện nào đó. Rất có thể người thân ở Mỹ lãnh được dễ dàng.
Nếu trong trường hợp người ấy không còn ở địa chỉ cũ thì vật ấy sẽ trở về với
người gửi. Ðiều này cũng như ân nhân của ta đã quá vãng có thể đã sanh vào cảnh
nào mà không thọ lãnh được, phước ấy cũng chẳng mất mà nó lại trở về với ta.
HỎI: Như ông
nói, người đã quá vãng cũng có thể sinh vào cõi không thể thọ lãnh của hồi
hướng của người, có phải vậy không?
ÐÁP: Sự thật
là vậy! Người chết có thể tái sinh vào hai cảnh mà những người quyến thuộc ta
sinh vào là: Cảnh an vui và caûnh khổ như Ðịa ngục, ngạ quỉ và súc sanh. Nếu
quyến thuộc nào sinh về ngạ quỉ mới hoàn toàn hưởng được. Ngạ quỉ có 13 hạng
khác nhau, nhưng chỉ có một hạng là Paradattùpajàvìpeta, nghĩa là Quỉ đói. Hạng
ngạ quỉ này hằng chịu đói hàng nhiều triệu tỷ tỷ năm. Hạng này chịu đói khát
như vậy để đợi quyến thuộc làm phước hồi hướng đến cho. Theo trong bài kinh
Terokodasutta, (Ngài Ðại đức Hộ Tông đã có phiên dịch trong quyển Kinh tụng,
xin xem nơi ấy) có dạy hạng ngạ quỉ hằng đứng theo ngã ba, ngã tư đường gần các
cửa nhà hoặc các cửa thành để đón chờ coi có quyến thuộc nào bố thí hồi hướng
tới để thọ lãnh. Khi mà người làm phước rồi không hồi hướng cho, những ngạ quỉ
ấy lấy làm buồn tủi vì không được quyến thuộc ngó ngàng đến.
Vì vậy nên đến rằm tháng bảy
Phật tử Bắc Tông có làm lễ Vu lan để bố thí cho cô hồn, nhưng chắc là chư cao
tăng Ðại đức khi xưa không ngụ ý như vậy mà các Ngài ngụ ý làm phước để hồi
hướng cho Ngạ quỉ. (Quí vị nào muốn rõ về những hạng Ngạ quỷ ấy hãy xem quyển
"24 thứ Ngạ quỷ"của Ngài Ðại đức Bửu Chơn đã ấn tống).
HỎI: Thưa
ông, tôi có xem Kinh và còn nhớ mang máng một câu Phật ngôn dạy: "Yassa
katam kammam kusalena pahiyati", Ác nghiệp mà người đã tạo ra có thể
dứt bỏ bằng thiện nghiệp ... Xin ông vui lòng giải thích cho tôi hiểu rõ thêm
câu này.
ÐÁP: Ông
cũng đã nghiên cứu Phật giáo khá lắm đấy. Câu Phật ngôn này trích trong Pháp cú
kinh. Ðức Thế Tôn dạy trong tích của Ðại đức Vô não. Trước khi xuất gia Ðại đức
là một tướng cướp sát nhân hung bạo nhất. Sau khi hiểu đạo Ngài xuất gia tu
hành rất là tinh tấn; nhờ sự cố gắng hành đạo ấy, Ngài đắc A La Hán quả, giải
thoát. Nhân đó Ðức Thế Tôn mới dạy câu ông vừa nói. Câu này đáng hiểu là tiếng
nói Thiện nghiệp đây có ý dạy là ráng hành cho đắc được A La Hán quả. Ngoài
Thiện nghiệp này ra không còn có Thiện nghiệp nào có đủ khả năng tận diệt được Nghiệp
mà người đã tạo.
Nên nhớ rằng: sự hưởng phước
(hay gọi là chạy khỏi nghiệp ác trả quả tạm thời) chưa phải là giải thoát thật
sự, vĩnh viễn, phước thường không phải là Thánh quả, nó chỉ giúp ta được sanh
vào nơi nào mà ác nghiệp không có cơ hội thuận tiện để trả quả thôi. Khi hưởng
hết phước, ác nghiệp sẽ đến trả quả liền. Vì vậy gọi phước là phương tiện chạy
trốn khỏi nghiệp ác tạm thời mà thôi.