12
TỰ THẮNG NHỜ HIỂU
BIẾT SỰ THẬT
Phật Giáo là tôn giáo
khoa học, và vì là tôn giáo khoa học nên phải biết phân
tích. Như quý vị đã biết, trước
kia tôi là một nhà hóa học, và ngành dược thuộc khoa học
phân tich. Trớ trêu thay từ tri kiến phân tích dược học, tôi
tìm đến Phật Giáo vốn là tôn giáo phân tích. Trước kia tôi
quen phân tích các tinh thể sunfat đồng,
nhưng giờ đây tôi đang phân tích những tinh thể phức tạp
của chính mình, bởi vì nếu bạn hiểu chính mình tức
là bạn hiểu toàn bộ thế giới.
Con người là gì? Con người
là một hợp thể 5 yếu tố (5 uẩn) xuất phát từ tham ái, bắt
rễ nơi vô minh. Tất cả 5 yếu tố
đều mang tính chất vô thường, khổ, vô ngã;
có nghĩa là nó không có một cái TA kéo dài. Tất cả các
pháp (vạn vật) đều tạm bợ ngắn ngủi. Cái gì thoáng qua
đều vượt ngoài tầm kiểm soát, và cái gì vượt ngoài
tầm kiểm soát của chúng ta phải được gọi là không (sự
trống rỗng), không có một cái ta bất diệt.
Ðây là một khám phá của
Ðức Thế Tôn phù hợp với sự khám
phá của tâm lý hiện đại rằng đời sống là một sự
trôi chảy, tất cả đều biến đổi,
không có gì tồn tại mãi trên vũ trụ này. Mỗi thứ dều
trôi chảy như một dòng sông. Herakleitos–một
đại triết gia đã nói: "mọi
sự đều trôi chảy". Ðức Phật nói: "Các
pháp đều vô thường".
Con người là một ngọn lửa
đang bừng cháy, không bao giờ giống nhau trong hai khoảnh khắc
liên tục. Ðời sống là một tiến trình của sự liên tục
trở thành. Sự biến đổì ám chỉ cái chết và tái sinh
liên tục. Một ngọn lửa không bao giờ giống nhau trong hai
khoảnh khắc liên tục và con người cũng vậy. Cho dù sức đốt
thể chất hay sức nóng tâm linh, con người chỉ là một tiến
trình đang bừng cháy.
a) Cuộc đời là
gì? Cuộc đời như giấc mộng. Bằng chứng nào? Quá khứ ở
đâu? Ta ở nơi nào? Quá khứ đã qua giống như giấc mộng rỗng
không; tương lai thì chưa đến, ngay
khi ta nói hiện tại ở đây thì nó
đã trở thành quá khứ qua rồi! Thế nên chúng ta không
có mặt ở quá khứ, không có mặt ở tương lai. Vậy thì
chúng ta có mặt ở đâu? Có phải
ở nơi hiện tại ngắn ngủi tạm bợ? Nơi niệm tưởng thoáng
qua? Nhưng chắc chắn là không thể có một bản ngã thường
hằng trong niệm tưởng thoáng qua.
Do đó cuộc đời là không–sự trống rỗng. Và được
sống thường hằng vĩnh viễn trong cái không này, đó là đại
hồng ân, vì nơi đây tất cả khổ lụy
đều vĩnh viễn dứt hẳn. Hãy nhớ rằng con người chỉ
là một niệm tưởng thoáng qua và không bao giờ hiện hữu
cái ngã hay cái ta nào tồn tại trong niệm tưởng ngắn ngủi
đó. Những niệm tưởng đến và
đi liên tục, không bao giờ giống nhau trong hai khoảnh khắc
liên tiếp. Nếu một người trong khi đang nằm mơ mà biết
mình đang mơ, vị đó hoặc là
tỉnh giấc, hoặc là cười thầm hình thái mơ mộng. Giấc
mơ xấu không làm vị đó sợ sệt chút nào.
b)Cuộc đời hoàn
toàn là một hiện tượng tâm linh. Giấc mơ là một hiện tượng
tâm linh. Do đó đời là một giấc mộng,
cuộc đời hoàn toàn là một hiện tượng tâm linh, vì
vậy cuộc đời là một giấc mộng. Khi chúng ta đang
nằm mộng, đặc biệt nếu giấc mơ xảy ra có tính cách khủng
khiếp, chúng ta hoảng sợ và sự đau khổ tâm linh mà ta chịu
đựng trong giấc mơ không khác gì sự đau khổ có thật trong
tình trạng ta đang sống. Bởi vì
cuộc đời hoàn toàn là hiện tượng tâm linh, thế nên
chúng ta đau khổ trong giấc mơ do sự kiện chúng ta nghĩ là
giấc mơ có thật. Tương tự như vậy, khi một vị Thánh đạt
được đỉnh cao tu tập, vị Thánh đó thức tỉnh từ
cơn ác mộng của cuộc đời và
phấn khởi thấy rằng những gì mình tưởng là đúng, là thật
thì chủ yếu chỉ là một giấc mơ hư ảo và khi đã chứng
minh được sự kiện này bằng cách phân tích cuộc đời
trong những kỳ hạn quá khứ và tương lai.
Con mắt không bao giờ thỏa
mãn khi thấy, cũng vậy, tai không bao giờ thỏa mãn khi nghe.
Thấy và nghe với lòng đam mê thì chẳng khác gì uống nước
muối và sự khát nước không bao giờ hết khát được.
Ðức Thế Tôn dạy: thế
giới đang cháy. Con mắt đang bừng cháy,
tai, mũi, lưỡi, thân, ý đang bừng cháy với ngọn lửa
tham, sân, si, sinh, già, bệnh, chết, buồn rầu, kêu ca, than
khóc, đau khổ, tuyệt vọng.
Bây giờ tôi đã giảng đến
đây, tôi nguyện nỗ lực hết sức mình để tưới chân lý
vào ngọn lửa sáu giác quan của quý vị. Tôi hy vọng
lúc bài Pháp này kết thúc, những ngọn lửa từ nơi mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân, ý của quý vị sẽ trở nên lạnh nhạt,
êm dịu hơn, không những chúng ta tưới thêm nước sự thật
mà chúng ta còn học cách để hạn chế nhiên liệu của cái:
nhìn không tham, nghe không tham, nếm không tham, xúc chạm không
tham, tư duy không tham. Khi nhìn bất cứ vật gì, chúng ta phải
luôn luôn phân tích hình sắc của nó để
thấy đúng thực tánh của hình sắc đó. Chúng ta phải nhận
thức được rằng hình sắc không đáng yêu như ta tưởng đâu.
Bởi vì nếu ta phân tích hình sắc gồm 32 phần của thể
xác, thì ta mới phát hiện rằng 32 phần này về thực chất
không thú vị gì, hoặc ghê tởm và chán ghét. Trong Phật
Giáo chúng ta luôn luôn cố gắng phân tích vạn pháp qua những
thành phần cấu tạo của chúng để
thấy các pháp đúng như thực tướng. Bởi vì thấy
các pháp đúng như thực tướng của chúng thì ta mới tháo gỡ
được các ràng buộc. Chúng ta nhớ rằng phải phân tích
liên tục mới đưa đến trí huệ,
chúng ta nên sống cuộc đời liên tục có chánh niệm.
Nhờ luôn luôn chánh niệm, tự nhiên sau đó ta sẽ nhìn thấy
đúng thực tướng của chúng. Nghĩa là khi ta nhìn sự vật
gì, chúng ta phải biết mình đang nhìn gì; khi nói chúng ta phải
biết mình đang nói gì; khi dứt ý niệm chúng ta cũng phải nhận
thức được việc đó. Khi ăn hay uống
cũng phải ý thức được sự kiện đó. Nhờ luôn luôn
thực hành chánh niệm, luôn luôn tỉnh giác, chúng ta sẽ
không bao giờ bị vọng tưởng và do nhìn đúng
thực tướng của các pháp, chúng ta dễ đoạn trừ mọi luyến
ái. Chúng ta từ bỏ nô lệ mọi sự vật. Nhờ từ bỏ nô lệ
mọi sự vật, chúng ta hưởng
được sự giải thoát an vui.
Trong Phật Giáo điều này gọi là Niết Bàn–viễn ly
các pháp vốn vô thường. Bởi vì các pháp vốn vô thường
đều vượt ngoài năng lực của chúng ta, và chúng ta không
nên chấp thủ vào bất cứ một luyến ái, ràng buộc nào nó
vốn không tùy thuộc vào chúng ta.
Cần nhớ rằng cái giá của
khoái lạc là đau khổ, khoái lạc không thể nào đạt
được mà không trả giá; khoái lạc một chút mà đau
đớn thì vô củng. Ðức Thế Tôn không muốn khoái lạc
hay đau khổ. Ngài muốn con đường hạnh phúc khinh an của
hòa bình vĩnh cửu.
Quý vị có biết 11 sự lợi
lạc kỳ diệu của tình thương bao la không? Chúng ta hãy an
trú trong tình thương yêu vốn cho ta sự an lạc ngọt ngào. Phật
Giáo dạy pháp Giải Thoát qua đời sống phạm hạnh. Có lần
Ðức Thế Tôn dạy: "Thực hành lòng từ bi vô lượng
đối với chúng sanh sẽ được 11 thiện pháp kỳ diệu đầy
lợi lạc".
Tôi phải nhắc nhở quý vị
biết rằng trong Phật đạo chúng ta có 40 đề mục thiền quán.
Trong 40 đề mục này có 4 mục dành cho tâm thái chư thiên,
hay còn gọi là tứ vô lượng tâm bao gồm: tâm từ,
tâm bi, tâm hỷ, tâm xả.
Nhờ rộng trải vô lượng
lòng từ bi, hỷ xả, ta gặt hái được nhiều quả lành. 11
quả lành mà vị đó được hưởng là
gì?
l) Vị đó ngủ trong an lạc.
2) Vị đó thức trong an lạc.
3) Vị đó ngủ không thấy
ác mộng.
Tôi tự hỏi không biết
có người nào đau khổ vì chứng bệnh mất ngủ. Nếu có,
hãy rộng trải lòng từ bi, bạn sẽ được giấc ngủ an lành,
bạn sẽ thức dậy an lành, bạn sẽ không gặp ác mộng. Bởi
vì khi lòng tràn ngập tình thương, bạn sẽ nhắm mắt êm
ái, bạn sẽ mở mắt nhẹ nhàng như búp sen hé nở.
4) Vị đó được mọi
người yêu quý. Vì vậy lòng yêu thương ban cho bạn nhiều
thiện hữu cõi người, nhưng hãy nhớ rằng thiện hữu cõi
trời còn hữu ích hơn gấp bội so với bạn cõi người tầm
thường. Ngạn ngữ có câu: "Thiện hữu cứu mình". Nếu
bạn lành của bạn là người trời, họ chẳng bao giờ ruồng
bỏ bạn. Có hai loại bạn, những bạn bè qua quan hệ từ trước,
qua quan hệ từ kiếp trước, đó là tình bạn chân thật. Và
có những bạn bè thực sự trở thành bạn qua thiền định.
Nếu bạn gặp được những thiện hữu cõi trời,
họ có năng lực hơn các thiện hữu cõi trần và họ
không bao giờ ruồng bỏ bạn. Người giàu thường có nhiều
bạn nhưng khi họ mất hết của cải thì họ cũng mất luôn
cả bạn hữu. Những người như vậy chỉ là những bạn hữu
ngắn ngủi nhất thời.
5)Vị đó được các dạng
phi nhân yêu quý. Lòng yêu thương đem
đến cho bạn nhiều thiện hữu phi nhân. Bạn không cần lo sợ
về quỷ ma trong bóng đêm nếu bạn rộng mở lòng từ.
Bởi vì ngay đến loài ma quỷ cũng trở thành thiện hữu nếu
bạn yêu thương mọi người trên toàn cõi vũ trụ bao la này.
6) Vị đó được chư thiên
thần chiếu cố. Lòng yêu thương sẽ đem
đến cho bạn nhiều thiện hữu thiên thần. Vậy thì
hãy siêng năng tu dưỡng tình bằng hữu thiên thần bằng
cách thường xuyên trải lòng yêu thương đến với họ. Các
thiện hữu cõi trời có năng lực vô song, có uy lực cứu
giúp mạnh mẽ hơn các thiện hữu cõi trần. Ðúng lúc cần họ
sẽ đứng gần hộ trì cho bạn. Quả vậy, lòng yêu thương sẽ
được toàn thế giới ngưỡng mộ.
7) Không có lửa, thuốc độc
hay gươm dao nào có thể ngăn chặn bước đi
của vị đó. Cũng không có bom đạn nào khiến bạn sợ
hãi khi bom đạn từ bầu trời rơi xuống nghiền nát Hỡi con
người khiếp sợ? Hãy mở rộng lòng thương yêu, bạn sẽ trở
thành con người vô úy (không lo sợ). Lòng từ bảo vệ và
ban cho bạn cảm giác an bình tịnh lạc. Do luôn luôn mở rộng
lòng từ, bạn chỉ giản dị cất tiếng với lòng vui sướng
hoan hỷ! Bạn sẽ chẳng bao giờ lo sợ nếu bạn sống trong tình
thương yêu vô bờ bến, vì lòng thương yêu sẽ hộ trì cho bạn
thoát khỏi mọi nguy hiểm. Nếu bạn luôn luôn sống trong
không khí cởi mở từ hòa thì không có sự hãm hạì nào có
thể đến với bạn. Tình thương là vật che chở tốt nhất,
khí giới tốt nhất và là áo giáp tốt nhất. Tình thương yêu
luôn luôn là người đáng yêu quý, bạn còn có thể mỉa mai
chế giễu sự lâm nguy nữa là khác, tình thương yêu cũng bảo
vệ bạn chống lại tâm tham ái và đam mê. Tình thương yêu
là vị hộ pháp tốt đẹp nhất trên trần gian này.
8) Tâm vị đó sớm được
bình thản. Tình thương yêu mau nhiếp tâm. Trong khi tu tập
thiền quán, nếu bạn rộng mở tình thương yêu vô lượng thì
bạn sẽ rất thành công. Có nhiều người
than phiền rằng họ không thể định tâm được, bất cứ
khi nào họ khởi sự thiền quán thì tâm
của họ đi lạc hướng. Nếu họ tỉnh giác trải rộng
lòng từ vô lượng thì tâm họ sẽ dễ dàng chánh niệm vào
đề mục.
9) Diện mạo hảo tướng
khinh an. Tình thương yêu đem đến cho
bạn vẻ duyên dáng và sắc đẹp vô song. Ðây là nét
đẹp thầm kín, toàn hảo nhất trên trần gian. Thế giới
tiêu đi mỗi tuần 10 triệu đô la cho
phí tổn mỹ phẩm và trang bị sắc đẹp. Sau chiến
tranh, hiện nay ta thấy rõ có sự suy thoái khắp nơi. Vì vậy
kinh tế nghiêm túc là một trong những vấn đề tái kiến tạo,
tiết kiệm. Hãy để dành tiền (nếu bạn có). Những chuyên
gia về mỹ phẩm và sắc đẹp đã
lố bịch trước sức mạnh hùng tráng cúa tình thương yêu, yếu
tố vốn ban cho sắc đẹp chân thật.
Mỹ phẩm đắt tiền chỉ
tạo nên sắc đẹp vay mượn, nó
vốn là sự ngụy trang lừa đảo–vọng ngữ. Thế nên
chúng ta hãy luôn luôn mở rộng tình thương yêu vô hạn đối
vớì nhân loại Một nét duyên dáng vô hình sẽ tỏa quanh
chúng ta, ban cho chúng ta dáng điệu nhìn chung là đáng yêu.
Tình thương yêu không phải
là phẩm hạnh kín đáo kỳ diệu sao?
Nó ban cho con người dáng vẻ đáng yêu không phải tốn tiền.
Chúng ta có được sắc đẹp thực sự mà không tốn tiền
là nhờ trải rộng tình thương yêu vô hạn. Bởi vì sắc đẹp
chân thực là gì? Ðó là sự duyên dáng. Vẻ đẹp duyên dáng
chỉ xuất phát từ tình thương yêu vô hạn. Ở các nước Tây
phương người ta gọi là vẻ quyến rũ. Ở các nước Ðông
phương người ta gọi là vẻ duyên dáng. Vẻ
đẹp duyên dáng là người tiêu biểu hấp dẫn cao cả
nhất, dù nó là một phương thuật bán hàng hay một phương
diện đời sống nào khác, nếu người nào có lòng quảng đại
về tình thương yêu, vị đó sẽ lôi
cuốn được khách hàng, vị đó sẽ hấp dẫn bạn bè, vị
đó sẽ thu hút mọi người.
Nên nhớ rằng con đường
thượng sách nhất để trở nên đẹp
đẽ không phải chỉ sử dụng mỹ phẩm đóng sẵn của
Hollywood mà chỉ đơn thuần rộng trải tình thương yêu
vô hạn. Lòng từ bi đó phải thấm nhuần toàn khắp vũ trụ,
bởi vì trong Ðạo Phật không có biên giới, không có địa
phận nào cho tình thương yêu cả. Tình thương là vô tận.
Nó phải xuyên suốt toàn cầu. Tình thương yêu là vô lượng.
Nó có một năng lực bất tận. Chúng ta tin những thế giới
trùng điệp trong Phật Giáo. Những thế
giới đều lên đến con số bao la (nhờ thiên văn) và
tình yêu thương cũng phải như không
gian bất tận. Nó phải hướng về phía đông, tây, nam, bắc,
trên, dưới và chung quanh. Chúng ta thương yêu không phải
chỉ có loài người thôi mà còn thương yêu cả loài vật,
loài thực vật nữa. Mỗi ngọn cỏ phải tràn đầy lòng từ
vô lượng. Chúng ta yêu những dòng sông, những quả núi và
khắp bầu trời. Tất cả sự sống là thực vật, khoáng vật,
và sự sống động vật. Trên toàn cầu này không có gì là
không đang sống. Tất cả đời sống
là một, và vì vậy chúng ta phải thương yêu toàn cầu,
bất cứ ở đâu cũng không có một kỳ thị phân biệt nào.
Vẻ đẹp bên trong chiến thắng vẻ đẹp thô kệch xấu xí
bên ngoài và làm con người lôi cuốn được kẻ khác. Vẻ
duyên dáng đó có thể đạt được bằng
sự thực hành lòng từ vô biên, và lòng từ đó
phải được tu tập ngày đêm không ngừng nghỉ.
10)
Vị đó chết thanh thản. Người ta thường chết một cách
khiếp sợ. Họ sợ chết, đôi khi họ
bị dằn vặt khổ sở hết sức kinh khủng. Trong kinh Phật
được kể rằng khi một người sắp tái sinh vào cảnh khổ
ngục, ngay trước khi chết, vị đó thấy ngọn lửa "hỏa
ngục" và bạn có thể tưởng tượng những cảm giác của
người sắp chết phải bị ra sao không? Ngay trước khi chết
vị đó trông thấy những ngọn lửa
khổ hình phóng lên, bản thân không thể nào an lạc; nhưng
nếu vị đó có thực hành thiền định về lòng từ quảng
đại, đương nhiên vị đó sẽ
không còn khiếp sợ. Lòng từ làm cho bạn sống hạnh phúc
và chết hạnh phúc. Bạn còn muốn gì nữa. Tình thương yêu
là quý hóa nhất và cao thượng nhất! Nó làm cho bạn ngủ an
lạc, chết an lạc. Hai điều không giống nhau sao?
Ban đêm đi ngủ, điều này
giống như chết. Khi thức dậy, tươi
tỉnh lạỉ, bạn như được tái sinh.
11)
Nếu bạn không chứng đạt Niết Bàn trong đời này, bạn
sẽ được tái sanh vào cảnh trời. Lòng từ
ái đưa đến sự tỉnh thức và an vui. Hai cảnh này
không phải giống nhau sao?
Lòng từ biến bạn thành
một vị thần ngay bây giờ trở đi.
Lòng từ ban cho bạn năng lực vô biên, vượt hơn năng lực của
mình và của người khác. Lòng từ khiến bạn thành một vị
Phật tối thượng–giống như một bà mẹ sẵn sàng hy sinh
đời mình cho đứa con duy nhất. Vì vậy ta nên thường xuyên
ban phát lòng từ của mình đối với tất cả chúng sinh trên
cõi đời này. Ðây là giáo huấn cao thượng của Ðức Thế
Tôn. Hận thù không thể dập tắt được hận thù, chỉ có
tình thương mới dập tắt được hận thù. Nếu toàn thế giới
đều quy ngưỡng Ðức Phật thì chiến tranh sẽ không còn xảy
ra nữa. Ðạo đức cộng tình thương đưa
đến hòa bình hạnh phúc. Tham ái đi
đôi với hận thù gây ra chiến tranh và nghèo khổ. Ðại
từ bi là mẹ của mọi đức hạnh. Mong sao chúng sanh trên
toàn cầu giữ mãi tâm niệm nhân ái này.
Chúng ta cố gắng
gởi đến quý vị một bài Pháp nữa của Ðức Phật.
Bởi vì nếu chúng ta muốn hiểu Phật
Giáo một cách đúng đắn thì chúng ta phải thường xuyên
tìm hiểu từ đầu nguồn–chính là Ðức Phật. Khi nước xuất
phát từ đầu nguồn, nó tinh khiết, nhưng khi nước chảy xuống
mặt đất nó trở nên bất tịnh.
Vì vậy chúng ta đứng bao giờ phí sức học Phật từ những
sách do nhiều tác giả viết ra mà phải luôn luôn nghiên cứu
Phật học ngay từ những lời dạy của chính Ðức Phật. Giờ
đây tôi sẽ gởi đến quý thiện hữu
một chút pháp vị nữa từ một bài giảng sâu sắc của
Ðức Thế Tôn. Trong Kinh Trung A Hàm, Ðức Phật dạy: có 6
giác quan bên trong và 6 nhóm ý thức, 6 nhóm xúc (tiếp nhận),
6 nhóm thọ (cảm giác), 6 nhóm ái (yêu thích) tạo thành 36 loại
tất cả. Như tôi đã nói đạo Phật là khoa học giải
thoát, là khoa học phân tích nên mọi thứ phải được phân
xét lý giải.
Chúng ta phải dùng mắt để
nhìn đúng tiến trình của cái thấy là gì. Chúng ta có mắt,
có sắc thể, con mắt thêm vào hình thể liền khởi lên cái
biết thấy, căn (mắt), trần (hình), thức (ý) chạm vào nhau;
phát sinh xúc (tiếp xúc); rồi xúc phát sinh thọ (cảm giác)
và thọ phát sinh ái (yêu thích). Tương tự như vậy xảy ra
khi ta nghe, tai thêm vào âm thanh phát khởi cái biết của tai.
Rồi tai, âm thanh và cái biết nghe chạm vào nhau tạo nên
xúc. Rồi xúc phát sinh thọ, rồi thọ phát sinh ái. Tương tự
như vậy xảy ra khi chúng ta ngửi, nếm, chạm và suy nghĩ.
Ðức Phật dạy: sau khi
phân tích 36 pháp, chúng ta thấy rằng không có cái Ta nào bất
diệt, bất biến bên trong 36 pháp này. Bởi vì nếu có người
nói rằng con mắt là "ta", điều
này không chấp nhận được, vì sự sinh diệt của mắt
là hiển nhiên, con mắt là vô thường (tạm bợ), và vì nó
vô thường nên chúng ta không thể gọi nó là "ta", bản
ngã của ta, chúng ta không thể gọi hình thể là ta, chúng
ta không thể gọi cái biết thấy là ta hoặc xúc thọ hay ái
là ta. Khi phân tích rằng các hiện hữu đều có sự sinh diệt
của chúng, ta mới đi đến kết luận
rằng cái ta khởi lên rồi biến mất và vì vậy nói rằng
con mắt là "ta" đều không chấp
nhận được. Như vậy con mắt là vô ngã. Biện chứng
tương tự áp dụng cho các hình thể. Hình thể vốn vô thường
và xúc, thọ, ái tất cả đều vô thường, vì thế cái
"ta" không thể tìm thấy được trong bất cứ một giác
quan nào hoặc không tìm thấy được trong một pháp nào thuộc
36 pháp đã nói. Vạn pháp đều vô thường. Do vậy không có
cái ta nào bất biến trong cái thường chuyển cả.
Như tôi đã giảng ngay từ
đầu bài pháp rằng chúng ta chỉ ở trong những niệm tưởng
tạm bợ thoáng qua, và vì những niệm tưởng cứ mãi thoáng
qua nên chúng ta cứ mãi tạm thời không cố định,
không có cái ta bất biến nơi
con người. Con đường đưa đến nguồn gốc của ngã
kiến–cái nhìn cá tính, vốn coi như của mình. Cái này là
tôi hoặc cái này là chính tôi, hoặc là mắt, hình sắc, cái
biết thấy, hay xúc, thọ, ái, hoặc tương tự coi cái nghe và
các giác quan khác là phụ. Vì vậy bạn thấy đó, cảm giác
của cái ta khởi lên qua tập quán tư duy bất thiện từ quá
khứ vô tận. Chúng ta vẫn cứ suy nghĩ như vầy: cái này thuộc
về tôi, cái này là tôi, cái này là chính tôi. Nhưng từ đây
trở đi, chúng ta khởi sự tư duy ngược lại nếu chúng
ta thường nói với sự cân nhắc mỗi và mọi điều mà
chúng ta thấy hay nghe, ngửi hay nếm, hay chạm, hay suy nghĩ rằng:
"Ðây không thuộc về tôi, đây không phải là tôi đây
không phải là bản ngã của tôi; như thế bạn mới quân
bình được tập quán suy nghĩ xấu trước kia và cái nhìn cá
tính sẽ được hóa giải. Chúng ta không bao giờ tin về bản
ngã, và đó chính là sự giác ngộ tối thượng, sự tỉnh thức
siêu việt, đó là Niết Bàn. Con đường
đưa đến tiêu trừ cái nhìn cá tính là đừng coi nó
là của mình... dù là mắt, là tai, cái nghe hay bất cứ cái
nào trong 6 giác quan khác hay những phần hỗ trợ cho chúng. Người
đệ tử thực học của Ðức Phật trở nên nhàm chán cảnh
đời và các giác quan khác nên được giải thoát. Ðối với
người đệ tử đó, nhờ được giải
thoát nên được tri kiến giải
thoát, triệt để tin tuởng rằng
đây là kiếp sống cuối cùng, rằng vị đó
đã sống đời phạm hạnh thanh cao, rằng Phật sự đã
làm xong và giờ đây không còn nữa những gì đã làm. Ðức
Thế Tôn dạy như vậy.
Khi bàì pháp vừa thuyết
xong, tâm của 60 vị Sa Môn đều giải
thoát mọi kiết sử. Nói cách khác nhờ bài pháp
độc nhất đó mà 60 vị Sa Môn chứng quả A La Hán tối
thượng. Họ tiêu trừ các lậu hoặc như dục lậu, hữu lậu
và vô minh lậu v.v... Họ trở thành bậc tỉnh thức, Ðấng
Toàn Giác. Họ chứng đắc Niết Bàn tối thượng chính ngay
cuộc đời này. Trong Phật Giáo không cần phải đợi
chết mới đạt đến mục đích, mà người ta
có thể đạt Niết Bàn tối thượng ngay tại đây yà bây giờ.
Ngay lúc tôi đang thuyết pháp, quý vị có thể đoạn diệt
được tâm tham, tâm sân, tâm si và đạt
được trạng thái vô tham, vô sân, vô si ở đỉnh cao gọi là
Niết Bàn, niềm hạnh phúc cao tột nhất. Cầu mong tất cả
quý vị càng sớm càng tốt đạt được
cảnh giới an lạc tối thượng.
Trước khi kết thúc, tôi
muốn chấn chỉnh một số quan niệm về đạo Phật, vì
nơi đây còn có một số người không phải là Phật tử.
Tôi sẽ cố gợi lên một ý tưởng rõ ràng về Phật Giáo
là gì. Có lần khi tôi còn ở trong một trại tập trung, tôi
nhớ một người bạn cùng bị giam đã cố giải thích về
triết học Phật Giáo cho một thính giả là tôi. Ông là một
linh mục Thiên Chúa La Mã. ông ta giảng về Phật Giáo và tôi
là một hội viên của thính chúng. Một người không phải Phật
tử lại đi giảng Ðạo Phật cho người Phật tử nghe–vì
tôi muốn nghe những gì ông ta trình bày. Tôi thấy rằng có
vài điểm tuyệt đối không đúng. Bởi
vì tôi vốn là một chuyên gia Phật tử, lẽ dĩ nhiên
Phật Giáo là đề tài của tôi. Chúng tôi không thể kỳ vọng
một thành viên của một tôn giáo nào khác làm chuyên gia cho
Phật Giáo.
Tôi thấy có vài sai lầm
và đây là một số nhầm lẫn hiện đang
phổ biến có liên quan đPhật
Giáo–tôn giáo mà tôi sẽ chấn chỉnh
tốt đẹp hầu giúp người ngoại
đạo có thể hiểu một cách đúng
đắn Phật Giáo là gì. Trước tiên, vị thượng nhân
đó nói rằng Phật Giáo không phải là tôn giáo mà Phật
Giáo chỉ là một triết lý. Tôi phải
chứng minh rằng Phật Giáo cũng được gọi là tôn
giáo, bởi vì, Tôn giáo là gì? Tôn giáo là phương pháp diệt
trừ đau khổ, bởi vì nếu không có đau khổ trên thế gian
này thì tôn giáo sẽ hóa ra dư thừa. Chúng ta có tôn giáo chỉ
vì trần gian này có đau khổ. Tôn giáo là phương tiện để
đi đến cứu cánh. Nó ban cho sự an ủi
trước mọi bất trắc cuộc đời, nó cho ta sự trầm tĩnh an
lạc. Phật Giáo có Bát Chánh Ðạo–con
đường tám điều chân chính, diệt khổ. Do vậy Phật Giáo
là tôn giáo tuyệt vời, nó tạo ra các bậc A La Hán, những
người tự mình thoát ly mọi đau khổ, vì giáo pháp của Phật
đoạn trú mọi đau khổ. Phật Giáo
chắc chắn được gắn cho thuật ngữ "Tôn
Giáo". Bởi vì theo định nghĩa của chúng tôi thì tôn
giáo là phương pháp diệt trừ đau khổ. Dĩ nhiên có nhiều
người định nghĩa về tôn giáo một
cách khác nữa. Họ nói tôn giáo là phụng thờ Trời
(Thượng Ðế), nhưng Phật tử chúng tôi cũng phụng thờ trời,
bởi vì chúng tôi cho rằng Trời là một đấng toàn hảo. Bất
cứ ai toàn hảo đều là trời, bởi vì không có trời nào hơn
đấng toàn hảo. Theo như người Phật tử chúng tôi thì bất
luận ai đạt được sự tận diệt tuyệt
đối về tham, sân, si, đố kỵ, nghi ngờ, kiêu mạn, vị đó
là Trời. Bởi vì không có trời nào cao hơn chân lý.
Không có trởi nào cao hơn sự toàn hảo. Nếu có vị trời
nào cao hơn sự toàn hảo thì vị đó không phải toàn hảo
và vị đó không còn là trời nữa. Thế nên trời là đấng
toàn hảo. Chúng tôi coi Ðức Phật là Ðấng Toàn Hảo tuyệt
đối sau khi đạt được viên
mãn toàn hảo. Chúng tôi gọi Ngài là vị Trời. Ngài không
còn một tì vết nào về tham dục, dù Ngài sinh ra là một con
người. Sau khi thành đạo dưới cội Bồ Ðề lúc 35 tuổi
Ngài hoàn toàn đoạn trừ tham ái, sân hận và si mê v.v...
Ngài trở thành: Ðấng Toàn Hảo, một vị Phật, Ðấng Toàn
Giác. Vốn toàn hảo nên chắc chắn Ngài được tôn hiệu là
Trời, bởi vì Ngài là môt vị Trời thanh tịnh. Ngài là
Thiên Thượng Thiên có nghĩa là Trời của các vị Trời.
Phật tử chúng tôi phụng
thờ Trời vậy thì Phật Giáo là một tôn giáo chứ không phải
chỉ thuần túy là một triết lý, không còn ngờ gì nữa đó
là một triết lý cao siêu nhất từng được một chúng sanh
toàn hảo khai sáng nhưng Phật Giáo cũng là một tôn giáo,
chúng ta có thể gọi Phật Giáo là một tôn giáo triết lý.
Điểm lầm lỗi kế
tiếp mà vị thượng nhân đưa ra cho rằng Niết Bàn là một
giấc ngủ không mơ. Nhưng chúng tôi nói Niết Bàn chẳng phải
là một giấc ngủ không mơ. Niết Bàn là sự tỉnh ngộ cao
độ. Như tôi đã giải thích trước
kia rằng cuộc đời là một giấc mộng, chỉ khi nào
chúng ta bừng tỉnh khỏi cuộc đời mộng ảo này thì ta được
tôn hiệu là Phật–bậc Giác Ngộ tối thượng. Sống là mộng
nhưng đạt được Niết Bàn là
tỉnh giấc mơ cuộc đời. Mục đích
của Phật Giáo là làm cho chúng ta thức tỉnh trước cuộc
đời mộng ảo, làm cho chúng ta luôn luôn là người tỉnh giác.
Vì vậy Niết Bàn không phải là một giấc ngủ không mơ mà
là một trạng thái tỉnh thức tối thượng, trạng thái mà
các bậc Thánh hưởng được ngay đây
và bây giờ chứ không phải sau khi chết mới đạt được Nếu
tôi nhớ không lầm thì ở những tôn giáo khác, chúng ta phải
chết trước đã rồi mới đạt được phước lành.
Trong Phật Giáo không cần phải đợi
chết, bởi vì Ðức Phật lúc 35 tuổi, Ngài đã tận hưởng
phước lạc cao tột, có thể thực hiện trên cõi đời này,
Ngài chứng vô thượng Niết Bàn, sự toàn hảo tối thượng.
Niết Bàn là sự tỉnh giác cao tột. Toàn thế giới như đang
ngủ, đang mơ, mơ trong cơn ác mộng, người ta coi giấc
mộng trống rỗng này là thật. Do vậy mà toàn thế giới
này đau khổ. Vô minh–tức sự ngu si là nỗi đau khổ nghiêm
trọng nhất. Trí tuệ là hạnh phúc cao đẹp nhất. Niết Bàn
không phải là giấc ngủ không mơ. Niết Bàn không phải là hư
vô hay không hiện hữu. Niết Bàn là thực tại của chân lý
trường tồn tối thượng. Thế giới không thực, là hư ảo
vì vạn pháp đều tạm bợ và biến đổi. Vắng mặt
trần gian hư ảo đó là chân Niết Bàn tối thượng hay
là trạng thái tỉnh thức siêu đẳng. Tôi vẫn nói rằng
toàn thế giới đang bốc cháy. Niết Bàn là trạng thái tỉnh
giác, trạng thái tươi mát, nơi không còn những ngọn lửa của
6 giác quan. Có sự khác biệt giữa Ðức Phật và những đệ
tử của Ngài đối với những cá nhân tầm thường. Vì những
vị phàm phu khi nhìn sự vật với lòng khát ái, đam mê và
khi nghe với lòng khát ái, đam mê, họ đang
bị đốt cháy khắp nơi. Trái lại, Ðức Phật nhìn sự
vật với tâm ly dục, nghe với tâm ly dục, ngửi, nếm, chạm,
nghĩ đều buông xả, không một chút
đam mê, lạc thú.
Thêm một điểm sai lầm nữa
mà vị linh mục quý kính đã nói rằng Phật Giáo là tiêu cực.
Không đúng như vậy. Bởi vì đạo Phật
ban cho trái quả tối thượng nhất ngay ở đây và bây
giờ, làm sao gán cho đạo Phật là tiêu cực được? mà đạo
Phật phải là một tôn giáo lạc quan cao siêu nhất bởi vì
đạo Phật giải thoát con người khỏi
đau khổ ngay ở đây và trong tình
trạng đang sống bây giờ, nhưng Ðức Phật không ngừng
ở đấy. Ngài chỉ đạy con đường
thoát khổ. Nói một cách khác, Ngài chữa lành bệnh
nhân, ban cho họ hạnh phúc bất tận và vì vậy Ðức Phật
được gọi là vị Y sĩ vĩ đại
nhất trần gian này, bởi vì Ngài giải thoát nỗi thống
khổ của con người ngay đây và bây giờ, và vì con người
được chữa lành mọi chứng bệnh đau khổ về thân tâm, Phật
Giáo quả là một tôn giáo lạc quan nhất chứ không phải bi
quan như vị linh mục đã ngộ
nhận.
Như Ðức Thế Tôn đã dạy:
"Này các Tỳ Kheo, giống như nước trong các đại dương
chỉ có một vị, đó là vị của
muối. Cũng vậy, Giáo Pháp của ta cũng là một vị, đó là vị
giải thoát. Và vì Phật Giáo là đạo của giải thoát, làm
sao ta có thể gắn cho Giáo Pháp giải thoát là tiêu cực được?
Một cách đoan chắc, nếu một bệnh nhân được chữa lành
chứng bệnh sốt rét, bệnh nhân không bao giờ dám nói thuốc
điều trị của Bác sĩ chữa bệnh cho anh ta là tiêu cực
và bệnh nhân sẽ nói đó là thuốc hay nhất
đã chữa lành bệnh cho mình. Cũng tương tự như vậy,
thuốc Bát Chánh Ðạo chừa cho con người hết đau
khổ, đó là thần dược lạc quan nhất bởi vì nó chữa
lành bệnh cho con người ngay tại đây và bây giờ, đồng
thời ban cho vị đó niềm hạnh phúc cao tột nhất.
Phật Giáo có 4 chân lý
cao thượng. Chân lý thứ tư hướng dẫn
chúng ta con đường thoát khổ, an nhập hạnh phúc của Niết
Bàn tối thượng trường cửu. Do vậy Phật Giáo là
tôn giáo lạc quan nhất trên thế giới. Phật Pháp dạy rằng
sự lạc thú là gốc rễ của khổ đau, bởi vì nếu bạn vướng
mắc vào khoái lạc của mắt thì chẳng khác gì bạn đang cố
uống nước muối, bạn càng uống càng thấy khát, càng nhìn
bạn càng muốn nhìn, càng nghe bạn càng muốn nghe. Không sao
chấm dứt được tiến trình này. Trên trần gian đây không
bao giờ có một cá thể độc nhất nào
nhờ vui hưởng khoái lạc của 6 giác quan mà đạt
được hạnh phúc trường cửu. Vị đó chỉ đạt được sự
khao khát triền miên, bởi vì càng đeo dính vào khoái lạc
6 giác quan thì bạn càng trở nên khao khát mãnh liệt. Ðiều
duy nhất mà con người đạt được
qua sự luyến ái 6 giác quan là sự khao khát và đánh mất
Niết Bàn. Vì vậy phần đông chúng ta bị thất bại do nô lệ
vào 6 giác quan. Nay chúng ta thử làm ngược lại bằng kinh
nghiệm từ bỏ khoái lạc từ 6 giác quan. Sự từ bỏ như Ðức
Phật đã làm. Hãy dũng cảm hình thành một chứng nghiệm đối
nghich, bạn sẽ thấy lòng khao khát đoạn diệt và bạn sẽ hưởng
được niềm an lạc vĩnh cửu, bởi vì ngọn lửa tham dục
đã tàn rụi, trạng thái tươi
mát sẽ có mặt. Nơi đây ngọn lửa không thể nào
nhóm lên được lần nữa, không có diêm, không có nhiên liệu
để tái phát ngọn lửa mới, con người không còn tái sinh
trong lục đạo luân hồi nữa. Cũng có
một ngộ nhận nữa, vị linh mục chỉ có giải thích 3 chân
lý đầu mà không đề cập đến chân lý thứ tư là Ðạo
đế Bát Chánh Ðạo–trong Phật Giáo là chân lý quan yếu nhất
cần phải lưu tâm, đó chính là phương thuốc đưa
ta đến Niết Bàn tối thượng.
--- o0o ---