Thiền học
Ba Mươi Ngày Thiền Quán
05/07/2553 01:04 (GMT+7)
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

[02]

Buổi sáng thứ sáu 
Bài thực tập: NHỮNG ÐỐI TƯỢNG CỦA CẢM GIÁC

Khi bạn ngồi thiền, nếu có những hình ảnh nào hiện ra trong đầu, chỉ cần niệm thầm: "thấy, thấy", đừng bao giờ để ý phê bình, hay phân tích nội dung của chúng. Chỉ nên quan sát sự sanh lên và diệt đi của những hình ảnh đó. Khi bạn nghe một âm thanh nào, bạn niệm thầm "nghe, nghe", không nên đi tìm hiểu nguyên nhân hay tạo một khái niệm nào hết. Khi mũi ngửi thấy một mùi thơm hay hôi nào, bạn cũng chỉ niệm thầm "ngửi, ngửi", và rồi trở lại với hơi thở của mình. Bạn chú ý đến đối tượng chánh của thiền quán cẩn thận bao nhiêu, thì bạn sẽ có thể nhận diện được sự phát hiện của những đối tượng thứ yếu khác dễ dàng báy nhiêu.

-ooOoo-

Buổi tối thứ bảy 
NHỮNG MẪU CHUYỆN

Một phương pháp để phát triển sự tỉnh thức và chánh niệm là gia tăng nhịp độ ghi nhận của mình. Trong thời gian bắt đầu tu tập, sự ghi nhận của ta rất là rời rạc. Bạn ghi nhận một chuyện đã xảy ra, rồi một lát sau bạn mới ghi nhận được sự có mặt của một đối tượng khác. Công phu tu tập của bạn tiến bộ nhờ ở sự gia tăng nhịp độ ghi nhận của bạn. Ðến một lúc, bạn sẽ có khả năng ghi nhận trong từng giây từng phút phút một, mọi sự việc xảy đến với bạn, có lúc đối tượng là hơi thở ra vào, có lúc là những cảm giác trong thân, có lúc đó là hình ảnh hay tư tưởng. Theo dõi mọi biến chuyển của hiện tượng trên một bình diện vi tế là một đặc tính của chánh niệm, mà phương pháp tu tập này đem lại. Ðức Phật có kể cguyện một người tử tội bị bắt đội trên đầu một lọ nước đầy ấp tới miệng, đi bộ ngang qua một phố chợ chen chúc người. Phía sau anh ta là một người lính cầm một cây gươm đi theo. Chỉ cần một giọt nước rơi xuống đất là người lính sẽ chặt đầu anh ta lập tức. Lẽ dỉ nhiên người tử tội này sẽ bước đi rất là có chánh niệm. Nhưng anh ta cũng không được trịnh trọng gò bó quá, chánh niệm của anh ta phải tự nhiên. Bởi chỉ cần một sự cố gắng nhỏ của anh ta cũng có thể lào chao động lọ nước đang đội trên đầu. Anh ta phải giữ thoải mái và nhịp nhàng, uyển chuyển theo hoàn cảnh chung quanh, nhưng vẫn có chánh niệm trong mỗi giây phút. Bạn cũng vậy, đây là một thái độ mà bạn nên có trong sự tu tập chánh niệm của mình: có ý thức một cách thoải mái tự nhiên. 

Công phu tu tập giữ chánh niệm trong từng giây phút, đòi hỏi một sự cố gắng luyện tập. Nhưng đây không phải là một cố gắng để đạt đến một mục đích nào ở tương lai. Sự cố gắng ở đây là sống trong hiện tại, chú ý với một tâm bình thản những gì đang xảy ra trong giờ phút này. Có một câu chuyện về một thiền sinh nọ, anh ta theo học thiền cũng đã được một thời gian. Một hôm anh ta tìm đến thăm vị thầy của mình. Hôm ấy trời mưa. Anh ta để cây dù và giày của mình bên ngoài cửa, rồi đi vào trong. Sau khi đảnh lễ vị thầy, ông thầy hỏi anh khi nãy bước vào trong, anh để cây dù bên phía nào của đôi giày. Anh bối rối, không trả lời được. Vị thầy bắt anh trở về tu tập thêm. 

Vấn đề quan trọng là ta phải đào luyện cho mình một chánh niệm sâu sắc và đều đặn trong bất cứ việc gi ta đang làm, từ lúc vừa mới thức dậy cho đến khi đi ngủ. Lúc vừa mới thức giấc, ta phải lập tức chú ý đến hơi thở "phồng, xẹp" hay "ra, vào", và bắt đầu từ giây phút ấy chú ý đến mọi cử động xuống giường, đánh răng, rửa mặt, rồi bước đi, ngồi xuống, đứng dậy, đi ăn. Theo dõi từng hành động một. Khi nằm xuống ngủ, ta hãy chú ý vào sự "phồng, xẹp" hay "ra, vào" của hơi thở cho đến khi đi vào giấc ngủ. Sự luyện tập này đem đến một lợi ích rất lớn lao cho sự tu tập thiền quán của chúng ta. Nếu ta nghĩ rằng, còn những lúc khác không quan trọng, là ta đã làm mất đi sự liên tục trong sự tu tập của mình. Ðào luyện một sự chú ý rõ ràng vào từng hành động trong ngày, giúp tâm ta lúc nào cũng được tập trung và yên lặng. Nhờ ở sự quyết chí và cân bằng nơi tâm như thế này, mà giác ngộ xảy ra. 

Không có một thời gian nào, hoàn cảnh nào mà lại không đáng để cho ta giữ chánh niệm. Sự giác ngộ có thể xảy đến cho ta trong bất cứ giây phút nào, khi tâm ta đã chín mùi và hoàn toàn quân bình, hòa hợp. 

Có một câu chuyện về ngài Ananda, là vị thị giả thân tín nhất của đức Phật. Ngài có bổn phận chăm sóc và lo cho những nhu cầu cửa đức Phật. Nhưng vì thế mà ngài lại xao lãng công việc tu tập của mình. Tất cả những người bạn của ngài trong giáo đoàn đều đắc quả, chỉ duy có ngài là vẫn còn như lúc mới vào tu. Cho đến khi đức Phật nhập diệt, ngài mới bỏ nhiều thì giờ cho việc tu tập thiền quán của mình. Một thời gian sau khi đức Phật nhập diệt, các vị sư trong giáo đoàn cho triệu tập một đại hội để ghi chép lại lời dạy của đức Phật cho khỏi quên. Họ chọn lựa ra 499 vị sư, tất cả đều đã giác ngộ và có đầu đủ thần thông, và ngài Ananda. Ananda được chọn vì ngài lúc nào cũng có mặt bên cạnh đức Phật trong những lúc thuyết pháp, và ngài có một trí nhớ rất đặc biệt. Thế cho nên mặc dù ngài chưa giác ngộ, nhưng ngài là người rất cần thiết cho đại hội. Khi gần đến ngày hội, tất cả các bạn của Ananda đều khuyên ngài nên gia tăng công phu tu tập của mình. Trong đêm chót trước ngày đại hội triệu tập, ngài bỏ ăn bỏ ngủ tinh tấn công phu. Ananda đi kinh hành suốt đêm, theo dõi từng bước chân của mình "dở, bước, đạp". Nửa đêm, canh một rồi canh hai qua, vẫn chưa có chuyện gì xảy ra. Ðến canh bốn, ngài nhìn lại tình trạng của mình. Là một đệ tử thông minh của Phật, học rộng hiểu nhiều. Ananda phải biết tâm mình giờ này đã mất đi sự quân bình. Ngài đã cố gắng quá sức mà không có sự hổ trợ đầy đủ của định lực và sự an tĩnh. Trong tâm ngài có quá nhiều mong mỏi và vọng động. Ananda quyết định đi nằm trong chốc lát để đem lại chút quân bình trong tâm. Trong chánh niệm, ngài đi về giường của mình, vẫn theo dõi từng cử động một. Chuyện kể lại rằng, vừa khi đầu Ananda chạm vào gối, chân ngài vẫn chưa đặt lên giường, trong giây phút ấy ngài đột nhiên giác ngộ. Theo với sự giác ngộ ấy, ngài đắc được lục thông. Và từ giây phút ấy cho đến sáng, ngài được nếm mùi vị an lạc của niết bàn, giải thoát. Buổi sáng ra, ngài hóa thân mình xuất hiện trước đại hội, lúc ấy mọi người đều hiểu rằng Ananda đã đắc đạo. 

Không ai có thể đoán được tấm màn vô minh sẽ được phá mở lúc nào. Nó có thể xảy ra trong khi ta đặt lưng xuống ngủ. Hãy giữ chánh niệm luôn luôn. Trong từng mỗi giây phút một, hãy quán sát, tỉnh dậy mà nhìn những sự việc đang xảy ra. Sự luyện tập này, ngày qua ngày, sẽ tạo cho tâm ta một sức mạnh phi thường. Bạn hãy lợi dụng khóa tu này đến mức tối đa, đừng phung phí thì giờ hay nghĩ rằng mình công phu như vậy là đủ rồi. Tối đến nếu bạn không cảm thấy buồn ngủ, hãy cứ tiếp tục công phu. Thường thường những iờ khuya lại thích hợp nhất cho việc thiền quán. Hãy tinh tấn, cố gắng tối đa nhưng nhớ đừng thúc đẩy hay gò bó quá. 

Khi tôi còn ở Ấn Ðộ, trong thời gian đầu tu tập, đối diện phòng tôi có một người bạn. Anh ta là một người kiên trì gương mẫu. Mỗi khi tôi gặp anh, là thấy anh đang ngồi thiền. Mỗi đến đến chín, mười giờ là tôi sửa soạn đi ngủ. Nhưng nhìn sang phòng anh ta, tôi thấy vẫn còn ánh đèn. Ðiều này khiến tôi phấn khởi tiếp tục công phu, cho nên tôi đứng dạy và đi kinh hành. Sau khi đi kinh hành, đầu óc tôi trở nên sáng suốt và tôi có thể ngồi thêm vài tiếng nữa. Tôi thay đổi giữa đi kinh hành và ngồi thiền. Nhờ thế, tôi có thể cố gắng đến hết sức mình, và nó rất là hữu ích. Sự hòa hợp giữa định lực và chánh niệm trong ngày, sẽ khiến cho tâm ta vào cuối ngày, nhất là những đêm khuya, trở nên vô cùng sắc bén. Nếu bạn cảm thấy được điều này, xin bạn hãy tiếp tục công phu. Ngồi thiền và đi kinh hành càng nhiều càng tốt. Còn có rất nhiều sự việc, rất nhiều bình diện tâm thức, để cho bạn kinh nghiệm. 

Tại những trung tâm thiền viện ở Miến Ðiện, các thiền sinh mới bắt đầu chỉ ngủ có bốn giờ mỗi ngày, rồi khi sự tu tập tiến bộ, họ dần dần bớt lại. Chúng ta đừng để bị điều kiện bởi thói quen của mình, cho rằng nếu không ngủ đủ bảy, tám tiếng một ngày ta sẽ mệt mỏi không còn sức làm gì nữa. Ðó chỉ là khuôn mẫu của một thói quen cũ. Trong một ngày nếu tâm ta lúc nào cũng quân bình, không bám víu, không ghét bỏ, không đánh mất mình, chúng ta sẽ không bị mệt mỏi hay căng thẳng nhiều. Vị thầy của tôi kể rằng hồi ông còn tu ở Miến Ðiện, có một thời gian ông không ngủ trong năm ngày liên tiếp mà không hề cảm thấy mệt. Ông tu tập đều đặn và nhịp nhàng, thực hành pháp môn Minh Sát Tuệ Vipassana, con đường chánh niệm mà chúng ta đang theo đây. Hãy để ý đến những nhu cầu của thân thể bạn, nhưng nếu bạn không cảm thấy mệt hay buồn ngủ, cứ tiếp tục thực hành cho tới khuya. 
 

-ooOoo-

Buổi sáng thứ tám 
Bài thực tập: TÁC Ý

Ý muốn là một yếu tố thông thường, lúc nào cũng có mặt trong tâm ta. Khi nào nó khởi lên, ta phải ghi nhận nó. Ý muốn, hay còn gọi là tác ý, là một sự thúc dục trong tâm, một dấu hiệu đi trước bất cứ một hành động nào. Khi mà ta có chánh niệm nhận diện được ý muốn hay tác ý của mình, ta sẽ có sự tự do lựa chọn: hành động hay không hành động theo chúng. Còn nếu ta sống trong quên lãng không biết đến sự có mặt của tác ý, ta sẽ bị chúng sai xử một cách máy móc. Thí dụ, khi bạn đang ngồi thiền, trước khi bạn đứng dậy, bao giờ cũng có một tác ý muốn đứng lên. Nếu bạn ghi nhận được tác ý này, nó sanh lên rồi diệt đi, có lẽ bạn vẫn còn tiếp tục ngồi thiền. Bởi vì bạn đã có chánh niệm, ý thức được nó, chứ không cho nó là mình. Còn nếu tác ý khởi lên, nhưng vì thiếu chánh niệm, bạn sẽ thấy mình đứng lên mà chẳng nhớ vì sao. Mọi hành động khác của ta cũng vậy. Thế cho nên mỗi khi có một một tác ý nào khởi lên, như khi đổi oai nghi của thân thể giữa đi, đứng, nằm, ngồi, ta phải nhớ có chánh niệm về chúng. Trong khi đi, bao giờ ta cũng có tác ý muốn dừng lại trước khi thật sự dừng. Ta có tác ý đổi hướng trước khi quay người lại. Chúng ta không cần phải niệm tác ý của từng bước chân một, nhưng mỗi khi đi kinh hành đến cuối đoạn đường, ta nên ghi nhận tác ý muốn đổi hướng, trước khi bắt đầu quay người lại. Bàn chân tự nó không thể cử động quay lại được. Nó quay lại bởi vì có một tác ý đi trước. Chúng ta có thể đạt được một sự hiểu biết về lý nhân quả, giữa sự liên hệ của thân và tâm, bằng những quan sát như thế này. Ðôi khi thân là nhân mà một trạng thái của tâm là quả. Và đôi khi tâm là nhân một cử động của thân là quả. Một tác ý muốn quay người lại khởi lên, rồi bàn chân đưa qua. Không có một cá nhân nào ở đó hết, không có ai làm công việc quay người lại cả. Sự liên hệ giữa nhân và quả hoàn toàn có tính cách vô ngã. Nhưng bởi vì chúng ta thường không có chánh niệm về hành động của mình, không thấy rõ tiến trình của mỗi cử động, nên chúng ta sẽ dàng bị đồng hóa với nó, cho rằng có một cái "ta" làm chuyện đó. 

Giả sử như bạn cảm thấy lạnh, bạn đi khoác thêm một chiếc áo ấm. Cảm giác ở thân làm khởi lên một ý muốn làm cho thân được ấm. Ý muốn này làm khởi lên một tác ý đi lấy thêm chiếc áo. Tác ý đó làm cho thân cử động. Chánh niệm được những tác ý này, sẽ giúp cho ta phát triển thêm sự hiểu biết về những liên hệ giữa các tiến trình hoạt động của thân và tâm. 

Trong khi ngồi thiền bạn có thể ghi nhận được sự có mặt của tác ý trước mỗi hành động. Nếu bạn đổi thế ngồi, sẽ có một tác ý khởi lên để làm chuyện đó. Nếu bạn nuốt nước miếng, cũng sẽ có một tác ý đi trước. Nếu bạn mở mắt ra, thì cũng sẽ có tác ý muốn mở mắt xảy ra trước đó. Tất cả những tác ý này đều phải đưọc ghi nhận. Nhưng tác ý không phải bao giờ cũng là những ý nghĩ trong đầu, không phải luôn luôn là câu nói. Tác ý có nhiều khi là một sự thúc dục, một dấu hiệu báo cho ta biết có một chuyện gì sắp sửa xảy ra. Bạn không cần phải tìm kiếm tư tưởng, lời nói trong đầu. Hãy ý thức được những động lực thúc đẩy ta làm những chuyện ấy. Và một khi bạn bắt đầu ghi nhận được mối liên hệ giữa nhân và quả xảy ra trong thân và tâm, ý niệm về một cái tôi sẽ dần dà hòa tan vào dòng biến hóa giản dị và tự nhiên của các yếu tố. 
 

-ooOoo-

Buổi sáng thứ chín 
Bài thực tập:
ĂN TRONG CHÁNH NIỆM

Có rất nhiều diễn biến của thân và tâm xảy ra trong khi ta ăn. Ðiều quan trọng là ta phải ý thức được thứ tự của diễn tiến ấy; chứ nếu không, tâm ta sẽ khởi lên sự ham muốn, tham lam đối với thực phẩm. Và khi ta thiếu chánh niệm, ta sẽ không thực sự thưởng thức được các món ăn. Nhai được đôi ba miếng là tâm ta đã chu du đến tận phương nào rồi. 

Ðiều trước nhất trong khi ăn là ta phải nhìn thấy món ăn của mình. Niệm thầm trong đầu "thấy, thấy". Kế đó là một tác ý muốn gắp đồ ăn. Ta phải niệm "muốn, muốn" hay là "tác ý, tác ý". Rồi tác ý này là động lực khiến tay ta cử động. "Ðưa lên, đưa lên". Khi đủa hay muổng chạm vào thức ăn, ta sẽ có một cảm giác đụng chạm. Hãy ý thức được cảm giác này. Kế đó là tác ý muốn giơ tay lên, rồi hành động giơ tay theo sau. Ta phải cẩn thận ghi nhận hết mọi sự việc xảy ra. 

Mở miệng ra. Ðút đồ ăn vào. Ngậm miệng lại. Tác ý muốn để tay xuống, theo sau là cử động hạ tay. Mỗi lần một việc một. Nếm, cảm giác được thực phẩm trong miệng, cách cấu tạo của chúng. Nhai. Kinh nghiệm được cử động này. Khi bạn bắt đầu nhai, cảm giác về mùi vị sẽ có mặt. Hãy ý thức được vị giác. Sau một thời gian nhai, vị giác sẽ biến mất. Nuốt vào. Phải ý thức được diễn tiến của những sự việc xảy ra liên tục kế tiếp nhau. Không có một cá nhân nào đứng sau những hành động ấy, không có người ăn. Tất cả chỉ là một sự nối tiếp của những tác ý, cử động, nếm, cảm xúc liên tục theo nhau. Chúng ta là như thế đó - một tập hợp của những việc xảy ra, của các diễn biến, và bằng cách ý thức được tiến trình, dòng liên tục này mà ta có thể giải thoát ra ngoài ý niệm về một cái Ngã. Chúng ta thấy rằng, tất cả những hoạt động này của thân và tâm đều là một chuỗi nhân duyên hiện hành vô chủ. Tác ý, tư tưởng, cảm giác, cử động, tất cả đều có liên hệ mật thiết với nhau, tâm là nguyên nhân khiến thân cử động, cũng như cảm giác ở thân là nguyên nhân cho sự ham muốn và tác ý của tâm. 

Thường thường thì chúng ta ăn trong thất niệm. Mùi vị đến và đi một cách thật nhanh chóng. Trong khi thực phẩm vẫn còn trong miệng, vì sự ham mê nơi vị giác, tay ta đưa lên và gắp thêm, không hề ý thức được những diễn biến đang xảy ra trong thân tâm. Hãy nhai cho xong trước khi lấy thêm. Như vậy, ta sẽ có thể cảm nhận được những nhu cầu thật sự của thân. Ăn trong chánh niệm, ta sẽ không bao giờ bị bội thực hết. 

Trong một tháng tu tập này, chúng ta sẽ làm mọi việc một cách chậm chạp để ta có thể theo dõi, quán xét chúng một cách cẩn thận. Một khi chánh niệm khai triển rồi, ta có thể hành động nhanh hơn nếu ta muốn. Nhưng bây giờ là thời gian tu tập. Không có gì để vội vã cả. Làm mọi việc một cách chậm rãi, với thinh lặng và chánh niệm. Hãy phối hợp việc ăn trong chánh niệm vào sự tu tập hằng ngày, sao cho công phu thiền quán của ta lúc nào cũng đưọc liên tục. Từ lúc bạn vừa mới thức dậy, qua mọi công việc làm trong ngày, hãy thật tỉnh thức mọi hành động đều là thiền. 
 

-ooOoo-

Buổi tối thứ chín 
NGŨ TRẦN CÁI

Bạn hãy tưởng tượng rằng mình dang đứng ở giữa một trận địa, một mình đơn độc chiến đấu với ngàn vạn địch quân. Mặc dù bị bao vây tứ phía nhưng cuối cùng bạn vẫn chiến thắng. Rồi tưởng tượng là bạn chiến đấu những trận như vầy hằng ngàn lần nhưng cuối cùng bạn vẫn chiến thắng. Ðức Phật dạy rằng thắng vạn quân như vậy ngàn lần, vẫn còn dễ hơn là thắng được chính mình một lần. Công việc của chúng ta khởi sự làm ở đây không phải là nhỏ. Hiểu được tâm của mình là điều khó khăn trên đời này. Nhưng việc ấy không phải là không thể làm được. Có những người đi trước ta đã phải đương đầu với vạn địch quân này và đã chiến thắng được chúng vạn lần, họ có để lại cho chúng ta một số lời khuyên và hướng dẫn vô cùng hữu ích. 

Ðiều trước hết, ta phải biết những kẻ thù của mình là ai. Nếu không thấy được chúng, chúng sẽ trở nên những quyền lực chi phối đáng kể trong ta. Nhận diện được chúng, ta sẽ có thể đối diện với chúng một cách dễ dàng hơn. Trong trận địa tâm ý này, ta phải đối phó với năm kẻ thù có nhiều thế lực, và học cách nhận diện chúng là điều thiết yếu đầu tiên, để ta có thể đi sâu hơn vào sự hiểu biết về chúng. 

Ðức Phật gọi năm kẻ thù ấy là Ngũ trần cái, tức là năm điều che bít, ngăn chận không cho trí tuệ phát sanh. 

1.- Kẻ thù thứ nhất là tham dục tức là sự đam mê, ham muốn vào những cảm xúc nơi thân thể và các đối tượng của chúng. Lòng tham dục khiến tâm ta lúc nào cũng hướng ngoại, náo động, mất quân bình, hết đeo đuổi chuyện này lại đến sang chuyện khác. Bản tính của lòng tham dục không gì có thể làm thỏa mãn nó được. Sự tìm kiếm sẽ là bất tận và vô vọng. Chúng ta đang vui hưởng một điều gì, rồi nó cũng sẽ sanh và diệt như mọi hiện tượng khác, khi ấy ta sẽ trở nên bất mãn, và lại đòi hỏi đi tìm thêm những thú vui mới. Chỉ đến khi nào ta chịu chấp nhận đối diện với lòng tham dục, bằng không lúc nào ta cũng sẽ cảm thấy thiếu thốn, luôn luôn muốn đi tìm một niềm vui mới, một sự khuây khỏa nào đó. Lòng tham dục có nhiều hình thái khác nhau, nó có thể là một hình ảnh đẹp, một âm thanh du dương, những mùi vị ưa thích, một cảm giác êm dịu hay là những ý tưởng say mê. Dính mắc vào những đối tượng này, sẽ làm củng cố thêm lòng tham của mình. Và cũng chính vì lòng tham, tâm dính mắc, níu kéo này mà ta đã tự trói mình vào bánh xe luân hồi, sanh tử từ thuở nào đến giờ. Cho đến khi nào ta chiến thắng được lòng tham dục, ta mới có thể giải thoát ra khỏi được sự trói buộc của tâm dính mắc và lòng sở hữu của mình. 

2.- Kẻ thù thứ hai là tâm sân hận. Nói chung thì những tâm giận dữ, thù ghét, bực tức, khó chịu đều có chung một đặc tính là xua đuổi, tiêu diệt đối tượng của nó. Nó có một trạng thái rất là hổn loạn và bạo động. Trong văn chương chúng ta thường diễn tả những người đang bị chi phối bởi lòng tham dục và sân hận, là những người đang bị lửa nóng thiêu đốt. Khi ta đang có một sự đam mê hay một cơn giận nào, ta thường nói là mình đang "bừng bừng lửa cháy". Lửa tình hay lửa sân cũng thế. Trong những tình cảnh này tâm ta đang bị đốt cháy thật sự, sự khổ đau rất to tát. 

3.- Kẻ thừ thứ ba là thụy miên. Thụy miên có nghĩa là tâm làm biếng, uể oải, ham ngủ nghỉ. Nói tới những tâm tánh này, tôi nghĩ ngay đến những con ốc sên, lúc nào nó cũng bò một cách lừ lừ, chậm chạp, chẳng có chút năng lực nào cả. Chúng ta phải cố chiến thắng được tâm uể oải và lười biếng này mới mong thành công được. Chứ bằng không thì sẽ chẳng có việc gì là làm xong, chẳng có chuyện gì là rõ ràng cả, tâm ta lúc nào cũng cảm thấy mờ mịt và nặng nề. 

4.- Tâm chướng ngại thứ tư là trạo hối. Trạo hối có nghĩa là một tâm xao động, buồn rầu, lo nghĩ, hối hận. Một tâm như vậy thì không thể nào có khả năng tập trung được. Nó luôn luôn nhảy từ đối tượng này sang một đối tượng khác, lao chao, không có chút gì là chánh niệm. Tâm trạo hối ngăn chận sự phát triển của trí tuệ. 

5.- Kẻ thù thứ năm là tâm nghi hoặc. Lòng nghi ngờ vào giáo pháp, vào con đường mình theo. Có lẽ tâm nghi hoặc là một kẻ thù đáng sợ hơn cả. Trừ khi ta nhận diện được nó, tâm nghi hoặc có thể làm cho trí óc của mình trở nên vô dụng, ngăn chận không cho ta nhìn sự việc một cách rõ ràng. Ta nghi ngờ về chuyện ta đang làm, về khả năng của chính mình. Từ lúc bạn đến đây, chắc thế nào bạn cũng đã có những ý nghĩ như "Tôi làm gì ở nơi đây? Tại sao tôi tới đây? Phương pháp này khó quá, không thể nào tôi theo được?" Những điều ấy là do tâm nghi hoặc, một trở ngại rất lớn trên con đường tu tập của mình. 

Năm điều ngăn chận hay ngũ trần cái - tham dục, sân hận, thụy miên, trạo hối và nghi hoặc - đều là những tâm hành. Chúng không có Ngã, không có một bản chất thật sự, chỉ là một chuỗi nhân duyên hiện hành vô chủ. Có một ví dụ dùng để diễn tả ảnh hưởng của những chướng ngại này, đối với tâm của chúng ta. Một hồ nước trong. Lòng tham dục được ví như những màu sắc sặc sở được pha vào nước. Nhìn xuống hồ chúng ta bị lôi cuốn theo những vẽ đẹp và sự phức tạp của màu sắc mà không còn thấy được đáy. Tâm sân hận khó chịu, thù ghét được ví như nước sôi. Nước đang sục sôi thì bao giờ cũng rất là xao động. Chúng ta không thể nào nhìn thấu xuyên qua được. Sự náo động của tâm gây ra bởi những phản ứng bạo động của lòng thù ghét, ác cảm là một trở ngại rất lớn cho sự hiểu biết. Tâm làm biếng, trì trệ thì cũng giống như mặt hồ đang bị phủ kín bởi rong rêu, một lớp rất dày. Ta không thể nào nhìn xuyên qua lớp rong rêu để thấy được đáy hồ. Tâm thụy miên rất là nặng nề. Còn tâm trạo hối, bất an thì được ví như mặt nước xao động, xốn xang bởi những luồng gió mạnh. Khi ta lo nghĩ, buồn rầu, ta sẽ mất đi khả năng tập trung, an tĩnh để phát triển định lực và trí tuệ. Và tâm nghi hoặc thì giống như nước hồ bị vẩn đục vì bùn quấy lên. Trí tuệ của ta lúc này hoàn toàn bị che khuất vì sự mịt mù, tăm tối của tâm nghi ngờ. 

Có những phương pháp để đối trị với các chướng ngại vừa kể, trên con đường tu tập của ta. Phương cách đầu tiên là nhận diện chúng, ý thức được sự có mặt của chúng một cách rõ ràng trong mỗi giây phút. Nếu tham dục nổi lên, ta phải có ý thức ngay về sự có mặt của nó. Ðối với tâm sân hận, lười biếng, bất an, nghi hoặc cũng vậy, ta phải nhận diện ngay khi chúng vừa mới khởi lên. Nhận diện, ý thức được sự có mặt của chúng, là một phương pháp hay nhất, hiệu quả nhất để đối trị với những chướng ngại trên con đường tu tập thiền quán của mình. Ý thức được sự việc đang xảy ra sẽ dẫn đến chánh niệm. Và chánh niệm có nghĩa là không nắm bắt, không xua đuổi, không nhận đối tượng làm mình. Ngũ trần cái hay năm chướng ngại này, chỉ là những tâm hành không có thực chất và vô thường. Chúng sanh lên rồi diệt mất, đến và đi như mây trên trời. Nếu chúng ta có chánh niệm ngay khi chúng vừa khởi lên và không phản ứng theo sự thúc dục của chúng, những tâm hành này sẽ đi qua mà không gây nên một sự xao động nào đáng kể. Chánh niệm là một phương pháp hiệu quả nhất để đối trị chúng. 

Ta cũng có thể dùng một số liều thuốc đặc biệt để chữa trị năm chướng ngại này, nhất là những khi ta đang bị chúng chi phối mà chánh niệm của ta thì còn quá yếu. Khi tâm ta bị lòng tham dục hoành hành, ta hãy quán chiếu về sự vô thường của xác thân này, sự thật là rồi cũng có một ngày thân này sẽ trở thành những thây ma. Thời gian trôi qua như bóng ngựa qua cửa sổ, chúng ta rồi sẽ bảy mươi, tám mươi hay chín mươi tuổi. Hàn San, một nhà tu mà cũng là một nhà thơ cổ Trung Hoa, nhận thức được những điều ấy như sau: 

Một tấm màn làm bằng trân châu, 
Treo trước cửa tiền đường. 
B
ên trong một tiểu thơ yêu kiều, thục nữ, 
Dáng nàng đẹp hơn tiên, trang đài và quý phái. 
Gương mặt nàng hồng tươi, như một trái đào tiên, 
Sương mù mùa xuân phủ ướt gian nhà phía đông. 
Gió thu sang, thổi lồng lộng trống gian tây. 
Ba mươi năm sau, tất cả sẽ c
òn gì, 
Thục nữ ấy sẽ gầy khô như xác mía. 

Những sự quán chiếu như vậy có khả năng làm cho lòng tham dục của ta bớt đi, nhất là khi phải đối diện với sự cấp bách về cái chết của chính mình. Cái chết không phải chỉ xảy đến cho một số người chọn lọc nào đó. Phải có cảm thấy được sự gần kề của cái chết, thì ta mới biết sự quan trọng, giá trị vô cùng của giờ phút hiện tại. 

Có một mối tương quan chặt chẻ giữa lòng tham dục của mình và tánh ham ăn, mê ngủ. Tiết độ trong việc ăn uống, ngủ nghỉ sẽ làm giảm bớt lòng tham dục của mình và tăng trưởng trí tuệ. 

Cũng vậy một cách hay nhất để đối phó với lòng thù ghét, giận dữ là nhận thức được nó, có chánh niệm về nó. Giả sử bạn đang ngồi, bỗng nhiên bạn cảm thấy thù ghét một người nào hay một việc gì đó. Hãy ngồi lại và ghi nhận "giận, giận". Không cho nó là mình, cũng không tự trách mình sao lại giận. Chỉ cần giản dị quan sát nó. Nó sanh lên rồi sẽ diệt đi. Sự giận dữ chỉ có tác hại khi nào ta nuôi dưỡng nó, đồng hóa với nó "Tôi đang giận và nó đáng để cho tôi giận vì người ấy đã dám đối xử với tôi như vậy...". Ta có một con đường khác, là thay vì bộc lộ sự giận dữ ấy ra một cách mê muội, ta có thể chọn cách quan sát nó một cách cặn kẽ. Ta sẽ thấy rằng nó từ từ mất đi công năng phá hoại của nó. Một phương cách đặc biệt khác để đối trị với tâm sân hận là niệm từ bi. Niệm từ bi có nghĩa là phóng tỏa những tư tưởng thương yêu, cầu mong sự an lạc, hạnh phúc đến cho tất cả mọi loài, cho những người ta thương và cho đến những người ta ghét. Ðem những tư tưởng tốt lành đến cho người ta đang giận, lúc đầu không phải là dễ, nhưng cuối cùng ta cũng sẽ làm được. Dần dần rồi sự giận dữ sẽ tan biến, tâm ta sẽ êm dịu xuống và trở lại quân bình. Một cách thực tiển nhất để đối trị tâm sân hận là khi bạn thù ghét một người nào, bạn hãy mua quà biếu họ. Ta không thể nào giữ được tâm giận dữ khi ta đem lòng rộng rãi, cởi mở ra đối xử với người khác. Nó có khả năng hóa giải mọi sự căng thẳng, nặng nề có mặt giữa hai bên. Ðây là một phương pháp thiện xảo để dập tắt ngọn lửa sân hận trong tâm ta. 

Ta cũng có thể đối trị tâm sân hận của mình qua cánh cửa trí tuệ: quán chiếu về luật nhân quả, hiểu được rằng chúng ta là kết quả do hành động của chính mình. Bất cứ một ai rồi cuối cùng phải nhận lãnh kết quả tạo nên bởi những hành động hoặc tốt hoặc xấu của mình. Nếu có một người nào đó gây cho bạn một sự khó chịu, thay vì giận dữ phản ứng lại, bạn có thể đem tình thương và hiểu biết ra mà đối xử. Bạn hiểu rằng người ấy hành động vì tâm mê muội, và anh ta cuối cùng sẽ hoàn toàn nhận lãnh kết quả gây nên bởi những hành động không tốt của anh. Ta không cần làm cho người ấy đau khổ thêm chi nữa, hãy lấy lòng từ bi mà làm nhẹ bớt nghiệp xấu gây nên bởi sự mê muội của anh ta. 

Tâm lười biếng và ham ngủ nghỉ. Cũng vậy, phương pháp hay nhất vẫn là nhận diện được nó. Ta hãy quán sát tính chất chậm chạp, lười biếng mỗi khi nó có mặt trong tâm. Ði sâu thẳng vào nó. Nếu ta quán sát trong chánh niệm, thường thường thì chỉ trong một thời gian ngắn, ta sẽ thấy những sự buồn ngủ, lưới biếng biến đi đâu hết. Có thể ta đang ngồi niệm thầm trong đầu "buồn ngủ, buồn ngủ", rồi đột nhiên đầu óc ta trở nên sáng suốt và tỉnh táo một cách bất ngờ. Thường thường khi ta có ý thức rõ ràng, chứ không phải đồng nhất với sự buồn ngủ, thì nó sẽ đi qua. Nhưng nếu bạn cố giữ chánh niệm, chú ý mà vẫn cứ gật gù mãi, thì bạn có thể làm những điều sau đây. Ðổi vị thế. Nếu bạn đang ngồi, hãy đứng dậy đi bộ một vòng. Nếu bạn đang ở trong nhà, hãy đi ra ngoài một chút. Không khí tươi mát bên ngoài sẽ làm bạn tỉnh táo trở lại. Nhìn vào một điểm ánh sáng trong một thời gian ngắn, nó có thể là ánh đèn, ánh trăng hay ánh sao. Ánh sáng có tác dụng đánh thức bạn dậy. Rửa mặt bằng nước lạnh. Hay bạn có thể đi bộ lùi lại. Tâm lười biếng và ham ngủ nghỉ cũng vô thường và có thể đối trị được như mọi tâm khác. Nhưng nếu bạn đã thử mọi cách mà vẫn còn buồn ngủ, thì bạn nên đi ngủ. Ðiều quan trọng là bạn cố gắng. Ðừng để mỗi khi cảm thấy buồn ngủ là bạn lại nghĩ: "Chắc mình mệt rồi! Thôi đi nghỉ một chút cho khỏe!" Như vậy chỉ nuôi dưỡng thêm sự lười biếng của mình mà thôi. Muốn thắng được trở ngại này ta phải biết cứng rắn và nghiêm khắc. 

Tâm lo nghĩ và bất an. Cũng vậy, phải có chánh niệm. Quán chiếu tâm bất an, nhìn kỷ coi nó biến đổi ra sao! Nếu bạn đang ngồi và cảm thấy xao động, lo nghĩ, không thể tậptrung được, bạn hãy biến trạng thái xao động ấy của tâm làm thành đối tượng thiền quán. Chỉ ngồi nhìn xem và niệm "bất an, bất an". Quán sát và nhớ đừng bao giờ đồng hóa với nó. Chẳng có một "ai" bất an hết; tất cả chỉ là hoạt động của một loại tâm hành. Nó đến rồi đi. Nếu ta duy trì được chánh niệm, sự lo nghĩ, bất an sẽ không động được tâm ta. 

Một phương cách khác là gia tăng định lực, tập trung tư tưởng vào một điểm duy nhất. Ðây là một liều thuốc đặc biệt có khả năng đối trị tâm xao động và bất an. Những lúc tâm động loạn, bạn hãy bỏ hết những đối tượng khác trở về chú ý vào hơi thở của mình. Giữ tâm chú ý vào một đối tượng duy nhất trong một thời gian, khoảng hai mươi phút hay nửa tiếng để gia tăng định lực. Ngồi thẳng lưng, không cử động trong một thời gian cũng là một phương pháp tập trung rất hay. 

Trở ngại cuối cùng là tâm nghi ngờ. Trở ngại này vô cùng lớn lao, nếu ta không cẩn thận nó có thể trở thành một bức tường đồng vách sắt chắn ngang con đường tu tập của ta. Có rất nhiều người đã bỏ cuộc vì trở ngại này. Cũng như mọi chướng ngại khác, một phương pháp hữu hiệu và thông minh nhất để đối trị với chướng ngại này là quán chiếu nó, nhận diện nó. Khi ta có một sự nghi ngờ trong tâm, hãy ý thức được sự nghi ngờ này một cách trọn vẹn, nhưng đừng để nó đồng hóa. Tâm nghi ngờ không có một thực thể nào hết, không có ngã, không có tôi hay của tôi. Nó chỉ là một tư tưởng, một tâm hành. Nếu ta biết quán chiếu nó mà không bị nó đồng hóa, những khi có sự nghi ngờ khởi lên, ta sẽ có khả năng ngồi yên và niệm "nghi ngờ, nghi ngờ", rồi tự nó sẽ biến mất. 

Một phương cách khác để đối trị với tâm nghi ngờ là có kiến thức và có một sự hiểu biết rõ ràng về con đường mà mình đang theo. Chúng ta không nên chấp nhận hay tin tưởng mù quáng về bất cứ một phương pháp nào. Thông hiểu được giáo lý của đức Phật trên bình diện kiến thức, cũng có thể giúp cho ta giải quyết những nghi ngờ của mình một cách hữu hiệu. Khi có một sự nghi ngờ nào nổi lên, ta sẽ có thể giải đáp cho nó bằng chính kinh nghiệm và sự hiểu biết của mình. 

Chúng ta thường có một thói quen là hay xua đuổi và đàn áp các tâm xấu mỗi khi chúng khởi lên. Tâm đàn áp, xua đuổi ấy tự nó cũng là một chướng ngại. Mỗi hành động đàn áp là một hành động nuôi dưỡng, làm cho kẻ thù thêm mạnh. Ðó không phải là một thượng sách. Không phê phán, không phân tách. Khi những tâm chướng ngại khởi lên, chỉ cần giản dị quán chiếu chúng. Chánh niệm có khả năng vô hiệu quá chúng. Những tâm ấy có thể tiếp tục khởi sanh, nhưng tâm ta không động loạn vì ta không còn phản ứng theo chúng. 

Ngày nào tâm ta vẫn còn bi chi phối bởi những chướng ngại vừa kể, ta sẽ khó có thể phát triển được trí tuệ và hiểu biết. Trong những ngày đầu, ta sẽ cảm thấy rất nhiều bất an, nghi ngờ và ham muốn, cho đến khi nào tâm ta tạm yên xuống. Nhưng những trở ngại ban đầu không phải là những trở ngại cuối cùng. Khi ta có khả năng quán chiếu sâu hơn, những chướng ngại ấy sẽ lại phát khởi lên. Nhưng lúc này thì ta đã có nhiều tự tin vào những phương cách đối trị của mình, nhất là khi ta thấy rõ sự sanh diệt của chúng, những tâm chướng ngại này đến rồi sẽ đi. Hiểu được tính chất vô thường của chúng, tâm ta lúc nào cũng sẽ giữ được thăng bằng. Xin hãy luôn luôn duy trì sự liên tục và tinh tấn về chánh niệm của mình; chỉ có một tâm an tĩnh và mềm dẽo không suy chuyển mới có thể vượt qua được những chướng ngại này. 

Hỏi: Tôi phải làm gì những khi tôi cảm thấy bực mình vì đã cố gắng quá sức? 

Ðáp: Khi bạn cảm thấy căng thẳng hay là bực bội vì cố gắng quá, hãy đi ra ngoài thiên nhiên, nhìn cây cỏ, ngắm trời mây. Thế giới này đẹp và rộng lớn lắm. Ði dạo một chút, thoải mái một chút, nhưng nhớ vẫn giữ chánh niệm và ý thức được việc mình làm. Chỉ cần một thời gian ngắn là không gian chung quanh có thể làm tâm ta dịu êm lại. Ðức Phật thường dạy ta nên sống giữa thiên nhiên, vì nó có thể đem lại một sự an tĩnh cho tâm hồn. 

Hỏi: Ðôi khi tôi không thể nào theo dõi được hơi thở của mình. Tôi phải làm sao? 

Ðáp: Những khi tâm ta trở nên an tỉnh, hơi thở cũng sẽ trở nên rất nhẹ nhàng. Nếu bạn không còn ý thức được hơi thở của mình, bạn hãy chú ý đến cảm giác của thân, uy nghi của thân, hay là về chính cái biết của mình, dù cho bạn không có một đối tượng nào rõ rệt hết. Khi định lực phát triển, sẽ có lúc bạn không còn cảm thấy một cảm giác nào hết. Hãy ý thức được điều ấy. Nó cũng vô thường như mọi hiện tượng khác. Hơi thở sẽ trở lại với bạn. 

Hỏi: Còn những khi tôi ý thức được một sự sợ hãi nổi lên và cố gắng đi tìm nguyên nhân của nó thì sao? 

Ðáp: Bạn có thể làm chuyện đó nếu bạn muốn. Nhưng sự tìm kiếm ấy sẽ là bất tận. Phân tách, tìm hiểu nguyên nhân không phải là một hành động xả bỏ. Sự sợ hãi sẽ còn tiếp tục khởi lên và mỗi lần như vậy ta lại phải đi tìm một nguyên do mới. Với trí tuệ, hiểu biết ta có thể nhận diện sự sợ hãi và rồi buông bỏ nó. Chúng ta không cần phải tìm hiểu nguyên nhân của những khó khăn của mình để làm gì, chúng ta cần phải biết buông bỏ. Thấy được chúng, ý thức được chúng, không nhận chúng là mình và buông bỏ chúng. Chỉ giản dị có thế thôi. Bí quyết là giữ chánh niêm, ý thức được những gì đang xảy ra trong giây phút hiện tại. 

Hỏi: Tôi thường bị mắc kẹt và cho rằng những tâm chướng ngại này là mình. Có phương cách nào để chữa bệnh này không? 

Ðáp: Những thiền sư Tây Tạng có dùng một hình ảnh mà tôi thấy rất là có ích lợi. Họ ví tâm mình như là bầu trời xanh bao la, không một gợn mây. Mọi hiện tượng của thân và tâm đều xảy ra trong bầu trời trong xanh bao la này. Chúng không phải là bầu trời. Trời xanh không bị ảnh hưởng chút nào vì những việc xảy ra. Mây đến rồi đi, gió đến rồi đi, mưa nắng cũng đến rồi qua đi, nhưng bầu trời bao giờ cũng trong vắt. Hãy coi ta ta như một bầu trời trong bao la, và để mọi việc tự đến rồi qua đi. Tâm ta lúc nào cũng an tĩnh, thoải mái, quan sát mọi việc xảy ra. 
 

-ooOoo-

Buổi sáng thứ mười 
Bài thực tập: QUÁN TÂM THỨC

Một trong những lãnh vực quán niệm là quán tâm thức. Tâm thức có nghĩa là tri giác, sự hiểu biết, phân biệt của mình. Một phương pháp tu tập chánh niệm là dùng tâm thức của mình làm một đối tượng để quán niệm. Trong mỗi cử động của thân (sắc), ta đều có thể thấy được tâm thức của mình (danh) đi đôi. Bạn hãy thử an tĩnh tâm mình, và cố nhìn rõ để thấy được sự phát khởi của tâm thức cùng một lúc với cử động của mình. Ðiều quan trọng cần nhớ là tâm thức của ta và đối tượng của nó, lúc nào cũng đi đôi với nhau. Ta không thể nào đem tách rời tâm thức ra khỏi đối tượng được. Nhưng ta có thể phân biệt được hai tiến trình khác nhau, một tiến trình của tâm, còn gọi là danh, và một tiến trình của đối tượng còn gọi là sắc. Chúng đồng xảy ra cùng một lúc, nhưng có hai nhiệm vụ hoàn toàn khác biệt nhau. Nhiệm vụ của tâm là nhận định và phân biệt. Tỷ dụ như khi ta bước đi, chân ta không có một ý thức nào hết. Nó chỉ là những yếu tố vật chất hoạt động với nhau, nặng hay nhẹ là do yếu tố về đất, cử động là do yếu tố thuộc về gió. Biết được những yếu tố này nhờ tâm thức của ta. Có một cử động bước chân đi và có một ý thức. Song song với cử động là tâm thức nhận biết về nó. Ðừng cố gắng tìm kiếm tâm thức mình một cách chính xác, cũng đừng ráng định nghĩa nó cho chắc chắn hay là tìm cách giới hạn nó lại. Nó có tính cách trừu tượng và rất tế nhị. Nhưng với chánh niệm, ta sẽ có khả năng nhận định được tâm thức mình. Bởi tâm thức của ta có tính cách hơi mơ hồ, nên nó đòi hỏi một sự chú ý rất cao. Nếu sự chú ý của ta dễ duôi hay hời hợt, ta sẽ không thể nào nhận thấy được nó một cách rõ ràng. 

Trong những lúc ngồi thiền bạn có thể quay sự chú ý trở vào tâm thức của mình. Hơi thở được kinh nghiệm bằng sự lên xuống nơi bụng hay ra vào nơi mũi, chỉ là một diễn biến ở thân (sắc). Sự nhận biết được nó là nhờ ở tâm thức (danh). Khi bạn có được an tĩnh và tập trung hãy xoay chánh niệm của mình về quán chiếu nơi chính cái "biết" ấy. Ðừng cố gắng tìm kiếm hay đặt để cho nó một chỗ nào trong thân ta. Chỉ giản dị chú ý một cách thoải mái, nhẹ nhàng những gì đang xảy ra trong tâm thức của mình. 

Một trong những đức tính dẫn đến giác ngộ là Trạch pháp. Trạch pháp có nghĩa là quán xét giáo pháp nơi mình, hay nói một cách khác là quán chiếu, tìm hiểu những hoạt động liên hệ giữa thân và tâm, danh và sắc. Ðừng ngại ngùng gì mà không dám sử dụng tâm mình trong lãnh vực này: quán chiếu. Nhưng quán chiếu có nghĩa là không dùng đến ngôn ngữ, tư tưởng hay khái niệm. Hãy cố cảm nhận, kinh nghiệm cho được sự khởi sanh đồng một lúc của tâm thức cùng với đối tượng của nó - của danh và sắc. Kinh nghiệm này sẽ giải thoát ta ra khỏi sự chấp ngã, chấp vào có một người quan sát. Trí tuệ sẽ đến, khi ta nhận thức được rằng có sự quan sát nhưng không có người quan sát, có sự thấy nhưng không có một chứng nhân nào hết. 
 

-ooOoo-

Buổi tối thứ mười 
DŨNG SĨ

Trong sách của Carlos Castenada, Don Juan nói mỗi người chúng ta cần phải sống như một dũng sĩ. Hình ảnh một người dũng sĩ rung động sâu xa với kinh nghiệm thiền quán. Người dũng sĩ đối diện với mọi hoàn cảnh của cuộc đời như là những thử thách, anh ta đối phó một cách vẹn toàn mà không bao giờ than van hay hối hận. Theo đa số chúng ta thì giá trị của mỗi người tùy thuộc vào sự phê phán, chấp nhận của những người chung quanh; đối với người dũng sĩ, giá trị nằm ở sự toàn thiện của chính mình. Toàn thiện có nghĩa là sống trong chánh niệm một cách trọn vẹn và tinh mật. Những gì ta đang cố thực hiện ở đây là tự tìm hiểu mình, một điều cao quý nhất mà một người có thể làm được. Công việc này khó, hiếm hoi và đòi hỏi một sự toàn thiện. Nhưng ta không cần phải bỏ nơi này để đi đến một sa mạc hoang vu hay một hang động nào đó trên dãy Hy mã lạp sơn. Ta chỉ cần trau dồi những đức tánh tốt nào có khả năng đem lại cho ta một sự thức tỉnh trọn vẹn trong từng giây từng phút. 

Trong câu chuyện Siddhartha, Herman Hesse có kể lại một hình ảnh rất đẹp của một người dũng sĩ, hơi khác hình ảnh của Carlos và Don Juan. Trong chuyện này, Siddhartha kể rằng sự luyện tập giúp cho anh có được ba quyền năng: anh có thể suy nghĩ, anh có thể chờ đợi và anh có thể nhịn ăn. Ba đặc tính của tâm, ba đức tính của một dũng dĩ. Khả năng suy nghĩ ở đây có nghĩa là sáng suốt, tỉnh táo, không hoang mang, bối rối về việc đang xảy đến với ta. Trên phương diện thân thể - nó có nghĩa là ý thức được oai nghi, hơi thở của mình, thấy được những động tác của các hiện tượng vật lý, biết điều độ trong sự ăn uống, ngủ nghỉ của mình. Duy trì sự cân bằng giữa các năng lực trong thân. Trên phương diện tâm thức - nó có nghĩa là ý thức được tình cảm, tư tưởng và những trạng thái khác nhau trong tâm. Không bị lôi cuốn theo cơn lốc xoáy của tư tưởng, lúc nào cũng giữ được sự an tĩnh, cân bằng trong tâm mình. 

Khả năng suy nghĩ của Siddhartha cũng bao giờ gồm cả lòng can đảm: không bị nô lệ vào thành kiến và những cố chấp của mình. Can đảm đủ để cởi mở quan niệm của mình ra để chấp nhận những điều có thể được khác. Siddhartha không bao giờ tin mù quáng vào một điều gì hết. Anh ta không tin ở bạn bè, ở cha mẹ mình, ở các vị thầy hay ngay chính cả nơi đức Phật. Anh muốn phải tự chính mình chứng nghiệm được chân lý, và nhờ động lực này mà anh đã can đảm mở rộng tư tưởng của mình ra khám nghiệm tất cả. Siddhartha đã bỏ vào rừng trong vòng ba năm trời, để tu theo lối khổ hạnh, ép xác, rồi anh ta lại vui sống với Kamala một cô gái giang hồ hạng sang, hoặc tham gia vào chốn thương trường bon chen, lừa lọc. Anh ta lúc nào cũng sẵn sàng và có đủ can đảm để chấp nhận thử thách và bằng lòng với mọi hậu quả. Anh không để những sự phân biệt nhỏ nhoi làm nãn chí mình. Khả năng suy nghĩ bao gồm sự sáng suốt và lòng cam đảm dùng để trực tiếp kinh nghiệm, thăm dò và quán sát những sự việc đang xảy ra. 

Lòng can đảm của một dũng sĩ là một điều cần thiết, cũng như nó sẽ được khai triển trên con đường thiền quán. Ngồi với cơn đau của mình mà không tránh né hay trốn chạy, đòi hỏi một sự can đảm, dám thẳng mặt đối diện với nó để vượt qua nỗi sợ hãi của chính mình. Sự quán chiếu này cần một sự can đảm không nhỏ, nhưng nhờ vậy ta mới có thể khám phá, hiểu được những sự thật sâu xa của thân và tâm mình. Lúc đầu nó sẽ rất là động loạn, vì những thói quen thường ngày của ta bị xáo trộn. Phải can đảm lắm ta mới có thể buông bỏ tất cả những gì mà ta hằng nắm giữ cho sự an ninh của mình. Hãy xả bỏ, để kinh nghiệm được dòng vô thường. Phải có can đảm ta mới dám đối diện và đương đầu với nỗi bất an căn bản và cố hữu của tiến trình thân tâm. Ðể đối diện với sự thật, là chúng ta đang tàn hoại trong mỗi giây phút, không có một nơi nào để ẩn náo. Phải có can đảm mới chết được. Kinh nghiệm về sự chết của cái Ngã; kinh nghiệm được cái chết trong khi mình vẫn còn sống, cần một lòng cam đảm, vô úy của một đại dũng sĩ. 

Siddhartha có thể suy nghĩ, chờ đợi và nhịn ăn. Chờ đợi có nghĩa là kiên nhẫn và thinh lặng. Nó có nghĩa là không bị lôi cuốn vào hành động chỉ vì lòng ái dục. Nếu chúng ta không có khả năng chờ đợi, mỗi khi ham muốn khởi lên, nó sẽ dẫn đến hành động. Và rồi ta lại bị trôi lăn theo vòng bánh xe của ái dục. Ðôi khi người ta thường lầm lẫn chờ đợi với lại bất động, không làm gì cả. Hoàn toàn không phải như vậy. Trang Tử có viết: 

Sự bất động của người trí không phải là không làm gì hết. Mà có nghĩa là không tính toán. Nó không bị lay chuyển bởi bất cứ một việc gì. Bậc thánh nhân an tĩnh vì họ không động, chứ không phải vì họ cố ý làm an tĩnh. Nước lặng giống như gương... một mặt phẳng hoàn toàn. Nếu nước thật trong và thật phẳng, thì tâm của bậc thánh nhân cũng thế. Tâm của người trí luôn luôn thanh thản, nó là tấm gương của trời đất, vạn vật. Vắng lặng, an tĩnh, thanh thản... thinh lặng, bất động - đây là lãnh vực của trời đất. Nó chính là Ðạo. Bậc trí tìm nơi đây chỗ an nghỉ cho họ. Khi an nghỉ, họ sống vắng lặng. 

Chờ đợi có nghĩa là sự tĩnh lặng của tâm, trong bất kỳ một hoạt động nào. Nếu chúng ta cứ lo bận rộn đi "hoằng pháp", ta sẽ không có được một cái nhìn rõ ràng, ta sẽ không thể nhận được rằng sức mạnh và sự hiểu biết phát sinh từ sự thinh lặng, và nhất là ta sẽ không ngừng được sự đối thoại trong nội tâm của mình, ta sẽ trở thành tù nhân của mớ văn tự, chữ nghĩa. Chúng ngăn chận không cho ta liên lạc với thế giới chung quanh một cách cởi mở và tự nhiên. Thế giới chung quanh khác biệt với những khái niệm và thành kiến của ta nhiều lắm. Chấm dứt những đối thoại trong nội tâm của mình là khả năng chờ đợi và lắng nghe. 

Chính vì nhờ lắng nghe con tim mình, mà Siddhartha đã rời cha mình để đi vào con đường khổ hạnh, và rồi từ giả rừng sâu để trở về với thế giới trần tục của thương mại và tình yêu. Nhưng dần dà sự lắng nghe của anh ta bị trở nên mờ ám vì những đam mê, khoái lạc của sắc dục. Cho đến một lúc anh không còn nghe gì được nữa. Trong sự tuyệt vọng cùng cực, anh ta lê chân đến bên một dòng sông, định tự trầm mình. Lúc ấy anh bỗng nghe từ dưới dòng sông, từ đáy hồn anh, âm thanh "AUM" vang dội. Anh quyết định ở lại với dòng sông. Vài năm sau, anh lại bắt đầu biết lắng nghe và biết đợi chờ. 

Siddhartha lắng nghe. Chàng bắt đầu chú tâm lắng nghe, miệt mài trong thinh lặng. Chàng hấp thụ tất cả. Chàng cảm thấy rằng, bây giờ mình đã hoàn toàn học được nghệ thuật lắng nghe. Những âm thanh này chàng đã nghe chúng từ xưa, những tiếng gọi khác nhau của dòng sông. Nhưng hôm nay chúng mang một vẻ khác biệt. Chàng không còn có thể phân biệt giữa những tiếng gọi khác nhau được nữa, tiếng vui ca với tiếng than thở, tiếng trẻ thơ với lại tiếng trưởng thành. Tất cả đều lệ thuộc vào nhau. Tiếng than vãn của nhưng ai sầu khổ, tiếng cười vang của người trí tuệ, tiếng khóc la của kẻ phẩn uất và tiếng rên rĩ của người đang hấp hối. Tất cả đều dựa vào nhau, dính chặt, quấn quýt, đan dệt vào nhau trong ngàn đường lối. Tất cả những tiếng gọi, những mục đích, những lời than, những muộn phiền, những niềm vui, mọi điều ác và thiện, tất cả đều hòa hợp lại trong thế gian này, trong dòng biến cố và âm nhạc của cuộc sống. Siddartha miệt mài lắng nghe dòng sông, theo bài ca muôn ngàn tiếng hát, khi chàng không chỉ lắng nghe theo tiếng khóc hay tiếng cười, chàng không chỉ lắng nghe một âm thanh duy nhất nào, nhưng là lắng nghe tất cả, một thực thể đồng nhất - khi bài ca của ngàn tiếng hát tụ hội lại trong một chữ - trọn vẹn. 

Quyền năng thứ ba của Siddhartha là nhịn ăn. Nhịn ăn ở đây có nghĩa là buông xả, từ bỏ, nhân nhượng. Nó cũng có nghĩa là năng lực, tinh tấn và sức mạnh. Sự từ bỏ đem lại cho tâm ta một sức mạnh và sự thanh nhẹ. Phần đông thường cho rằng sự buông bỏ hay nhịn ăn là nguồn gốc của khổ đau, mà quên đi sự an lạc, đơn giản mà nó có thể đem lại cho tâm hồn. Vì lúc ấy ta không còn bị ràng buộc, chi phối bởi những ái dục không cần thiết. Chúng ta đâu cần đến một cố gắng siêu phàm nào mới có thể thực hành được sự từ bỏ. Ta chỉ cần cố gắng vượt qua những lôi cuốn và thói quen thường ngày mà thôi. Khi ta thực hành được điều này, ta sẽ kinh nghiệm được sự thênh thang, tươi mát của tâm hồn mình vì đã từ bỏ được những dính mắc và quyến luyến. 

Nhịn ăn cũng có nghĩa là sự đơn giản. Một trong những niềm vui khi tôi còn tu tập ở Ấn Ðộ - mặc dù gặp nhiều khó khăn trong các vấn đề sức khỏe, thực phẩm và tiện nghi - là sự giản dị trong cuộc sống của mình. Nó không bị ngăn trở bởi nhiều việc làm ta nhức đầu như ở Hoa Kỳ. Những khách du lịch đi ngang qua thường thắc mắc, không hiểu nổi làm sao mà chúng tôi lại có thể "từ bỏ" được nhiều nhu cầu đến thế - điện, nước nóng, tiện nghi, vì họ không hiểu được sự thoải mái của một đời sống đời sống giản dị. Từ ở sự đơn giản trong cuộc sống của mình, vì không còn chiếm hữu nhiều, dẫn ta đến một sự toại nguyện và an lạc. 

Nhịn ăn, từ bỏ. Chúng ta có thể kinh nghiệm được sự buông bỏ trong cuộc sống của mình qua hành động bố thí, qua việc giữ giới luật, qua sự lìa xa những gì đã hằng trói buộc ta. Vấn đề từ bỏ xảy ra trên nhiều lãnh vực, không chỉ riêng trong sự liên hệ của mình với những người khác hay những vật chung quanh. Ðạo Lão có danh từ "trai tâm" để diễn tả một hoàn toàn trong sự từ bỏ của nội tâm. Trang Tử viết: 

Hãy chuyên tâm nhất chí. Ðừng nghe bằng tai, mà nghe bằng lòng. Ðừng nghe bằng lòng, mà nghe bằng khí. Ðiều gì mình nghe, hãy để nó dừng ở ngoài tai, còn lòng thì hợp nhất nó lại. Khí, là cái Hư không để mà tiếp nhận sự vật. Chỉ có sự trống không mới nhận được Ðạo mà thôi. Sự trai tâm có nghĩa là làm trống không mọi quan năng, tự do, không còn bị giới hạn và bận tâm. Trai tâm sanh nên sự chuyên tâm nhất chí và tự do. 

Siddhartha có khả năng suy nghĩ. Anh ta có thể chờ đợi. Anh ta có thể nhịn ăn. Ðây là những đặc tính mà một dũng sĩ sẽ khai triển, khi anh ta ý thức được một cách toàn vẹn con người của chính mình. Khi bạn ngồi, khi bạn đi, khi bạn luôn luôn hoàn toàn có ý thức trong một ngày, đây là những đặc tính của sự giác ngộ. 

Hỏi: Don Juan có nói về quyền năng của cá nhân. Ðiều này có liên hệ gì đến sự tu tập? 

Ðáp: Sức mạnh của tâm chính là quyền năng. Không phải một quyền lực dùng để sai xử một cái gì bên ngoài, mà là quyền lực của trí tuệ thông suốt, của sự hiểu biết. Do Juan có nói rằng dù cho nếu anh có được nói cho nghe bí mật của vũ trụ này, nó cũng sẽ là rỗng tuếch đối với anh, cho đến khi nào anh có được đầy đủ quyền năng của mình. Quyền năng ở đây có nghĩa là sức mạnh, sự kiên trì điều đặn, khả năng quán chiếu và thấy được chân tướng của sự vật. Quyền năng này sẽ khai triển khi định lực của ta gia tăng. Khả năng quán chiếu sẽ đem đến trí tuệ. Với sức mạnh của tâm linh, một chữ thôi cũng có thể mở ra cho ta một trình độ hiểu biết mới. Trong những khóa tu như vầy thì chính sự thực hành đều đặn, liên tục sẽ làm phát triển loại quyền năng cá nhân đó. 

Hỏi: Có dấu hiệu nào trên con đường tu tập giúp ta phân biệt được trực giác, trí tuệ với lại sự tưởng tượng không? 

Ðáp: Trực giác phát xuất từ một nội tâm tinh lặng, còn tưởng tượng là thuộc về những khái niệm. Hai cái đó khác biệt nhau nhiều lắm. Ðó là lý do vì sao mà sự phát triển trí tuệ không bao giờ đến bằng sự suy nghĩ về sự vật. Nó chỉ đến bằng sự tu tập một nội tâm im lặng, để từ đó mà một cái nhìn, một cái thấy sáng tỏ có thể xảy ra. Tất cả mọi phát triển của trí tuệ, của sự hiểu biết chỉ xuất hiện vào những khi tâm ta im lặng. Rồi bất ngờ: "À, thì ra sự thật là như vậy!" Trong truyền thống Zen của thiền sư Hoàng phố, ông có nói về giác ngộ như là một sự hiểu biết đột ngột, thoát ra khỏi mọi ngôn từ. Những trực nhận ấy có một giá trị đặc biệt, vì nó không phải là sản phẩm của óc suy nghĩ hay tưởng tượng mà là một sự vỡ lẽ bất ngờ, đột nhiên thấy được chân tướng của sự vật. 

Hỏi: Trong sự tu tập, việc sử dụng tâm để thăm dò, quan sát một đối tượng và việc ý thức mà không cần chọn lựa một đối tượng nào, liên hệ với nhau ra sao? 

Ðáp: Có nhiều phương pháp phát triển trí tuệ bằng cách chọn một ý thức có đề mục. Chúng ta có thể tập trung sự chú ý vào các mặt khác nhau của tiến trình, như là oai nghi của thân thể, cảm thọ nơi thân hay tâm thức của mình. Chọn đối tượng như là một phương tiện để khám sát một lãnh vực đặc biệt nào đó, thì rồi nó cũng trở thành một ý thức không có sự chọn lựa. Khi ấy hành giả chỉ ngồi yên quan sát và ghi nhận những gì đang xảy ra mà hoàn toàn không phê phán, quyến luyến hay ghét bỏ. Ðôi khi hành giả quá tĩ mĩ trong sự tu tập, cứ luôn tìm kiếm một quy luật để theo, sợ thực hành sai. Trí tuệ phát xuất từ sự chánh niệm và tỉnh thức, cho dù ta có ý thức được điều ấy hay không. Không bao giờ có chuyện chánh niệm "sai" hết. Hãy đào luyện tâm mình, đào luyện đức tánh quan sát khám phá này. Hãy nhìn cho thật sâu xa, để thấy được tư tưởng của mình sinh lên từ chỗ trống không rồi tàn hoại vào chỗ trống không. Còn khi quán sát cái đau, phải dám trực diện nó. Thực tập với một thái độ vô úy, không sợ hãi, không suy nghĩ về một điều gì, chỉ bằng một ý thức im lặng. Tâm ta có thể uốn nắn được rất dễ dàng. Cũng như một miếng đất sét dùng để làm chén bát, nó rất mềm dẻo và nhồi nắn được. Khi ý thức và định lực của ta phát triển, tâm ta sẽ có được tính cách uyển chuyển và dễ vận dụng như thế. Hãy thám hiểm tất cả mọi khía cạnh của tiến trình thân tâm. Khi tôi còn ở Ấn Ðộ, tôi sống tên tầng thứ hai của một tu viện. Mỗi ngày tôi thường đi lên xuống thang lầu nhiều lần, những khi ấy tôi hay quan sát cử động máy móc của động tác bước lên từng bực thang, đầu gối tôi chuyển động ra sao, sức nặng của tôi dời đổi như thế nào. Nó là một tiến trình rất ngộ nghỉnh. Mọi sinh hoạt khác của ta cũng cần phải được chú tâm theo dõi kỹ càng như vậy. Và cũng có những lúc ta ngồi lại và không làm gì hết, ý thức mà không cần chọn lựa một đối tượng nào, quan sát những biến chuyển tự nhiên. 

Hỏi: Cái tiến trình thân và tâm này, nó bắt đầu từ lúc nào? 

Ðáp: Có một câu chuyện về người bị bắn một mũi tên có tẩm thuốc độc. Bạn anh ta gọi một vị thầy thuốc đến để nhổ mũi tên ra và chữa trị cho anh. Nhưng anh lại nói: "Khoan đã, ông đừng lấy nó ra vội. Tôi muốn biết ai đã bắn mũi tên này, người ấy từ đâu đến, mũi tên ấy làm bằng thân cây gì, đuôi của nó là lông của loài chim nào, màu sắc ra sao..." Lẽ dĩ nhiên người ấy sẽ chết trước khi anh ta được trả lời thoả mãn cho những thắc mắc ấy. Cũng vậy, đức Phật cho rằng những câu hỏi triết học về nguồn gốc vũ trụ, của thế giới, vì sao nó lại bắt đầu... thì cũng giống như những câu hỏi của người bị tên độc kia. Chúng ta đang bị kẹt trong một tình thế bất an, tình thế của ta là một hiện tượng thâm tâm luôn bị chi phối bởi những tham, sân, si và đau khổ. Phận sự của ta là nhổ đi mũi tên độc ấy, giải thoát tâm mình ra khỏi những tính chất khổ đau kia. Những câu hỏi có giá trị là những câu hỏi có thể áp dụng vào những gì ta đang kinh nghiệm ngay trong giờ phút này. 

Hỏi: Tại sao tham dục lại khởi lên 

Ðáp: Khi chúng ta tiếp xúc với những vật gì vừa ý, ta muốn bắt giữ, mà không hiểu rõ tính chất vô thường của chúng. Vừa khi chúng ta có chánh niệm, chú ý đến những gì đang xảy ra, thấy được sự sanh diệt của mọi vật, thì lòng tham dục, nắm bắt sẽ giảm đi. Chẳng có gì để ta nắm giữ hết. Tất cả chỉ là bong bóng nước. Kinh nghiệm được lý vô thường, sự tàn hoại của mọi vật, sẽ đưa ta đến sự buông bỏ, một trạng thái không dính mắc. Tất cả đều có được nhờ ở chánh niệm, nhờ ở sự toàn vẹn của chính ta. 

Trở thành một dũng sĩ là một chuyện vô cùng cao thượng. Chẳng một ai có thể làm công việc ấy dùm cho ta được. Mỗi người tự mình làm công việc ấy. Hãy ý thức trong mỗi giây phút, chú ý đến những gì đang xảy ra một cách trọn vẹn. Không có gì là huyền bí cả, phương pháp tu tập thật là đơn giản, trực tiếp và ngay thật, nhưng nó đòi hỏi sự thực tập. Thiền quán chỉ có nghĩa là vậy thôi. 

-ooOoo-

Các tin đã đăng: