03
BỐN CHÂN LÝ CAO QUÝ
Tôn giáo là gì? Tôn giáo
là phương pháp diệt trừ mọi phiền não và đau khổ. Bởi vì
nếu trên thế gian này tuyệt đối không có phiền não đau khổ
thì chắc chắn không cần phải có một tôn giáo nào. Theo định
nghĩa đúng đắn như vậy thì Phật Giáo quả là một
tôn giáo toàn thiện, toàn mỹ nhất trên thế giới vì Phật
Giáo là tôn giáo duy nhất đã thực sự dập tắt được phiền
não, đau khổ vĩnh viễn, quả là khoa học. Ðức Phật đã chẩn
đoán bệnh cho trần gian và cấp toa chữa trị.
1) Đức Phật quán sát thế
giới và chỉ thấy bệnh khổ mênh mông. Những bệnh gì là
khổ? Sinh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ,
buộc phải sống với người mình không ưa là khổ, xa lìa người
yêu thương là khổ, sự hiện hữu của ngũ uẩn là khổ.
Tóm lại, những chứng bệnh đau khổ của trần gian là vậy,
và đây là chân lý cao quý liên hệ đến sự khổ.
2) Nhưng Ðức Phật không
dừng ở đây. Ngài như một y sĩ giỏi chẩn đoán từng trường
hợp và đã tìm thấy nguyên nhân của bệnh khổ. Bởi vì biết
được nguyên nhân của bệnh là coi như chữa được phân nửa
chứng bệnh. Ðức Phật cho biết nguyên nhân của đau khổ là
lòng khao khát hay tham ái. Ðây là chân lý cao quý hay liên hệ
đến nguyên nhân bệnh khổ.
3) Bởi vậy nếu diệt trừ
được nguyên nhân là đương nhiên bạn sẽ loại trừ được
hậu quả của nó. Diệt trừ tham ái là diệt được khổ.
Ðây là chân lý cao quý đưa đến chấm dứt sự đau khổ.
4) Có điều nói thì dễ
mà làm thì khó. Dễ nói dập tắt tham ái, nhưng bằng cách
nào? Ðức Phật đã ban cho chúng ta một toa thuốc khoa học
nhiệm mầu để diệt trừ tham ái, nghĩa là: BÁT CHÁNH ÐẠO,
gồm có: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp,
chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Ðây là
chân lý cao quý đưa đến con đường diệt trừ tham ái.
Ðây là TỨ DIỆU Ðế
(hay 4 Thánh Ðế) kết thành bốn nền tảng của Phật Giáo
vì bốn chân lý cao quý này chỉ tìm thấy trong Phật Giáo,
không nơi nào khác trên thế gian có được. Chân lý cao quý
thứ tư (tức là Bát Chánh Ðạo) đặc biệt vô cùng độc đáo.
Bởi vì nơi đây bạn sẽ tìm thấy tám bước nhiệm mầu liên
kết một cách khoa học theo quy luật nhân quả.
Hãy chiêm nghiệm công thức
khoa học này:
Chánh
kiến: tạo duyên cho Chánh tư duy.
Chánh
tư duy: tạo duyên cho Chánh ngữ.
Chánh
ngữ: tạo duyên cho Chánh nghiệp.
Chánh
nghiệp: tạo duyên cho Chánh mạng.
Chánh
mạng: tạo duyên cho Chánh tinh tấn.
Chánh
tinh tấn: tạo duyên cho Chánh niệm.
Chánh
niệm: tạo duyên cho Chánh định.
Có hai bước thăng hoa
đưa thẳng đến Niết Bàn tối thượng là như vầy:
-
Chánh định tạo duyên cho Chánh kiến thực chứng.
-
Chánh kiến tạo duyên cho Chánh giải thoát.
Trong công thức mầu nhiệm
trên, nếu bước thứ nhất đúng thì mọi vấn đề đều đúng.
Nếu bước thứ nhất sai thì mọi vấn đề đều sai. Những
ai có được chánh kiến sẽ có được Niết Bàn, những ai bị
tà kiến dẫn lối sẽ đi vào địa ngục, ngạ quỷ. Vì vậy
chúng ta hãy cứu vớt những người có tri kiến sai lầm bằng
cách tặng cho họ phương thuốc Chánh kiến. Không có món quà
nào cao quý bằng món quà Chân lý. Ðó là món quà vĩ đại nhất
trong tất cả món quà.
Như chúng ta thấy qua công
thức kỳ diệu trên, Tri Kiến trong Phật Giáo đứng hàng đầu
và sau cùng. Tri Kiến sơ cơ đến trước (nhờ đọc và nghe),
Tri Kiến thực chứng đến sau cùng. Tiến trình nhân quả nhiệm
mầu này chỉ được tìm thấy trong Ðạo Phật mà thôi,
không nơi nào có. Do vậy Phật Giáo là tôn giáo hoàn hảo nhất
trên thế giới vì nó là một tôn gián khoa học dành cho những
đầu óc khoa học. Phật Giáo là tôn giáo lạc quan nhất bởi
vì nó trực chỉ Niết Bàn ngay chính trong đời này. (Dịch giả
trích "Thanh Tịnh Ðạo Luận" của VISUDDHI MAGGA T.T.
Thích Phước Sơn–Trường Cao Cấp Phật Học biên soạn). Bản
luận đề cập đến 4 nghĩa của khổ là: bất đắc, hữu
vi, bốc cháy và biến đổi.Tính chất của nó là chân thật
không hư ngụy, không thể khác. Nguồn gốc hay tập khởi của
khổ với ý nghĩa tích tập, căn nguyên, trói buộc, chướng
ngại. Diệt có nghĩa là thoát ly, tách rời, vô vi, bất tử.
Ðạo có nghĩa là lối ra, nguyên nhân, thấy, ưu thắng.
Nguyên nhân của khổ
(DUKKHA): Du là xấu xa, ác độc Kha là
trống rỗng. Thế nên chân lý thứ nhất: Khổ (Dukkha) là xấu
vì nó là nơi thường lai vãng của sự hiểm nguy và nó trống
rỗng vì không trường cửu, không đẹp, không vui vì không
có tự ngã.
Chân lý thứ hai: Tập
(Samudaya) sam là liên kết, u chỉ sự
khởi lên như udita (đi lên),
Aya chỉ lý do. Như vậy chân lý này là lý do cho sự
khởi lên của khổ, chi phối hợp với những duyên còn lại.
Chân lý thứ ba: Diệt
(Nirodha). Ni: chỉ sự vắng mặt. Rodha là
nhà tù. Chân lý này chỉ sự vắng mặt của mọi sanh thù vì
nơi đây không có sự bức não của khổ được xem như nhà
tù.
Chân lý thứ tư: Đạo
hay khổ diệt Ðạo. Con đường
đưa đến chấm dứt khổ nên gọi là khổ diệt Ðạo.
Cả 4 chân lý này được
gọi là Thánh đế, vì chỉ có các bậc Thánh mới thâm nhập
được chúng. Lại nữa những sự thật
cao cả được gọi là sự thật của các bậc Thánh. Hoặc bốn
Thánh đế này là chân thật, không hư ảo, không thể
khác nên gọi là Thánh đế.
Bản luận lại mô tả:
không có niềm đau nào ngoài khổ, không có nguồn khổ
nào khác hơn tham ái. Không có niềm an tịnh nào ngoài tịch
diệt (Niết Bàn) và không có lối thoát nào ngoài Chánh Ðạo.
* Về thứ tự:
Khổ đế được nêu lên trước tiên vì nó dễ hiểu,
vì nó thô phù, vì nó chung cho tất cả chúng sanh. Chân lý Khổ
tập nêu kế tiếp để chỉ rõ nguyên nhân. Rồi chân lý về
Diệt đế biểu thị rằng nhân chấm dứt thì quả kết
thúc. Chân lý về Ðạo được nói
sau rốt để chỉ ra con đường, phương tiện đạt đến Diệt,
và Cổ Ðức cũng bảo: tri khổ, đoạn
tập, tu đạo chứng diệt (biết khổ để đoạn trừ các
nguyên nhân của khổ (tập) nên phải thực hành các
Pháp môn do đó mà chứng đạt sự tịnh diệt).
CHÂN LÝ VỀ KHỔ.
Thông thường khổ có ba
loại:
-
Khổ khổ tức là nỗi khổ ở nội tại.
-
Hoại khổ tức là nỗi khổ do biến hoại.
-
Hành khổ tức là nỗi khổ về các phương diện hoặc ngấm
ngầm hoặc lộ liễu.
Khi cảm thọ khổ về thân
và tâm gọi là khổ-khổ vì tự tánh của nó là khổ, khi cảm
thọ lạc về thân và tâm gọi là hoại khổ, vì đó là
nguyên nhân sinh ra khổ khi cảm thọ ấy biến mất. Xả thọ
và các hành khác trong ba cõi là hành khổ vì chúng bị bức
bách trong sinh diệt.
a) Sanh là khổ, vì nó là cội nguồn
cho khổ trong các đọa xứ, nào là nỗi khổ đi
đầu thai, khi ở trong bầu thai và khi sinh ra. Lúc đang sống,
chúng sinh cũng phải chịu bao nhiêu nỗi khổ. Nếu ở địa
ngục thì khổ vì bị lửa thiêu đốt. Nếu ở loài súc sanh
thì phải chịu khổ vì bị đánh đập
bằng roi gậy hoặc ăn nuốt lẫn nhau. Nếu sinh vào
loài ngạ quỷ thì đau khổ vì đói
khát bức bách. Nếu sinh vào Atula thì đau khổ vì giá lạnh
tối tăm.
b) Già: là căn
bản của sự đau khổ thể xác và tâm hồn. Nó khởi
lên do nhiều duyên như: tứ chi nặng nề, các căn suy yếu, tuổi
trẻ tan biến, sức lực bị phá hủy, trí nhớ sút kém, bị
người khi dễ.v.v...
c) Chết: là sự chấm dứt mạng căn
nơi một chúng sinh, có nhiều nguyên nhân như: chết do thọ mạng
chết, do công đức tận hoặc chết bất
đắc kỳ tử, bị tai nạn đột ngột xảy ra.
d) Sầu: là đốt cháy tâm can nơi
người bị mất thân quyến hay bị mất mát những gì mình
yêu quý.
đ) Bi: là sự đau
buồn do mất mát người thân của cải v.v... được biểu hiện
bằng những hành vi, cử chỉ mà người khác có thể thấy
được.
e) Khổ: là sự khổ đau, bức bách
của thân xác.
g) Ưu: là sự khổ sở về tâm.
h) Não: là sự thiêu đốt tâm can.
Sầu như chảo dầu nấu trên bếp lửa riu
riu. Bi như chảo dầu nấu trên bếp lửa mạnh. Não như những
gì còn lại trong chảo sau khi nấu, còn tiếp tục cho đến
khi chảo khô.
i) Oan gia tụ hội: là sự gặp gỡ
những người và vật mà mình oán ghét.
k) Ái biệt ly: là phải xa lìa những
người và vật mà mình yêu quý.
l) Cầu bất đắc:
là sự mong cầu không toại ý.
m) Năm uẩn là
khổ: vì năm uẩn là đối tượng của sự chấp thủ,
như tấm bia thu hút những tên bắn, như ruồi nhặng bu trên
thân con bò.
Các nỗi khổ về 5 uẩn
thì Sanh là cái khổ đầu tiên, Già là cái khổ chặng giữa,
Chết là cái khổ chặng cuối. Khổ nung nấu tâm can gọi là
Sầu. Khổ dưới hình thức than van khóc lóc gọi là Bi. Cái
khổ do thân tứ đại bị xáo trộn gọi là Khổ. Nỗi khổ bức
bách trong tâm hồn gọi là ưu. Khổ ngấm ngầm chồng chất
nhiều lớp gọi là Não, khổ do thất vọng gọi là Cầu bất
đắc khổ. Chung quy khi năm uẩn bị chấp thủ chính là khổ.
LUẬN VỀ KHỔ DIỆT HAY NIẾT BÀN
Niết Bàn có thể đạt
được nhờ đạo lộ chân chính vì đã có các bậc Thánh đạt
được nó nhờ dùng phương tiện Giới, Ðịnh, Tuệ. Do đó
không thể bảo rằng Niết Bàn là không có gì cả, vì ta
không thể hiểu được. Ðiều hiển nhiên là không phải ai cũng
thấy được Niết Bàn mà nó chỉ có thể đạt được bởi
các vị La Hán tức là những người đã đoạn tận tham, sân,
si, đã cắt đứt mọi gốc rễ của tham ái.
Mục tiêu duy nhất mà Ðức
Phật truyền dạy chính là Niết Bàn. Theo bản luận thì Niết
Bàn có hai loại là Hữu dư y và Vô dư y. Hữu dư y Niết Bàn
là các cấu uế đã lắng dịu nhưng hậu quả của sự chấp
thủ trong quá khứ vẫn còn tồn tại. Vô dư y Niết Bàn là
đoạn tận các nghiệp đưa đến tái sanh trong tương lai, các
uẩn không còn sanh khởi nữa, mà những uẩn đã sinh thì biến
mất.
CHÂN LÝ VỀ CON ÐƯỜNG ÐƯA ÐẾN DIỆT KHỔ
Con đường đưa đến diệt khổ chính là
Bát Chánh Ðạo. Tám pháp này được giải thích
như sau:
1) Chánh kiến: Kiến giải chính xác, hiểu
biết chính xác.
2) Chánh tư duy:
suy nghĩ một cách chính xác, đúng đắn.
3) Chánh ngữ:
nói lời chân thực đúng đắn dễ nghe, có lợi ích.
4) Chánh nghiệp: làm những việc chân
chính như không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm.v.v...
5) Chánh mạng: sinh sống bằng những
nghiệp chân chính, lương thiện.
6) Chánh tinh tấn:
nỗ lực chính đáng, siêng làm việc thiện.
7) Chánh niệm: nghĩ nhớ chân chánh,
luôn luôn tỉnh táo cảnh giác từng việc nhỏ.
8) Chánh định:
tập trung tư tưởng một cách chân chính, không để ngoại vật
chi phối làm rối loạn tâm trí.
Tám Chánh đạo này liên
quan đến các Pháp như sau:
Chánh kiến dẫn đầu, bao
gồm: trạch pháp, như ý túc, tuệ căn, tuệ lực và trạch
pháp giác chi. Chánh tư duy bao gồm ba loại tâm là viễn ly,
tham sân và hại. Chánh ngữ bao gồm ba loại thiện về thân.
Chánh mạng bao hàm thiểu dục, tri túc. Chánh tinh tấn bao hàm
4 chánh cần tấn căn, tấn lực và tinh tấn giác chi. Chánh niệm
bao gồm 4 niệm xứ, niệm căn, niệm lực và niệm giác chi.
Chánh định bao hàm 4 loại: định có tầm, có tứ, định tâm,
định căn, định lực và các giác chi hỷ, khinh an, định, xả.
Tám chánh đạo cũng liên
quan mật thiết đến 3 vô lậu học như đoạn Kinh sau đây
mô tả : Bất cứ chánh ngữ nào, chánh nghiệp nào, chánh mạng
nào cũng thuộc GIỚI UẨN. Bất cứ chánh tinh tấn nào, chánh
niệm nào, chánh định nào cũng đều thuộc ÐỊNH UẨN. Bất
cứ chánh kiến nào, chánh tư duy nào cũng đều thuộc về TUỆ
UẨN. Bản luận nêu ví dụ: Ðịnh ví như người trông thấy
hoa đẹp mà tự mình không hái được. Tinh tấn ví như người
bạn đưa lưng ra cho người ấy đứng lên. Niệm ví như người
đứng gần đưa vai làm điểm tựa nhờ vậy mà ngươi ấy hái
được hoa. Nghĩa là tinh tấn và niệm là những yếu tố
giúp sức rất đắc lực cho Ðịnh.
Ðể làm sáng tỏ ý nghĩa
của cả 4 Chân lý, luận chủ đưa ra ví dụ: Khổ ví như gánh
nặng, Tập ví như người mang gánh nặng, Diệt như gánh nặng
cần đặt xuống, Ðạo như phương tiện đặt gánh nặng. Hoặc:
Khổ như chứng bệnh. Tập là nguyên nhân. Diệt như sự cần
hết bệnh. Ðạo như thuốc chữa bệnh. Theo ý nghĩa tuyệt đối,
cả bốn chân lý này cần được hiểu là trống rỗng vì
không có người chịu khổ, không có người tập khởi nên
cái khổ, không có người chứng sự diệt khổ và không có
người đi trên đạo lộ đến diệt khổ. Do đó có khổ nhưng
không có người chịu khổ. Có sở tác nhưng không có người
tạo tác. Có tịch diệt nhưng không có người chứng đắc. Có
đạo lộ nhưng không có người đi.
--- o0o ---