[05]
Chủ đề TỨ ÐẾ
HỎI: Trước
kia tôi chưa học Phật tôi không cảm thấy khổ là gì hết. Càng đi sâu vào Phật
giáo thì càng thấy tất cả những gì cuõng đều khổ, tội. Tôi càng nghĩ càng kinh
sợ.
Thưa ông, đành rằng Ðạo Phật là
Ðạo diệt trừ khổ. Nhưng tôi vẫn còn hoài nghi: Không biết chắc rằng có diệt tận
được khổ hay chăng. Vì tôi vẫn còn thấy tất cả hàng Phật tử thậm chí đến hàng
Tăng lữ là bậc hành Phạm hạnh cao thượng nhất mà cũng vẫn thấy còn khổ?
ÐÁP: Ông đề
cập đến vấn đề "Khổ" vậy chính ông có hiểu rõ tiếng khổ chưa? Khổ
nghĩa là gì? Có bao nhiêu loại khổ? Khi nào khổ sinh lên? Và do nguyên nhân nào
mới phát sinh khổ? Phàm người muốn diệt khổ phải biết nguyên nhân sinh khổ cho
thật chắc, thật rõ mới tìm thaáy phương pháp diệt khổ.
HỎI: Thưa ông,
người đời không ai không bị khổ, ai ai cũng phải trải qua cảnh khổ, không khổ
này cũng khổ kia, ai cũng biết vậy. Nay ông lại hỏi tôi: Khi nào khổ sinh lên?
Do nguyên nhân nào? Thưa ông hỏi vậy để làm gì?
ÐÁP: Sở dĩ
mà tôi phải hỏi vậy để biết ông quan niệm cái khổ ra sao? Theo lời Phật dạy:
Muốn hiểu rõ cái khổ phải học cho biết thật rốt ráo, phải mất rất nhiều thì
giờ, chớ không phải giản dị như ông tưởng. Vậy ông có thể kể sơ cho tôi biết
vài cái khổ mà ông cho là khổ được không?
HỎI: Ðược,
nhưng nếu tôi nói hơi sai hay lạc đề xin ông tha lỗi cho. Vì chắc rằng ý kiến
của tôi không phù hợp với Phật giáo. Theo quan niệm của tôi, khổ là sự bực bội
trong tâm, khổ ấy sở dĩ xâm nhập vào tâm do một sự việc hay hoàn cảnh bên ngoài
như thất vọng. Khổ vì thiếu thức ăn, thiếu mặc, vợ bệnh, con đau...Thưa ông
theo tôi hiểu khổ như vậy có đúng không?
ÐÁP: Cũng
tạm gọi là đúng, nhưng tôi thiết tưởng nên sắp lại cho có thứ tự. Theo như ông
vừa kể thì khổ có rất nhiều, nhưng chung quy không ngoài cái khổ của thân và
cái khổ của tâm. Bốn trọng khổ trên đời này là:
- Khổ sinh.
- Khổ già.
- Khổ đau.
- Khổ chết.
Ngoài ra còn có:
- Sống chung với người mình không ưa cũng khổ.
- Xa lìa người mình yêu thương quý mến cũng khổ.
- Muốn mà không toại nguyện cũng khổ.
- Tóm lại chấp trước thân ngũ uẩn này là khổ.
Ðể hiểu rõ Khổ, Ðức Thế
Tôn có dạy chia khổ ra làm 3 phương diện khác nhau là:
- Dukkhavedanà, Thọ Khổ.
- Dukkhalakkhanà, Trạng thái của Khổ.
- Dukkha àriyasacca, Khổ diệu đế.
HỎI: Thưa ông,
để dễ theo dõi trước hết xin ông định nghĩa dùm tiếng Dukkha, Khổ.
ÐÁP: Ðể phân
tích Phạn ngữ "Dukkha" ta thấy như thế này: "Du" có nghĩa
là khó, "Kha" có nghĩa là chịu đựng. Theo văn phạm, chữ Kha đứng sau
như vậy thêm vào chữ K nữa để cho dễ đọc. Vậy khi ráp lại thành chữ là Dukkha
có nghĩa là vật gì làm cho ta khó chịu đựng nổi, vật ấy gọi là Dukkha, ta gọi
là Khổ... Người hiểu như thế theo phương diện cảm giác gọi là Vedanà, nghĩa là Thọ.
Nếu hiểu về phương diện chân lý
trừu tượng thì Du có nghĩa là vật gì đáng khinh miệt (không đáng cho chúng ta
bám víu), Kha là hư vô, rỗng không.
Thế gian là biển khổ, và như vậy
là đáng cho ta khinh miệt không đáng cho ta quan tâm, bám víu vào. Thế gian không
phải là thực tế mà là ảo ảnh, là hư vô, là rỗng không. Vậy Dukkha theo nghĩa
này là hư vô, không đáng cho ta bám víu, hay nói một cách khác cho dễ hiểu hơn
là thế gian này không có gì đáng cho ta miệt mài hay ham mê, theo nó chỉ làm cho
ta buồn rầu đau khổ thôi.
HỎI: Xin ông
cho biết Phật giáo có dạy phương pháp nào để diệt trừ những cái khổ mà ông đã
kể trên không?
ÐÁP: Dĩ
nhiên là phải có, nếu không có dạy phương pháp diệt khổ thì ai tu theo Phật làm
gì.
Ðức Thế Tôn dạy về Thọ khổ rất
tóm tắt, vì Ngài cho cái khổ này không phải là cái khổ vĩ đại. Tiếng
"Vedana" có nghĩa nhận lấy. "Dukkha-vedana" có nghĩa là
nhận lấy một đối tượng bên ngoài vào làm cho tâm ta khó chịu. Vậy Thọ khổ là lãnh
một trạng thái không vui từ bên ngoài như mất của, xa người thương yêu, gần
người thù ghét, bệnh hoạn, bị hiếp đáp v...v
Ðức Thế Tôn ví những cái khổ vừa
kể trên như bệnh ghẻ ngoài da, không quan hệ lắm. Những cái khổ cỏn con này
người đời ai ai cũng có thể tự chữa cho mình được bằng cách này hay cách khác.
Thí dụ như bị mất tiền là khổ, nhưng tiền ấy có thể kiếm lại được, khi được
tiền lại là vui ngay. Xa người thân thuộc mến yêu là khổ, nhưng lúc gặp lại thì
vui ngay. Bệnh hoạn là khổ khi hết bệnh là vui lại liền.
Cách chữa bệnh ở trên chỉ tạm
thời mà thôi vì các nỗi khổ kia rồi sẽ còn trở lại làm khổ chúng ta nữa. Tại
sao vậy?
Vì những cuộc vui vừa kể trên là
những cái vui tạm bợ, sau những cái vui ấy còn đầy nỗi khổ do phiền não tạo
nên, những cái vui mà chúng ta hưởng hàng ngày đây chưa hẳn là vui hoàn toàn
vĩnh cửu theo lời Phật dạy.
Ðáng tiếc thay! Người đời chỉ
thấy được cái thọ khổ và cách chữa trị nông cạn như trên nên phần đông đều xem
thường cái khổ. Do đó họ còn phải chịu trầm luân mãi mãi trong bể luân hồi khổ.
Chỉ có đấng Ðại Giác Ngộ, Thánh
nhân, Chư Ðộc Giác Phật mới nhìn thấy và biết rõ trạng thái thậm thâm vi diệu
của pháp Tứ đế trong đó có Khổ diệu đế. Nhờ các ngài trông thấy cả bề sâu và bề
rộng của các pháp ấy nên các Ngài mới diệt được taän nguồn gốc của cái khổ và
cũng do đó mà các Ngài giải thoát được.
Muốn hiểu rõ ý nghĩa hai cái khổ
trọng đại vừa nói là Dukkhalakkhana - Trạng thái của khổ, và Dukkha àriyasacca -
Khổ diệu đế, ông còn cần phải biết thêm vài chi tiết phụ thuộc về đời sống của
con người như:
- Ðời sống là gì?
- Tại sao có đời sống?
- Ðời sống từ đâu đến?
- Sau cùng đời sống sẽ đi về đâu?
Khi mà người hiểu rõ được bốn
điều này bằng trí tuệ thật sự thì người ấy mới biết rõ cái khổ.
HỎI: Thú
thật với ông tôi chưa từng xem kinh hay nghe đến bốn điều ấy bao giờ, xin ông
vui lòng giải thích luôn cho tôi được biết?
ÐÁP: Xin ông
ráng nghe cho kỹ những điều này vì rất là quan trọng. Ðức Thế Tôn dạy người mà
chưa biết đời sống là gì, người ấy chưa biết thế nào là khổ, và cũng không bao giờ
có đầy đủ nghị lực để chống lại với khổ, thì làm sao mà giải thoát cho được.
Ngài cũng có dạy thêm rằng: Ở
đâu có đời sống thì ở đó có khổ. Khổ không phaûi từ bên ngoài đến mà chính nó ở
trong lòng người. Dầu có muốn trốn cũng không khỏi. Ðời sống của con người,
chắc chắn sẽ có khổ. Một đôi khi cũng có vui, nhưng chỉ vui thoáng qua trong
chớp mắt thôi, cái vui thật ngắn ngủi, mà rất khó gặp được. Vì lẽ ấy nên cõi
đời này mới gọi là bể khổ. Ðức Phật ví người sống trên cõi đời này chẳng khác
nào người cầm đuốc chạy ngược chiều gioù, bị lửa táp vào tay vào mặt luôn luôn.
Ðôi khi có ngọn gió thổi tạt qua một bên, được mát một chút. Lúc đó tạm hưởng
đươïc một chút an vui, lại quên mất cái khổ đi.
Ðể cho ông dễ nhận thức hơn, tôi
xin nhắc lại tích của một thầy Bà la môn vấn nạn Ðức Thế Tôn.
Thầy Bà la môn hỏi: "Thưa
thầy Cồ Ðàm, trong thế gian này cái khổ nào vĩ đại hơn hết?"
Thay vì đáp lời, Ngài lại hỏi
thầy Bà la môn rằng:
- Vậy riêng thầy, thầy nghĩ khổ
nào vĩ đại hơn hết?
- Theo tôi nghĩ, khổ chết có lẽ
là vĩ đại hơn hết.
- Cái chết chưa phải là cái khổ
vĩ đại tuyệt đối.
- Nếu không phải thì chắc là sự
tiêu hoại tài sản chứ gì?
- Cũng không phải.
- Vậy chắc là sự chia lìa kẻ
thân yêu nhất của mình?
- Ðiều này chỉ là cái khổ rất
nhỏ phụ thuộc mà thôi.
- Không phải vậy thì nó là cái
khổ đói khát chăng?
- Cũng chưa đúng.
- Thôi, vậy là cái khổ trong A
Tỳ Ðịa ngục rồi.
- Cũng không phải nữa.
Khi ấy thầy Bà la môn không còn
biết phải trả lời cách nào nữa, đành phải thú nhận sự ngu dốt của mình và cầu
xin Ðức Thế Tôn chỉ dạy cho.
Ðức Thế Tôn mới phán rằng: Cái
khổ vĩ đại của chúng sinh là còn tái sinh lại nữa.
Ý Ðức Phật muốn dạy, vì người
còn có thân này nên mới còn có tất cả những thứ khổ. Ngài thường nhắc nhở chúng
sinh rằng: Thân này là ổ khổ, cái nôi sinh ra khổ, nguồn gốc của mọi sự khổ.
Sở dĩ cái khổ còn đến với chúng
sinh vì chúng sinh còn chấp cái ta, là cái thân này. Cái khổ theo lời Phật dạy
không phải là do từ bên ngoài mà chính là do lửa Phiền não ở bên trong nó thiêu
đốt tâm ta.
Một khi tâm ta còn phiền não thì
nó còn tối mê. Con người không sáng suốt thì còn tạo nghiệp, nhất là nghiệp Ác,
vì đó mà phải tái sinh luân hồi để trả quả, và chịu khổ triền miên.
Giờ đây ông đã hiểu thế nào là
khổ và nguồn gốc của khổ rồi thì chúng ta có thể đề cập đến phương pháp diệt
tận khổ của Ðức Thế Tôn đã giáo truyền.
Như ông đã biết Ðức Thế Tôn
thường được suy tôn là bậc "Tối thượng y vương" vì các môn thuốc của
Ngài trị được tận gốc các chứng bệnh của chúng sinh.
Ở đây cũng thế, phương pháp diệt
khổ của Ðức Phật dạy là phải diệt tận ngay nơi nó phát khởi. Nói một cách khác
là phải dập tắt ngay phiền não trong thâm tâm mình, đừng để nó phát sinh lên.
Ðức Thế Tôn dạy rất nhiều phương
pháp diệt khổ hay dập tắt lửa khổ, lửa phiền não trong thâm Tâm. Ta có thể nói
tất cả lời dạy trong Tam Tạng chỉ có một mục tiêu là diệt khổ. Chẳng hạn 37
nhân sanh quả Bồ đề.
Nhưng để cho ông dễ nhớ hơn, tôi
có thể tóm lại là chung quy không ngoài ba pháp là Giới, Ðịnh, Tuệ.
- Tu Giới là để giữ gìn không cho phiền não phát sinh
trong tâm.
- Tu Ðịnh là để đè nén không cho phiền não bên trong bộc khởi lên được.
- Tu Tuệ là để diệt trừ tất cả mọi phiền não trong tâm.
Người mà Tâm không còn phiền não
là người có Minh sát tuệ, người ấy nhận thấy rõ rệt thực tướng của vạn vật trên
cõi đời này (kể cả thân ta) là Vô thường, Khổ não và Vô ngã nên không mê luyến
mến tiếc nữa. Người như vậy phát tâm chán nản, xa lìa trần tục, đoạn tuyệt Ái
dục, không còn tạo nghiệp, sẽ hết khổ vì khỏi phải tái sinh lại sau khi chết.
HỎI: Thưa
ông, tại sao cả ba pháp Giới, Ðịnh Tuệ, Ðức Phật dạy đều là phương pháp diệt
khổ nơi Tâm, mà không có phương pháp nào diệt khổ của Thân?
ÐÁP: Vì trên
thực tế nếu Tâm hết khổ, được an vui thì thân cũng được an vui, không cần đề
cập đến làm gì.
HỎI: Theo
tôi thiết nghĩ vật chất có trước tinh thần (Tâm). Vậy Tâm không quan trọng bằng
Thân (Vật chất). Sở dĩ con người phải khổ vì thiếu vật chất nghĩa là thiếu
những nhu cầu cho bản thân. Nếu ta có đủ cung phụng cho thân, thì nó đâu còn
đau khổ và tinh thần sẽ được an vui thơ thới.
Vậy xin ông cho biết theo Phật
giáo dạy Thân có trước hay Tâm có trước.
ÐÁP: Ðối với
giáo lý nhà Phật về vấn đề Thân có trước Tâm, hay Tâm có trước Thân là
"không quan trọng". Dù Thân có trước hay Tâm có trước, điều chắc chắn
là con người vẫn phải khổ vì nó. Dầu ta có phí mất bao nhiêu công lao khó nhọc,
thì giờ quý báu để nghiên cứu tìm ra và biết được Tâm hay Thân cái nào có
trước, nó cũng chẳng đem ích lợi gì đến ta, vì nó không giúp ta diệt được khổ.
Nếu ông thiên về sắc thì ông bảo
sắc có trước, sắc là vật quan trọng. Nhưng thử hỏi sắc mà không có Tâm vậy Sắc
có tồn tại đươïc hay không?
Có Thân mà không có Tâm vậy cái
thân ấy có thể gọi là người được không?
Theo lời Phật dạy thì Tâm là chủ
Thân. Tất cả những sự cảm xúc vui buồn, sướng hay khổ đều do Tâm mà có. Nếu
không có tâm thì không có gì hết.
Tóm lại vui hay khổ đều do nơi
Tâm mà có, vì vậy nên khi ta khổ, ta nên tìm xem nguyên nhân nào làm cho Tâm ta
khổ, sau đó ta mới có thể dập tắt được tận nguồn gốc cái khổ.
Con người khi thấy thiếu thốn
nhu cầu vật chất cho họ, họ cho là khổ, và lại lầm tưởng rằng: nếu cung phụng
đầy đủ nhu cầu cho bản thân tất nhiên hết khổ, được an vui ngay.
Nhưng họ không ngờ rằng làm như
thế không công hiệu lắm mà theo một hai trường hợp lại làm gia tăng sự thèm
muốn nữa, xin quí vị hãy nghĩ coi vật đó là gì.
Sự cung cấp vật thực cho Tâm
phải chăng là tạm thời thỏa mãn sự đòi hỏi trong một gian đoạn nào đó mà thôi.
Nhưng trái lại, cái bệnh xu hướng và ham mê theo dục trần, gọi chung là ái dục,
chẳng những không thuyên giảm mà nó lại ngấm ngầm gia tăng mãnh liệt.
Lòng tham vọng của con người vô
bờ bến, không bao giờ biết đầy, mà cũng chẳng có chỗ nào chứa cho đủ, vì vậy
nên con người không thể làm sao cho thoả mãn lòng khát vọng của mình. Nếu hôm
nay được một, mai muốn có thêm hai, mãi mãi đến nơi không có số đếm, mặc dù vậy
mà Tâm cũng chẳng biết chán.
Người thấy thiếu tiền thật là
khổ, nhưng mà khi đã được tiền rồi vị tất được an vui trọn vẹn. Biết bao nhiêu
người nghèo khó khi làm việc có tiền, trở thành Trưởng giả sang giàu, nhưng rồi
lòng ham muốn vẫn còn làm cho họ khổ, không bao giờ được an vui, vì họ chưa thấy
đủ. Ðó là chưa kể những cái khổ phụ thuộc khác như lo lắng thêm nhiều, sợ mất
của càng làm lo sợ nhiều hơn.
Thử hỏi khi có nhiều của cải tài
sản như vậy có hết khổ không? Có an vui như mong muốn không?
Thật ra vui hay khổ là vật vô
tư, không thật có, nhưng chỉ vì tâm chúng ta còn đầy dẫy phiền não, tối mê nên
chấp là có thật để rồi tự mình thấy khổ hoặc vui mà thôi. Bao giờ Tâm ta sạch
hết phiền não thì không còn khổ nữa.
HỎI: Thưa
ông, muốn hành cho có kết quả ba phương pháp tận diệt phiền não là Giới, Ðịnh, Tuệ
ấy, người Phật tử cần phải có thêm điều kiện gì khác không?
ÐÁP: Ðức Thế
Tôn thường dạy: Nên tập cho mình trở nên người luôn luôn có trí nhớ, biết mình,
không nên dể duôi thì mới giải thoát được.
Ðối với người Phật tử, Trí nhớ
rất quan trọng, ví như cái khiên để che chở tên đạn cho người chiến sĩ. Khi Tâm
người thiếu Trí nhớ thì làm gì cũng khó có kết quả mỹ mãn, và trái lại còn đem
đến sự tai hại nữa.
Theo người đời, có trí nhớ là
không quên phận sự của mình. Pháp ghi nhớ của Ðức Thế Tôn dạy có khác và thật
chu đáo. Trí nhớ được Ngài phân tích và mổ xẻ thành nhiều pháp phụ cho chúng ta
dễ hiểu và dễ lãnh hội, nhất là để cho người ai ai cũng có thể thưïc hành theo
được.
Trước hết là vật mà người dùng
để ghi nhớ đó thuộc về Tâm, đó là tác ý ghi nhớ.
Tuỳ theo tính cách sử dụng, phận
sự và hành động của Tác ý ghi nhớ. Pháp gọi là Trí nhớ đây có nhiều tên khác
nhau. Chẳng hạn trường hợp Trí nhớ được Ðức Phật gọi là Satibala Niệm Lực, nơi
đây ngụ ý chỉ về Sức mạnh của Trí nhớ. Cũng có chỗ gọi là Satindriya Niệm căn,
ý nói trí nhớ là căn bản của sức mạnh bên trong. Hay gọi Trí nhớ là một nguồn
nhớ không khi nào bị gián đoạn. Chỗ khác gọi là Satisambojjhanga - Niệm Giác
chi. Có nghĩa Trí nhớ là nhân sinh lên quả Bồ Ðề.
Tóm lại, Trí nhớ là một phương
pháp làm cho người hằng nhớ sự hành động cử chỉ của mình.
Trí nhớ có ba:
1/- Tính cách nhớ hành động của
mình và của mọi người không bao giờ quên.
2/- Tính cách tìm hiểu rõ nhân
và quả của các ác pháp. Nên biết rõ rằng: Việc này không phải thiện nghiệp, nó
là nhân đem lại tai hại, không trong kiếp này thì cũng kiếp vị lai.
3/- Tính cách tìm hiểu nhân và
quả của các điều Thiện như vầy: Ðiều nào thuộc về thiện pháp thì chắc chắn sẽ
trả quả an vui cho ta, không trong kiếp này thì cũng kiếp sau.
Ngoài ra Trí nhớ còn có giúp
chúng ta trong nhiều trường hợp như khi biện luận hay ôn nhớ lại các việc đã
qua và những việc ta sẽ làm. Người làm việc thường sơ thất là vì thiếu Trí nhớ.
Trí nhớ là nhân đem lại nhiều sự
lợi ích như đã kể trên. Nên Ðức Thế Tôn dạy "Satanga khvàham bhikkhave
sabbatthikamvadàmin", Này các thầy Tỳ khưu, Như Lai hằng ngợi khen
rằng: Trí nhớ là một đặc ân, một tài sản tối cao, có thể đem sự lợi ích đến cho
người được.
Những Trí nhớ nói trên thuộc về
trí nhớ của người phàm, nên chỉ có lợi ích trong một phạm vi nhỏ hẹp mà thôi,
không phải là trí nhớ tới nơi giải thoát. Ðức Thế Tôn có dạy Trí nhớ là con
đường đi tới nơi giải thoát. Thiết tưởng nhân dịp này cũng cần nhắc luôn ra đây
để ông hiểu thêm.
Trí nhớ của người giải thoát là
trí nhớ Tứ Niệm Xứ. Trí nhớ này có bốn chi:
1. Niệm thân.
Nghĩa là hành giả luôn luôn ghi nhớ đến thân lấy sắc uẩn (thân) này làm ấn
tượng (đề mục), quan sát cho thấy rõ thân này thật không bền vững, nó hằng đem
sự đau khổ, bực tức, hằng thay đổi từng sát na. Thật ra mà nói thì noù không
phải là của ta. Người hằng niệm như vậy gọi là niệm Thân.
2. Niệm Thọ. Nghĩa
là dùng trí tuệ để quan sát Thọ uẩn (là những tiếp xúc thâu nhận lấy những sự
việc bên ngoài, vui hay khổ, những đề mục vui hay khổ không đề mục nào được tồn
tại trong lòng ta. Nó chỉ đem lại cho ta trong nhất thời tùy theo sức của nó.
Những việc gì cũng thay đổi từng sát na, nó không thường, vì vậy nên nó là khổ
não. Nếu nó không thường và đem khổ não đến cho ta thì nó không phải ta nghĩa
là Vô ngã. Khi ta dạy tâm ta niệm tưởng như thế gọi là niệm Thọ. Người nên nhận
thấy những sự vật mà ta đã thọ lãnh đều trong phạm vi cai quản của Vô thường,
Khổ não và Vô ngã.
3. Niệm Tâm. Người
hành giả nên để tâm mình nhìn xem Thức uẩn, ý nói rằng hãy dùng trí nhớ quan
sát Thức uẩn để thấy rõ rằng: Thức này thường thay đổi không ngừng nghỉ, mặc dù
trong một sát na cũng khó giữ được nó. Thức là vật không bền vững nếu vật nào
không bền vững là vật hằng đem lại sự đau khổ, nếu vật hằng đem đến đau khổ là
không phải của Ta.
4. Niệm Pháp.
Nghĩa là hành giả để trí nhớ vào Tưởng uẩn và hành uẩn để kiểm lại cho chặt
chẽ, và phải thấy rõ ràng: Hai uẩn này là Vô thường, Khổ não và Vô ngã. (Ðoạn
này rút trong bài kinh tên là Mahàsatipatthàna có nghĩa là Ðại Tứ Niệm Xứ).
Ðây là bốn pháp làm cho Trí nhớ
phát sinh, hành giả nên hành cho được có kết quả. Không nên dể duôi.
1. Người có trí nhớ nên biết mình trong mọi oai nghi.
2. Tư cách của người xa lánh những người dể duôi thiếu trí nhớ hay người say
sưa vì rượu.
3. Tư cách của người thường hay thân cận với các bậc trí thức. Bậc không bao
giờ để quên mình, ý nói người hằng có sự không dể duôi, không hề dám xao lãng
tu hành, người rất sợ luân hồi như người kinh sợ đao phủ thủ.
4. Tư cách của người làm việc gì chẳng hạn đều để trí quan sát kỹ càng trước
khi hành sự.
Trong bộ chú giải của bài kinh
Ðại Tứ Niệm Xứ có dạy: Người có trí nhớ luôn luôn nhớ đến bảy điều sau đây:
1. Sự bước tới bước lui.
2. Sự ngó trước trông sau.
3. Sự co tay co chân, hay ngay tay ngay chân.
4. Sự mặc y, mang bát (sự mặc áo quần).
5. Sự ăn uống (như không cho rơi rớt, đổ tháo, hay không húp canh ra tiếng,
hoặc ăn chắp).
6. Sự đi đại tiểu tiện.
7. Sự đi đứng nằm ngồi.
Trí nhớ trong bảy điều kể trên
là Trí nhớ có sự biết mình. Người tập như thế khi tâm được thuần thục thì người
ấy có thể ngăn đón được tâm phóng túng, vọng động.
Ðại đức Xá Lợi Phất có dạy
"Dve dhammà bàhupakàrà", nghĩa là Trí nhớ và Biết mình là hai pháp có
rất nhiều đặc ân cho người hành đạo.
Tâm người mà thiếu hai pháp ấy
thì nó sẽ phóng túng theo ý nó. Tâm ấy không còn phân biệt được phải trái. Ví
như xe mà không có tài xế, hoặc xe đang xuống dốc mà không có thắng hay thắng
bị hư. Người trên xe ấy có thể chết dễ dàng.
Tướng của trí nhớ có hai là:
1. Apilànalakkhanam - Tư cách
nhắc nhở Tâm không cho tâm quên (mọi việc mà đã có).
2. Upagghahalakkana - Tư cách gom tâm lại một chỗ (có nghĩa là không cho Tâm
phóng túng cũng gọi là Ðịnh).
Trí nhớ là nhân làm cho Tâm
không quên hay không xa thiện pháp. Hơn nữa nó có lợi ích là ngăn không cho ác pháp
đến gần hay xâm nhập vào Tâm. Trí nhớ giống như vị coi ngân khố nhà vua, biết
rõ số vàng còn bao nhiêu và thiếu bao nhiêu cho nhà vua biết, để nhà vua không
dám xa xỉ. Cũng như Trí nhớ nhắc nhở Tâm cho biết rõ đã có bao nhiêu Thiện pháp
được tích trữ, và còn có bao nhiêu ác pháp đang tàn phá Tâm.
Người mà thực hành đúng theo
Pháp ghi nhớ là người:
1/- Ráng học cho thông thạo Phật ngôn.
2/- Ráng thực hành đúng theo lời Phật dạy.
Người có trí nhớ là người có
Thâm Tâm rất bình tĩnh. Khi có chuyện gì xảy ra làm cho bất bình cũng không hề
tỏ vẻ bất bình. Chỉ có người có trí nhớ mới có thể dằn được cơn nóng giận ấy.
Vì người có trí nhớ hằng biết rõ: Sân là thứ thuốc độc làm hại Tâm. Sau ấy mới
tìm phương thế để diệt trừ sự nóng giận bằng một phương pháp nào tùy theo
trường hợp, chẳng hạn như bằng nhẫn nại, bằng từ bi hoặc bằng cách lánh mặt đi
nơi khác để tránh sự đáng tiếc sắp xảy ra. Sự tránh được những cãi vã hay bất
hòa cũng do nhờ Trí nhớ trước hết. Trí nhớ mà có đủ rồi có thể dập tắt được các
thứ lửa như lửa Sân hận, Tham lam ... nơi mà nó vừa bộc phát. Thật ra phương
pháp ghi nhớ không mất tiền mua, nhưng lại là phương pháp diệt phiền não thật
là hữu hiệu.
HỎI: Ông nói
Phật Pháp thật là huyền diệu. Biết được Tâm phiền não, nhưng tại sao đã có biết
bao vị xuất gia tu hành tinh tấn mà khoâng thấy vị nào đắc thánh quả giải thoát?
ÐÁP: Muốn
biết rõ pháp giải thoát, ông cần phải biết sơ qua về Niết bàn của Phật pháp.
Niết bàn có hai:
1. Hữu dư Niết bàn: Nghĩa là
Niết bàn còn dư sót. Ý nói: Các bậc Thánh nhân đã đắc đạo, các Ngài không còn
phiền não, nhưng còn mang cái thân ngũ uẩn này, các Ngài vẫn còn phải bị bệnh
hoạn, còn đói khát như chúng ta. Nhưng khác hơn chúng ta là các Ngài không bị
khổ phiền não. Các Ngài không khổ và không mến tiếc Ngũ uẩn như chúng ta. Các
Ngài còn sống trong thế gian này vì các Ngài còn tuổi thọ nên không nhập diệt
đó mà thôi.
2. Vô dư Niết bàn: Nghĩa là Niết
bàn không còn dư sót. Ý nói các Ngài không còn có thân ngũ uẩn này nữa. Các
Ngài đã đến Niết bàn thật sự, nghĩa là bỏ hẳn thân ngũ uẩn. Nói một cách khác
để cho dễ hiểu hơn là hoàn toàn đã nhập diệt.
HỎI: Thưa
ông, như chư Thánh nhân biết rằng: Ðời này khổ, các Ngài đã giải thoát rồi,
không mến tiếc gì thì tại sao các Ngài không nhập diệt đi cho rồi mà còn sống
trong đời này để làm gì?
ÐÁP: Ðã là
Thánh nhân nên không còn phiền não thì các Ngài nào còn kinh sợ khổ như chúng
ta. Sở dĩ các Ngài chưa nhập diệt là vì các Ngài thấy tuổi thọ các Ngài còn dư
chưa hết, các Ngài đối với thân này chẳng khác nào như chúng ta mặc áo, mặc dù
cũ, mới dơ, sạch cũng thế thôi. Ðối với các Ngài, thân này dẫu còn hay mất cũng
không thành vấn đề.
Ông nói rằng: Có lẽ ông hiểu
nghĩa sự giải thoát bằng cách tuyệt đối, nghĩa là theo ông phải thành Phật mới
là giải thoát. Nhưng nếu ông hiểu như vậy thì chỉ đúng một phần thôi, chứ không
cần phải có sự giải thoát lần hồi từng chi tiết một. Chắc ông cũng trông thấy
các chư Ðại đức giải thoát được rất nhiều những cái mà chúng ta còn dính mắc
rất chắc như Gia đình, Quyền lợi, Danh vọng. Các Ngài hầu như xa hẳn với việc thế
gian. Như vậy tại sao ông nói các Ngài không giải thoát. Sở dĩ chúng ta lễ bái
cúng dường các Ngài là vì các Ngài đang thực hành những pháp cao thượng mà
chúng ta chưa hành được.
Ông nói, ông không thấy các bậc
Thánh nhân được giải thoát. Sự thật nếu ông ngồi đối thoại với các vị Thánh
nhân mà ông nói như vậy, các Ngài nghe biết, các Ngài cũng không nói cho ông
biết Ngài là Thánh nhân. Vì các Ngài không còn phiền não nên các Ngài không cần
ai biết mình là gì hết.
Chỉ khi nào chính ông được giải
thoát, ông đắc được Tâm pháp như các Ngài thì ông mới nhận biết các Ngài là bậc
Thánh nhân.
HỎI: Xin ông
cho biết, người ta thường nói Ðức Phật độ tận chúng sinh. Vậy có đúng không?
Tất cả hàng Phật tử tu theo Phật giáo có được giải thoát không?
ÐÁP: Sự thật
Ðức Phật không có quyền lực gì đem chúng sinh lòng còn đầy dãy phiền não giải
thoát được. Trong Tam Tạng cũng không hề thấy có nơi nào nói: Ðức Thế Tôn cứu
người ra khỏi khổ cả. Mà cũng không phải Ngài là đấng thiêng liêng lập ra thế
gian này để cho chúng sinh ở chịu khổ. Ngài không ban phước hay cho tội chi chi
hết.
Ngài chỉ là đấng tìm thấy con
đường giải thoát khỏi khổ, chân lý dạy người hành theo thoát khổ. Rồi vì lòng
Từ bi của Ngài, nên Ngài mới đem ra giáo hoá chúng sinh, ai hành theo lời Ngài
thì chắc chắn được giải thoát.
Phật pháp ví như món ăn ngon,
người nào muốn ăn no và cảm thấy ngon thì nên tự mình ăn thì mới biết là vật
thực ngon.
Phật pháp ví như thần dược, khi
người bệnh muốn khỏi thì uống, khi uống đúng độ của thuốc thì sẽ thấy cái hay
của thuốc, nghĩa là khi ấy mới thấy cái hiệu nghiệm của thuốc như thế nào.
Người bệnh mới biết chính mình bớt bệnh và mạnh. Riêng người ngoài thì không
biết gì cả. Cũng như nếu ông muốn biết thế nào là giải thoát thì hãy hành đạo.
Khi hành xong diệt được phiền não tới mức độ nào thì ông mới biết ông giải
thoát. Vì vậy nên giải thoát mới gọi là Pháp cao siêu, vì Pháp ấy ai đắc thì
chỉ có một mình người ấy hiểu biết mà thôi.
Ðể trả lời câu ông hỏi: Tất cả
Phật tử tu theo Phật giáo có được giải thoát hết hay không? Tôi xin nhắc lại
bài kinh Banakamoggallàna cho ông hiểu.
Bài kinh này, Ðức Thế Tôn thuyết
cho ông Bà la môn tên là Banakamoggallàna tại chùa Subbàràma gần thành Sàvatthì
như vầy:
Có thầy Bà la môn tên là
Ganagamoggallana đến hỏi Phật rằng: Thưa ông Cồ Ðàm, tất cả đệ tử của thầy nghe
theo lời thầy dạy, hành theo lời thầy đều được giải thoát hết không?
Ðức Thế Tôn đáp: Này thầy Bà la
môn, mặc dầu Như Lai giảng dạy thật rành như thế, nhưng cũng có vị đắc thành,
có vị không đắc thành.
- Thưa thầy Cồ Ðàm, do đâu, bởi
lý do nào? Niết bàn có thật? Có vị giáo chủ chỉ bảo rành rẽ. Tại sao có vị đắc
đươïc Niết bàn, còn có vị không đắc được?
- Này thầy Bà la môn, Như Lai
xin hỏi thầy điều này, thầy cứ trả lời theo kiến thức của thầy. Như thầy là
người rành đường đi vào thành Vương Xá, có người kia muốn vào thành Vương Xá
đến hỏi thầy rằng: thưa thầy, tôi muốn đến thành Vương Xá, xin thầy vui lòng
chỉ giùm.
Khi đó thầy bảo với người ấy
rằng: Ðây là đường đi đến thành Vương Xá, người đi đến một nơi kia có làng tên
như vầy, đến nơi nọ có quận như vầy, rồi đi đến nơi có nhiều đám vườn đẹp, có
ao hồ mát mẻ tốt tươi, nhà cửa xinh đẹp đó là thành Vương Xá.
Thầy chỉ rõ như vậy, nhưng người
ấy lại đi lạc đường. Còn có người khác nhớ kỹ và đi đúng đường, họ đến nơi đến
choán. Này thầy Bà la môn, vì lý do nào, vì nguyên nhân nào? Có đường đi đến
thành Vương Xá thật và người chỉ đường rất rành cuõng có, nhưng tại sao có người
đi lạc đường, có người lại đi đúng?
- Thưa thầy Cồ Ðàm, chuyện này
tôi đâu biết làm sao, vì tôi chỉ là người chỉ đường mà thôi.
- Thầy Ba la môn, Như Lai cũng
vậy. Niết bàn có thật, đường đi đến Niết bàn cũng có. Nhưng có vị đệ tử của Như
Lai không đến mục tiêu được, có vị lại đắc được. Như vậy đâu phải lỗi tại Như
Lai, vì Như Lai cũng chỉ là người chỉ đường mà thôi.
Nếu người nào hữu duyên học
thông Phật pháp và rất chuyên cần hành đúng theo lời chỉ giáo của đấng Ðại Giác
thì sẽ đắc quả theo ý muốn.
Người có đức tin chân chính,
hành theo đúng giáo pháp của Ðức Thế Tôn thì chắc chắn đắc đạo quả chẳng sai.
Sở dĩ người không đắc được là vì hành không đúng theo lời Ngài dạy, người này
cũng ví như người đi không đúng theo đường lối của người chỉ.
HỎI: Rất cám
ơn ông đã vui lòng giải đáp những sự nghi ngờ và thắc mắc trong lòng tôi từ
lâu. Tôi cảm thấy không còn chi đáng hỏi Ngài thêm nữa. Cầu xin ông được mạnh
khoẻ mãi và vui lòng chỉ giùm những điều chúng tôi nghi ngờ. Ngày nào tôi còn
hoài nghi tôi sẽ đến hỏi ông thêm. Mong rằng ông vui lòng chỉ giúp.
ÐÁP: Không
có chi mà ông phải ngại, đây phải chăng là trong lúc có thì giờ nhàn rỗi chúng
ta bàn qua vấn đề đạo đức chút đó thôi. Tôi cũng mong gặp lại ông ngày gần đây.
--(Hết)--