[04]
Buổi tối thứ thứ mười sáu
NGHIỆP QUẢ
Có một lần, có người hỏi đức Phật,
tại sao
có người sanh ra lại giàu có trong khi những người khác
nghèo khổ,
có người được thân thể khỏe mạnh
trong khi kẻ
khác lại ốm yếu, bệnh tật. Tại sao có người lại đẹp đẽ và
có người
lại xấu xí? Tại sao có người có đông
bạn bè,
trong khi có người lại chẳng có một ai? Cái gì có thể giải thích
được sự sai biệt này giữa mọi
người
với nhau? Ðức Phật trả lời rằng mỗi người đều
là kẻ thừa kế, thừa hưởng những nghiệp quả của chính họ
đã tạo ra trong quá khứ. Thật
ra,
chính vì những việc làm trong quá khứ mà chúng ta sanh ra trong
cõi này.
Cuộc sống mà chúng ta đang kinh
nghiệm trong
giờ phút hiện tại đây, là kết quả huân tập của những việc
ta
đã làm trong quá khứ.
Ðức Phật còn giải thích thêm những hành
động nào sẽ đưa đến những kết
quả ra
sao. Ngài nói những ai giết kẻ khác sẽ bị chết yểu. Những
ai phóng
sanh sẽ có một cuộc đời trường thọ.
Những
người tạo khổ đau cho kẻ khác sẽ sanh ra ốm yếu bệnh tật. Những ai
theo
con đường không bạo động, sẽ có một sức khỏe lành mạnh. Ðức
Phật
dạy rằng, những ai tham lam ích kỷ sẽ có một cuộc sống nghèo khó.
Những ai
biết bố thí, rộng rãi sẽ được giàu
có
sung túc. Ðây chính là sự vay trả luật nhân quả. Mỗi một hành
động sẽ tạo nên một kết quả
đặc biệt.
Những ai buông lỏng trong sự tức giận, luôn luôn sử dụng ngôn
ngữ thô
lỗ, sẽ có một bề ngoài khó coi, xấu xa. Còn những ai thực hành từ
bi,
ăn nói dịu dàng, sẽ có một bề
ngoài
đẹp đẽ, sáng sủa. Chúng ta là
những
người thừa tự các kết quả của hành động
tạo mình
trong quá khứ. Những người hay có hành động
bất hòa, như là tà dâm, trộm cắp, sẽ bị giao du với những
kẻ mê
muội, không có bạn bè nhiều và sẽ không có cơ hội gặp
được Phật pháp. Còn những ai
biết giữ
giới luật sẽ được gặp những hoàn
cảnh
thuận tiện, giao du với những thiện trí thức và
được nhiều sự giúp đở trong cuộc
sống. Những
ai không bao giờ biết thắc mắc về cuộc sống này, không hề
tìm hiểu
tâm mình, cũng không cần để ý phân
tách tự
thể của sự vật chung quanh, sẽ sanh ra ngu si và mê muội.
Còn những
ai biết thắc mắc, tìm hiểu, luôn đi tìm
câu trả lời cho cuộc sống này, sẽ sanh ra là một người sáng suốt.
Tóm lại,
tất cả chỉ là một sự vận hành của luật nhân quả.
Không có ai ở trên trời quyết định
số
mạng, vận mệnh của ta hết. Hiểu được luật nhân quả, ta sẽ có thể
tự tạo
lập số mệnh cho mình. Có những con
đường dẫn ta đến nơi cao thượng, an lạc, cũng có những con đường
đưa ta
xuống chốn khổ đau. Khi chúng ta hiểu được điều này, ta có
được hoàn toàn tự do trong sự
chọn lựa
của mình.
Có bốn loại nghiệp quả chánh tác dụng đến
đời sống chúng ta. Loại thứ nhất được gọi là Nghiệp
tái tạo.
Chúng là sức mạnh tạo bởi những hành động
mà
ta đã làm, có thể quyết
định được cảnh giới cho kiếp sống
tới. Những
hành động này có khả năng
dẫn ta tái sinh vào cảnh giới của người, những cảnh giới
thấp hơn,
hay cảnh giới của trời hoặc của A tu la.
Loại thứ hai là Nghiệp trợ duyên. Ðây là những
hành
động có ảnh hưởng duy trì và
trợ lực
cho nghiệp tái tạo. Thí dụ như ta có được
một
nghiệp tái tạo tốt và được
sanh vào
cảnh giới người. Ðây là một sự tái sanh tốt, vào một cảnh giới có
hạnh
phúc. Nghiệp trợ duyên là những việc làm giúp cho kiếp sống làm
người của
ta được thuận lợi. Chúng duy trì
cho
nghiệp tái tạo được tốt và trợ
lực cho
các hạnh phúc được khởi sanh.
Loại thứ ba là Nghiệp bổ đồng.
Nó có ảnh hưởng ngăn trở nghiệp tái
tạo. Giả
sử ta có những thiện duyên và được
tái
sanh làm con người, nhưng chúng ta lại bị
đủ thứ mọi khó khăn, đau đớn, khổ
cực.
Ðó là ảnh hưởng của nghiệp bổ đồng.
Sự tái
sanh được tốt. Nghiệp dẫn đến sự tái sanh có đầy thiện duyên,
nhưng
chúng bị ảnh hưởng của nghiệp bổ đồng
làm
suy nhược và trở ngại, khiến ta gặp nhiều hoàn cảnh khó khăn.
Nhưng nghiệp bổ đồng cũng có tác dụng ngược lại. Giả sử có người
bị tái
sanh vào cảnh giới súc sanh. Ðây là một nghiệp tái tạo xấu,
vì ta
bị sanh vào một cảnh giới thấp hơn. Nhưng nghiệp bổ
đồng khiến cho kiếp thú đó lại trở nên
rất dễ chịu, cũng giống như những con vật
được nâng niu, chìu chuộng trong xã hội Tây phương. Những
con vật
này đôi khi lại còn
được sung sướng, đầy đủ hơn nhiều
người khác
trên thế giới. Loại nghiệp này có tác dụng làm trở ngại
nghiệp tái
tạo xấu. Nó có ảnh hưởng hai chiều.
Loại nghiệp chót được gọi là
Nghiệp tiêu diệt. Nó có khả năng
tiêu
diệt hoàn toàn năng lực của một
nghiệp khác.
Giả sử bạn bắn một mũi tên vào không trung. Mũi tên bay
theo một
sức đẩy nhứt định nào
đó, và nếu không bị ngăn
trở, nó sẽ tiếp tục bay cho đến khi hết sức rồi sẽ rơi xuống.
Nghiệp tiêu
diệt cũng như một chướng ngại vật chận đứng
sức tiến của mũi tên và làm nó rơi xuống
đất. Có những người bị chết sớm.
Những người
này có thể có nghiệp tái tạo và nghiệp trợ duyên tốt
đệp, nhưng vì một hành
động xấu nào
đó trong quá khứ mà nghiệp
tiêu diệt
đã làm ngưng
đường bay của mũi tên, tiêu
diệt mọi năng
lực của các nghiệp tốt khác.
Trong thời của đức Phật, có một
câu chuyện
có thể thí dụ cho ta thấy sự hoạt động của những nghiệp này.
Có một
người nọ, ông ta cúng dường thực phẩm đến
một
vị A La Hán. Nhưng sau khi dâng thực phẩm lên, ông lại cảm
thấy
tiếc rẻ, hối hận. Chuyện kể rằng trong bảy kiếp liên tiếp, ông ta
được sanh ra làm một nhà triệu
phú nhờ
kết quả của việc cúng dường. Cúng dường cho một bậc giác ngộ
được phước báu rất lớn. Nhưng kết quả
của sự
hối hận, tiếc rẻ là mặc dù ông ta sanh ra giàu có nhưng lúc
nào
cũng keo kiệt, hoàn toàn không hưởng được
sự
sung túc của mình. Những nghiệp khác nhau
đem lại những kết quả khác nhau, tùy
thuộc vào trạng thái tâm của ta lúc ấy.
Nghiệp tái tạo rất quan trọng và cần được
hiểu rõ, vì nó có tác dụng quyết định
cảnh giới tái sanh của ta. Ðây là loại nghiệp hoạt
động rất mạnh trong giây phút cuối cùng
của sự sống. Trong giây phút lâm chung này, có bốn loại nghiệp có
thể khởi
lên:
- Thứ nhất là Trọng nghiệp, có thể là thiện hay
ác. Trọng
nghiệp thuộc về ác có năm thứ, được
gọi là
ngũ nghịch đại tội là: giết
cha, giết
mẹ, giết một vị A La Hán hay gây thương tích cho
đức Phật và chia rẽ Tăng
chúng. Một trong ngũ tội có khả năng vượt lên trên mọi hành
động trong quá khứ và quyết
định việc tái sanh. Chúng chắc chắn
sẽ sanh
quả. Những trọng nghiệp thuộc về thiện là kết quả của người
đã đạt
được trạng thái thiền định và họ giữ
được cho đến khi lâm chung. Kết quả của nghiệp này là
được tái sinh vào cảnh giới
của Trời.
Trọng nghiệp bao giờ cũng giữ một địa
vị ưu
thế hơn mọi loại nghiệp khác. Những trọng nghiệp khác thuộc về
thiện là
kết quả của những giai đoạn giác ngộ
khác
nhau. Chúng không quyết định chắc chắn cảnh giới tái sinh của ta,
nhưng
điều chắc chắn là nó se đi lên.
Chúng ngăn chận sự tái sanh vào
những
thế giới thấp kém.
- Những loại nghiệp không có một trọng nghiệp nào
để làm
điều kiện tái sanh thì được
gọi là
Cận nghiệp, tức là nghiệp tạo bởi những hành vi cuối
cùng
trước khi lâm chung. Nói một cách khác hơn, trong giờ phút lâm
chung, nếu
ta chợt nhớ đến những việc làm
thiện,
hay có ai nhắc nhở ta về những việc làm thiện, hoặc là ngay trước
khi lâm
chung ta làm một điều gì tốt,
chúng sẽ
trở thành nghiệp quyết định sự tái
sinh của mình.
Trong thời đức Phật, có một tên
sát
nhận sắp sửa bị treo cổ, lúc ấy hắn chợt nhớ lại trong
đời có một lần hắn đã dâng
đồ ăn cho ngài Sariputra, một
đại đệ tử của đức Phật. Tư tưởng chót
của anh
ta trước khi chết là về món quà này. Mặc dù trong suốt cuộc
đời, anh ta đã làm biết bao
nhiêu
điều tội lỗi, nhưng kết quả của tư
tưởng lành
cuối cùng đó đã giúp anh
được tái sinh lên cõi trời. Và
nó cũng
có một tác dụng ngược lại. Nhưng chúng ta
đừng nghĩ rằng những nghiệp thiện, ác tích lũy bấy lâu nay sẽ
không theo
ta. Nó chỉ có nghĩa là cận nghiệp, tức những hành
động, những tư tưởng trong giờ lâm
chung, có
kết quả ưu tiên. Nó quyết định
sự tái
sinh của mình. Nhưng thường thì trong giờ phút lâm chung,
tâm ta
rất là tán loạn, sợ hãi, tập trung tâm mình
để chỉ nghĩ về những sự việc, hành
động thiện của mình không phải là một chuyện dễ làm.
- Nếu không có cận nghiệp, thì Thường nghiệp sẽ
hiện
diện. Những hành động lập đi, lập lại
nhiều
lần, những thói quen sẽ xuất hiện trong giờ phút lâm chung. Nếu có
một
người nào tạo nhiều nghiệp sát sanh, những tưtưởng ấy sẽ
xuất hiện
trong giờ phút cuối, vì là kết quả của thường nghiệp. Hoặc nếu có
một
người nào đó đã làm nhiều việc
thiện,
rất rộng rãi, hay đã ngồi
thiền nhiều
lần, trong giờ phút chót anh ta sẽ có thể nhớ lại những hành
động ấy hay thấy lại một hình
ảnh mình
đang ngồi thiền trên một tọa
cụ. Và nó
sẽ trở thành nghiệp quyết định sự tái
sinh kế
tiếp của ta.
- Nếu không có trọng nghiệp, không có cận nghiệp, cũng không có
một
thường nghiệp vững mạnh nào thì Nghiệp tích trữ sẽ
xuất hiện
để hướng dẫn sự tái sinh của mình.
Nếu
cuộc đời chúng ta chỉ là một
chuỗi dài
vô tận của những hành vi thiện, ác lẫn lộn, thì bất cứ một hành
động nào trong quá khứ cũng có
thể
khởi lên được trong giờ phút lâm
chung.
Một thí dụ cho sự hoạt động của
những
nghiệp này là một đàn
bò
được nuôi lẫn lộn trong một vựa thóc.
Buổi
sáng khi mở cửa, con bò ra đầu
tiên
sẽ là một con bò khỏe mạnh nhất. Nó chen lấn, thúc
đẩy những con khác qua một bên
để được ra trước. Giả sử không có một
con bò
nào là khỏe mạnh nhất. Thì con ra trước nhất có thể là một con bò
sữa,
đứng cạnh cửa chuồng. Nó chỉ cần nhẹ
nhàng
tách mình đi ra. Rồi nếu thí dụ như
chẳng có
một con nào đứng gần ở cửa
chuồng cả,
thì con bò ra trước sẽ là con bò vẫn có một thói quen hướng
dẫn
những con khác. Và nếu như chẳng có con bò nào có thói quen
đó, thì bất cứ con bò nào
trong
đàn đều
có thể là con ra trước. Nghiệp lực cũng hoạt
động tương tự như thế vào giây
phút
chót: Trọng nghiệp, Cận nghiệp, Thường nghiệp và Tích trữ nghiệp.
Có một yếu tố để giữ cho ta lúc nào
cũng tiến về sự thanh nhẹ, hạnh phúc và an lạc,
đó chính là chánh niệm. Chánh
niệm có
ảnh hưởng đến kết quả của Trọng
nghiệp, vì
yếu tố giác ngộ. Chánh niệm cũng có ảnh hưởng
đến kết quả ở Cận nghiệp. Nếu chúng ta có ý thức một cách sâu sắc,
thì
dù trong giờ phút lâm chung, tâm ta lúc nào cũng
được quân bình và không bị chi
phối
bởi những sự bất thiện. Chánh niệm cũng là Thường nghiệp. Nếu
chúng ta
thực tập mỗi ngày một cách chuyên cần, chánh niệm sẽ tự
động khởilên trong giây phút
lâm
chung. Ý thức chánh niệm mà chúng ta đang
tu
tập ở đây, nó là một năng lực
vô cùng
quan trọng. Chính nó sẽ là một yếu tố quyết
định nơi loại nghiệp hoạt động trong giờ phút lâm chung.
Hỏi: Những sinh linh ở các cõi thấp hơn chúng ta có tạo nghiệp
không?
Thí dụ như một con chó có thể tạo nghiệp vì sự hiền lành, dễ
thương hay
hung dữ, bạo động của nó không?
Ðáp: Ai cũng tạo nghiệp cả, loài thú cũng vậy. Bạn có thể thấy
những
con vật rất dữ tợn. Bạn có thể thấy được
sự
sợ hãi, giận dữ, thù ghét ở nơi chúng. Cũng có những con
vật rất
đẹp, dễ thương, thoải mái. Tất cả đều
tùy
thuộc vào phẩm chất của tâm.
Hỏi: Có nghiệp chung cho một gia đình
không?
Ðáp: Có một loại nghiệp được gọi là
Cộng nghiệp. Thí dụ như một quốc gia theo một chánh sách nào
đó, sẽ tạo nên một cộng nghiệp
cho
quốc gia ấy. Chúng ta chịu chung nghiệp với những người khác, nếu
chúng ta
chấp nhận hành động của họ. Nếu chúng
ta có
tư tưởng chấp nhận việc làm của một người nào, thì nghiệp
lực sẽ
phát sinh. Bạn có thể thấy rõ điều này
vào thời chiến tranh. Những ai ủng hộ cuộc chiến sẽ phải cùng nhau
chia xẻ
nghiệp ấy. Còn những người không chấp nhận, sẽ tránh khỏi việc
chịu chung
cộng nghiệp đó. Khi còn ở Ấn
Ðộ, tôi
có quen một người bạn từ Hòa Lan. Anh ta kể lại chuyện gia
đình anh trong kỳ thế chiến
thư hai
vừa qua. Anh nói rằng, không hiểu vì sao gia
đình anh lúc nào cũng có đầy
đủ thực
phẩm. Mặc dù cả nước đang ở
trong một
tình trạng khủng hoảng, thiếu thốn thực phẩm, nhưng
đây đó vẫn có một số người không phải
chịu
chung một hoàn cảnh đó. Bạn có
thể
thấy được ảnh hưởng của công nghiệp trên những người không
tham dự
hay ủng hộ đường lối bất thiện của
một quốc
gia, một nhóm; họ không chịu chung một số mệnh. Và những
người tán
thành các hành động, chính sách nhân
đạo sẽ
huân tập được những thiện nghiệp về sau.
Hỏi: Nhiều khi những dành từ và thí dụ ông dùng làm cho tôi lộn
xộn.
Ðáp: Dẹp qua một bên những thí dụ. Hãy đi
thẳng vào mà kinh nghiệm thế nào là chánh niệm. Khi có một
tư tưởng
khởi lên, bạn có hai sự chọn lựa: tư tưởng có thể khởi lên rồi bạn
hoàn
toàn bị nó lôi cuốn theo, không còn ý thức
được mình đang nhgĩ gì.
Hay là
có sự hiện diện của chánh niệm và ý thức được
rằng có một tiến trình tư tưởng đang
hoạt động. Mỗi khi có chánh niệm, đối với tư tưởng hay bất cứ một
đề mục nào,
chúng sẽ đến rồi đi, nếu được ý thức
một cách
rõ ràng, tâm ta sẽ giữ được
quân bình
sau khi đó.
Với tất cả những danh từ, chữ nghĩa mà tôi dùng có người lãnh
hội
được, có người không điều đó không
quan
trọng. Hãy dùng những danh từ, ý niệm nào giúp bạn làm sáng
tỏ
được vấn đề, còn lại thì cứ bỏ
hết.
Chỉ có kinh nghiệm được những gì
đang xảy ra mới là quan trọng,
chứ
không phải mê tín, chấp nhận vào những điều gì
người khác nói. Trí tuệ phát xuất từ một nội tâm thinh lặng, chứ
không
phải qua những lời phân tích, bàn luận về các chuyện
đang xảy ra.
Hỏi: Nhưng mà nhiều khi người ta ăn
một
cái bánh vì bề ngoài, màu sắc của nó.
Ðáp: Cứ việc dùng bề ngoài, bất cứ màu sắc nào hấp dẫn bạn.
Nhưng nhớ
phải ăn cái bánh! Có một câu chuyện
sau đây:
Có một ông giáo sư đại học nọ đi
biển trên
một chiếc tàu nhỏ. Một đêm nọ
ông
đi gặp người thủy thủ già và
nói:
- Này ông già kia, ông biết gì về Ðại dương học?
Người thủy thủ già thật ra chẳng hiểu danh từ
đó có nghĩa là gì. Ông giáo sư
nói:
- Ông thật đã phí một phần
tư cuộc
đời mình! Sống cả
đời trên biển mà lại không
biết gì về
Ðại dương học.
Ðêm kế đó, ông giáo sư lại đi tìm
người thủy thủ già và nói:
- Ông già kia! Ông biết gì về Khí tượng học?
Một lần nữa, ông thủy thủ già cũng chưa từng nghe danh từ
đó bao giờ.
- Môn học về thời tiết đó!
- Vậy à, thật ra tôi chẳng biết gì về môn
đó cả.
- Vậy là ông đã phí cả nửa
đời mình rồi!
Ðêm kế đến, ông giáo sư lại đi tìm
người thủy thủ già, nói:
- Ông biết gì về Thiên văn học?
- Tôi không biết gì cả.
- Ông đi biển cả đời, ông cần
những vì
sao để định phương hướng mà
ông lại
không biết gì về Thiên văn học cả.
Ông thật đã
hoang phí cả ba phần tư đời mình
rồi!
Uổng thật.
Ðêm hôm sau, người thủy thủ già vội vã đi
tìm ông giáo sư già và nói:
- Giáo sư, ông biết gì về Bơi lội học?
Ông giáo sư lắc đầu:
- Tôi không biết gì hết, tôi chưa có học bơi bao giờ cả.
- Ồ, vậy thì tội nghiệp cho giáo sư quá, tàu
đang chìm! Giáo sư
đã hoang phí cả cuộc
đời mình rồi!
Chỉ có môn Bơi lội học mới thật sự là quan trọng.
-ooOoo
Buổi tối thứ mười bảy
Bài tập: HÔN TRẦM
Mỗi khi có một cơn đau xuất hiện ở
đâu đó
trong thân, ta thường có khuynh hướng phản ứng bằng cách căng
thẳng những
bắp thịt ở một nơi khác. Vì vậy thỉnh thoảng ta nên buông
thư, thả
lỏng toàn thân, từng bộ phận một, buông thả sự căng
thẳng tích tụ vì những phản ứng sâu kín
đối với các cảm giác khó chịu. Nhờ
vậy ta có
thể tiếp tục ngồi lại mà quán chiếu các hiện tượng một cách
dễ dàng
hơn.
Hãy lợi dụng những quyết định về
các giờ
ngồi yên của mình, để ngồi một
giờ mà
hoàn toàn không cử động hay nhúc
nhích. Sự
cương quyết này sẽ làm gia tăng
sức
mạnh của tâm trên nhiều lãnh vực khác nhau. Sự tinh tấn và năng
lực sẽ được thêm vững mạnh, và sự yên lặng của thân sẽ làm tăng
trưởng định lực và chánh niệm. Thông thường thì thân ta có
phản ứng
đối với mọi cảm giác hay cảm thọ khó
chịu, dù
chúng thật nhỏ nhặt, bằng cách nhúc nhích thân thể. Nhưng chúng ta
ít khi
ý thức được tiến trình
đó: cảm thấy hơi khó chịu, cho nên
đổi tư thế một chút. Bằng cách cương
quyết
không cử động trong một giờ đồng hồ, chúng ta sẽ không thể nào
trốn
chạy, bị bắt buộc phải ý thức những giây phút khó chịu ấy và những
phản
ứng của ta đối với chúng. Bạn cũng có
thể
tăng những giờ ấy lên. Nếu bạn thấy nó trở nên dịu dàng,
hãy quyết
định ngồi lâu hơn.
Khi định lực phát triển, đôi khi
tâm ta có
thể bị đi vào một trạng thái dễ chịu giống như mê ngủ. Ðây
chính là
hôn trầm. Bạn có thể ngồi được thật
lâu trong
trạng thái này. Hãy tỉnh thức, đừng
đẻ
chánh niệm của ta bị xao lãng. Khi nào bạn cảm thấy mình
đang đi vào một trạng thái hôm
trầm,
hãy cố gắng gia tăng chánh niệm, để
ta lúc nào
cũng ý thức được những gì
đang xảy ra trong giờ phút hiện tại.
Ðược như vậy, trí tuệ sẽ khai triển, ta sẽ kinh nghiệm
được tức khắc sự sanh diệt của tư
tưởng, của
cảm thọ, hơi thở, những trạng thái của tâm thức. Ðừng
để tâm mình rơi vào một trạng
thái hôn
trầm. Ðiều này có thể xảy ra khi ta ngồi yên quá lâu. Hãy giữ
chánh niệm.
Ðó chính là căn bản của trí tuệ. Phải
luôn
luôn giữ một ý thức sáng suốt.
-ooOoo-
Buổi tối thứ mười tám
SỰ TRONG SẠCH VÀ HẠNH PHÚC
Mark Twain có kể câu chuyện về một người
được sanh lên thiên đàng.
Khi
anh ta đến nơi, người ta ban cho anh
một đôi
cánh và một cây thụ cầm. Những ngày
đầu, anh dùng đôi cánh của mình
để bay đi đây đó, và mỗi khi
muốn nghe
nhạc trên cõi trời, anh chỉ cầm cây thụ cầm của mình lên gảy.
Nhưng sau
một thời gian, cả hai thứ ấy trở thành một gánh nặng cho anh. Cuối
cùng
anh khám phá ra rằng trên trời mình không cần
đến đôi cánh để đi đây đó, và chỉ cần khởi ý muốn, là tự
nhiên
những nhạc công trên trời sẽ hiện ra và bắt
đầu hòa tấu nhạc cho mình nghe. Sau cùng anh ta bỏ
đôi cánh và cây thụ cầm xuống,
và anh
thật sự bắt đầu vui chơi.
Cũng vậy, chúng ta đôi khi tự giới
hạn
chính mình bằng những ý niệm về vấn đề
trong sạch và hạnh phúc. Chúng ta tự mang lên trên người
những
đôi cánh, cây đàn, hào quang
không cần
thiết, khi nghĩ rằng hạnh phúc có nghĩa là phải có một cái gì hay
là phải
hành động theo một đường lối đặc biệt
nào
đó. Khi chúng ta dẹp qua một bên
những
quan niệm hẹp hòi của mình, ta sẽ có thể bắt
đầu kinh nghiệm được những niềm vui sâu xa hơn.
Có nhiều loại hạnh phúc khác nhau, chúng tùy thuộc vào mức
độ trong sạch của mình. Sắc
dục hay là
thú vui qua các giác quan là loại hạnh phúc
đầu tiên mà ta có thể cảm nhận được:
nhìn những cảnh đẹp, nghe
những âm
thanh êm tai, ngữi nếm những mùi vị thơm ngon, có những cảm
giác
thoải mái. Là con người, chúng ta ai cũng đã
nhiều lần được hưởng những thú vui này.
Mặc dù chúng chỉ tạm bợ, nhung chúng cũng đã
đem lại cho ta một phần nào
thú vị,
hạnh phúc thoải mái.
Lại còn có một loại hạnh phúc sắc dục cao quý hơn
được tả lại trong kinh sách, về những
cõi
trời, nơi mà mọi vật đều tuyệt mỹ và
tươi mát. Dân chúng ở đây có thân làm
bằng ánh sáng, không bao giờ biết đau
đớn hay
khó chịu. Mọi thú vui ham muốn đều được thỏa mãn. Nơi
đây có những lâu đài làm bằng
ngọc
quý, có những nhạc công thiên thần, cùng tiên thánh và các hàng bồ
tát.
Kinh nói rằng đức bồ tát Di Lặc, vị
Phật
tương lai, hiện đang ngự trị ở một cõi trời như vầy và
đang thuyết pháp cho dân ở đó nghe.
Hạnh phúc
ở cõi thiên thứ thuộc vào loại cao quý hơn.
Con đường đưa đến hạnh phúc trong
sạch
trong cõi Dục giới là những hành động
trong sạch,giai đoạn đầu tiên của sụ tinh luyện. Những hành
động trong sạch có nghĩa là
thực hành
bố thí, trì giới, không chạy theo tham, sân, si. Những hành
động trong sạch này là nhân
sanh những
quả tốt lành, hạnh phúc, để cho ta
được hưởng
thụ cả trong hai cõi người và trời.
Có một loại hạnh phúc cao hơn cả hạnh phúc của cõi trời. Ðó
chính là sự
hạnh phúc và an lạc của thiền định.
Khi tâm
ta đã phát triển được một định
lực cao
độ, nó sẽ có một niềm an lạc siêu diệu, vượt lên trên mọi
khoái lạc
về sắc dục. Tâm ta lúc ấy không còn chạy theo những
đối tượng của các giác quan và
hoàn
toàn bị thu hút vào một đề mục duy
nhất. Hạnh
phúc này vững bền hơn những khoái lạc của các giác quan vì
những
hạnh phúc của sắc dục đến và
đi rất mau chóng.
Có những trạng thái của tâm, có thể đạt
đến qua sức mạnh của thiền định, gọi là cõi Phạm, thiên hay
cõi của
Tứ Vô Lượng Tâm. Chúng có tên gọi như vậy là vì phẩm chất của tâm
lúc
đó tương đương với cõi trời
Phạm
Thiên, một thế giới cao tột nhất mà ta có thể kinh nghiệm
được.
- Vô lượng tâm đầu tiên là
lòng
đại Từ. Từ ở đây không có nghĩa là
lòng thương người vì sự quyến luyến hay vì chiếm hữu, mà là một
tình
thương phát xuất ở một lòng đại từ,
muốn cho
chúng sanh khắp mọi nơi đều được an lạc và hạnh phúc. Ở
trạng thái
này, tâm ta có một định lực rất mạnh,
nó có
khả năng phóng tình thương vô tận của mình
đi khắp mọi phương hướng.
- Vô lượng tâm thứ hai là lòng đại
Bi, có
nghĩa là lòng thương xót mọi loại đang
bi đau khổ - muốn làm vơi đi
những nỗi
khổ của kẻ khác.
- Vô lượng tâm thứ ba là lòng Hỷ, có nghĩa là chia xẻ nỗi mừng
với hạnh
phúc, an lạc của kẻ khác, cảm thấy người khác
được hạnh phúc mà mình cũng cảm thấy
được vui lây. So với thói thường là, ngược lại, người ta
thường hay
ghen tức, cạnh trạnh với hạnh phúc của kẻ khác. Một tâm biết hân
hoan với
niềm vui của người khác thì sẽ tỏa sáng và thanh nhẹ.
- Vô lượng tâm cuối cùng là lòng Xả, có nghĩa là một tâm quân
bình,
hoàn toàn không bị chi phối bởi những thăng
trầm, buồn vui của cuộc đời. Một tâm lúc nào cũng giữ
được sự quân bình và an ổn.
Hạnh phúc của Tứ Vô Lượng Tâm: Từ, Bi, Hỷ, Xã, sẽ xuất hiện khi
định lực của ta được phát triển đầy
đủ. Cũng
như là sự trong sạch của phẩm hạnh tùy thuộc vào hành
động, sự trong sạch của tâm tùy
thuộc
vào định lực của ta.
Nhưng còn có một niềm hạnh phúc to tát bội phần hơn cả cõi Phạm
Thiên,
là của thiền định. Ðó là hạnh
phúc của
Vipassana, hạnh phúc của trí tuệ. Tâm thức đó
có khả năng quán chiếu, thẳm thấu vào tự thể của mọi vật,
kinh
nghiệm được sự sanh diệt của mọi hiện
tượng
một cách rõ rệt. Hạnh phúc của Vipassana bao giờ cũng siêu
việt hơn
tất cả, vì trong nhận thức sáng suốt hành giả
được nếm mùi vị của tự do, giải thoát. Không phải chỉ
đắm chìm trong những khoái lạc
của sắc
dục, cũng không phải chỉ bị thu hút vào trong một trạng thái an
vui của
thiền định. Niềm hạnh phúc ở đây là
của trí tuệ, khi tâm ta trở nên rực rỡ và tri giác tỏa chiếu sự
trong sáng
của nó. Ðây cũng giống như khi ta lau chùi một ly thủy tinh cho
đến khi nó chiếu sáng lấp lánh. Bằng
sự tu
tập chánh niệm, của Vipassana, tâm ta cũng có thể đạt đến một sự
rực rỡ
như vậy, và hưởng được niền an
lạc vô
biên bắt nguồn từ một trí tuệ thâm sâu.
Có một giai đoạn tinh luyện, gọi là
quan niệm chân chánh, có thể làm khởi lên hạnh phúc Vipassana.
Quan niệm
chân chánh ở đây có nghĩa là
thoát ra
khỏi được ý niệm về một cái Ngã,
mê
chấp rằng ta có một tự thể riêng biệt. Thật ra chúng ta chỉ là một
quá
trình diễn tiến của thân và tâm, luôn hoạt
động và chuyển biến. Có một lần đức
Phật giảng một bài pháp gọi là "Tất cả". Bài kinh có tên
"Tất cả"
vì ngài diễn tả mọi hiện tượng trong vỏn vẹn sáu câu: "Mắt và
đối tượng của mắt. Tai và âm
thanh.
Mũi và mùi hương. Lưỡi và vị nếm. Thân và cảm giác. Tâm thức và ý
niệm hay
những đối tượng của nó".
Tất cả chỉ có vậy, ngoài những điều
ấy
không còn gì khác hơn nữa. Ðức Phật thường hay nói rằng, cả
thế
giới này chỉ hiện hữu trong phạm vi tâm thân dài mấy thước này mà
thôi.
Hiểu được các giác quan căn bản và
những đối tượng của chúng, là
ta hiểu
được sự sanh diệt liên tục của
sáu
thức: nhản, nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ý thức, khi
đối diện với các đối tượng của chúng là
sáu trần. Cả vũ trụ của ta chỉ là một tập hợp của những chuỗi liên
tục,
xảy ra thật lẹ, của các sự nghe, thấy, ngữi, nếm, cảm giác và kinh
nghiệm
những ý niệm khác nhau. Chỉ có sáu đối
tượng
và sáu thức để nhận biết
chúng: chúng
ta chỉ là một tiến trình liên tục này. Những sự kiện ấy
chẳng xảy
đến cho một cá nhân nào hết.
Không có
một tự thể riêng biệt nào để ta có
thể gọi
rằng: "cái này chính là tôi", bởi vì mỗi thức và
đối tượng của nó sanh lên và
diệt
đi trong từng khoảnh khắc.
Ðức Phật có diễn lại giáo lý này một cách thật cô
đọng như sau: Trong cái thấy, chỉ có
cái bị
thấy; trong cái nghe, chỉ có cái bị nghe; trong cái cảm giác
(ngữi, nếm,
đụng chạm) chỉ có cái bị cảm giác; trong cái suy nghĩ chỉ có cái
bị suy
nghĩ". Không có gì ngoài những điều
đó
hết, hoàn toàn không có một cá nhân nào
để cho nó xảy đến.
Nghe, thấy, ngữi, nếm, cảm giác ở thân, ý thức. Hiện hữu của ta
chỉ là
một sự liên tục của sáu tiến trình này. Chúng ta
đặt tên cho sự vật rất nhiều.
Có vô số
ý niệm để diễn tả những kinh nghiệm
của mình.
Nhưng mắt ta chỉ thấy màu sắc và hình dáng, nó không thấy cái "tên
gọi".
Chúng ta chỉ nghe âm thanh. Chúng ta đặt
tên
cho những âm thanh khác khau, nhưng thật ra chúng chỉ là sự rung
động trong không khí chạm vào
lỗ tai,
khiến cho nhĩ thức khởi sanh lên. Một liên lạc giản dị giữa nhân
và quả.
Chẳng có ai ở đó. Sự việc xảy ra quá
nhanh
chóng, chúng gieo cho ta một ảo giác là những việc ấy xảy
đến cho một người nào. Khi tâm
ta yên
lặng, ta sẽ bắt đầu kinh nghiệm được
sự tinh
luyện trong nhận thức của mình, ta sẽ thấy rằng cái ta của
mình chỉ
là một tiến trình của thức và trần, thoát ra ngoài ý niệm về một
tự thể
riêng biệt. VÀ khi sự tinh luyện được
thâm
sâu, chúng ta sẽ trở thành là một với dòng biến chuyển,
thay vì u
mê đi níu kéo, chấp vào nó.
Quan niệm
chân chánh có nghĩa là có một ý thức rõ ràng, nhìn sự vật bằng
chân tướng
của nó, một bắt đầu cho cái nhìn
biến
thể. Ðây chính là hạnh phúc đầu tiên
của mùi vị giải thoát.
Hiểu được tự thân của sự vật là
cánh cửa đi vào một hạnh phúc
cao tột
nhất: niềm vui của Niết bàn, giác ngộ. Nơi
đây có một sự an tĩnh, nghỉ ngơi, tươi mát vượt ra ngoài
tiến trình
thân tâm. Và một điều huyền diệu của
giáo
pháp nữa là, mọi loại hạnh phúc sẽ xảy
đến với ta khi ta hướng về sự tự do cao tột nhất.
Hỏi: Ông có thể diễn tả hạnh phúc của Niết bàn
được không?
Ðáp: Niết bàn có ba thứ hạnh phúc: Các hạnh phúc này
được coi như là những niềm vui
khác
nhau, phát xuất từ sự hoàn toàn chấm dứt khổ
đau.
Khi tôi còn ở Ấn Ðộ, chúng tôi sống trên
đỉnh một ngọn núi, và cách đó
một
khoảng chừng nửa tiếng đi bộ, phía dưới một dốc núi khá cao, là
một
khu chợ trời. Ở đây đa số hàng
hóa
đều được chuyên chở bằng cách
mang vác
trên lưng. Có một số các bà lão người Tây Tạng, mang trên lưng
những thân
cây thật to, leo lên núi mỗi ngày. Họ lê từng bước, uốn cong người
xuống,
vác gánh nặng trên lưng đi lên
dốc.
Bạn hãy tưởng tượng đến sự nhẹ nhàng,
thoải mái của họ khi lên đến nơi và
bỏ
gánh nặng xuống! Một cảm giác thư thái vô cùng, khi ta có thể trút
bỏ
đi gánh nặng ấy.
Hạnh phúc của Niết bàn là trút bỏ được
gánh nặng của khổ đau. Ðây là một hạnh phúc cao tột nhất.
Hiểu
được con đường phải đi và kinh
nghiệm
giác ngộ ra sao, có lẽ ta cũng nên biết qua về những hạnh phúc
khác nhau
của Niết bàn và các hoạt động của
chúng.
- Hạnh phúc đầu tiên hết là
hạnh
phúc do sự tích lũy của trí tuệ và chánh kiến,
được gọi là con
đường Tâm thức - Đạo Tâm thức.
Ðây mới chỉ là một cái nhìn thoáng qua, một kinh nghiệm
đầu tiên của Niết bàn. Con
đường tâm thức này có công
dụng nhổ
tung hết mọi gốc rễ của khổ đau như
sấm sét.
Ở đây ta không đè nén khổ đau
như
trong khi thiền định, nhưng là nhổ bứng tận gốc rễ, bức
tung mọi
xiềng xích trong tâm. Trong giai đoạn
này
ta diệt trừ được ba sợi dây xiềng
xích hằng
trói buộc ta vào vòng sanh tử luân hồi từ bấy lâu nay.
Chúng là sự
hoài nghi, mê tín vào những hình thức, lễ nghi (như là một phưong
tiện dẫn
đến giác ngộ) và chấp Ngã. Ba
chướng
ngại này sẽ bị loại trừ ra khỏi tâm ta một cách chớp nhoáng, bằng
con
đường Tâm thức với đối tượng là
Niết
bàn.
- Ngay tiếp sau đó là loại
hạnh
phúc Niết bàn thứ hai, được gọi là
Quả Tâm thức. Ta kinh nghiệm quả trái của con
đường tu, mà
đối tượng cũng là Niết bàn.
Trong giai
đoạn kết quả, không có gì
để ta nhổ bứng, những việc ấy đã
được hoàn tất trong giai
đoạn thứ nhất. Giai đoạn kết quả này
là lúc mà ta kinh nghiệm được sự an
lạc của
Niết bàn. Những ai có một định
lực kiên
cố, có thể đi vào trạng thái
quả Niết
bàn này bất cứ khi nào họ muốn. Họ ngồi xuống và có thể tự ý
đi vào trong trạng thái này,
hay trụ ở
đây trong vòng nửa tiếng, một
tiếng
hay một vài ngày. Kinh nói rằng người ta có thể trụ trong sự an
lạc của
Niết bàn trong thời gian tối đa là
bảy
ngày mỗi lần. Yên lặng, tươi mát, xả bỏ, tự do. Một khi ta ra khỏi
trạng
thái quả trái ấy, vì tâm vẫn còn vướng víu những sự bất thiện
khác, ta vẫn
phải tiếp tục đi theo con đường thiền
quán.
Cũng giống như những gì chúng ta đang
làm bây giờ đây, sự thực hành
được tiếp tục. Bạn thấy được sự sanh
diệt của
mọi hiện tượng, bạn đi qua những trạng thái khác nhau. Bạn kinh
nghiệm
được giai đoạn tâm thức thứ hai, nó diệt thêm một số
điều bất thiện trong tâm. Có tất cả
bốn giai
đoạn tâm thức, mỗi giai đoạn sẽ lần lượt thay phiên nhau
cắt
đứt những sợi dây xiềng xích, hằng
trói buộc
ta vào bánh xe sanh tử luân hồi.
- Niết bàn cao tột nhất được gọi là
Ðại Niết bàn (Parinirvana), trạng thái của một người
đã hoàn toàn giác ngộ
đi đến sau khi chết. Sẽ không còn
luân
hồi, không còn nhiên liệu, không còn ái dục
để tái sanh. Nó cũng giống như một ngọn lửa đang bừng bừng cháy,
giờ đã
hoàn toàn bi dập tắt. Ngọn lửa thiêu đốt
đã
tắt, giờ chỉ còn một trạng thái an lạc, yên lặng, và tươi mát. Một
hạnh
phúc cao tột nhất. Ðôi khi có người lại sợ đi
đến Niết bàn sớm quá, họ muốn được
coi
thêm vài cuốn phim nữa, được
hưởng thêm
một chút sắc dục nữa, hay là được ở
trên
cõi trời lâu thêm một chút. Nhưng nếu bạn nhắm mục tiêu vào một
hạnh phúc
cao thượng nhất, thì mọi thứ hạnh phúc khác tự nhiên cũng sẽ
đến.
Hỏi: Có thể nào chúng ta đang làm
người rồi kiếp sau bị sanh làm thú vật hay không? Có cách nào sinh
trở lại
làm người được không?
Ðáp: Lý do kiếp người vô cùng quý giá là bởi vì khi ta bị sanh
vào một
cõi thấp, sẽ rất khó để sanh trở lại vào
một kiếp cao hơn. Vấn đề không phải là
không thể được, nhưng thời gian sẽ
rát là
lâu. Ðức Phật có kể một thí dụ như sau để cho
ta thấy khoảng thời gian ấy. Giả sử như có một con rùa mù
mắt, sống
ở dưới đáy một đại dương. Trên
mặt
đại dương, đâu đó có một chiếc vòng
bằng gổ nổi trôi bấp bênh đây đó theo
chiều
gió. Cứ mỗi một trăm năm con rùa ấy trồi lên mặt nước một
lần. Cơ
hội để con rùa áy có thể
đút đầu vào chiếc vòng bằng
gổ, nhiều
hơn là cơ hội ta có thể được tái sinh
làm
người. Ðây là lý do vì sao được sanh làm
người là một điều vô cùng quý
giá, vì
vậy ta không nên hoang phí nó đi.
Hỏi: Tôi thấy rất khó có thể hiểu được
làm
cách nào mà ta có thể biết được những
gì
xảy ra trước khi sanh và sau khi chết?
Ðáp: Có hai cách để hiểu điều này.
Một cách mà ta có thể dễ dàng liên nghĩ tới
được là hiểu rõ tiến trình hoạt động
của các hiện tượng trong mỗi giây phút. Sự sanh ra và hoại
đi đang xảy ra liên tục, tâm
thức của
ta đang khởi lên và diệt
đi không ngừng. Sự hoại diệt của tâm
thức
chính là cái chết. Không có một cái gì của tâm thức
đó được đem qua giai đoạn kế tiếp
hết. Qua
kinh nghiệm của trí tuệ, bằng thiền quán,ta có thể đạt được một
kinh
nghiệm nhứt thời của sanh tử. Nó sẽ giúp cho ta có được một trực
nhận về
sự sanh diệt của tâm thức xảy ra giống y hệt như thế. Trong khi tu
tập
thiền định, với một định lực mãnh liệt ta có thể làm phát
triển một
số thần thông. Có nhiều đạo sĩ trong
các tôn
giáo khác đã tu luyện được
những thần
thông này. Một trong những thần thông ấy là không những ta
có khả năng
nhìn thấy được những cõi
khác,
mà còn thấy được những sinh linh đang
sanh tử
luân hồi. Có người có được loạithiên nhản này. Vị thầy của
tôi, khi
bàn về vấn đề này, thường
đi vào chi tiết, diễn tả những
cõi
trời khác nhau, và những thần thông phép lạ mà người ta có thể làm
được. Nhưng bao giờ ông cũng kết luận
bằng
câu: "Các ông không cần phải tin tôi. Sự thật là như vậy
đó, nhưng không ai bắt buộc các ông
phải
tin". Không một tín ngưỡng nào cần phải
được chấp nhận trên con
đường thiền quán để tự hiểu mình.
Trí
tuệ đến bằng một phưong pháp giản dị là
biết ý thức được sự vật một cách
chính xác và
thâm sâu, thoát ra khỏi mọi thành kiến và ý niệm có sẵn.
-ooOoo-
Buổi tối thứ mười chín
TÍN NGƯỠNG
Một trong những yếu tố tâm linh, và cũng là một trợ lực vững
mạnh trên
con đường tu tập, là sự tín
ngưỡng hay
lòng tự tin. Một khi chúng ta có đức
tin vào
chuyện mình đang làm, thì bất
cứ một
nỗi nghi ngờ, chán nản nào làm ta chùng bước, cũng sẽ trở nên bất
lực.
Có nhiều loại đức tin khác nhau có
thể
phát hiện. Loại thấp nhất là khi ta có một
đức tin hay một tín ngưỡng đối với
người nào
hay điều gì, chỉ vì ta cảm
thấy ưa
thích nó. Chúng đem lại cho ta một
cảm giác
nhẹ nhàng, hứng khởi, nên ta đặt
đức
tin của mình vào đấy. Những
loại tín
ngưỡng này thì dễ đi đến mù
quáng. Một loại đức tin cao hơn là
khi
ta cảm nhận được một số đức tốt trong
một
người khác, như là trí tuệ và lòng từ bi. Ðức tin này rất
là hữu
ích, vì sự cảm phục cũng là một đức
tốt của
tâm, nó khuyến khích ta bắt chước theo những điều hay đẹp đó.
Cũng có những đức tin và
lòng tín
ngưỡng phát xuất từ một kinh nghiệm về chân lý của mình. Khi ta
bắt
đầu kinh nghiệm được sự hoạt động của
thân
tâm một cách thâm sâu, ta sẽ có được một niềm vui và lòng
tin bất
tận vào giáo pháp. Nó không dựa trên một tình cảm mù quáng hay ở
sự kính
phục một người khác, mà được xuất
phát từ một
trí tuệ quán chiếu nhìn thấy tự thân của sự vật. Và
điều này dẫn
đến một đức tin cao thượng nhất, khai
triển
qua kinh nghiệm giác ngộ. Bằng một quán chiếu thẳm thấu, thấy được
chân
lý, đức tin của ta sẽ không bao giờ bị lay chuyển.
Khi đức Phật sắp nhập diệt, Ananda
hỏi
Phật, các ông không biết rồi sẽ lấy ai để làm thầy. Ngài
trả lời:
"Hãy tự thắp đuốc lên
mà
đi. Hãy nương tựa vào nơi
chính
mình. Các ông đừng đi tìm
kiếm một
nơi trú ẩn nào ở bên ngoài hết. Hãy xem chân lý như là ngọn
đuốc dẫn đường. Hãy xem chân
lý như
là nơi trú ẩn. Này Ananda, những ai trong lúc ta còn sống hay
sau khi ta
đã nhập diệt, biết tự thắp
đuốc lên mà
đi lên mà
đi, không tìm kiếm bất cứ
một sự
nương tựa nào ở bên ngoài, lúc nào cũng xem chân lý như là một
ngọn
đuốc dẫn đường, một nơi trú ẩn,
những người
ấy sẽ đạt đến một trình độ
cao
thượng nhất, nhưng họ phải biết luôn luôn cố gắng học hỏi"
-ooOoo-