[02]
Buổi sáng
thứ sáu
Bài thực tập: NHỮNG ÐỐI TƯỢNG CỦA CẢM GIÁC
Khi bạn ngồi thiền, nếu có những hình ảnh nào hiện ra trong
đầu, chỉ cần niệm thầm: "thấy, thấy",
đừng
bao giờ để ý phê bình, hay phân tích nội dung của chúng.
Chỉ nên
quan sát sự sanh lên và diệt đi của
những hình
ảnh đó. Khi bạn nghe một âm thanh nào,
bạn niệm thầm "nghe, nghe", không nên đi
tìm
hiểu nguyên nhân hay tạo một khái niệm nào hết. Khi mũi ngửi thấy
một mùi
thơm hay hôi nào, bạn cũng chỉ niệm thầm "ngửi, ngửi", và rồi trở
lại với
hơi thở của mình. Bạn chú ý đến đối
tượng
chánh của thiền quán cẩn thận bao nhiêu, thì bạn sẽ có thể
nhận
diện được sự phát hiện của những đối
tượng
thứ yếu khác dễ dàng báy nhiêu.
-ooOoo-
Buổi tối thứ bảy
NHỮNG MẪU CHUYỆN
Một phương pháp để phát triển sự
tỉnh thức
và chánh niệm là gia tăng nhịp
độ ghi
nhận của mình. Trong thời gian bắt đầu
tu tập, sự ghi nhận của ta rất là rời rạc. Bạn ghi nhận một
chuyện
đã xảy ra, rồi một lát sau bạn
mới ghi
nhận được sự có mặt của một đối tượng
khác.
Công phu tu tập của bạn tiến bộ nhờ ở sự gia tăng nhịp độ ghi nhận
của
bạn. Ðến một lúc, bạn sẽ có khả năng
ghi nhận trong từng giây từng phút phút một, mọi sự việc xảy đến
với bạn,
có lúc đối tượng là hơi thở ra vào, có lúc là những cảm
giác trong
thân, có lúc đó là hình ảnh
hay tư
tưởng. Theo dõi mọi biến chuyển của hiện tượng trên một bình diện
vi tế là
một đặc tính của chánh niệm, mà
phương
pháp tu tập này đem lại. Ðức
Phật có
kể cguyện một người tử tội bị bắt đội
trên
đầu một lọ nước đầy ấp tới miệng, đi
bộ ngang
qua một phố chợ chen chúc người. Phía sau anh ta là một
người lính
cầm một cây gươm đi theo. Chỉ cần một
giọt
nước rơi xuống đất là người lính sẽ chặt
đầu anh ta lập tức. Lẽ dỉ nhiên
người
tử tội này sẽ bước đi rất là
có chánh
niệm. Nhưng anh ta cũng không được
trịnh
trọng gò bó quá, chánh niệm của anh ta phải tự nhiên. Bởi
chỉ cần
một sự cố gắng nhỏ của anh ta cũng có thể lào chao
động lọ nước đang đội trên
đầu. Anh ta phải giữ thoải mái và
nhịp
nhàng, uyển chuyển theo hoàn cảnh chung quanh, nhưng vẫn có chánh
niệm
trong mỗi giây phút. Bạn cũng vậy, đây
là
một thái độ mà bạn nên có
trong sự tu
tập chánh niệm của mình: có ý thức một cách thoải mái tự nhiên.
Công phu tu tập giữ chánh niệm trong từng giây phút,
đòi hỏi một sự cố gắng luyện
tập.
Nhưng đây không phải là một cố
gắng
để đạt đến một mục đích nào ở
tương
lai. Sự cố gắng ở đây là sống
trong
hiện tại, chú ý với một tâm bình thản những gì
đang xảy ra trong giờ phút này.
Có một
câu chuyện về một thiền sinh nọ, anh ta theo học thiền cũng
đã được
một thời gian. Một hôm anh ta tìm đến
thăm vị thầy của mình. Hôm ấy trời mưa. Anh ta
để cây dù và giày của mình bên
ngoài
cửa, rồi đi vào trong. Sau khi
đảnh lễ vị thầy, ông thầy hỏi anh khi
nãy
bước vào trong, anh để cây dù
bên phía
nào của đôi giày. Anh bối rối,
không
trả lời được. Vị thầy bắt anh trở về
tu tập
thêm.
Vấn đề quan trọng là ta
phải
đào luyện cho mình một chánh
niệm sâu
sắc và đều đặn trong bất cứ việc gi
ta đang làm,
từ lúc vừa mới thức dậy cho đến khi
đi ngủ.
Lúc vừa mới thức giấc, ta phải lập tức chú ý đến hơi thở "phồng,
xẹp" hay
"ra, vào", và bắt đầu từ giây
phút ấy
chú ý đến mọi cử động xuống giường, đánh răng, rửa mặt, rồi bước
đi, ngồi
xuống, đứng dậy, đi ăn. Theo dõi từng hành
động một. Khi nằm xuống ngủ, ta hãy
chú ý vào sự "phồng, xẹp" hay "ra, vào" của hơi thở cho
đến khi đi vào giấc ngủ. Sự
luyện tập
này đem đến một lợi ích rất lớn lao
cho sự tu
tập thiền quán của chúng ta. Nếu ta nghĩ rằng, còn những
lúc khác
không quan trọng, là ta đã làm
mất
đi sự liên tục trong sự tu tập
của
mình. Ðào luyện một sự chú ý rõ ràng vào từng hành
động trong ngày, giúp tâm ta
lúc nào
cũng được tập trung và yên
lặng. Nhờ ở
sự quyết chí và cân bằng nơi tâm như thế này, mà giác ngộ xảy ra.
Không có một thời gian nào, hoàn cảnh nào mà lại không
đáng để cho ta giữ chánh niệm. Sự
giác ngộ có
thể xảy đến cho ta trong bất cứ giây phút nào, khi tâm ta
đã chín mùi và hoàn toàn quân
bình,
hòa hợp.
Có một câu chuyện về ngài Ananda, là vị thị giả thân tín nhất
của
đức Phật. Ngài có bổn phận chăm
sóc và lo cho những nhu cầu cửa đức
Phật. Nhưng vì thế mà ngài lại xao lãng công việc tu tập
của mình.
Tất cả những người bạn của ngài trong giáo đoàn
đều đắc quả, chỉ duy có ngài
là vẫn
còn như lúc mới vào tu. Cho đến khi
đức Phật
nhập diệt, ngài mới bỏ nhiều thì giờ cho việc tu tập thiền
quán của
mình. Một thời gian sau khi đức Phật
nhập
diệt, các vị sư trong giáo đoàn cho triệu tập một
đại hội để ghi chép lại lời dạy của
đức Phật
cho khỏi quên. Họ chọn lựa ra 499 vị sư, tất cả
đều đã giác ngộ và có
đầu đủ thần thông, và ngài
Ananda.
Ananda được chọn vì ngài lúc
nào cũng
có mặt bên cạnh đức Phật trong những
lúc
thuyết pháp, và ngài có một trí nhớ rất
đặc biệt. Thế cho nên mặc dù
ngài chưa
giác ngộ, nhưng ngài là người rất cần thiết cho
đại hội. Khi gần đến ngày hội,
tất cả
các bạn của Ananda đều khuyên
ngài nên
gia tăng công phu tu tập của mình.
Trong đêm chót trước ngày
đại hội triệu tập, ngài bỏ
ăn bỏ ngủ tinh tấn công phu. Ananda
đi kinh hành
suốt đêm, theo dõi từng bước
chân của
mình "dở, bước, đạp". Nửa đêm,
canh
một rồi canh hai qua, vẫn chưa có chuyện gì xảy ra. Ðến canh bốn,
ngài
nhìn lại tình trạng của mình. Là một đệ
tử
thông minh của Phật, học rộng hiểu nhiều. Ananda phải biết tâm mình
giờ này đã mất
đi sự quân bình. Ngài
đã cố gắng quá sức mà không có
sự hổ
trợ đầy đủ của định lực và sự
an tĩnh.
Trong tâm ngài có quá nhiều mong mỏi và vọng
động. Ananda quyết định đi nằm trong chốc lát để đem lại chút quân
bình
trong tâm. Trong chánh niệm, ngài đi
về
giường của mình, vẫn theo dõi từng cử
động một. Chuyện kể lại rằng, vừa khi đầu Ananda chạm vào
gối, chân
ngài vẫn chưa đặt lên giường,
trong
giây phút ấy ngài đột nhiên
giác ngộ.
Theo với sự giác ngộ ấy, ngài đắc
được lục
thông. Và từ giây phút ấy cho đến
sáng, ngài được nếm mùi
vị an
lạc của niết bàn, giải thoát. Buổi sáng ra, ngài hóa thân mình
xuất hiện
trước đại hội, lúc ấy mọi người đều
hiểu rằng
Ananda đã đắc đạo.
Không ai có thể đoán được tấm màn
vô minh sẽ được phá mở lúc nào.
Nó có
thể xảy ra trong khi ta đặt lưng
xuống ngủ. Hãy
giữ chánh niệm luôn luôn. Trong từng mỗi giây phút một, hãy quán
sát, tỉnh
dậy mà nhìn những sự việc đang xảy
ra. Sự
luyện tập này, ngày qua ngày, sẽ tạo cho tâm ta một sức
mạnh phi
thường. Bạn hãy lợi dụng khóa tu này đến
mức
tối đa, đừng phung phí thì giờ hay nghĩ rằng mình công phu
như vậy
là đủ rồi. Tối đến nếu bạn không cảm
thấy
buồn ngủ, hãy cứ tiếp tục công phu. Thường thường những iờ
khuya
lại thích hợp nhất cho việc thiền quán. Hãy tinh tấn, cố gắng tối
đa nhưng nhớ đừng thúc đẩy hay gò
bó
quá.
Khi tôi còn ở Ấn Ðộ, trong thời gian đầu
tu tập, đối diện phòng tôi có một người bạn. Anh ta là một
người
kiên trì gương mẫu. Mỗi khi tôi gặp anh, là thấy anh
đang ngồi thiền. Mỗi đến đến chín,
mười giờ là
tôi sửa soạn đi ngủ. Nhưng nhìn
sang
phòng anh ta, tôi thấy vẫn còn ánh đèn.
Ðiều này khiến tôi phấn khởi tiếp tục công phu, cho nên tôi
đứng dạy và
đi kinh hành. Sau khi
đi kinh hành,
đầu óc tôi trở nên sáng suốt
và tôi có
thể ngồi thêm vài tiếng nữa. Tôi thay đổi
giữa đi kinh hành và ngồi thiền. Nhờ thế, tôi có thể cố
gắng
đến hết sức mình, và nó rất là
hữu
ích. Sự hòa hợp giữa định lực và
chánh
niệm trong ngày, sẽ khiến cho tâm ta vào cuối ngày, nhất là những
đêm khuya, trở nên vô cùng sắc
bén.
Nếu bạn cảm thấy được điều này,
xin
bạn hãy tiếp tục công phu. Ngồi thiền và đi
kinh hành càng nhiều càng tốt. Còn có rất nhiều sự việc,
rất nhiều
bình diện tâm thức, để cho bạn kinh
nghiệm.
Tại những trung tâm thiền viện ở Miến Ðiện, các thiền sinh mới
bắt
đầu chỉ ngủ có bốn giờ mỗi ngày,
rồi
khi sự tu tập tiến bộ, họ dần dần bớt lại. Chúng ta
đừng để bị điều kiện bởi thói quen
của mình,
cho rằng nếu không ngủ đủ bảy, tám
tiếng một
ngày ta sẽ mệt mỏi không còn sức làm gì nữa. Ðó chỉ là
khuôn mẫu
của một thói quen cũ. Trong một ngày nếu tâm ta lúc nào cũng quân
bình,
không bám víu, không ghét bỏ, không đánh
mất
mình, chúng ta sẽ không bị mệt mỏi hay căng
thẳng nhiều. Vị thầy của tôi kể rằng hồi ông còn tu ở Miến
Ðiện, có
một thời gian ông không ngủ trong năm
ngày
liên tiếp mà không hề cảm thấy mệt. Ông tu tập
đều đặn và nhịp nhàng, thực
hành pháp
môn Minh Sát Tuệ Vipassana, con đường
chánh
niệm mà chúng ta đang theo
đây. Hãy
để ý đến những nhu cầu của thân thể
bạn,
nhưng nếu bạn không cảm thấy mệt hay buồn ngủ, cứ tiếp tục thực hành
cho tới khuya.
-ooOoo-
Buổi sáng thứ tám
Bài thực tập: TÁC Ý
Ý muốn là một yếu tố thông thường, lúc nào cũng có mặt trong
tâm ta.
Khi nào nó khởi lên, ta phải ghi nhận nó. Ý muốn, hay còn gọi là
tác ý, là
một sự thúc dục trong tâm, một dấu hiệu đi
trước bất cứ một hành động nào.
Khi mà ta có chánh niệm nhận diện được
ý muốn
hay tác ý của mình, ta sẽ có sự tự do lựa chọn: hành
động hay không hành
động theo chúng. Còn nếu ta
sống trong
quên lãng không biết đến sự có mặt
của tác ý,
ta sẽ bị chúng sai xử một cách máy móc. Thí dụ, khi bạn đang ngồi
thiền,
trước khi bạn đứng dậy, bao giờ cũng có một tác ý muốn đứng lên.
Nếu bạn ghi nhận được tác ý này,
nó
sanh lên rồi diệt đi, có lẽ bạn vẫn còn
tiếp tục ngồi thiền. Bởi vì bạn đã
có
chánh niệm, ý thức được nó, chứ không
cho nó
là mình. Còn nếu tác ý khởi lên, nhưng vì thiếu chánh niệm,
bạn sẽ
thấy mình đứng lên mà chẳng
nhớ vì
sao. Mọi hành động khác của ta cũng
vậy. Thế
cho nên mỗi khi có một một tác ý nào khởi lên, như khi
đổi oai nghi của thân thể giữa đi,
đứng, nằm,
ngồi, ta phải nhớ có chánh niệm về chúng. Trong khi đi, bao giờ ta
cũng có
tác ý muốn dừng lại trước khi thật sự dừng. Ta có tác ý đổi hướng
trước
khi quay người lại. Chúng ta không cần phải niệm tác ý của từng
bước chân
một, nhưng mỗi khi đi kinh hành đến
cuối đoạn đường, ta nên ghi nhận tác ý muốn
đổi hướng, trước khi bắt đầu quay
người lại.
Bàn chân tự nó không thể cử động
quay
lại được. Nó quay lại bởi vì có một tác ý
đi trước. Chúng ta có thể đạt được
một sự
hiểu biết về lý nhân quả, giữa sự liên hệ của thân và tâm,
bằng
những quan sát như thế này. Ðôi khi thân là nhân mà một trạng thái
của tâm
là quả. Và đôi khi tâm là nhân
một cử
động của thân là quả. Một tác ý
muốn
quay người lại khởi lên, rồi bàn chân đưa
qua. Không có một cá nhân nào ở đó
hết, không có ai làm công việc quay người lại cả. Sự liên
hệ giữa
nhân và quả hoàn toàn có tính cách vô ngã. Nhưng bởi vì chúng ta
thường
không có chánh niệm về hành động của mình,
không thấy rõ tiến trình của mỗi cử động,
nên
chúng ta sẽ dàng bị đồng hóa với nó,
cho rằng
có một cái "ta" làm chuyện đó.
Giả sử như bạn cảm thấy lạnh, bạn đi
khoác
thêm một chiếc áo ấm. Cảm giác ở thân làm khởi lên một ý
muốn làm
cho thân được ấm. Ý muốn này
làm khởi
lên một tác ý đi lấy thêm
chiếc áo.
Tác ý đó làm cho thân cử
động. Chánh niệm được những tác ý này,
sẽ giúp cho ta phát triển thêm sự hiểu biết về những liên hệ giữa
các tiến
trình hoạt động của thân và
tâm.
Trong khi ngồi thiền bạn có thể ghi nhận
được sự có mặt của tác ý trước mỗi hành
động. Nếu bạn đổi thế ngồi, sẽ có một
tác ý
khởi lên để làm chuyện
đó. Nếu bạn nuốt nước miếng, cũng sẽ
có một
tác ý đi trước. Nếu bạn mở mắt ra, thì cũng sẽ có tác ý
muốn mở mắt
xảy ra trước đó. Tất cả những tác ý này
đều phải đưọc ghi nhận. Nhưng tác ý
không
phải bao giờ cũng là những ý nghĩ trong
đầu, không phải luôn luôn là
câu nói.
Tác ý có nhiều khi là một sự thúc dục, một dấu hiệu báo cho ta
biết có một
chuyện gì sắp sửa xảy ra. Bạn không cần phải tìm kiếm tư tưởng,
lời nói
trong đầu. Hãy ý thức
được những động lực thúc đẩy ta làm
những chuyện ấy. Và một khi bạn bắt đầu
ghi
nhận được mối liên hệ giữa nhân và quả xảy ra trong thân và
tâm, ý
niệm về một cái tôi sẽ dần dà hòa tan vào dòng biến hóa giản dị và
tự
nhiên của các yếu tố.
-ooOoo-
Buổi sáng
thứ chín
Bài thực tập:
ĂN TRONG CHÁNH NIỆM
Có rất nhiều diễn biến của thân và tâm xảy ra trong khi ta
ăn. Ðiều quan trọng là ta phải
ý thức
được thứ tự của diễn tiến ấy; chứ nếu
không,
tâm ta sẽ khởi lên sự ham muốn, tham lam
đối với thực phẩm. Và khi ta
thiếu
chánh niệm, ta sẽ không thực sự thưởng thức
được các món ăn. Nhai được đôi ba miếng là tâm ta
đã chu du
đến tận phương nào rồi.
Ðiều trước nhất trong khi ăn là
ta
phải nhìn thấy món ăn của mình.
Niệm
thầm trong đầu "thấy, thấy". Kế đó là
một tác ý muốn gắp đồ ăn. Ta phải
niệm "muốn,
muốn" hay là "tác ý, tác ý". Rồi tác ý này là
động lực khiến tay ta cử động. "Ðưa
lên, đưa lên". Khi
đủa hay muổng chạm vào thức
ăn, ta sẽ có một cảm giác đụng chạm. Hãy
ý thức được cảm giác này. Kế
đó là tác ý muốn giơ tay lên,
rồi hành
động giơ tay theo sau. Ta phải cẩn
thận ghi
nhận hết mọi sự việc xảy ra.
Mở miệng ra. Ðút đồ ăn vào.
Ngậm
miệng lại. Tác ý muốn để tay xuống,
theo sau
là cử động hạ tay. Mỗi lần một
việc
một. Nếm, cảm giác được thực phẩm trong miệng, cách cấu tạo của
chúng.
Nhai. Kinh nghiệm được cử động này. Khi bạn bắt
đầu nhai, cảm giác về mùi vị
sẽ có
mặt. Hãy ý thức được vị giác. Sau một
thời
gian nhai, vị giác sẽ biến mất. Nuốt vào. Phải ý thức
được diễn tiến của những sự việc xảy
ra liên
tục kế tiếp nhau. Không có một cá nhân nào
đứng sau những hành động ấy,
không có
người ăn. Tất cả chỉ là một sự nối tiếp của những tác ý, cử
động, nếm, cảm xúc liên tục
theo nhau.
Chúng ta là như thế đó - một tập hợp
của
những việc xảy ra, của các diễn biến, và bằng cách ý thức
được tiến trình, dòng liên tục
này mà
ta có thể giải thoát ra ngoài ý niệm về một cái Ngã. Chúng ta thấy
rằng,
tất cả những hoạt động này của
thân và
tâm đều là một chuỗi nhân
duyên hiện
hành vô chủ. Tác ý, tư tưởng, cảm giác, cử
động, tất cả đều có liên hệ mật thiết với nhau, tâm là
nguyên nhân
khiến thân cử động, cũng như cảm giác
ở thân
là nguyên nhân cho sự ham muốn và tác ý của tâm.
Thường thường thì chúng ta ăn
trong thất
niệm. Mùi vị đến và
đi một cách thật nhanh chóng. Trong
khi thực
phẩm vẫn còn trong miệng, vì sự ham mê nơi vị giác, tay ta
đưa lên và gắp thêm, không hề ý
thức
được những diễn biến đang xảy ra
trong thân
tâm. Hãy nhai cho xong trước khi lấy thêm. Như vậy, ta sẽ
có thể
cảm nhận được những nhu cầu thật sự
của thân.
Ăn trong chánh niệm, ta sẽ không bao giờ bị bội thực hết.
Trong một tháng tu tập này, chúng ta sẽ làm mọi việc một cách
chậm chạp
để ta có thể theo dõi, quán
xét chúng
một cách cẩn thận. Một khi chánh niệm khai triển rồi, ta có thể
hành
động nhanh hơn nếu ta muốn. Nhưng bây
giờ là
thời gian tu tập. Không có gì để vội vã
cả. Làm mọi việc một cách chậm rãi, với thinh lặng và chánh niệm.
Hãy phối
hợp việc ăn trong chánh niệm vào
sự tu
tập hằng ngày, sao cho công phu thiền quán của ta lúc nào cũng
đưọc liên tục. Từ lúc bạn vừa
mới thức
dậy, qua mọi công việc làm trong ngày, hãy thật tỉnh thức mọi hành
động đều là thiền.
-ooOoo-
Buổi tối thứ chín
NGŨ TRẦN CÁI
Bạn hãy tưởng tượng rằng mình dang đứng
ở
giữa một trận địa, một mình đơn
độc
chiến đấu với ngàn vạn địch
quân. Mặc
dù bị bao vây tứ phía nhưng cuối cùng bạn vẫn chiến thắng.
Rồi
tưởng tượng là bạn chiến đấu những
trận như
vầy hằng ngàn lần nhưng cuối cùng bạn vẫn chiến thắng. Ðức
Phật dạy
rằng thắng vạn quân như vậy ngàn lần, vẫn còn dễ hơn là thắng
được chính mình một lần. Công
việc của
chúng ta khởi sự làm ở đây không phải
là
nhỏ. Hiểu được tâm của mình là
điều khó khăn trên
đời này. Nhưng việc ấy không
phải là
không thể làm được. Có những người đi
trước
ta đã phải đương đầu với vạn
địch quân
này và đã chiến thắng
được chúng vạn lần, họ có để lại cho
chúng ta
một số lời khuyên và hướng dẫn vô cùng hữu ích.
Ðiều trước hết, ta phải biết những kẻ thù của mình là ai. Nếu
không
thấy được chúng, chúng sẽ trở nên
những quyền lực chi phối đáng kể
trong ta.
Nhận diện được chúng, ta sẽ có thể đối diện với chúng một cách dễ dàng
hơn. Trong trận địa tâm ý này,
ta phải
đối phó với năm kẻ thù có
nhiều thế
lực, và học cách nhận diện chúng là điều
thiết yếu đầu tiên, để ta có
thể đi
sâu hơn vào sự hiểu biết về chúng.
Ðức Phật gọi năm kẻ thù ấy
là Ngũ
trần cái, tức là năm điều che bít,
ngăn chận
không cho trí tuệ phát sanh.
1.- Kẻ thù thứ nhất là tham dục tức là sự
đam mê, ham muốn vào những cảm
xúc nơi
thân thể và các đối tượng của chúng. Lòng
tham dục khiến tâm ta lúc nào cũng hướng ngoại, náo
động, mất quân bình, hết
đeo đuổi chuyện này lại
đến sang chuyện khác. Bản tính của lòng
tham dục không gì có thể làm thỏa mãn nó
được. Sự tìm kiếm sẽ là bất tận và vô vọng. Chúng ta
đang vui hưởng một điều gì,
rồi nó
cũng sẽ sanh và diệt như mọi hiện tượng khác, khi ấy ta sẽ trở nên
bất
mãn, và lại đòi hỏi
đi tìm thêm những thú vui mới.
Chỉ
đến khi nào ta chịu chấp nhận
đối diện với lòng tham dục,
bằng không
lúc nào ta cũng sẽ cảm thấy thiếu thốn, luôn luôn muốn
đi tìm một niềm vui mới, một
sự khuây
khỏa nào đó. Lòng tham dục có
nhiều
hình thái khác nhau, nó có thể là một hình ảnh
đẹp, một âm thanh du dương, những mùi
vị ưa thích, một cảm giác êm dịu hay là những ý tưởng say mê. Dính
mắc vào
những đối tượng này, sẽ làm
củng cố
thêm lòng tham của mình. Và cũng chính vì lòng tham, tâm dính mắc,
níu kéo
này mà ta đã tự trói mình vào
bánh xe
luân hồi, sanh tử từ thuở nào đến
giờ. Cho
đến khi nào ta chiến thắng được
lòng
tham dục, ta mới có thể giải thoát ra khỏi
được sự trói buộc của tâm dính mắc và lòng sở hữu của
mình.
2.- Kẻ thù thứ hai là tâm sân hận. Nói chung thì những
tâm giận
dữ, thù ghét, bực tức, khó chịu đều
có chung
một đặc tính là xua đuổi, tiêu
diệt đối tượng của nó. Nó có một
trạng thái
rất là hổn loạn và bạo động.
Trong văn
chương chúng ta thường diễn tả những người đang bị chi phối bởi lòng
tham dục và sân hận, là những người đang
bị
lửa nóng thiêu đốt. Khi ta
đang có một
sự đam mê hay một cơn giận nào, ta thường nói là mình
đang "bừng bừng lửa cháy". Lửa tình
hay lửa sân cũng thế. Trong những tình cảnh này tâm ta
đang bị đốt cháy thật sự, sự khổ đau
rất to
tát.
3.- Kẻ thừ thứ ba là thụy miên. Thụy miên có nghĩa là
tâm làm
biếng, uể oải, ham ngủ nghỉ. Nói tới những tâm tánh này, tôi nghĩ
ngay
đến những con ốc sên, lúc nào
nó cũng
bò một cách lừ lừ, chậm chạp, chẳng có chút năng
lực nào cả. Chúng ta phải cố chiến thắng
được tâm uể oải và lười biếng
này mới
mong thành công được. Chứ bằng không
thì
sẽ chẳng có việc gì là làm xong, chẳng có chuyện gì là rõ ràng cả,
tâm ta
lúc nào cũng cảm thấy mờ mịt và nặng nề.
4.- Tâm chướng ngại thứ tư là trạo hối. Trạo hối có
nghĩa là một
tâm xao động, buồn rầu, lo nghĩ, hối
hận. Một
tâm như vậy thì không thể nào có khả năng
tập trung được. Nó luôn luôn nhảy từ đối tượng này sang một
đối tượng khác, lao chao, không có
chút gì
là chánh niệm. Tâm trạo hối ngăn chận
sự phát
triển của trí tuệ.
5.- Kẻ thù thứ năm là tâm
nghi
hoặc. Lòng nghi ngờ vào giáo pháp, vào con
đường mình theo. Có lẽ tâm
nghi hoặc
là một kẻ thù đáng sợ hơn cả. Trừ khi
ta nhận
diện được nó, tâm nghi hoặc có thể làm cho trí óc của mình
trở nên
vô dụng, ngăn chận không cho ta nhìn
sự việc một cách rõ ràng. Ta nghi ngờ về chuyện ta
đang làm, về khả năng
của chính mình. Từ lúc bạn đến
đây,
chắc thế nào bạn cũng đã
có
những ý nghĩ như "Tôi làm gì ở nơi đây?
Tại
sao tôi tới đây? Phương pháp này khó quá, không thể nào tôi
theo
được?" Những điều ấy là do tâm
nghi
hoặc, một trở ngại rất lớn trên con đường
tu
tập của mình.
Năm điều ngăn chận hay ngũ trần
cái - tham
dục, sân hận, thụy miên, trạo hối và nghi hoặc -
đều là những tâm hành. Chúng
không có
Ngã, không có một bản chất thật sự, chỉ là một chuỗi nhân duyên
hiện hành
vô chủ. Có một ví dụ dùng để diễn tả
ảnh
hưởng của những chướng ngại này, đối
với tâm của chúng ta. Một hồ nước trong. Lòng tham dục
được ví như những màu sắc sặc
sở
được pha vào nước. Nhìn xuống
hồ chúng
ta bị lôi cuốn theo những vẽ đẹp và
sự
phức tạp của màu sắc mà không còn thấy được
đáy. Tâm sân hận khó chịu, thù ghét
được ví như nước sôi. Nước đang sục sôi thì bao giờ cũng
rất là xao
động. Chúng ta không thể nào
nhìn thấu
xuyên qua được. Sự náo động của tâm
gây ra
bởi những phản ứng bạo động của lòng thù ghét, ác cảm là
một trở
ngại rất lớn cho sự hiểu biết. Tâm làm biếng, trì trệ thì cũng
giống như
mặt hồ đang bị phủ kín bởi rong rêu,
một lớp rất dày. Ta không thể nào nhìn xuyên qua lớp rong rêu
để thấy được đáy hồ. Tâm thụy miên
rất
là nặng nề. Còn tâm trạo hối, bất an thì được
ví như mặt nước xao động, xốn xang bởi những luồng gió mạnh. Khi
ta lo
nghĩ, buồn rầu, ta sẽ mất đi khả năng tập trung, an tĩnh để phát
triển
định lực và trí tuệ. Và tâm nghi hoặc thì giống như nước hồ
bị vẩn
đục vì bùn quấy lên. Trí tuệ
của ta
lúc này hoàn toàn bị che khuất vì sự mịt mù, tăm
tối của tâm nghi ngờ.
Có những phương pháp để đối trị
với các
chướng ngại vừa kể, trên con đường
tu
tập của ta. Phương cách đầu tiên là nhận diện chúng, ý thức
được sự có mặt của chúng một cách rõ
ràng trong mỗi giây phút. Nếu tham dục nổi lên, ta phải có ý thức
ngay về
sự có mặt của nó. Ðối với tâm sân hận, lười biếng, bất an, nghi
hoặc cũng
vậy, ta phải nhận diện ngay khi chúng vừa mới khởi lên. Nhận diện,
ý thức
được sự có mặt của chúng, là
một
phương pháp hay nhất, hiệu quả nhất để
đối
trị với những chướng ngại trên con
đường tu tập thiền quán của mình. Ý thức
được sự việc đang xảy ra sẽ dẫn đến
chánh
niệm. Và chánh niệm có nghĩa là không nắm bắt, không xua
đuổi, không nhận đối tượng làm
mình.
Ngũ trần cái hay năm chướng ngại này,
chỉ là những tâm hành không có thực chất và vô thường. Chúng sanh
lên rồi
diệt mất, đến và
đi như mây trên trời. Nếu
chúng ta có
chánh niệm ngay khi chúng vừa khởi lên và không phản ứng theo sự
thúc dục
của chúng, những tâm hành này sẽ đi
qua mà
không gây nên một sự xao động nào
đáng kể. Chánh niệm là một
phương pháp
hiệu quả nhất để đối trị chúng.
Ta cũng có thể dùng một số liều thuốc đặc
biệt để chữa trị năm chướng ngại này, nhất là những khi ta
đang bị chúng chi phối mà
chánh niệm
của ta thì còn quá yếu. Khi tâm ta bị lòng tham dục hoành hành, ta
hãy
quán chiếu về sự vô thường của xác thân này, sự thật là rồi cũng
có một
ngày thân này sẽ trở thành những thây ma. Thời gian trôi qua như
bóng ngựa
qua cửa sổ, chúng ta rồi sẽ bảy mươi, tám mươi hay chín mươi tuổi.
Hàn
San, một nhà tu mà cũng là một nhà thơ cổ Trung Hoa, nhận thức
được những điều ấy như sau:
Một tấm màn làm bằng trân châu,
Treo trước cửa tiền đường.
Bên trong một tiểu thơ yêu kiều, thục nữ,
Dáng nàng đẹp hơn tiên,
trang
đài và quý phái.
Gương mặt nàng hồng tươi, như một trái đào
tiên,
Sương mù mùa xuân phủ ướt gian nhà phía
đông.
Gió thu sang, thổi lồng lộng trống gian tây.
Ba mươi năm sau, tất cả sẽ còn gì,
Thục nữ ấy sẽ gầy khô như xác mía.
Những sự quán chiếu như vậy có khả năng làm
cho lòng tham dục của ta bớt đi, nhất
là
khi phải đối diện với sự cấp bách về
cái chết
của chính mình. Cái chết không phải chỉ xảy
đến cho một số người chọn lọc nào
đó. Phải có cảm thấy được sự gần kề
của cái
chết, thì ta mới biết sự quan trọng, giá trị vô cùng của
giờ phút
hiện tại.
Có một mối tương quan chặt chẻ giữa lòng tham dục của mình và
tánh ham
ăn, mê ngủ. Tiết
độ trong việc ăn uống, ngủ nghỉ sẽ làm
giảm bớt lòng tham dục của mình và tăng
trưởng trí tuệ.
Cũng vậy một cách hay nhất để đối
phó với
lòng thù ghét, giận dữ là nhận thức
được nó, có chánh niệm về nó. Giả sử bạn đang ngồi, bỗng nhiên
bạn
cảm thấy thù ghét một người nào hay một việc gì
đó. Hãy ngồi lại và ghi nhận
"giận,
giận". Không cho nó là mình, cũng không tự trách mình sao lại
giận. Chỉ
cần giản dị quan sát nó. Nó sanh lên rồi sẽ diệt
đi. Sự giận dữ chỉ có tác hại khi nào
ta nuôi dưỡng nó, đồng hóa với nó
"Tôi đang
giận và nó đáng để cho tôi
giận vì
người ấy đã dám
đối xử với tôi như vậy...". Ta có một
con
đường khác, là thay vì bộc lộ sự giận dữ ấy ra một cách mê
muội, ta
có thể chọn cách quan sát nó một cách cặn kẽ. Ta sẽ thấy rằng nó
từ từ mất
đi công năng phá hoại của nó. Một
phương cách
đặc biệt khác để đối trị với tâm sân hận là niệm từ bi.
Niệm từ bi
có nghĩa là phóng tỏa những tư tưởng thương yêu, cầu mong sự an
lạc, hạnh
phúc đến cho tất cả mọi loài,
cho
những người ta thương và cho đến
những người
ta ghét. Ðem những tư tưởng tốt lành
đến cho người ta đang giận, lúc đầu không phải là dễ, nhưng
cuối
cùng ta cũng sẽ làm được. Dần dần rồi
sự giận
dữ sẽ tan biến, tâm ta sẽ êm dịu xuống và trở lại quân
bình. Một
cách thực tiển nhất để đối trị tâm
sân hận là
khi bạn thù ghét một người nào, bạn hãy mua quà biếu họ. Ta không
thể nào
giữ được tâm giận dữ khi ta đem lòng
rộng rãi, cởi mở ra đối xử với người
khác. Nó
có khả năng hóa giải mọi sự căng thẳng, nặng nề có mặt giữa hai bên.
Ðây là một phương pháp thiện xảo để
dập tắt
ngọn lửa sân hận trong tâm ta.
Ta cũng có thể đối trị tâm sân hận
của mình
qua cánh cửa trí tuệ: quán chiếu về luật nhân quả, hiểu
được rằng chúng ta là kết quả
do hành
động của chính mình. Bất cứ
một ai rồi
cuối cùng phải nhận lãnh kết quả tạo nên bởi những hành
động hoặc tốt hoặc xấu của mình.
Nếu
có một người nào đó gây cho bạn một
sự khó
chịu, thay vì giận dữ phản ứng lại, bạn có thể
đem tình thương và hiểu biết
ra mà
đối xử. Bạn hiểu rằng người ấy hành
động vì tâm mê muội, và anh ta
cuối
cùng sẽ hoàn toàn nhận lãnh kết quả gây nên bởi những hành
động không tốt của anh. Ta không cần làm
cho người ấy đau khổ thêm chi
nữa, hãy
lấy lòng từ bi mà làm nhẹ bớt nghiệp xấu gây nên bởi sự mê muội
của anh
ta.
Tâm lười biếng và ham ngủ nghỉ. Cũng vậy, phương pháp hay nhất
vẫn là
nhận diện được nó. Ta hãy quán
sát
tính chất chậm chạp, lười biếng mỗi khi nó có mặt trong tâm. Ði
sâu thẳng
vào nó. Nếu ta quán sát trong chánh niệm, thường thường thì chỉ
trong một
thời gian ngắn, ta sẽ thấy những sự buồn ngủ, lưới biếng biến
đi đâu hết. Có thể ta đang ngồi niệm
thầm
trong đầu "buồn ngủ, buồn ngủ", rồi đột nhiên
đầu óc ta trở nên sáng suốt và
tỉnh
táo một cách bất ngờ. Thường thường khi ta có ý thức rõ ràng, chứ
không
phải đồng nhất với sự buồn ngủ, thì
nó
sẽ đi qua. Nhưng nếu bạn cố giữ chánh
niệm,
chú ý mà vẫn cứ gật gù mãi, thì bạn có thể làm những
điều sau đây. Ðổi vị thế. Nếu
bạn
đang ngồi, hãy
đứng dậy đi bộ một vòng. Nếu
bạn
đang ở trong nhà, hãy
đi ra ngoài một chút. Không
khí tươi
mát bên ngoài sẽ làm bạn tỉnh táo trở lại. Nhìn vào một
điểm ánh sáng trong một thời gian
ngắn, nó có
thể là ánh đèn, ánh trăng
hay ánh sao. Ánh sáng có tác dụng đánh thức bạn dậy. Rửa mặt bằng
nước
lạnh. Hay bạn có thể đi bộ lùi lại. Tâm lười biếng và ham
ngủ nghỉ
cũng vô thường và có thể đối trị được
như mọi
tâm khác. Nhưng nếu bạn đã thử mọi cách mà vẫn còn buồn
ngủ, thì
bạn nên đi ngủ. Ðiều quan
trọng là bạn
cố gắng. Ðừng để mỗi khi cảm thấy
buồn ngủ là
bạn lại nghĩ: "Chắc mình mệt rồi! Thôi đi
nghỉ một chút cho khỏe!" Như vậy chỉ nuôi dưỡng thêm sự
lười biếng
của mình mà thôi. Muốn thắng được trở
ngại này
ta phải biết cứng rắn và nghiêm khắc.
Tâm lo nghĩ và bất an. Cũng vậy, phải có chánh niệm. Quán chiếu
tâm bất
an, nhìn kỷ coi nó biến đổi ra sao!
Nếu bạn
đang ngồi và cảm thấy xao động,
lo
nghĩ, không thể tậptrung được, bạn hãy biến trạng thái xao
động ấy của tâm làm thành
đối tượng thiền quán. Chỉ ngồi nhìn
xem và niệm "bất an, bất an". Quán sát và nhớ
đừng bao giờ đồng hóa với nó. Chẳng có một "ai" bất an hết; tất cả
chỉ là
hoạt động của một loại tâm hành.
Nó
đến rồi đi. Nếu ta duy trì
được chánh niệm, sự lo nghĩ, bất an
sẽ không
động được tâm ta.
Một phương cách khác là gia tăng
định lực,
tập trung tư tưởng vào một điểm
duy
nhất. Ðây là một liều thuốc đặc
biệt
có khả năng đối trị tâm xao động và bất an. Những lúc tâm
động loạn, bạn hãy bỏ hết
những
đối tượng khác trở về chú ý vào
hơi
thở của mình. Giữ tâm chú ý vào một đối
tượng
duy nhất trong một thời gian, khoảng hai mươi phút hay nửa tiếng
để gia
tăng định lực. Ngồi thẳng lưng, không cử động trong một thời gian
cũng là
một phương pháp tập trung rất hay.
Trở ngại cuối cùng là tâm nghi ngờ. Trở ngại này vô cùng lớn
lao, nếu
ta không cẩn thận nó có thể trở thành một bức tường
đồng vách sắt chắn ngang con đường tu
tập của
ta. Có rất nhiều người đã bỏ cuộc vì trở ngại này. Cũng như
mọi
chướng ngại khác, một phương pháp hữu hiệu và thông minh nhất
để đối trị với chướng ngại này
là quán
chiếu nó, nhận diện nó. Khi ta có một sự nghi ngờ trong tâm, hãy ý
thức
được sự nghi ngờ này một cách
trọn
vẹn, nhưng đừng để nó đồng hóa. Tâm
nghi ngờ
không có một thực thể nào hết, không có ngã, không có tôi
hay của
tôi. Nó chỉ là một tư tưởng, một tâm hành. Nếu ta biết quán chiếu
nó mà
không bị nó đồng hóa, những khi có sự
nghi
ngờ khởi lên, ta sẽ có khả năng
ngồi yên
và niệm "nghi ngờ, nghi ngờ", rồi tự nó sẽ biến mất.
Một phương cách khác để đối trị
với tâm
nghi ngờ là có kiến thức và có một sự hiểu biết rõ ràng về
con
đường mà mình
đang theo. Chúng ta không nên
chấp
nhận hay tin tưởng mù quáng về bất cứ một phương pháp nào. Thông
hiểu
được giáo lý của đức Phật trên
bình
diện kiến thức, cũng có thể giúp cho ta giải quyết những nghi ngờ
của mình
một cách hữu hiệu. Khi có một sự nghi ngờ nào nổi lên, ta sẽ có
thể giải
đáp cho nó bằng chính kinh nghiệm và
sự hiểu biết của mình.
Chúng ta thường có một thói quen là hay xua
đuổi và đàn
áp các tâm xấu mỗi khi chúng khởi lên. Tâm đàn
áp, xua đuổi ấy tự nó cũng là
một
chướng ngại. Mỗi hành động đàn
áp là
một hành động nuôi dưỡng, làm
cho kẻ
thù thêm mạnh. Ðó không phải là một thượng sách. Không phê phán,
không
phân tách. Khi những tâm chướng ngại khởi lên, chỉ cần giản dị
quán chiếu
chúng. Chánh niệm có khả năng vô hiệu
quá
chúng. Những tâm ấy có thể tiếp tục khởi sanh, nhưng tâm ta không
động
loạn vì ta không còn phản ứng theo chúng.
Ngày nào tâm ta vẫn còn bi chi phối bởi những chướng ngại vừa
kể, ta sẽ
khó có thể phát triển được trí tuệ và
hiểu biết. Trong những ngày đầu, ta
sẽ cảm
thấy rất nhiều bất an, nghi ngờ và ham muốn, cho
đến khi nào tâm ta tạm yên
xuống.
Nhưng những trở ngại ban đầu không
phải là
những trở ngại cuối cùng. Khi ta có khả năng
quán chiếu sâu hơn, những chướng ngại ấy sẽ lại phát khởi lên.
Nhưng lúc này thì ta đã có
nhiều tự
tin vào những phương cách đối trị của
mình,
nhất là khi ta thấy rõ sự sanh diệt của chúng, những tâm chướng
ngại này
đến rồi sẽ đi. Hiểu được tính chất vô
thường
của chúng, tâm ta lúc nào cũng sẽ giữ
được thăng bằng. Xin hãy luôn luôn duy trì sự liên tục và
tinh tấn
về chánh niệm của mình; chỉ có một tâm an tĩnh và mềm dẽo không
suy chuyển
mới có thể vượt qua được những chướng
ngại này.
Hỏi: Tôi phải làm gì những khi tôi cảm thấy bực mình vì
đã cố gắng quá sức?
Ðáp: Khi bạn cảm thấy căng thẳng
hay là
bực bội vì cố gắng quá, hãy đi ra ngoài
thiên nhiên, nhìn cây cỏ, ngắm trời mây. Thế giới này
đẹp và rộng lớn lắm. Ði dạo
một chút,
thoải mái một chút, nhưng nhớ vẫn giữ chánh niệm và ý thức
được việc mình làm. Chỉ cần
một thời
gian ngắn là không gian chung quanh có thể làm tâm ta dịu êm lại.
Ðức Phật
thường dạy ta nên sống giữa thiên nhiên, vì nó có thể
đem lại một sự an tĩnh cho tâm hồn.
Hỏi: Ðôi khi tôi không thể nào theo dõi
được hơi thở của mình. Tôi phải làm sao?
Ðáp: Những khi tâm ta trở nên an tỉnh, hơi thở cũng sẽ trở nên
rất nhẹ
nhàng. Nếu bạn không còn ý thức được
hơi thở
của mình, bạn hãy chú ý đến
cảm giác
của thân, uy nghi của thân, hay là về chính cái biết của
mình, dù
cho bạn không có một đối tượng nào
rõ
rệt hết. Khi định lực phát triển, sẽ
có lúc
bạn không còn cảm thấy một cảm giác nào hết. Hãy ý thức
được điều ấy. Nó cũng vô thường như
mọi hiện
tượng khác. Hơi thở sẽ trở lại với bạn.
Hỏi: Còn những khi tôi ý thức được
một sự
sợ hãi nổi lên và cố gắng đi tìm
nguyên nhân của nó thì sao?
Ðáp: Bạn có thể làm chuyện đó nếu
bạn
muốn. Nhưng sự tìm kiếm ấy sẽ là bất tận. Phân tách, tìm
hiểu
nguyên nhân không phải là một hành động
xả
bỏ. Sự sợ hãi sẽ còn tiếp tục khởi lên và mỗi lần như vậy
ta lại
phải đi tìm một nguyên do mới.
Với trí
tuệ, hiểu biết ta có thể nhận diện sự sợ hãi và rồi buông bỏ nó.
Chúng ta
không cần phải tìm hiểu nguyên nhân của những khó khăn
của mình để làm gì,
chúng ta
cần phải biết buông bỏ. Thấy được
chúng, ý
thức được chúng, không nhận chúng là mình và buông bỏ
chúng. Chỉ
giản dị có thế thôi. Bí quyết là giữ chánh niêm, ý thức
được những gì
đang xảy ra trong giây phút hiện
tại.
Hỏi: Tôi thường bị mắc kẹt và cho rằng những tâm chướng ngại
này là
mình. Có phương cách nào để chữa bệnh
này
không?
Ðáp: Những thiền sư Tây Tạng có dùng một hình ảnh mà tôi thấy
rất là có
ích lợi. Họ ví tâm mình như là bầu trời xanh bao la, không một gợn
mây.
Mọi hiện tượng của thân và tâm đều
xảy ra
trong bầu trời trong xanh bao la này. Chúng không phải là
bầu trời.
Trời xanh không bị ảnh hưởng chút nào vì những việc xảy ra. Mây
đến rồi đi, gió đến rồi đi, mưa nắng
cũng đến
rồi qua đi, nhưng bầu trời bao giờ cũng trong vắt. Hãy coi
ta ta
như một bầu trời trong bao la, và để
mọi việc
tự đến rồi qua đi. Tâm ta lúc nào cũng an tĩnh, thoải mái,
quan sát
mọi việc xảy ra.
-ooOoo-
Buổi sáng thứ mười
Bài thực tập: QUÁN TÂM THỨC
Một trong những lãnh vực quán niệm là quán tâm thức. Tâm thức
có nghĩa
là tri giác, sự hiểu biết, phân biệt của mình. Một phương pháp tu
tập
chánh niệm là dùng tâm thức của mình làm một
đối tượng để quán niệm. Trong mỗi cử động của thân (sắc), ta đều
có thể
thấy được tâm thức của mình (danh) đi
đôi. Bạn hãy thử an tĩnh tâm mình, và cố nhìn rõ
để thấy được sự phát khởi của tâm
thức cùng
một lúc với cử động của mình.
Ðiều
quan trọng cần nhớ là tâm thức của ta và đối
tượng của nó, lúc nào cũng đi
đôi với
nhau. Ta không thể nào đem
tách rời
tâm thức ra khỏi đối tượng được. Nhưng ta có thể phân biệt được
hai tiến
trình khác nhau, một tiến trình của tâm, còn gọi là danh,
và một
tiến trình của đối tượng còn
gọi là
sắc. Chúng đồng xảy ra cùng
một lúc,
nhưng có hai nhiệm vụ hoàn toàn khác biệt nhau. Nhiệm vụ của tâm
là nhận
định và phân biệt. Tỷ dụ như
khi ta
bước đi, chân ta không có một ý thức nào
hết. Nó chỉ là những yếu tố vật chất hoạt
động với nhau, nặng hay nhẹ là do yếu tố về
đất, cử động là do yếu tố
thuộc về
gió. Biết được những yếu tố này
nhờ
tâm thức của ta. Có một cử động bước
chân đi
và có một ý thức. Song song với cử
động là tâm thức nhận biết về nó. Ðừng cố gắng tìm kiếm tâm
thức
mình một cách chính xác, cũng đừng
ráng định
nghĩa nó cho chắc chắn hay là tìm cách giới hạn nó lại. Nó
có tính
cách trừu tượng và rất tế nhị. Nhưng với chánh niệm, ta sẽ có khả năng
nhận định được tâm thức mình. Bởi tâm thức của ta có tính
cách hơi
mơ hồ, nên nó đòi hỏi một sự
chú ý rất
cao. Nếu sự chú ý của ta dễ duôi hay hời hợt, ta sẽ không thể nào
nhận
thấy được nó một cách rõ
ràng.
Trong những lúc ngồi thiền bạn có thể quay sự chú ý trở vào tâm
thức
của mình. Hơi thở được kinh nghiệm
bằng sự lên
xuống nơi bụng hay ra vào nơi mũi, chỉ là một diễn biến ở thân
(sắc). Sự
nhận biết được nó là nhờ ở tâm
thức
(danh). Khi bạn có được an tĩnh và
tập
trung hãy xoay chánh niệm của mình về quán chiếu nơi chính cái
"biết" ấy.
Ðừng cố gắng tìm kiếm hay đặt để cho
nó một
chỗ nào trong thân ta. Chỉ giản dị chú ý một cách thoải
mái, nhẹ
nhàng những gì đang xảy ra trong tâm
thức của
mình.
Một trong những đức tính dẫn đến
giác ngộ
là Trạch pháp. Trạch pháp có nghĩa là quán xét giáo pháp
nơi mình,
hay nói một cách khác là quán chiếu, tìm hiểu những hoạt
động liên hệ giữa thân và tâm,
danh và
sắc. Ðừng ngại ngùng gì mà không dám sử dụng tâm mình trong lãnh
vực này:
quán chiếu. Nhưng quán chiếu có nghĩa là không dùng
đến ngôn ngữ, tư tưởng hay khái niệm.
Hãy
cố cảm nhận, kinh nghiệm cho được sự
khởi
sanh đồng một lúc của tâm thức cùng với
đối tượng của nó - của danh và
sắc.
Kinh nghiệm này sẽ giải thoát ta ra khỏi sự chấp ngã, chấp vào có
một
người quan sát. Trí tuệ sẽ đến, khi
ta nhận
thức được rằng có sự quan sát nhưng không có người quan sát, có sự
thấy
nhưng không có một chứng nhân nào hết.
-ooOoo-
Buổi tối thứ mười
DŨNG SĨ
Trong sách của Carlos Castenada, Don Juan nói mỗi người chúng
ta cần
phải sống như một dũng sĩ. Hình ảnh một người dũng sĩ rung
động sâu xa với kinh nghiệm thiền
quán. Người
dũng sĩ đối diện với mọi hoàn cảnh của cuộc
đời như là những thử thách,
anh ta
đối phó một cách vẹn toàn mà
không bao
giờ than van hay hối hận. Theo đa số
chúng ta
thì giá trị của mỗi người tùy thuộc vào sự phê phán, chấp
nhận của
những người chung quanh; đối với
người dũng
sĩ, giá trị nằm ở sự toàn thiện của chính mình. Toàn thiện
có nghĩa
là sống trong chánh niệm một cách trọn vẹn và tinh mật. Những gì
ta
đang cố thực hiện ở đây là tự
tìm hiểu
mình, một điều cao quý nhất mà
một
người có thể làm được. Công việc này
khó, hiếm hoi và đòi hỏi một
sự toàn
thiện. Nhưng ta không cần phải bỏ nơi này để
đi đến một sa mạc hoang vu hay một hang động nào
đó trên dãy Hy mã lạp sơn. Ta
chỉ cần
trau dồi những đức tánh tốt nào
có khả
năng đem lại cho ta một sự thức tỉnh
trọn vẹn
trong từng giây từng phút.
Trong câu chuyện Siddhartha, Herman Hesse có kể lại một hình
ảnh rất
đẹp của một người dũng sĩ, hơi khác hình
ảnh của Carlos và Don Juan. Trong chuyện này, Siddhartha kể rằng
sự luyện
tập giúp cho anh có được ba quyền
năng: anh
có thể suy nghĩ, anh có thể chờ đợi và anh có thể nhịn
ăn. Ba đặc tính của tâm, ba đức tính
của một
dũng dĩ. Khả năng suy nghĩ ở đây có nghĩa là sáng suốt,
tỉnh táo,
không hoang mang, bối rối về việc đang
xảy
đến với ta. Trên phương diện thân thể - nó có nghĩa là ý
thức
được oai nghi, hơi thở của mình,
thấy
được những động tác của các hiện
tượng vật
lý, biết điều độ trong sự ăn uống, ngủ nghỉ của mình. Duy
trì sự
cân bằng giữa các năng lực trong
thân. Trên
phương diện tâm thức - nó có nghĩa là ý thức
được tình cảm, tư tưởng và những trạng thái khác nhau trong
tâm.
Không bị lôi cuốn theo cơn lốc xoáy của tư tưởng, lúc nào cũng giữ
được sự an tĩnh, cân bằng trong tâm mình.
Khả năng suy nghĩ của Siddhartha
cũng bao
giờ gồm cả lòng can đảm: không
bị nô
lệ vào thành kiến và những cố chấp của mình. Can
đảm đủ để cởi mở quan niệm của mình
ra
để chấp nhận những điều có thể được
khác.
Siddhartha không bao giờ tin mù quáng vào một
điều gì hết. Anh ta không tin ở
bạn
bè, ở cha mẹ mình, ở các vị thầy hay ngay chính cả nơi
đức Phật. Anh muốn phải tự chính mình
chứng nghiệm được chân lý, và
nhờ
động lực này mà anh
đã can
đảm mở rộng tư tưởng của mình ra khám nghiệm tất cả.
Siddhartha
đã bỏ vào rừng trong vòng ba năm
trời, để tu theo lối khổ hạnh, ép xác, rồi anh ta lại vui sống với
Kamala
một cô gái giang hồ hạng sang, hoặc tham gia vào chốn
thương trường
bon chen, lừa lọc. Anh ta lúc nào cũng sẵn sàng và có
đủ can đảm để chấp nhận thử thách và
bằng lòng với mọi hậu quả. Anh không để
những
sự phân biệt nhỏ nhoi làm nãn chí mình. Khả năng
suy nghĩ bao gồm sự sáng suốt và lòng cam
đảm dùng
để trực tiếp kinh nghiệm, thăm dò và quán sát những sự việc
đang xảy ra.
Lòng can đảm của một dũng sĩ là
một
điều cần thiết, cũng như nó sẽ được
khai
triển trên con đường thiền
quán. Ngồi
với cơn đau của mình mà không tránh né hay trốn chạy,
đòi hỏi một sự can
đảm, dám thẳng mặt đối diện với nó để
vượt
qua nỗi sợ hãi của chính mình. Sự quán chiếu này cần một sự
can
đảm không nhỏ, nhưng nhờ vậy ta mới
có thể
khám phá, hiểu được những sự thật sâu xa của thân và tâm
mình. Lúc
đầu nó sẽ rất là
động loạn, vì những thói quen
thường
ngày của ta bị xáo trộn. Phải can đảm
lắm ta
mới có thể buông bỏ tất cả những gì mà ta hằng nắm giữ cho
sự an
ninh của mình. Hãy xả bỏ, để kinh
nghiệm được
dòng vô thường. Phải có can đảm
ta mới
dám đối diện và đương đầu với
nỗi bất
an căn bản và cố hữu của tiến trình thân tâm. Ðể
đối diện với sự thật, là chúng
ta
đang tàn hoại trong mỗi giây
phút,
không có một nơi nào để ẩn náo. Phải
có can
đảm mới chết được. Kinh nghiệm về sự chết của cái Ngã; kinh
nghiệm
được cái chết trong khi mình
vẫn còn
sống, cần một lòng cam đảm, vô úy của
một đại
dũng sĩ.
Siddhartha có thể suy nghĩ, chờ đợi
và
nhịn ăn. Chờ đợi có nghĩa là
kiên nhẫn
và thinh lặng. Nó có nghĩa là không bị lôi cuốn vào hành
động chỉ vì lòng ái dục. Nếu
chúng ta
không có khả năng chờ đợi, mỗi khi
ham muốn
khởi lên, nó sẽ dẫn đến hành
động. Và rồi ta lại bị trôi lăn
theo vòng bánh xe của ái dục. Ðôi khi người ta thường lầm
lẫn chờ
đợi với lại bất động, không làm
gì cả.
Hoàn toàn không phải như vậy. Trang Tử có viết:
Sự bất động của người trí không
phải là
không làm gì hết. Mà có nghĩa là không tính toán. Nó không bị lay
chuyển
bởi bất cứ một việc gì. Bậc thánh nhân an tĩnh vì họ không
động, chứ không phải vì họ cố ý
làm an
tĩnh. Nước lặng giống như gương... một mặt phẳng hoàn toàn. Nếu
nước thật
trong và thật phẳng, thì tâm của bậc thánh nhân cũng thế. Tâm của
người
trí luôn luôn thanh thản, nó là tấm gương của trời
đất, vạn vật. Vắng lặng, an tĩnh,
thanh
thản... thinh lặng, bất động - đây là lãnh vực của trời
đất. Nó chính là Ðạo. Bậc trí
tìm nơi
đây chỗ an nghỉ cho họ. Khi an nghỉ,
họ sống
vắng lặng.
Chờ đợi có nghĩa là sự tĩnh
lặng
của tâm, trong bất kỳ một hoạt động nào.
Nếu chúng ta cứ lo bận rộn đi "hoằng
pháp",
ta sẽ không có được một cái nhìn rõ ràng, ta sẽ không thể
nhận
được rằng sức mạnh và sự hiểu
biết
phát sinh từ sự thinh lặng, và nhất là ta sẽ không ngừng
được sự đối thoại trong nội tâm của mình,
ta sẽ trở thành tù nhân của mớ văn
tự, chữ
nghĩa. Chúng ngăn chận không cho ta liên lạc với thế giới
chung
quanh một cách cởi mở và tự nhiên. Thế giới chung quanh khác biệt
với
những khái niệm và thành kiến của ta nhiều lắm. Chấm dứt những
đối thoại trong nội tâm của mình
là
khả năng chờ đợi và lắng
nghe.
Chính vì nhờ lắng nghe con tim mình, mà Siddhartha
đã rời cha mình
để đi vào con
đường khổ hạnh, và rồi từ giả
rừng sâu
để trở về với thế giới trần tục của
thương
mại và tình yêu. Nhưng dần dà sự lắng nghe của anh ta bị
trở nên mờ
ám vì những đam mê, khoái lạc
của sắc
dục. Cho đến một lúc anh không còn
nghe gì được nữa. Trong sự tuyệt vọng
cùng
cực, anh ta lê chân đến bên
một dòng
sông, định tự trầm mình. Lúc
ấy anh
bỗng nghe từ dưới dòng sông, từ đáy
hồn anh,
âm thanh "AUM" vang dội. Anh quyết định ở lại với dòng
sông. Vài năm
sau, anh lại bắt đầu biết lắng nghe và biết
đợi chờ.
Siddhartha lắng nghe. Chàng bắt đầu
chú
tâm lắng nghe, miệt mài trong thinh lặng. Chàng hấp thụ tất
cả.
Chàng cảm thấy rằng, bây giờ mình đã
hoàn toàn học được nghệ thuật lắng
nghe.
Những âm thanh này chàng đã
nghe chúng từ xưa, những tiếng gọi khác nhau của dòng sông. Nhưng
hôm nay
chúng mang một vẻ khác biệt. Chàng không còn có thể phân biệt giữa
những
tiếng gọi khác nhau được nữa, tiếng
vui ca
với tiếng than thở, tiếng trẻ thơ với lại tiếng trưởng thành.
Tất
cả đều lệ thuộc vào nhau.
Tiếng than
vãn của nhưng ai sầu khổ, tiếng cười vang của người trí tuệ, tiếng
khóc la
của kẻ phẩn uất và tiếng rên rĩ của người
đang hấp hối. Tất cả đều dựa vào nhau, dính chặt, quấn
quýt,
đan dệt vào nhau trong ngàn
đường lối. Tất cả những tiếng gọi,
những mục
đích, những lời than, những muộn phiền, những niềm vui, mọi điều
ác và
thiện, tất cả đều hòa hợp lại
trong
thế gian này, trong dòng biến cố và âm nhạc của cuộc sống.
Siddartha miệt
mài lắng nghe dòng sông, theo bài ca muôn ngàn tiếng hát, khi
chàng không
chỉ lắng nghe theo tiếng khóc hay tiếng cười, chàng không chỉ lắng
nghe
một âm thanh duy nhất nào, nhưng là lắng nghe tất cả, một thực thể
đồng nhất - khi bài ca của
ngàn tiếng
hát tụ hội lại trong một chữ - trọn vẹn.
Quyền năng thứ ba của Siddhartha là
nhịn ăn. Nhịn ăn ở đây có nghĩa là
buông xả, từ bỏ, nhân nhượng. Nó cũng có nghĩa là năng
lực, tinh tấn và sức mạnh. Sự từ bỏ
đem lại cho tâm ta một sức mạnh và sự thanh nhẹ. Phần
đông thường cho rằng sự buông bỏ hay
nhịn ăn
là nguồn gốc của khổ đau, mà
quên đi sự an lạc, đơn giản mà
nó có
thể đem lại cho tâm hồn. Vì
lúc ấy ta
không còn bị ràng buộc, chi phối bởi những ái dục không cần thiết.
Chúng
ta đâu cần đến một cố gắng siêu
phàm
nào mới có thể thực hành được sự từ
bỏ. Ta
chỉ cần cố gắng vượt qua những lôi cuốn và thói quen thường
ngày mà
thôi. Khi ta thực hành được điều này,
ta sẽ kinh nghiệm được sự thênh
thang,
tươi mát của tâm hồn mình vì đã
từ bỏ
được những dính mắc và quyến
luyến.
Nhịn ăn cũng có nghĩa là sự
đơn giản. Một trong những niềm vui
khi tôi còn
tu tập ở Ấn Ðộ - mặc dù gặp nhiều khó khăn
trong các vấn đề sức khỏe, thực phẩm và tiện nghi - là sự
giản dị
trong cuộc sống của mình. Nó không bị ngăn
trở bởi nhiều việc làm ta nhức đầu
như
ở Hoa Kỳ. Những khách du lịch đi ngang qua thường thắc mắc, không
hiểu nổi
làm sao mà chúng tôi lại có thể "từ bỏ"
được nhiều nhu cầu đến thế - điện,
nước nóng,
tiện nghi, vì họ không hiểu được
sự
thoải mái của một đời sống đời sống giản dị. Từ ở sự đơn giản
trong cuộc
sống của mình, vì không còn chiếm hữu nhiều, dẫn ta
đến một sự toại nguyện và an
lạc.
Nhịn ăn, từ bỏ. Chúng ta có thể
kinh
nghiệm được sự buông bỏ trong cuộc sống của mình qua hành
động bố thí, qua việc giữ giới luật,
qua sự lìa
xa những gì đã hằng trói buộc
ta. Vấn
đề từ bỏ xảy ra trên nhiều
lãnh vực,
không chỉ riêng trong sự liên hệ của mình với những người khác hay
những
vật chung quanh. Ðạo Lão có danh từ "trai tâm"
để diễn tả một hoàn toàn trong
sự từ
bỏ của nội tâm. Trang Tử viết:
Hãy chuyên tâm nhất chí. Ðừng nghe bằng tai, mà nghe bằng
lòng. Ðừng
nghe bằng lòng, mà nghe bằng khí. Ðiều gì mình nghe, hãy
để nó dừng ở ngoài tai, còn
lòng thì
hợp nhất nó lại. Khí, là cái Hư không để mà
tiếp nhận sự vật. Chỉ có sự trống không mới nhận
được Ðạo mà thôi. Sự trai
tâm có
nghĩa là làm trống không mọi quan năng,
tự
do, không còn bị giới hạn và bận tâm. Trai tâm sanh nên
sự chuyên
tâm nhất chí và tự do.
Siddhartha có khả năng suy nghĩ.
Anh ta có
thể chờ đợi. Anh ta có thể nhịn ăn. Ðây là những
đặc tính mà một dũng sĩ sẽ
khai triển,
khi anh ta ý thức được một cách toàn
vẹn con người của chính mình. Khi bạn ngồi, khi bạn
đi, khi bạn luôn luôn hoàn
toàn có ý
thức trong một ngày, đây là
những
đặc tính của sự giác ngộ.
Hỏi: Don Juan có nói về quyền năng
của cá
nhân. Ðiều này có liên hệ gì đến
sự tu
tập?
Ðáp: Sức mạnh của tâm chính là quyền năng.
Không phải một quyền lực dùng để
sai
xử một cái gì bên ngoài, mà là quyền lực của trí tuệ thông
suốt,
của sự hiểu biết. Do Juan có nói rằng dù cho nếu anh có
được nói cho nghe bí mật của vũ trụ này,
nó cũng sẽ là rỗng tuếch đối với anh,
cho đến
khi nào anh có được đầy đủ
quyền năng
của mình. Quyền năng ở đây có
nghĩa là
sức mạnh, sự kiên trì điều đặn, khả
năng quán
chiếu và thấy được chân tướng
của sự
vật. Quyền năng này sẽ khai triển khi
định lực của ta gia tăng. Khả năng quán chiếu sẽ đem đến trí tuệ.
Với sức
mạnh của tâm linh, một chữ thôi cũng có thể mở ra cho ta một trình
độ hiểu biết mới. Trong những khóa tu
như vầy
thì chính sự thực hành đều
đặn, liên
tục sẽ làm phát triển loại quyền năng
cá nhân
đó.
Hỏi: Có dấu hiệu nào trên con đường
tu tập
giúp ta phân biệt được trực giác, trí tuệ với lại sự tưởng tượng
không?
Ðáp: Trực giác phát xuất từ một nội tâm tinh lặng, còn tưởng
tượng là
thuộc về những khái niệm. Hai cái đó
khác
biệt nhau nhiều lắm. Ðó là lý do vì sao mà sự phát triển
trí tuệ
không bao giờ đến bằng sự suy nghĩ về
sự vật.
Nó chỉ đến bằng sự tu tập một nội tâm im lặng, để từ đó mà
một cái
nhìn, một cái thấy sáng tỏ có thể xảy ra. Tất cả mọi phát triển
của trí
tuệ, của sự hiểu biết chỉ xuất hiện vào những khi tâm ta im lặng.
Rồi bất
ngờ: "À, thì ra sự thật là như vậy!" Trong truyền thống Zen của
thiền sư
Hoàng phố, ông có nói về giác ngộ như là một sự hiểu biết
đột ngột, thoát ra khỏi mọi ngôn từ.
Những
trực nhận ấy có một giá trị đặc biệt, vì nó không phải là
sản phẩm
của óc suy nghĩ hay tưởng tượng mà là một sự vỡ lẽ bất ngờ,
đột nhiên thấy
được chân tướng của sự vật.
Hỏi: Trong sự tu tập, việc sử dụng tâm để
thăm dò, quan sát một đối
tượng và
việc ý thức mà không cần chọn lựa một đối
tượng nào, liên hệ với nhau ra sao?
Ðáp: Có nhiều phương pháp phát triển trí tuệ bằng cách chọn một
ý thức
có đề mục. Chúng ta có thể tập trung
sự chú ý
vào các mặt khác nhau của tiến trình, như là oai nghi của
thân thể,
cảm thọ nơi thân hay tâm thức của mình. Chọn
đối tượng như là một phương tiện để
khám sát một lãnh vực đặc biệt
nào
đó, thì rồi nó cũng trở thành
một ý
thức không có sự chọn lựa. Khi ấy hành giả chỉ ngồi yên quan sát
và ghi
nhận những gì đang xảy ra mà
hoàn toàn
không phê phán, quyến luyến hay ghét bỏ. Ðôi khi hành giả quá tĩ
mĩ trong
sự tu tập, cứ luôn tìm kiếm một quy luật để
theo, sợ thực hành sai. Trí tuệ phát xuất từ sự chánh niệm
và tỉnh
thức, cho dù ta có ý thức được điều
ấy hay
không. Không bao giờ có chuyện chánh niệm "sai" hết. Hãy
đào luyện tâm mình,
đào luyện
đức tánh quan sát khám phá này. Hãy nhìn cho thật sâu xa,
để thấy được tư tưởng của mình
sinh
lên từ chỗ trống không rồi tàn hoại vào chỗ trống không. Còn khi
quán sát
cái đau, phải dám trực diện nó. Thực
tập với
một thái độ vô úy, không sợ hãi, không suy nghĩ về một
điều gì, chỉ bằng một ý thức
im lặng.
Tâm ta có thể uốn nắn được rất dễ dàng.
Cũng như một miếng đất sét dùng
để làm chén bát, nó rất mềm
dẻo và
nhồi nắn được. Khi ý thức và
định lực của ta phát triển, tâm ta sẽ
có được
tính cách uyển chuyển và dễ vận dụng như thế. Hãy thám hiểm
tất cả
mọi khía cạnh của tiến trình thân tâm. Khi tôi còn ở Ấn Ðộ, tôi
sống tên
tầng thứ hai của một tu viện. Mỗi ngày tôi thường
đi lên xuống thang lầu nhiều
lần,
những khi ấy tôi hay quan sát cử động
máy móc
của động tác bước lên từng bực thang,
đầu gối tôi chuyển động ra sao, sức nặng của tôi dời đổi như thế nào.
Nó là một tiến trình rất ngộ nghỉnh. Mọi sinh hoạt khác của ta
cũng cần
phải được chú tâm theo dõi kỹ
càng như
vậy. Và cũng có những lúc ta ngồi lại và không làm gì hết, ý thức
mà không
cần chọn lựa một đối tượng nào,
quan
sát những biến chuyển tự nhiên.
Hỏi: Cái tiến trình thân và tâm này, nó bắt
đầu từ lúc nào?
Ðáp: Có một câu chuyện về người bị bắn một mũi tên có tẩm thuốc
độc. Bạn anh ta gọi một vị thầy thuốc
đến để
nhổ mũi tên ra và chữa trị cho anh. Nhưng anh lại nói:
"Khoan
đã, ông
đừng lấy nó ra vội. Tôi muốn biết ai đã bắn mũi tên này,
người ấy
từ đâu đến, mũi tên ấy làm
bằng thân
cây gì, đuôi của nó là lông
của loài
chim nào, màu sắc ra sao..." Lẽ dĩ nhiên người ấy sẽ chết trước
khi anh ta
được trả lời thoả mãn cho
những thắc
mắc ấy. Cũng vậy, đức Phật cho rằng
những câu
hỏi triết học về nguồn gốc vũ trụ, của thế giới, vì sao nó
lại bắt
đầu... thì cũng giống như
những câu
hỏi của người bị tên độc kia. Chúng
ta đang
bị kẹt trong một tình thế bất an, tình thế của ta là một
hiện tượng
thâm tâm luôn bị chi phối bởi những tham, sân, si và
đau khổ. Phận sự của ta là nhổ
đi mũi tên
độc ấy, giải thoát tâm mình ra
khỏi
những tính chất khổ đau kia. Những
câu hỏi có
giá trị là những câu hỏi có thể áp dụng vào những gì ta
đang kinh nghiệm ngay trong giờ phút này.
Hỏi: Tại sao tham dục lại khởi lên
Ðáp: Khi chúng ta tiếp xúc với những vật gì vừa ý, ta muốn bắt
giữ, mà
không hiểu rõ tính chất vô thường của chúng. Vừa khi chúng ta có
chánh
niệm, chú ý đến những gì
đang xảy ra, thấy được sự sanh diệt
của mọi
vật, thì lòng tham dục, nắm bắt sẽ giảm
đi. Chẳng có gì
để ta nắm giữ hết. Tất cả chỉ là
bong
bóng nước. Kinh nghiệm được lý vô
thường, sự
tàn hoại của mọi vật, sẽ đưa
ta đến sự
buông bỏ, một trạng thái không dính mắc. Tất cả đều có được nhờ ở
chánh
niệm, nhờ ở sự toàn vẹn của chính ta.
Trở thành một dũng sĩ là một chuyện vô cùng cao thượng. Chẳng
một ai có
thể làm công việc ấy dùm cho ta được.
Mỗi
người tự mình làm công việc ấy. Hãy ý thức trong mỗi giây
phút, chú
ý đến những gì
đang xảy ra một cách trọn vẹn. Không
có gì
là huyền bí cả, phương pháp tu tập thật là
đơn giản, trực tiếp và ngay thật, nhưng nó
đòi hỏi sự thực tập. Thiền
quán chỉ có
nghĩa là vậy thôi.
-ooOoo-