13
CHÁNH BÁO THANH TỊNH
Y BÁO TRANG NGHIÊM
Bằng cách nào làm cho cuộc
thuyết pháp được kết quả? Ðối với công tác hoằng pháp
có nhiều đặc tính như sau:
1) Nhân cách vững vàng cần
phải có. Bởi vì một người thiếu tư cách, phẩm chất yếu
hèn sẽ không thành công được.
2) Trình độ
văn hóa cần phải có. Vị đó cần phải có trình độ học
vấn cấp đại học. Nếu không vị đó không dễ gì thuyết
phục được thính chúng người Tây
Phương vốn có đầu óc khoa học, làm cho họ hiểu được vẻ
trong sáng của Giáo lý Phật đạo vô song.
3) Lòng thương yêu từ
hòa cần phải có. Bởi vì hận thù sẽ bị đẩy lùi, còn thương
yêu thì thu hút lòng người. Vì thế nếu nhà truyền giáo mà
thiếu lòng từ bi thì khó có thể lôi cuốn tín đồ.
4) Vị đó phải là
một xướng ngôn mạnh mẽ. Bởi vì nếu thuyết giảng yếu
giọng thì thính chúng dễ chán nản xa lánh.
5) Vị đó phải có oai
nghi sống đời đạo hạnh, phải thực hành những gì
mình thuyết giảng và vị đó nên thuyết giảng những gì
mình đã thực hành để giành được sự tin tưởng của quần
chúng.
6) Vị đó không có
chỗ nào nghi ngờ nơi Pháp Phật để
đẩy lùi những mối nghi ngờ của thính chúng bằng
cách trả lời tất cả những câu hỏi. Một Giảng Sư chính
thống phải là người biết "ăn
câu hỏi". Vị đó phải sống
bằng những câu hỏi. Nếu vị Giảng Sư còn có chỗ ngờ
vực nào, tốt hơn không nên thuyết giảng. Bởi vì điều rắc
rối nhất là không đủ khả năng trả
lời các câu hỏi khi bị chất vấn.
7) Vị đó phải hiểu
Giáo Pháp một cách thông suốt. Bởi vì nếu am hiểu
Giáo Pháp vị đó mới có thể thuyết
phục mọi người về vẻ đẹp giải thoát của Ðạo
Phật.
8) Vị đó phải biết
ngôn ngữ của thính chúng và tâm lý của họ. Bởi vì
nếu không hiểu được ngôn ngữ của
người Tây phương thì làm sao vị đó có thể giảng
giải cho họ nghe được và nếu vị đó không hiểu tâm lý của
họ, làm sao vị đó có thể trình bày giáo pháp một
cách toàn diện để thính chúng đánh
giá được vị Giảng Sư đã nói gì. Nếu một Pháp Sư
cứ giảng theo cách truyền thống, lập lại các bài giảng bằng
cách học thuộc lòng thì người Mỹ sẽ không cảm nhận được.
Vị Pháp Sư phải thuyết giảng bằng phương thức riêng của
mình một cách khoa học, lời giảng phải đến thẳng từ tâm.
Từ tâm truyền qua tâm. Nếu không, lời giảng của Pháp Sư
nghe chẳng khác gì máy ghi âm phát ra
hoặc con két đang thuyết Pháp. Ðến đây tôi xin nhấn mạnh
một lần nữa tính cách đoàn kết mà Phật Giáo cần
phải duy trì. Nguyên nhân của nhiều sự phân hóa chia rẽ từ
trước đến nay mà ta chung chung cứ đổ lỗi vì tham, sân, si
nơi mỗi cá nhân. Bây giờ ta lắng nghe lời dạy của Ðức
Phật như khắc trên mỗi trường Phật học rằng: DUY TUỆ THỊ
NGHIỆP–trí tuệ là sự nghiệp của người học Phật. Song
phải trui rèn đạo hạnh, thanh lọc tâm thức, tập tu Bồ
Tát hạnh, hạ thủ công phu, tụng kinh, tọa thiền mỗi ngày,
luôn luôn chánh niệm và buông xả. Có được vậy chúng ta mới
dễ hàng phục tham, sân, si vốn chia rẽ trong Giáo Hội Tăng
Già và trong các tầng lớp quần chúng Phật tử.
Về phần cá nhân, ta tự
vấn: điều gì gây ra sự chia rẽ? Do lòng tham, họ nói
họ tu tập giới hạnh, hoàn toàn đúng.
Họ đã thực hành Panca-sita là năm
giới điều và họ phải mở rộng lòng đại
từ đại bi. Bởi vì hãy nhớ rằng lòng đại
từ bi mới giúp chúng ta tu tập năm giới điều một cách
hoàn hảo. Nhưng năm giới điều phải được thực hành
không những chỉ cho thân, hoặc lời nói mà còn cả tâm ý nữa.
Chúng ta không những không chỉ không sát hại mà còn không được
nghĩ tới sát hại. Chúng ta không được lấy của không cho
mà còn không được nghĩ tới
việc lấy của không. Chúng ta không được nghĩ tới việc tà
dâm hay nói láo hay uống rượu.v.v... Thế nên nếu không có
lòng từ bi quảng đại thì
không dễ gì thực hành được năm giới
điều một cách buông xả được. Tôi vẫn thích đoàn
kết dù phảì tổn thất một cá nhân. Chừng nào có được
sự đoàn kết để tu học thì chúng ta mới hoàn toàn
mãn nguyện, sự nghiệp giác ngộ mới viên thành.
Ðến đây,
để cảnh giác các đệ tử Phật không tin nhân quả và
coi thường giới luật, tôi xin thuyết giảng vế kinh Ðề-Bà-Ðạt-Ða
(lời cảnh báo của Thiên-Sứ):
"Nếu người nào có
chánh kiến, vị đó sẽ sanh về cõi trời Nếu ai đó có tà
kiến, sẽ bị đọa xứ ở cảnh giới
địa ngục. Có một thanh niên nọ chết với tà kiến,
hắn đi đâu? Hắn vào địa ngục
nhưng không phải địa ngục đời đời mà chỉ là địa
ngục nhất thời. Trước khi Diêm Vương trừng phạt gã thanh
niên đó, Ngài hỏi hắn một số câu hỏi:"Này gã nam tử
kia! Có bao giờ ngươi trông thấy vị thiên sứ đầu tiên chưa?"
Gã thanh niên trả lời: "Dạ con chưa bao giờ thấy vị
Thiên sứ đầu tiên". "Sao ngươi
chưa bao giờ trông thấy một đứa bé nằm ngửa đó à
?" Gã thanh niên trả lời : "Dạ con có thấy ạ"
. "Ngươi thấy không! Ðứa bé không ai giúp đỡ,
cần có người khác lau sạch đứa bé khi mà nó dơ mình".
Gã thanh niên nói: "Vâng con đã
thấy". "Vậy thì vốn là một nam tử thông minh sao ngươi
không quán tưởng như vậy: Ta rồi cũng phải chịu đau
đớn sinh ra, ta phải thận trọng hành động, lời nói và
ý tưởng của mình để không bị
tái sanh như đứa bé này nữa". Gã thanh niên nói :
"Không! con không bao giờ nghĩ như vậy". "Này gã
nam tử, hãy nhớ rằng điều đó
không phải lỗi của cha mẹ ngươi làm sai, đó cũng không phải
là lỗi của bà con ngươi, mà lỗi lầm này chính là của
ngươi và chính ngươi phải bị trừng phạt".
"Này gã nam tử, có
bao giờ ngươi trông thấy vị Thiên-Sứ thứ hai chưa?" Gã
thanh niên đáp: "Thưa chưa, con chưa bao giờ trông thấy vị
Thiên-Sứ thứ hai". "Chứ ngươi
đã không thấy một ông già và bà già đang chống
nạng đi kia sao?" Gã thanh niên trả lời: "Con
đã không hiểu vậy". "Ồ gã thanh niên! Ðó
không phải là lỗi của cha mẹ ngươi hay lỗi của bà con ngươi
mà chính là lỗi của ngươi và chỉ một mình ngươi và bị
trừng phạt".
"Này gã nam tử! Có
bao giờ ngươi trông thấy vị Thiên Sứ thứ ba chưa?". Gã
thanh niên đáp: "Dạ, con chưa bao giờ trông thấy".
"Sao! Ngươi chưa bao giờ trông thấy một ông già, một
bà già đang đau ốm, đang khổ não với
chứng bệnh khủng khiếp đó sao?". Gã thanh niên đáp:
"Dạ, con có thấy". "Sao ngươi không nghĩ rằng rồi
ngươi cũng phải chịu bệnh tật như vậy?"–gã thanh
niên đáp: "Con thực không nghĩ vậy". "Này gã
thanh niên, đó không phải là lỗi của cha mẹ ngươi hay của
bà con ngươi mà ngươi đã đến địa
ngục. Chính do hành động của ngươi mà ngươi đến đây và
một mình ngươi phải chịu khổ".
"Này gã nam tử! Có
bao giờ ngươi trông thấy vị Thiên Sứ thứ tư chưa?". Gã
thanh niên đáp: "Thưa, vị Thiên Sứ thứ tứ là ai con chưa
từng thấy". "Ngươi không thấy một kẻ cướp phạm
tội, sắp bị kết án, sắp bị treo cổ đó
sao? Và tại sao ngươi không chịu suy nghĩ: ta hãy thực
hiện chân thiện trong ý tưởng, lời nói và hành động".
Gã thanh niên đáp: "Con đã
không nghĩ vậy". "Này gã nam tử? Ðây không phải là
lỗi của cha mẹ ngươi, cũng phải là lỗi của bà con ngươi
mà là lỗi của chính ngươi gây ra và chỉ một mình ngươi bị
hình phạt".
"Này gã nam tử? Có
bao giờ ngươi trông thấy vị Thiên Sứ thứ năm chưa?".
Gã nam tử đáp: "Thưa, con chưa
bao giờ trông thấy vị đó ạ !". "Này gã nam tử?
Trong đời của ngươi, ngươi chưa bao giờ trông thấy một
xác chết của một người nam hay nữ sao? Xác bị phồng lên,
bầm đen và mưng mử". Gã nam tử đáp: "Dạ thưa Ngài
con có thấy". "Vốn là một nam tử thông minh, ngươi
đã không hề suy ngẫm về mình rằng rồi ngươi cũng vậy, mãi
mãi chịu tử vong và ngươi phải cư
xử đúng đắn trong hành động, lời nói và việc
làm". Gã thanh niên đáp: "Con
đã không nghĩ vậy". "Này gã nam tử! Ðó không
phải là lỗi của cha mẹ ngươi hay của bà con ngươi mà đó
chính là lỗi của ngươi nên chỉ một mình ngươi bị hình
phạt".
Bấy giờ Vua Diêm Vương vẫn
im lặng nhưng Ngài giao gã thanh niên vào tay của những tên
gác ngục và chúng đã làm gì? Chúng đẩy
một thanh sắt nung đỏ vào ngực, vào hai tay, hai chân
gã thanh niên. Ðây gọi là "ngũ xuyên"
nghe rất giống như cảnh đóng đinh trên thập giá.
Sau khi gã chịu hình phạt
này, chúng dùng rìu đẽo thân gã, chỉ chừa đầu và chân,
chúng cứa gã bằng dao cạo. Sau đó chúng neo gã vào xe ngựa
rồi kéo xe chạy qua lại trên đống
than hồng rực nóng; kế đó chúng bắt gã leo lên leo xuống
một quả núi khổng lồ đang bốc
cháy. Và cuối cùng nhận gã từ đầu
đến chân vào cái vạc nấu đồng và nhiều lần trồi
lên trồi xuống. Cuối cùng, sau khi xử lý cách trừng phạt kỳ
lạ này, chúng quăng gã vào địa ngục khác. Ðây là một lối
diễn tả khá đẹp. Ngục có 4 hình vuông, 4 cửa cái, 4
khuông viên vĩ đại bằng thép, trần nhà và xà nhà bằng
thép, lan tỏa ra sức nóng sáng chói của thép, đi 300 dặm lối
này và 300 dặm lối kia, rất nguy nga đồ sộ. Những ngọn lửa
từ tường Tây ào tới đập mạnh vào tường Ðông. Những
ngọn lửa từ tường Ðông phát ra đập
mạnh vào tường Bắc. Những ngọn lửa bên trên phát
ra đập mạnh xuống sàn nhà, những ngọn lửa từ sàn nhà đập
ngược lên trần của đại hỏa ngục này. Cuối cùng, sau nhiều
thế kỷ dài kinh khủng, cửa Ðông mở ra, nam tử đó
đang cháy khắp mình, thực ra gã bị ăn khói trở nên
thể khí, bởi vì hơi nóng quá mức, khiến hắn nhảy ngang
qua sân để thoát về cửa Ðông; ngay khi hắn chạm vào cửa
thì cánh cửa đóng sầm, dội ngược lại khiến gã đau
đớn tuyệt vọng. Ðó chỉ là một trò chơi. Vì vậy
gã phải chịu thống khổ, phiền não, bất toại nguyện. Hắn
nghĩ rằng mình sắp thoát ra khỏi nhưng khi gã bước ra thì
cánh cửa đóng sầm dội lại gã. Sau một thời gian dài nhiều
triệu năm, cửa Tây lại mở ra, một lần nữa gã nhảy ngang
qua một cách nhanh nhẹn và biến thành hơi khí. Ngay khi hắn bị
đập vào cửa Tây thì cánh cứa
đóng sầm vào gã, lại bị một bất hạnh đau
đớn nữa.
Bạn thấy đó, cuộc dời
đầy dẫy khổ đau bất hạnh. Có một người đã nói
với tôi, anh ta nằm mơ thấy mình trúng số 100 ngàn rúp, vậy
là hôm sau anh ta bắt đầu bố thí làm phước để hy
vọng trúng số, nhưng rốt cuộc không đạt được như dự
tưởng; giống như gã nam tử đáng thương này ở trong
địa ngục muốn nhảy băng ra ngoài
nhưng cửa vẫn khép, gã đành tuyệt vọng. Sự bất hạnh
tái diễn mãi gọi là DUKKHA là khổ. Gã nhảy băng qua cửa
Nam sau nhiều triệu năm như vậy và
lần nào gã cũng bị cánh cửa đập tung vào mặt. Rồi sau
nhiều triệu năm nữa, cửa Bắc mở ra, lần này gã nhảy băng
qua và trở thành hơi khí như lần trước. Gã lại một lần
nữa bị cánh cửa đập tung vào mặt. Vì thế gã luôn luôn
tuyệt vọng cam chịu bất hạnh khổ
đau.
Sau nhiều triệu năm nữa,
cửa Ðông lại mở ra. Bất hạnh thay! Gã nghĩ là mình
sắp được giải thoát, nhưng cũng không
phải dễ. Ðiều xảy ra lần này hắn rơi vào địa ngục
ô uế, địa ngục phân thối. Hắn tắm
trong phân hôi hám. Trong phân uế có những sinh vật nhỏ mộng
như cây kim, chúng bắt đầu đục xuyên vào da hắn,
sinh vật lại châm xuyên qua xương. Sau khi qua xương chúng thấm
vào bên trong và bắt đầu hút tủy trong xương. Gã nam tử đáng
thương đau đớn vô cùng nhưng gã vẫn không thoát khỏi
cơn cực hình cho đến khi ác nghiệp của gã rơi vào địa
ngục than lửa, đầy than lửa nóng rực và nơi đó gã bị đốt
thui bên phải, bên trái. Từ đó gã rơi vào địa ngục
khác nữa, cảnh rừng cây bông vải rất cao và rừng này có
những lá nhọn như cây kim dài khoảng
nửa mét. Mặt lá đang rực lửa. Họ bắt gã phải leo
lên leo xuống và cuối cùng những chiếc lá nhọn như gươm bắt
đầu cắt tay chân của gã. Khi cơn gió thổi qua, những chiếc
lá rthọn đó cứa lìa tay chân của hắn. Nhưng thật kỳ lạ,
ở cõi địa ngục, mặc dù tay chân bị cụt hết liền lành
trở lại như bình thường. Bây giờ gã lại có dư tay chân
để bị chặt nhiều lần nữa. Từ
đây gã rơi vào dòng sông Soda vĩ đại
ăn mòn cơ thể hắn–Soda ăn mòn
là một điều ghê rợn, nó đốt cháy thịt da giống như
acit. Sau cùng gã trở thành chất lỏng chỉ còn lại mớ tóc
nổi lềnh bềnh. Sau một lúc lâu có vài ngư phủ với từ tâm,
tay cầm móc lôi gã vào bờ. Nhưng các ngư phủ đó là những
tên cai ngục chứ không phải loài người. Các quỷ sứ canh
ngục này giở giọng từ tốn: "Thưa Ngài". Rõ ngộ?
Ngay trong thế gian này, chúng ta thường gặp những kẻ thù, bề
ngoài mặt thì họ rất tử tế độ
lượng nhưng sau lưng chúng ta họ lại giở nhiều thủ đoạn.
Chúng quỷ hỏi: "Thưa Ngài! Ngài cần gì?". Gã
nói: "Tôi đói kinh khủng".
"Ðược rồi, chúng tôi sẽ cung cấp món ngon vật lạ cho
Ngài". Chúng liền buộc gã mở miệng ra và bạn có biết
chúng bỏ gì vào không? quỷ sứ đã bỏ vào một quả bóng bằng
đồng nóng đỏ làm cháy miệng
gã, cháy cả cuống họng, dạ dày, ruột gan, lan đi tất cả
nội tạng.
Thế nên nếu quý vị
không muốn ăn quả cầu sắt đỏ
như lửa, bị trấn áp bỏ vào miệng như một hình phạt
trong hỏa ngục. Tôi khuyên tất cả quý vị nên phát nguyện
ăn chay. Bởi vì nhờ phước báu của sự ăn chay–không nợ
máu chúng sanh thì tất nhiên quý vị sẽ không ăn
quả cầu nóng đó mà sẽ hưởng
món ăn dễ chịu hơn. Nếu không, bây giờ chúng ta ăn thịt
thì chắc chắn mai sau chúng ta sẽ ăn những quả đồng nóng
rực như vậy.
Sau khi cống hiến cho gã một
bữa cơm thịnh soạn như vậy khiến tất cả bộ ruột của
gã phải đứt rơi ra ngoài. Chúng quỷ còn hỏi tiếp: "Thưa
Ngài, Ngài còn cần thêm gì nữa không?". Gã nói:
"Tôi khát nước kinh khủng"–vậy sao? Chúng nói:
"Chúng tôi sẽ dâng Ngài món rượu Champagne tuyệt hảo".
Chúng làm sao quý vị biết không? chúng quỷ cạy miệng gã ra
và đổ vào một loại nước đồng nấu chảy, nó kinh khủng
làm cháy toàn bộ miệng lưỡi, cuống họng, bao tử, ruột
gan.v.v...
Những ai thích uống rượu,
phá giới thứ năm, có lẽ khi vào địa
ngục này họ mới thưởng thức món uống đặc biệt khoái
khẩu hơn nhưng không say lắm. Nếu ai không thích uống nước
đồng nấu chảy thì tốt hơn đừng uống ruợu hay các
chất say mà chỉ nên dùng loại nước bồi dưỡng hay giải
khát nào không có hại sức khỏe và trí tuệ cũng như nhân
cách của con người. Cuối cùng sau khi phục vụ món giải
khát cho gã một cách lịch sự, các quỷ ngục nắm đầu và
chân, khiêng quăng gã một lần nữa vào địa ngục, tương tự
như trước kia, 300 dặm lối này, 300 dặm lối kia với 4 cửa
ngục và đốt cháy toàn bộ. Vì vậy gã lại bị hành hình
như trước kia. Tại sao vậy? Bởi vì gã không có đủ thì giờ
để trả cho hết túc nghiệp. Chúng quỷ muốn cho gã một hương
vị khác tương tự như vậy.
Về phần Diêm Vương, sau
khi đã chứng kiến những khổ cảnh ghê rợn như vậy ở địa
ngục, liền phát nguyện: "Ðịa ngục quả là một nơi khủng
khiếp, mong sao ta được tái sanh làm người. Mong sao ta được
sinh ra gặp thời Phật xuất thế,
mong sao ta được nghe Giáo Pháp của Ngài và liễu ngộ
chân lý tất cả".
Nói đến dây Ðức
Phật dạy: "Này các Sa Môn! những gì Như Lai đang nói cho
quý Thầy, Như Lai chưa nghe từ miệng của người khác dù là
một đạo sĩ hay một Bà La Môn. Những gì Như Lai nói, Như
Lai chỉ nói cho quý Thầy những gì mà chính Như Lai đã thấy
và tự chính mình chứng ngộ". Ðức Phật nhìn thấy địa
ngục bằng chính mắt của Ngài. Bởi vì Ngài không mô tả những
Ngài chưa nhìn thấy. Ðức Phật chỉ mô tả những gì chính
Ngài đã nhìn thấy chớ không có gì khác
Sau khi cảm nhận được
những cảnh ghê rợn ở địa ngục, chúng ta phải chăm chú hơn,
chánh niệm trong mỗi hành động,
phải cực kỳ tinh tấn giống như một người bị chi phối bởi
một thanh gươm đang đe dọa. Giả sử như một người đang
ngồi và trên trần nhà đang có
một thanh gươm đang treo lơ lửng bằng một sợi tóc nhỏ,
và sợi tóc có thể đứt bất cứ lúc nào, khiến lưỡi
gươm có thể đâm qua sọ của anh ta. Quý vị có nghĩ rằng,
anh ta dám yên tâm ngồi ngủ không, hay nói chuyện nhảm
nhí với người bạn mà trở thành người đa ngôn, hay lãng
phí thời giờ đọc sách tiểu thuyết vô ích, hay truyện thần
tiên vô bổ? Không, vị đó rất tích cực, luôn luôn khẩn trương
giải cứu nghiệp lực của mình.
Giả một người bị quấn
một chiếc khăn lửa trên đầu, bạn thử nghĩ anh ta có dám
đi xem chiếu bóng trong tình thế lửa bốc cháy trên đầu
như vậy không. Chắc chắc là không. Anh ta phải chạy khẩn cấp
chỗ này chỗ kia tìm nơi gần nhất có nước để dập tắt
ngọn lửa đang cháy trên đầu. Tương tự, chúng ta phải
chạy nhiều nơi tìm cầu trí tuệ để thoát ly ngọn lửa
tham ái, sân hận và ngu độn; những
ngọn lửa đang xô đẩy chúng ta vào địa ngục thấp kém nhất.
Có lẽ người ta nghĩ rằng có rất ít người bị đọa địa
ngục. Nhưng không phải vậy Ðức Phật đã khuyến cáo
rằng đa số đều đọa địa ngục
chỉ một thiểu số thoát khỏi. Ðể hình tượng hóa,
một hôm Ðức Phật lấy một ít đất
rồi đặt trên đầu móng tay của ngài và ngỏ lời với
Chư Tăng, Ngài dạy: "Này các Tỳ Kheo! Chút
đất mà Như Lai có trên đầu ngón tay này so với số
đất bao la có trên trái đất, số đất
nào nhiều hơn?". Chư Tỳ
Kheo đáp lại: "Bạch Ðức Thế Tôn! Quả là nhiều
số đất có trên trái đất này và quả là ít số đất có
trên ngón tay của Như Lai".
Ðức Phật dạy: "Tương
tự như vậy, quả thật rất ít người được tái sinh vào
cõi chư Thiên hay được tái sinh làm người và ngược lại có
vô số loài người tái sinh làm ma quỷ, súc vật hay đọa
địa ngục".
Thế nên khi nhận ra rằng
địa ngục là gần chứ không xa, chúng ta phải chuyên cần,
chớ dửng dưng mà say mê lạc thú. Thực sự, ta cảm
nhận rằng được tái sinh làm người là một việc hi
hữu; bởi vì con người có trí thông minh hiểu biết nhờ vậy
mới có thể phân biệt đúng sai. Con
người có thể có khả năng thành Trời, Thần. Hãy nhớ
rằng Chư Phật luôn luôn xuất thế làm người. Ðức Phật
sinh ra như một con người, có mắt, tai, mũi, lưỡi như chúng
ta. Thật là đại hồng ân cho chúng
sinh được tái sinh làm người. Quý vị có biết tại
sao làm người lại được lợi lạc hơn làm Chư Thiên
không? Tôi tự nhủ bất cứ ai cũng có thể trả lời được
câu hỏi này. Loài người có nhiều thuận duyên hơn
Chư Thiên, bởi vì chư vị cõi trời sống hàng triệu năm
trong khi con người, nếu may mắn chỉ sống một trăm năm. Chúng
ta sống ở cõi trần có thể hiểu được ý nghĩa của vô thường,
khổ và vô ngã; bởi vì chúng ta trông thấy rõ cánh hoa
phai tàn hằng ngày. Chúng ta thấy rõ con người mau chóng trở
nên già nua, cằn cỗi, bệnh hoạn, tử vong ra sao. Trái lại,
trên cõi trời họ luôn luôn tươi trẻ và sự thay đổi
rất chậm. Họ không nắm bắt được ý nghĩa của vô thường,
khô, vô ngã như chúng ta. Bởi vì Chư Thiên sống hàng
triệu năm. Họ cứ nghĩ rằng họ bất tử, bất diệt.
Hãy nhìn kỹ lại trần
gian này, nếu may mắn người ta sống được
100 năm nhưng họ lại không bao giờ nghĩ rằng mình sắp
chết, mà cứ nghĩ rằng mình bất tử. Họ cũng thấy người
ta chết hàng ngày, nhưng họ lại nghĩ họ không bao giờ chết.
"Người hàng xóm tôi chết còn tôi thì không". Ðó
là một sự thôi miên, sự gây mê chính mình,
thử tưởng nếu chúng nhân chỉ sống có trăm năm mà họ
nghĩ rằng họ sẽ không chết thì quý vị Chư Thiên sống
hàng triệu năm, họ sẽ nghĩ họ bất tử. Có một vị trời
Phạm Thiên tưởng rằng mình không chết, Ðức Phật vận
hành cõi trời, cải nóa vị trời Phạm Thiên, chứng tỏ cho
vị đó thấy ai rồi cũng phải chết. Ðó? Quý thính chúng thấy
chưa, ngay cả chư Thiên còn phải có ngày hết tuổi thọ, huống
gì là chúng ta ở trần gian bấp bênh ngắn ngủi này. Vậy tốt
hơn ta nên tái sinh làm kiếp người nếu ta muốn nhanh chóng
thành tựu quả vị Niết Bàn. Nhưng nếu không vội vã thì vị
đó có thể thực hiện thử một chuyến tham quan lên cõi trời
khi mình đã thặng dư công đức.
Cuộc đời là một
trường học, chúng ta cần một trường học Phật. Hầu hết
mọi tâm thức mọi người chỉ ở lớp mẫu giáo. Tại sao? Bởi
vì họ không phải là người chứng quả Tu Ðà Hoàn, Tư Ðà
Hàm, A Na Hàm. Họ cũng không phải là những bậc A La Hán.
Trong Phật Giáo có 4 giai đoạn tịnh
hóa chứng quả. Tu Ðà Hoàn là người tái sinh nhiều nhất
bảy lần nữa và A Na Hàm là người sẽ không bao giờ tái
sinh nữa. Bậc A La Hán đương nhiên chứng quả Niết Bàn ngay
trong đời này và ngay khi tịch diệt. Nhưng mọi người chưa
chứng quả Tu Ðà Hoàn nên coi như đang học lớp mẫu giáo.
Hãy nhìn ngắm các trẻ em, chúng đang
chơi các đồ chơi, chúng xếp từng khối vào nhau.
Chúng dựng một cái nhà, và ngộ thật, khi làm nhà xong,
chúng reo vui rồi đưa chân đá, phá sạch
và trò chơi lại kết thúc. Cũng tương tự như trẻ em
trên thế giới trình độ cấp mẫu giáo, chúng ra công xây dựng
1 thành phố nguy nga, đồ sộ, hết sức tốn kém, tạo dựng
thêm nhiều dãy nhà tráng lệ, ấy vậy mà khi chúng chán nản,
không thích xây cất nữa, chúng bỏ một trái bom nguyên tử
nhỏ đánh sập toàn bộ và rồi
bỏ đi không một chút thương tiếc. Nhà cửa sạch phẳng
chúng ta không còn tìm thấy ngay cả những viên gạch nhỏ.
Suy ra như vậy, loài người
có khác gì trẻ em trên trần gian điên đảo này. Họ phấn
khởi ra công xây dựng nhiều thành phố, nhà máy, trường học.v.v...
rồi bỗng nổi cơn "vô minh, tham ái, chấp thủ", họ
tuôn hàng loạt bom đạn tiêu diệt toàn bộ.
Ðến đây, tôi lại nêu
thêm một hình tượng nữa: thế gian giống như một thập tự
giá. Tôi đã nói về sự đóng đinh
trên thánh giá ngay từ đầu tại địa ngục. Trần gian này
quả là thập tự giá. Chúng ta liên tục
đóng đinh trên thập tự giá. Sáu giác quan gồm có mắt,
tai, mũi, thân, ý là những chiếc đinh.
Chúng ta bị đóng đinh lên thập
tự giá bằng sáu cái đinh–tức là sáu giác quan. Cho
tôi hỏi quí vị một câu: "Ðinh nào mạnh hơn? Ðinh làm
bằng sắc thép hay làm bằng sáu giác quan?". Sáu giác quan
phải mạnh hơn. Tại sao? Bởi vì đinh
làm bằng sắc thép chỉ kéo dài một giai đoạn nào mà thôi.
Chúng ta có thể rút tay ra khỏi những cây đinh. Chúng ta có
thể dùng chân đá và rút chân ra khỏi những cây đinh. Bạn
có thể nào đá mất sáu giác quan không? Tại sao? Bởi vì
các giác quan hình thành bằng chất liệu vô minh, tham ái. Bạn
có sáu giác quan ấy bao lâu rồi? Từ quá khứ xa xưa. Trong
khi những đinh thép chỉ có thể tồn
tại một đời hay chỉ vài giờ lúc bạn ở trên thập
tự giá. Mặt khác, sáu giác quan mà bạn đã có từ quá khứ
vô thỉ kiếp này sang kiếp khác. Ðó là lý do tại sao đinh làm
bằng sáu giác quan mạnh hơn đinh làm bằng sắc thép.
Loài người chúng ta cứ
liên tục bị đóng đinh trên thập tự
giá trần gian do sáu giác quan; nhưng vẻ đẹp của sự đóng
đinh trên thập tự giá là cái đẹp mà người ta thích.
Do thích được đóng đinh hơn. Họ yêu
thích sáu giác quan, thậm chí họ còn trả tiền để hưởng
khoái lạc của sáu giác quan. Họ muốn
được đóng đinh chắc chắn hơn trên thập tự giá trần
gian như xưa kia. Do đó rõ ràng thế giới là một nhà
thương điên khổng lồ.
Ðau đớn và khoái lạc thường
đi đôi với nhau, chúng không hề
tách rời nhau. Vì vậy hễ ai còn ôm ấp khoái lạc thì
phảì ôm ấp đau khổ. Cái giá của
khoái lạc là đau khổ–họ muốn hạnh phúc vô tư và
yên bình của Niết Bàn tối thượng.
Xưa có một nhà tu khổ hạnh
sống yên bình trong một ngôi am. Một hôm có hai chị em nọ đến
gặp Ðạo sĩ. Họ là hai chị em kỳ lạ. Một người thì cực
kỳ đẹp đẽ, đáng yêu! Còn
người kia thì cực kỳ đáng sợ vì bị cùi khắp cơ thể. Họ
luôn luôn đi bên nhau, không hề xa cách một phút giây nào. Họ
đến gõ cửa am thất. Vị Ðạo sĩ hỏi: "Ai
đó?", hai chị em đáp: "Mô
Phật! Dạ chúng con là hai chị em". Ðạo sĩ bước ra mở
cửa, hai chị em đồng thưa: "Xin
Tôn Sư cho phép chúng con vào bên trong". Vị Ðạo sĩ trả
lời: "Ta muốn cô đẹp kia bước
vào". Nhưng cô đẹp liền
thưa: "Xin cảm phiền Ngài cho phép hai chị em chúng
con cùng vào, cô xấu xí kia và cả con nữa. Ngài phải cho
phép cả hai hoặc là không hết". "Thật vậy
sao!". Vị đạo sĩ vừa nói vừa
xách một cây gậy thật to rượt hai chị em cùng chạy
mất.
Vị Ðạo sĩ muốn chẳng
có người nào thì tốt hơn. Ông quả là một nhà tu có trí
tuệ, ông có kinh nghiệm ứng xử. Nhưng trên thực tế vẫn
còn nhiều nhà tu thiếu bản lĩnh–trụ tướng sanh tâm, làm
đổ vỡ cơ nghiệp. Trên thế gian này chúng ta dám nói có
trên 90% cần cả hai–cái đáng yêu cũng
như cái đáng sợ, bởi vì họ muốn khoái lạc và đau
khổ. Nhưng bậc trí giả chỉ muốn
khoái lạc chứ không muốn đau khổ và nếu cả hai gắn
bó không rời thì vị Ðạo sĩ buộc phải đẩy lùi khoái lạc
và cũng không ưa đau khổ. Vị đó tống
xuất cả hai. Vị đó nhập đạo tu hành, hưởng quả
an vui phúc lạc tối thượng. Rút bài học trên, chúng ta phải
là một hiền giả có trí tuệ, khôn ngoan
chứ không khờ dại đam mê cả khoái lạc lẫn đau khổ. Ðiểm
then chốt là không phải tách rời cái này khỏi cái kia–cái
đẹp và cái xấu, vì khoái lạc là gốc rễ của đau
khổ. Mới nhập đạo, ta nên nương
hạnh giới nên ta chọn Ðiều Thiện, khi chứng đắc Niết Bàn,
thiện ác không hai, ta quên luôn cả phương tiện.
Các sự vật trên cõi đời
này nếu được nhìn đúng thực tướng thì chúng đều là uế
nhiễm mục nát. Hãy lấy một chiếc đầu trống trơn làm ví
dụ. Nhìn gương mặt có nét rất dễ thương, nhưng nếu chúng
ta cạo lớp sơn và bột đó ra ta thấy
lớp da, lột lớp da chúng ta mới thấy một chiếc sọ đang
nhe răng trông rất khiếp. Mọi người đều mang một chiếc sọ
đang nhe răng khủng khiếp trên vai mình. Bạn cứ tưởng
tượng có ai dám nghĩ rằng mình đang
mang một chiếc sọ đầu lâu nhe răng kinh hồn không?
hãy tính xem có bao nhiêu người đang bị các hình dáng bề
ngoài mê hoặc và dối gạt. Các thi sĩ vốn đa
cảm trong cơn cao hứng thường mô tả sắc đẹp dậy trời của
bao gương mặt. Nhưng làm sao chúng ta biết rõ mình đang
có một chiếc đầu lâu đang nhe răng kinh khiếp như vậy? Bằng
chứng ở đâu? Bạn có thể trông thấy bất cứ phần nào của
chiếc đầu lâu đang nhe răng khủng khiếp, bạn có thể
trông thấy bất cứ chiếc xương nào của chiếc sọ hiện giờ
chưa? Vâng, đó là răng. Rõ là thiên nhiên đã ưu đãi
chúng ta, nó che toàn bộ đầu sọ để
dối gạt chúng ta nhưng nó quên che bộ răng. Vì vậy bất
cứ lúc nào chúng ta cũng nhìn thấy bộ răng và lập tức ta
hình dung được toàn bộ sọ người từ răng, bởi vì răng là
thành phần của sọ người.
Tôi xin kể một sự kiện
có thực. Ngày nọ có một vị Tăng ở Tích Lan. Ngài đang tu
tập thiền quán gọi là "Thiền Cốt"–quán xương–vị
Tăng luôn luôn niệm tưởng đề
mục xương, xương và không gì khác ngoài xương. Sau đó
điều gì xảy ra? trong khi Ngài đang
đi kinh hành ven khu rừng, chợt một thiếu
phụ xinh đẹp xuất hiện. Cô ta vừa mới cãi lộn với
chồng và đang trên đường về nhà cha mẹ. Cô
đi một mình với trang phục lộng lẫy xinh đẹp giống như một
nữ thần ở cõi trời. Khi
trông thấy vị Tăng cô ta liền khởi lên tà niệm trong
đầu. Phần vị Tăng vẫn chăm
chú nhìn xuống theo đúng giới luật.
Vị Tăng lúc nào cũng quán tưởng
đến xương, xương và không gì ngoài xương. Bởi vì đó
là đề mục thiền quán. Cô gái đẹp
cứ nghĩ mình có thể cám dỗ được vị Tăng. Cô
bắt đầu phá cười lên để lộ hàm răng trắng đẹp. Vị
Tăng đang nhìn xuống, bỗng nghe có tiếng cười, liền
ngẩng đầu lên, đối mặt, vị Tăng
nhìn thẳng vào răng của cô ta,
vị Tăng hoát nhiên hô lên "xương" và thế là
Ngài chứng quả A La Hán có nghĩa là bậc Toàn Giác. Cô
thiếu phụ đó đã rất tốt đối với vị Tăng, cô giúp Ngài
đạt được giải thoát cao tột. Cô
ta quả là ân nhân của Ngài, bởi vì nhờ cố ý cám dỗ, cô
ta đã cho Ngài quả vị A La Hán. Dĩ nhiên là không may vì điều
đó không phải luôn luôn vận hành như vậy. Chỉ có một
phần triệu người chứng quả A La Hán nhờ nhìn vào bộ
răng của người khác phái. Hầu hết đều giống như thân phận
của loài cá, chúng sẽ bị bắt bởi lưỡi câu của
các ngư phủ.
Câu chuyện không dừng ở
đây. Người thiếu phụ vừa đi khỏi, cô ta không nhận ra rằng
chính mình đã giúp vị Tăng đạt kết quả. Rồi thì
người chồng đến, bởi vì anh ta vừa
thấy mất vợ liền chạy theo sau. Anh ta gặp ngay vị Tăng và
hỏi, "Thưa Tôn Giả ? Ngài có trông thấy một thiếu phụ
chạy ngang qua lối này không ạ?"
vị Tăng đáp lại: "ông nào, bà nào chạy ngang qua
lối này, tôi nào có biết. Tôi chỉ thấy một nhà xương chạy
ngang qua lối này".
Ðó quý vị thấy không?
vị Tăng này đã thấy sự thật. Ngài không thấy giống
phái của người nào chạy qua. Ngài chỉ chánh niệm nhìn chăm
chú vào răng chứ không thấy phần nào khác của thân và vì
vậy vị Tăng đã nói sự thật.
Chúng ta phải học cách thấy như vậy và tập trung vào đề
mục thiền quán của chúng ta, nên khi bị cám dỗ, chúng ta vẫn
có thể chứng đạt mục đích cao thượng
nhất. Chúng ta phải liên tục quán xét các sự vật đúng như
thực tướng của chúng. Bởi vì khi vạn
hữu được nhìn đúng như thực tướng thì chúng chỉ
là thứ uế nhiễm tanh hôi.
Có hai loại nô lệ: nô lệ
tinh thần và nô lệ vật chất, nhưng nô lệ đối với giác
quan là nô lệ tệ hại nhất trong tất cả, chỉ có bậc A La
Hán hay Chư Phật mới thực sự giải thoát. Có hai loại phong
cùi. Phong cùi về tinh thần và phong cùi về thể xác. Loại
nào tệ hại hơn? Nếu có người bị giày vò đau
đớn vì bệnh phong cùi, chắc chắn vị đó
phải chạy đến Bác sĩ để xin điều trị. Nhưng trớ trêu
thay người đau ốm về chứng phong cùi "tâm
linh" tức là vô minh tham ái thì không ai chạy đến Bác sĩ
tâm linh ngoại trừ những ngày sám hối, rằm, mùng một mới
đến nhờ chữa trị. Giờ đây tôi cũng
đang diều trị chứng phong cùi tâm linh bằng sự bố
thí Giáo Pháp đến quý vị.
Và
mới đây, tôi nhận được môt lá thư của một bệnh
nhân cùi. Bất hạnh thay, anh ta lại bị khổ đau cả hai chứng
bệnh cùi thể xác và cùi tâm linh. Chúng ta đang
đau khổ về một chứng phong cùi duy nhất. Còn những
người bị phong cùi đơn độc này,
chịu đựng gấp hai và đang bị cô lập thật bi thảm
trong nhà thương cùi. Ðây là một bức thư trại cùi ở
Johore Bahru, một em trai bị cùi nói: Kính thưa thượng Tọa,
con là một bệnh nhân cùi, vốn có học tiếng Anh, con được
vào trại này cách đây 14 năm, lúc
con 16 tuổi. Con là một Phật tử, con rất mong muốn
được hiểu biết Phật Pháp nhưng con rất đau buồn mà
nói rằng con không thể tìm đâu ra một người am hiểu Phật
Pháp hoặc tìm được một quyển sách nhỏ nào để
đọc trong trại vì con không được phép ra khỏi nơì đây.
Mẹ con là một Phật tử thuần thành, bà hiểu Ðạo Phật nhờ
thường xuyên đi lễ chùa ở
Singapore. Con không ở lại nhà với cha mẹ nên không có dịp
nào để học hỏi với mẹ. Ở đây
cũng có một số đồng bạn của con, chúng cũng tự gọi mình
là Phật tử. Con ngạc nhiên vì chúng hiểu đạo không hơn gì
con. Chúng không hiểu những gì mà Phật Giáo muốn nói với
chúng. Chúng là Phật tử tại tâm. Chúng rất siêng học và cầu
nguyện, nhưng chẳng có người nào dạy chúng. Ðầu tiên con
cố gắng tìm kiếm địa chỉ của một người quen. Chúng con
cần sách Phật, kể cả những sách báo thường. Chúng con
không có sách gì đọc trong những lúc rảnh rỗi. Ðối với
dân số trong trại này có 204 người mang bệnh cùi, chúng con
cứ gọi nhau là Phật tử mà chẳng có quyển sách Phật nào
trong tay. Qua lời thỉnh cầu mộc mạc này con xin kêu gọi Thượng
Tọa từ bi thương tưởng gởi cho chúng con một số sách về
Ðức Phật viết bằng tiếng Hoa hay tiếng Anh để thời giờ
quý báu của chúng con khỏi trôi đi
một cách oan uổng, và để chúng con có thể dùng thì giờ một
cách lợi lạc nhờ đọc sách. Hy vọng với lời thỉnh cầu
kém cõi của con sẽ được đáp ứng
từ lòng bi mẫn và sự thương cảm quan tâm của Thượng
Tọa.
Kính thư.
Con xin đảnh lễ ơn đức
Thượng Tọa.
Sau khi nghe xong lá thư, quý
vị và chúng tôi phải làm gì đây? Chúng ta không có sách bằng
tiếng Hoa. Tôi nghĩ là tôi sẽ yêu cầu Hội
Phật Học ở đây soạn viết những tập sách nhỏ về Phật
Pháp để chuyển vào trại cho họ càng sớm càng tốt.
Ðến đây tôi xin giảng
thêm một khía cạnh về pháp điều phục tâm. Suốt trong chiến
tranh, nhiều nơi phải kinh hoàng vì bom đạn. Dĩ nhiên người
có đạo hay không–lúc khiếp vía cũng
đều cầu nguyện gọi tên Phật, Chúa liên hồi.
Nhưng đừng quên rằng có
nhiều phương thuật để diệt trừ sợ hãi. Nếu người
ta chỉ nhớ rằng chân lý chỉ bảo vệ người làm theo chân
lý, trong chiến tranh, dù sanh tử diễn ra trước mắt nhưng
những ai nghĩ đến lời Phật dạy, giữ đúng Giới điều, vị
ấy không bao giờ đau khổ, vì anh ta tin vào quy luật
nhân quả, tin vào sự nhiệm mầu của khả năng
đọc tụng các thần chú, trong tình huống xấu cũng trở
thành tốt đối với anh ta. Nếu vị
đó nghĩ đến chư Thiên, vị đó
cũng không bị đau khổ. Trong số 11 điều lợi ích làm an lạc
thân tâm, với tâm từ quảng đại, vị đó không còn
phải lo sợ về thuốc độc hay gươm
giáo, hay bom đạn tàn phá, vị đó bình thản trước mọi
nguy nan. Một cách khác nữa để diệt trừ sự đau đớn của
cơ thể, bằng cách suy tưởng về cái không thực của cơn
đau. Phương pháp y học, người ta dùng vài giọt ête
hay thuốc gây mê có thể dập tắt cơn đau qua một cuộc giải
phẫu chính thức trong phòng thí nghiệm, khi bác sĩ phẫu thuật
của đứt tay hay chân, bệnh nhân không có cảm giác gì hết.
Cái nào mạnh hơn? Thuốc gây mê hay tâm thức? Hãy nhớ rằng
đau đớn chỉ là một niệm tưởng.
Con người gồm sáu yếu tố: Ðất, nước, gió, lửa, khoảng
trống và thức. Thử hỏi cái nào trong sáu yếu tố này cảm
thấy đau. Nước cũng vậy, gió, lửa, khoảng trống cũng vậy,
chỉ một mình ý thức cảm thấy đau mà thôi. Ðất không cảm
thấy đau, nước cũng vậy, gió, lửa, khoảng không cũng vậy.
Một mình ý thức cảm thấy đau thôi. Vậy thì thức là gì?
Là năng lực tâm linh. Năng lực tâm
linh là gì? Là sự chuyển động
vô rgã (khách quan). Giấc mơ là một sự kiện tâm linh,
vì vậy cuộc đời như giấc mộng. Hãy
nhớ rằng sự đau đớn chỉ là
một niệm tưởng và niệm tưởng là gì? Niệm tường là một
chút năng lượng tâm linh. Vậy tại sao ta lại phiền não về
một chút năng lượng tâm linh vô ngã đó? cho nên nếu ta nhận
thức được rằng đau đđn chỉ là
một niệm tưởng thì bất cứ khi nào bạn nhờ y sĩ nhổ răng,
đừng yêu cầu ông ta tiêm thuốc gây mê hay bất cứ loại
thuốc nào khác. Chỉ nên tiêm thuốc trí tuệ và thiền quán.
Nhận thức rằng đau răng chỉ là
một niệm tưởng. Nó chỉ là một sự kiện tâm linh. Vậy sự
kiện tâm linh là gì? Ðó là một năng lượng tâm linh nhỏ
chút và năng lượng tâm linh là gì? Là sự chuyển động vô
ngã (có tính khách quan). Nếu bạn nhận ra rằng đau
đớn chỉ là một niệm tường, bạn nên ném bỏ ý tưởng
đó bởi vì nó chỉ là một niệm tưởng
tạm bợ thoáng qua. Nếu bạn không ném bỏ đi nó cũng tự động
bay mất, bởi vì niệm tưởng không bao giờ ở lại. Nó bay với
tốc độ hàng triệu dặm mỗi phần nhỏ của giây.
Không may bạn lại luôn luôn bám vào những niệm tưởng đau
đớn mới và bạn đau đớn vì vô minh (thiếu trí tuệ).
Hãy thiền quán về tứ đại thì bạn sẽ không bao giờ còn
bị cảm thọ về khổ nữa. Nếu bạn thực hiện những phép
thiền quán này bạn sẽ giác ngộ rằng vạn pháp đều vô
ngã, bạn liền quăng bỏ và được phần giải thoát.
Chúng ta đừng bao giờ thỏa
mãn với khoái lạc cho đến khi chúng ta đạt đến khoái lạc
cao nhất đó là Niết Bàn. Người nào chỉ thỏa mãn với
khoái lạc giác quan như loài vật, vị đó chỉ
được thỏa mãn phần ít mà thôi. Họ không giác
ngộ đạo Phật–chuyển hóa tâm thức từ khoái lạc
này đến khoái lạc khác cho đến đạt
đến niềm khoái lạc tột đỉnh.
Chúng ta không nên thỏa mãn khoái lạc ở mức độ thấp
hèn của xác thịt, mà hãy tìm khoái lạc nơi sự đắc
chứng xả niệm thanh tịnh, đưa đến Niết Bàn tối thượng.
Hãy học hạnh kín đáo,
luôn luôn nhiếp tâm vào đề mục thiền
định. Nhờ liên tục tu tập thiền định
như vậy, ánh sáng chân lý sẽ bắt đầu rạng rỡ hào
quang–một vĩ nhân độc hành giữa
đám đông. Chúng ta hãy nỗ lực sống một mình giữa
quần chúng. Và đây là cách
thuyết giảng mà không sợ khởi lên sự bực tức.
Trước khi khởi niệm sự
thuyết Pháp, chúng ta suy niệm như thế này: thính chúng là
ai? Thính chúng là ngũ uẩn. Và ngũ uẩn là gì? là 5 hợp thể
gồm có: sắc, thọ, tưởng, hành, thức (thân xác, cảm giác,
cảm nhận, rung động và ý thức). Những uẩn này đều
vô thường, khổ, vô ngã. Còn thính chúng là ai? Thính chúng
là sự trống rỗng. Không có thính chúng nào và thính chúng
biến mất, tôi cũng trống rỗng, tôi biến mất. Vậy ai ở
trong chùa? Không có ai hết. Lúc không có ai trong chùa thì
không có ai thuyết giảng cho ai hết. Rụt rè lo sợ là gì?
không có ai rụt rè lo sợ cả. Ðây là những cách thuyết giảng
mà không có ai bị dao động và đây là cách làm hoan hỷ mọi
người. Do quá trình công đức vô lượng mà quý vị đã đạt
được hôm nay, cầu mong mọi ước vọng cao đẹp của quý vị
được thành tựu viên mãn. Cầu mong tất cả thính
chúng sớm đắc quả Niết Bàn tối thượng.
Dịch
giả: T.Tọa Thích Giải Thông
Phỏng
dịch theo bản tiếng
Anh
The
light of TRUTH Của Giảng sư LOKANATHA
Do
the Singapore Maha Bodhi school xuất bản.
--- o0o ---