[05]
Buổi tối thứ hai mươi mốt
THẬP NHỊ NHÂN DUYÊN
Cũng vì sự bí mật của sanh, lão, bệnh, tử mà các
đức Phật đã xuất hiện trong
cuộc
đời. Không một cõi thế giới
nào mà lại
không bị chi phối bởi những sự thật này, và sự giác ngộ của
đức Phật chỉ có mỗi một mục đích duy
nhất là
để hiểu thấu được các nguyên
nhân gốc
rễ của nó. Có lẽ phần uyên thâm nhất của giáo lý
đức Phật là một diễn tả về sự
luân
chuyển không ngừng của sợi dây xích hiện hữu này
được gọi là luật Nhân Duyên.
Có mười hai nhân duyên mà chúng ta thường gọi là Thập Nhị Nhân
Duyên,
chúng là: Vô minh, Hành, Thức tái sanh, Danh sắc, Lục nhập, Xúc,
Thọ, Ái,
Thủ, Hữu, Sanh, Lão Bệnh tử.
Hai nhân duyên đầu tiên nói
về các
nhân được gieo trong nhũng kiếp quá
khứ và
làm điều kiện cho kiếp sau này.
Nhân
duyên đầu tiên là Vô minh. Vô
minh có
nghĩa là u tối, không thấy được chân
lý,
không hiểu giáo pháp, không biết được Tứ Diệu Ðế. Cũng vì
ta không
ý thức được sự việc một cách rõ
ràng,
không thấy đuợc sự thật khổ đau, gốc
rễ của
nó và phương pháp giải thoát, cho nên sự Vô minh
đã làm
điều kiện cho nhân thứ hai trong chuỗi Thập Nhị Nhân Duyên
là Hành.
Hành có nghĩa là ý chí, ý muốn bắt đầu
cho
những hành động của thân, khẩu
và
ý. Những hành động này phát
sinh lên
do những tâm thiện hay bất thiện. Hành là do Vô minh tạo nên, vì
chúng ta
không hiểu được sự thật cho nên
ta tạo
tác nên đủ loại nghiệp. Và rồi
nghiệp
lực của những hành động này
lại làm
điều kiện cho móc nối thứ ba trong
chuỗi Nhân
Duyên.
Nhân duyên thứ ba là Thức tái sanh, có nghĩa là tâm thức
đầu tiên khi ta mới sanh ra.
Vì Vô
minh làm điều kiện cho nghiệp lực mà
ta đã tạo tác trong kiếp
trước, Thức
tái sanh sẽ khởi lên trong giây phút thụ thai. Tâm Hành là nhân mà
Thức
tái sanh là quả. Một sự liên hệ có điều
kiện
của luật nhân quả. Sự Vô minh sanh ra tâm Hành tạo nên
nhiều nghiệp
lực. Những nghiệp lực ấy làm phát sanh ra Thức tái sanh,
điều kiện bắt đầu cho cuộc sống này.
Và cũng vì có tâm thức đầu tiên
ấy mà
cả hiện tượng Danh sắc được khởi lên
với đầy đủ mọi phần tử của thân và
mọi
yếu tố của tâm. Rồi tự hiện tượng Danh sắc mà Lục nhập phát sinh.
Lục nhập
tức những quan năng của mắt, tai,
mũi, lưỡi,
thân và ý, được phát triển
trong giai
đoạn ta còn bào thai.
Thức tái sanh trong giây phút thụ thai làm
điều kiện phát sanh nên hiện tượng Danh sắc. Vì sự có mặt
của Danh
sắc mà Lục nhập, gồm năm giác quan và
ý thức sanh ra. Rồi Lục nhập lại làm điều
kiện cho Xúc, tức sự tiếp nhận của những giác quan (Căn), khi tiếp
xúc với
những đối tượng của chúng (Trần), như là mắt với màu sắc,
tai với
tiếng động, mũi với mùi, lưỡi
với vị,
thân với cảm giác, ý thức với lại tư tưởng. Xúc
đòi hỏi cả ba yếu tố: Căn
(giác quan), Trần (đối tượng của giác quan) và Thức (sự
nghe, thấy,
ngữi, nếm, cảm giác và suy nghĩ). Lục nhập làm phát sinh Xúc. Rồi
bởi vì
sự tiếp xúc giữa mắt với màu sắc, tai với tiếng
động, và những Căn
với Trần khác mà Thọ sanh lên. Thọ tức là những cảm giác dễ
chịu,
khó chịu hay trung hòa xảy ra trong từng sát na của tâm, khi có sự
xúc
chạm. Dù sự tiếp xúc có qua những cánh cửa giác quan hay là qua ý
thức,
Thọ lúc nào cũng có mặt, và nó được
gọi là
một tâm hành cơ bản. Xúc làm điều
kiện phát
sanh của Thọ, tức là những cảm giác của ta.
Bởi vì có Thọ nên mới có Ái. Ái tức là lòng tham dục, ham muốn,
khao
khát một vật gì. Chúng ta muốn gì? Chúng ta muốn những hình ảnh âm
thanh
dễ chịu, những mùi vị thơm ngon, những cảm giác, tư tưởng tươi
mát, nhẹ
nhàng. Chúng ta muốn vứt bỏ mọi điều gì
làm cho mình khó chịu. Ái sanh ra là bởi có Thọ. Chúng ta bắt
đầu khao khát hoặc là trốn
tránh những
đối tượng khác nhau của Lục nhập. Thọ
là
điều kiện phát sanh của Ái. Ái là
điều kiện phát sanh ra Thủ. Thủ có
nghĩa là
nắm giữ, muốn lấy làm của mình. Bởi vì chúng ta có tham dục nơi
các
đối tượng của sáu giác quan, kể cả ý
thức, nên
ta muốn chiếm giữ, nắm bắt, ta nhận chúng là mình, gắn bó với
chúng. Bởi
có Ái nên mới có Thủ.
Rồi bởi vì Thủ mà ta bắt đầu tạo
nghiệp,
gây quả, tiếp tục những hành động
trong kiếp trước mà đã
tạo nêm
Thức tái sanh cho kiếp này. Thọ sanh Ái, Ái sanh ra Thủ và Thủ làm
điều kiện cho Hữu tức là một
sự tiếp
nối trở thành, nó làm năng lực cho
hạt giống
luân hồi, Thức tái sanh cho kiếp sau. Từ những nghiệp lực này,
được tạo nên do Thủ, mà ta lại
có
Sanh.
Vì Sanh nên mới có Bệnh tật, chán nản. Có tàn hoại và
đau đớn. Có khổ đau, có Chết. Và
bánh
xe luân hồi lại tiếp tục xoay tròn, kéo theo một chuỗi Nhân Duyên
vô Ngã.
Vấn đề của đức Phật và của
tất cả
chúng ta, là làm sao tìm được một lối
thoát
ra khỏi cái vòng lẩn quẩn Nhân Duyên tiếp nối này. Tương
truyền
rằng trong đêm giác ngộ dưới
gốc Bồ
đề, đức Phật đã
đi ngược lại dòng Nhân Duyên
tìm một
lối thoát. Tại sao có già, có bệnh, có chết? Vì có Sanh. Tại sao
lại có
Sanh? Vì có Hành phát khởi do tham, sân, si. Nhưng tại sao chúng
ta lại bị
vướng víu vào những hành động này?
Vì
có Hữu. Tại sao lại có Hữu? Vì có Ái. Tại sao lại có Ái? Vì có
Thọ, vì
những cảm giác dễ chịu, khó chịu khởi lên. Tại sao lại có Thọ? Vì
có Xúc.
Tại sao lại có Xúc? Vì có Lục nhập, và cả một hiện tượng Danh và
Sắc.
Chúng ta không làm gì được khi đối
diện
với tiến trình thân tâm này. Nó có vì sự Vô minh trong quá
khứ và
vì chúng ta đã sanh ra ở
đây. Không có cách nào
để tránh sự tiếp xúc, đụng chạm cả.
Chúng ta
không thể nào đóng lại những
cửa giác
quan của mình, cho dù chúng ta có muốn. Mà
đã có tiếp xúc,
đụng chạm thì ta không thể nào
ngăn
không cho Thọ khỏi phát sinh lên được.
Hễ đã có Xúc thì sẽ có Thọ. Ðó là một tâm hành cơ bản của
tâm.
Nhưng cũng ngay ở điểm quan trọng này,
Thọ, mà ta có thể cắt đứt được chuỗi
Nhân Duyên
liên tục ấy.
Hiểu được luật Nhân Duyên,
bởi vì
cái này có mà cái kia có, chúng ta có thể chặt
đứt đi sợi dây xích liên tục
ấy. Khi
một lạc thọ phát sinh, ta không nên nắm bắt, khi một thọ khổ có
mặt, ta
không xua đuổi. Khi có một cảm thọ
trung hòa,
ta không rơi vào quên lãng, thất niệm. Ðức Phật dạy con
đường của thất niệm là con
đường của sự chết. Và con
đường của chánh niệm và trí
tuệ là con
đường đưa đến sự bất tử. Chúng ta có
hoàn
toàn tự do để phá tung sợi dây xiềng
xích này,
thoát ra khỏi những phản ứng do điều
kiện.
Chúng ta phải duy trì một sự tỉnh thức, một chánh niệm vững
chãi
trong từng giây phút, để giữ cho cảm
Thọ
không khởi sanh lên Ái dục.
Những khi ta thất niệm, cảm thọ sẽ làm cho ái dục phát sanh.
Nếu có
điều gì dễ chịu, ta sanh ra sự
ưa
thích; còn những gì khó chịu, ta lại có lòng muốn hủy diệt nó
đi. Nhưng nếu thay vì thất
niệm, ta có
một chánh niệm và trí tuệ, thì mỗi khi có một cảm thọ sinh lên, ta
chỉ
kinh nghiệm nó mà không phản ứng mù quáng theo thói quen là nắm
bắt hay
chối bỏ. Ðối với một cảm thọ dễ chịu, ta kinh nghiệm nó bằng chánh
niệm mà
không bám víu. Ðối với cảm thọ khó chịu, ta kinh nghiệm bằng chánh
niệm mà
không ghét bỏ. Cảm thọ không còn làm phát khởi Ái dục nữa. Bây giờ
chỉ có
chánh niệm, vô tư, xả bỏ. Không có Ái dục thì sẽ không có Thủ,
không còn
Thủ thì Hữu cũng sẽ không sanh. Mà chúng ta không còn tạo nên năng
lực thì sẽ không có tái sanh, không bệnh, không già, không
chết.
Chúng ta hoàn toàn tự do. Không còn bị lôi cuốn bởi Vô minh và Ái
dục, tất
cả khối khổ đau sẽ bị hoàn
toàn tiêu
trừ.
Mỗi giây phút của chánh niệm, tỉnh thức là một nhát búa
đập xuống sợi dây xiềng xích Nhân Duyên
này. Những nhát búa giáng xuống với sức mạnh của trí tuệ, của ý
thức sẽ
làm cho sợi dây xích càng lúc càng yếu đi,
cho đến khi nó bị đứt tung. Những gì chúng ta
đang thực hành ở
đây là quán chiếu thẳm thấu
vào trong
chân lý của luật Nhân Duyên, để giải
thoát
tâm ta ra khỏi sự ràng buộc của chúng.
Hỏi: Tôi thấy rằng càng đi sâu vào
sự tu tập, tôi lại càng cảm nhận được
cái
hay, cái đẹp của giáo pháp, tự tính của mọi sự vật.
Ðáp: Hạnh phúc cao thượng nhất là hạnh phúc của Vipassana, hạnh
phúc
của trí tuệ, nhìn thấy được tự tướng
của vạn
hữu. Khi ta bắt đầu cảm nhận bằng một sơ tâm của đứa trẻ thơ, mỗi
giây
phút đều là mới lạ, tươi mát, thì trạng thái này an lạc
lắm. Cũng
vậy, sự sống của ta sẽ là một niềm vui lớn nếu ta biết sống với
cái sơ tâm
ấy, một tâm không bị điều kiện chi
phối, một
tâm biết trực nghiệm thay vì cứ tưởng tượng. Ðức Phật dạy
rằng mùi
vị của đạo pháp siêu diệu hơn
mọi thứ
mùi vị khác. Nó đem lại cho ta một
cảm giác
sáng suốt, hiểu biết, để nhìn thấy rõ tự thể của vạn hữu,
để hòa hợp chung một giai
điệu và trở thành một với Ðạo
lớn.
Nhưng trên con đường đi đến sự hòa
điệu hoàn toàn ấy,
đôi khi ta phải trải qua một kinh
nghiệm bất
mãn rất sâu đậm. Một khổ đau mà
ta đã thừa hưởng từ luật vô
thường của
cuộc sống. Có nhiều người đã
phải nếm
qua mùi vị của sự chán nản này. Những ai đã
từng trải qua cảnh ngộ ấy, thường được
một
lợi lộc là có một thái độ ung
dung tự
tại, Vì khi ta kinh nghiệm được
một
cách sâu xa những nỗi khổ đau của thân và tâm, ta sẽ hiểu
rõ ràng
giá trị của một thái độ vô chấp, xả
bỏ, ta sẽ
không còn muốn nắm giữ nữa. Ta biết chúng chẳng có gì
đáng để cho mình ham muốn. Và
từ sự vô
chấp ấy, tâm của ta sẽ trở nên quân bình và có thể nhìn sự thay
đổi của mọi vật bằng một thái độ ung
dung,
với một ý thức sáng tỏ và an lạc.
Hỏi: Muốn đạt được giác ngộ, ta có
cần
phải chết đi không?
Ðáp: Giác ngộ có nghĩa là sự chết của tham, sân và si. Lý do
chúng ta
sợ chết là vì ta không hiểu rằng tiến trình của sự chết
đang xảy ra trong giờ phút này.
Cho
nên đối với những người không tu tập,
họ có
nỗi sợ phải mất đi thân này. Thật ra thì không có một ai
chết cả,
vì đâu có một cá nhân nào
đứng phía sau tiến trình ấy.
Sự thật
chỉ là một chuỗi sanh diệt, sanh diệt liên tục tiếp nối nhau...
theo sự
lôi cuốn của Ái và Thủ. Muốn giải trừ những
điều kiện ấy, giải thoát tâm ta ra khỏi sự đam mê và bám
víu ta
phải biết kinh nghiệm được sự an vui
lúc nào
cũng đang hiện có mặt, nhưng vì
ái dục
mà ta không thấy được. Cũng giống như
mốt con
khỉ đang nắm chặt bàn tay, nó chẳng bị một ai trói buộc
ngoài trừ
lòng tham dục của chính nó. Nó chỉ cần mở rộng bàn tay ra là thoát
được. Chúng ta cũng vậy, chỉ cần
buông xả là
có thể tự tại bước đi.
-ooOoo-
Buổi tối thứ hai mươi hai
CHẾT VÀ TỪ BI
Một hình ảnh thường được dùng
để diễn tả sự tu tập thiền quán, trí
tuệ là
một người đang đi trên một sợi
dây
treo trên không. Khi chúng ta đi trên
một sợi dây treo lơ lững giữa trời, thì điều
cần phải quan tâm là sự cân bằng: luôn luôn giữ một thái
độ ung dung, quân bình. Khi ta
đang đi, sẽ có nhiều sự vật bay ngang
qua:
những hình ảnh, những âm thanh, tình cảm, tư tưởng và ý
niệm khác
nhau. Nếu ta ưa thích, ta sẽ có khuynh hướng vói ra, cố nắm bắt,
muốn giữ
lại. Còn nếu những âm thanh, hình ảnh kia là khó chịu, bực mình,
ta cũng
có một khuynh hướng vói ra để xua
đuổi, đẩy
chúng đi nơi khác. Trong cả hai trường hợp, ta đều ngả mình
tới,
mất đi quân bình và có thể té
được.
Cả hai phản ứng ưa thích và ghét bỏ đều có
cùng một nguy hiểm như nhau. Bất cứ một việc gì, dù có huy
hoàng
hay ghê sợ đến đâu, nếu chúng khiến
ta mất đi
tâm quân bình, sẽ làm ta ngả. Cho nên lúc nào chúng ta cũng
phải cứ
tiếp tục và tiếp tục, đào
luyện một
tâm an nhiên, không phản ứng bằng cách nắm bắt hay xua
đuổi bất cứ một đối tượng nào.
Hãy tu
tập một tâm vô chấp, không dính mắc vào đau
cả, vào bất cứ một chuyện gì, cứ để
chúng tự nhiên đến rồi đi.
Sự vô chấp phát sinh từ một sự hiểu biết thâm sâu vào lý vô
thường.
Trên một bình diện, trí tuệ này nhận thức
được sự cấp bách và tính cách tất nhiên của cái chết. Trong
Áo
Nghĩa Thư (Bhagavad-Cita) có câu hỏi: "Trong mọi
điều kỳ lạ tên thế giới này,
sự việc
nào là kỳ lạ nhất?". Và câu trả lời: "Ðó là không có một người
nào, mặc dù
thấy những người chung quanh mình chết, vẫn không tin rằng rồi một
ngày
mình cũng sẽ chết".
Thường vì thất niệm nơi số phận của mình mà ta thường
đi tham lam thu thập và chiếm
hữu,
muốn mình trở thành một nhân vật quan trọng. Chúng ta chấp vào các
việc
làm của những tâm ý nhỏ nhen, coi những tham vọng, cái tôi của
mình là
quan trọng nhất. Chúng ta đánh mất đi
viễn
tượng của một tâm lớn, về một cái chết của mình.
Don Juan xem cái chết như là một vị thầy; biết ý thức
được cái chết không thể nào
tránh khỏi
của mình với một thái độ sáng suốt và
chấp nhận, mà không hề hối tiếc, buồn lo hay sợ hãi. Hồi tưởng về
cái chết
của mình sẽ đem lại cho ta một sức
mạnh, giúp
cho ta biết trân quý và sống trọn vẹn mỗi giây phút, mỗi
hành
động.
Trong tâm thức của mỗi chúng ta đều
có
những khuôn mẫu, tạo nên bởi các hành
động của mình. Thường thường thì đa số
những hành động là các
thói
quen xấu như giận dữ, yếm thế. Nhưng ta cũng có thể
đem vào tâm một ý thức về cái
chết, và
dùng nó để chiếu soi lên trên
mọi sinh
hoạt của mình. Nếu ta biết lấy cái chết làm thầy, chúng ta sẽ sống
mỗi
phút thật trọn vẹn và chí tình, như là một nỗ lực cuối cùng trên
quả
đất này vậy.
Khi ta biết giữ cái chết trong tầm tay với, ta sẽ bớt
đi đam mê và quyến luyến những
giây
phút vui thú, thỏa mản tạm thời. Vì khi tâm ta không còn bị mê mờ
vì ái
dục và ảo tưởng, chúng ta sẽ bớt đi
khuynh
hướng muốn chiếm hữu và có thể đem
ban
bố tình thương và sự độ lượng
của mình.
Chánh niệm về cái chết, cho ta một khoảng không gian sáng tỏ, giúp
ta hiểu
được thật sự mình là ai và ai
là người
sẽ phải chết.
Trên bình diện này, hiểu được lý
vô thường
có nghĩa là ý thức được những
giai
đoạn chuyển tiếp, tính cách tạm thời của mọi hiện tượng trong giây
phút này
sang giây phút kế. Trong mỗi sát na, tiến trình thân tân, cả vũ
trụ này,
đang khởi lên và mất
đi, sanh và diệt tiếp nối nhau
không
ngừng nghỉ. Sự tu tập của ta là để đào
luyện một tâm tĩnh lặng và an nhiên, không hề xao
động trước một sự thay đổi lớn lao
như vậy.
Cả phương pháp tu tập này bắt nguồn từ một công thức duy nhất
là: giản
dị ý thức được những gì
đang xảy ra trong giờ phút hiện tại mà
không phản ứng. Một thiền sư ở Ấn Ðộ có dạy rằng, chúng ta chỉ cần
ngồi và
ý thức được rõ ràng là mình
đang ngồi, rồi thì cả giáo
pháp sẽ tự
nhiên hiển bày. Bạn sẽ thấy được
thông suốt
tự tính của vạn vật, và bây giờ giáo pháp sẽ thật sự trở
thành là
bạn.
Trong giai đoạn chuyển hóa này,
nhờ
ở sự quân bình và vô chấp, những đức
tính tốt
đẹp và tự tại của tâm sẽ bắt đầu
hiển
lộ. Một trong những đức tính này là lòng Từ (Metta). Lòng
Từ có
nghĩa là lòng thương mình, bằng một sự chấp nhận, không phê phán,
giữ một
không gian thanh thản trong tâm; và lòng thương kẻ khác, nhưng
không vì
lòng quyến luyến, muốn chiếm hữu. Ðây không phải là một thứ tình
thương có
điều kiện - thương người khác vì
một
đức tính hay đặc điểm nào
đó, và nếu họ thay
đổi, tình thương của ta cũng
chấm dứt.
Nó không phải là một loại tình thương "đổi
chác" - "Tôi thương bạn nếu bạn thương tôi".
Lòng Từ phát xuất do trí tuệ là một thứ tình thương vô
điều kiện, một lòng
đại từ - một tình thân hữu, ấm
áp
đối với mọi loài ở mọi nơi.
Tình
thương ấy không chỉ có giới hạn trong những người
đang có liên hệ với mình.
Nhưng không
phải ta đi tìm kiếm người khác
vì nhu
cầu, vì mong muốn, mà do sự phát tỏa tự nhiên của một tình thương
vô bờ
bến.
Một đức tính nữa cũng bắt đầu hiển
lộ là
đức Bi. Ðức Bi không phảilà
lòng tự
thương hại hoặc thương hại người khác. Nó tức là thấy
được sự đau khổ của mình và
cảm nhận
được những khổ đau của người khác.
Chữ Pali
"Kilesa" thường được dịch ra là những gì bất thiện, nó cũng
có một
nghĩa đặc biệt là "khổ tâm".
Những sự
giận dữ, tham lam, các tâm bất thiện đều
có
thể gây ra đau khổ. Chúng ta có thể thấy rõ ảnh hưởng của
chúng
đối với thân tâm mình, nếu ta
biết
quán chiếu khi chúng khởi sanh lên. Một khi chúng ta hiểu sâu giáo
pháp,
ta sẽ cảm thấy thương xót chứ không phê phán hay lên án những tính
xấu của
mình và ta sẽ thông cảm được nỗi khổ
đau của
người khác khi họ bị những trạng thái như vậy. Thấy được tấm màn
lưới chằng chịt của khổ đau mà
tất cả
chúng ta đang vướng vào, ta sẽ
có lòng
thương xót đối với nhau hơn.
Một biểu lộ cao quí nhất trong những đức
tính này là sự phô bày của một cái rỗng không - vô ngã. Khi
đã không còn "Tôi" thì sẽ
không còn
"người khác". Không có "ngã" thì cũng sẽ không có "Nhân". Cảm
tưởng phân
chia sẽ biến mất. Lúc này ta cũng sẽ kinh nghiệm
được cái Một, sự đồng nhất của vạn
vật.
Albert Einstein có viét: "Con người là một phần nhỏ của một cái
lớn mà
chúng ta quen gọi là vũ trụ, phần nhỏ ấy bị giới hạn bởi thời gian
và
không gian. Anh ta kinh nghiệm mình, tư tưởng của mình, cảm giác
của mình
như là những gì riêng biệt với tất cả, đây
chỉ là một loại Vọng tưởng. Vọng tưởng này là một thứ ngục
tù của
chúng ta, giới hạn ta vào một số tham vọng cá nhân và tình thương
đối với một số người lân cận. Phận sự
của ta
là tự giải thoát mình ra khỏi ngục tù này, bằng cách mở
rộng lòng
Từ Bi ra để ôm trọn mọi sinh linh,
mọi loài
và toàn cõi thiên nhiên trong vẻ đẹp
vô cùng
của nó".
Ánh sáng của đức Từ Bi trong tâm
ta bấy
lâu nay bị tham, sân, si che phủ. Khi chúng ta phá tan những đám
mây mù
này bằng sự quán chiếu của trí tuệ, thì đức
tính từ bi sẽ lại bắt đầu chiếu soi một cách tự tại như xưa.
Ðức Phật có dạy cho ta một phương pháp tu tập,
để khai triển mạnh mẽ những dức tính này
trong đời sống của mình. Pháp
tu này
được gọilà "Metta Bhavana" hay
là Từ
Bi Quán. Thực hành phương pháp này sẽ làm cho thiền Vipassana
được thêm phong phú, vì khoảng
không
gian thênh thang và sự nhẹ nhàng trong tâm mà nó có thể tạo nên.
Nó củng
cố khả năng quan sát mà không
phê phán
và giúp cho ta tránh được một khuynh
hướng
thường tình trong con đường tu
tập, và
mong muốn được trở thành một
nhân vật
nào khác.
Trên suốt con đường tu tập, bạn sẽ
nhận
thấy rằng phương tiện và mục đích
chỉ
là một. Muốn đạt đến một mục
đích an
lạc, chánh niệm và tình thương, ta phải biết tập cách thực
hiện nó
trong mỗi giây phút hiện tại.
Thường thường thì chúng ta thực hành Từ Bi Quán khoảng chừng năm
hay mười phút trước hoặc sau, đôi khi cả hai, mỗi lần ngồi thiền. Vào
những giờ trước khi ngồi thiền, nó sẽ tạo nên một khoảng không
gian cởi mở
mà ta có thể đem áp dụng vào
sự chú ý
đơn thuần, và vào cuối giờ
thiền thì
những tư tưởng Từ Bi có một ảnh hưởng rất mạnh vì tâm ta lúc
đó đã
được định.
Phương pháp này rất giản dị. Ngồi lại trong một vị thế cho
thoải mái.
Trước hết, chúng ta phải giải thoát tâm mình ra khỏi mọi sự căng
thẳng hay thù hận, nếu có, bằng cách xin và ban bố sự tha
thứ: "Nếu
tôi đã từng làm ai
đau khổ hay thương tổn bằng tư tưởng,
lời nói
hay hành động, tôi xin được
tha thứ. Và
tôi cũng hoàn toàn tha thứ cho những ai đã
từng làm tôi đau khổ hay tổn thương".
Lập đi
lập lại câu này trong im lặng, chừng một hai lần là một
phương pháp
hiệu quả, để gột rửa tâm mình
không
còn những cặn bả của niềm hận thù hay tức giận.
Tiếp đó chừng trong một vài
phút,
hãy hồi hướng những tư tưởng tốt lành đến
cho
mình: "Xin cho tôi được hạnh
phúc, xin
cho tôi được an lạc, xin cho tôi được thoát ra những khổ đau. Xin
cho tôi
được hạnh phúc, xin cho tôi được an lạc, xin cho tôi được thoát ra
những
khổ đau". Tập trung vào ý nghĩa của những câu ấy. Chúng ta
không
thể nào thật sự thương một người khác được,
nếu ta không thể chấp nhận và thương chính mình. Những danh
từ,
cách dùng chữ không quan trọng. Bạn hãy chọn những câu nào có thể
gây một
sự rung động trong bạn. Biến chúng
trở thành
một câu thần chú của tình thương.
Tiếp tục thực hành, bắt đầu phóng
những tư
tưởng và cảm tình này đến
những người
khác: "Cũng như tôi muốn được hạnh phúc, cầu xin cho tất cả mọi loài
được hạnh phúc. Cũng như tôi muốn
được an
lạc, cầu xin cho mọi loài đều
được an
lạc. Cũng như tôi muốn được thoát ra khỏi khổ đau, cầu xin cho mọi
loài
đều được thoát ra sự khổ đau". Lập
lại câu này
trong đầu vài lần, rồi bắt
đầu phóng tư tưởng Từ Bi đến những
người
khác. Những câu ấy có thể được rút gọn lại một cách nhịp nhàng
và
ta có thể tụng torng vòng năm hay
mười phút:
"Xin cho tất cả được hạnh phúc, an lạc và không bị khổ
đau".
Bạn cũng có thể hướng những tư tưởng này
đến một số người chọn lọc nào đó,
có
thể là những người thân mà bạn đang
mến yêu, hay là những người mà bạn
đang tức giận hay có một mối hiềm thu, như là cách cởi mở
ra với
lòng nhân hậu. Hãy tưởng tượng ra họ trong
đầu khi bạn niệm những lời này. Và sau cùng hết, một lần
nữa, phóng
tâm từ đến với mọi loài ở mọi
nơi.
Những lúc đầu, phưong pháp này
có
vẻ như là máy móc, nhưng khi bạn thực tập đều
đặn, cố gắng tập trung vào ý nghĩa của những lời ấy, vào sự
chúc
lành của bạn đến kẻ khác, dần dần tâm
Từ Bi
sẽ phát triển và trở nên vững mạnh.
Hỏi: Xin ông vui lòng giải thích thêm về sự liên hệ của Từ Bi
và Trí
Tuệ?
Ðáp: Sự phát triển tâm Từ là một loại thiền
định, làm cho tâm ta tập trung
vào một
điểm duy nhất là tình thương.
Nó hoạt
động trên một bình diện thuộc
về khái
niệm, với một khái niệm "trở thành". Ðây là một phương pháp sử
dụng khái
niệm vô cùng thiện xảo, và nó tạo nên một khoảng không gian, nhờ
đó mà chánh niệm có thể hoạt
động hiệu quả hơn. Nói tóm lại nó sử
dụng
Ðịnh để đem lại một sự yên
nhẹ
trong tâm, nhờ đó ta có thể đi sâu
hơn vào
một bình diện trí tuệ khác.
Hỏi: Ông có thể nói thêm một chút về vấn
đề sáng tỏ được không?
Ðáp: Trong những giờ ngồi thiền, có thể bạn
đã có những kinh nghiệm là
đôi khi tâm mình rất sắc bén
và sáng
suốt, nó có thể ý thức được mọi
chuyện đang
xảy ra trong mỗi giây phút. Và cũng có những lúc tâm bạn bị
mù mờ,
lộn xộn, không nhận diện được sự việc
một
cách rõ ràng, mọi vật có vẻ mơ hồ. Nó cũng giống như một căn
phòng tối lờ mờ, nếu chúng ta vặn đèn
lên, thì mọi vật sẽ trở nên rõ rệt và sáng tỏ hơn. Khi tâm ta
không có
đủ ánh sáng, ta không thể nào
thấy rõ
sự vật được, ta có thể thấy lờ mờ
bóng dáng
của chúng, chứ không thấy những chi tiết được. Còn khi tâm
ta có
đủ ánh sáng, mọi vật đều có thể được
phân
biệt rõ ràng và nhờ vậy mọi tiến trình
đều trở thành sáng tỏ, dễ hiểu. Ánh sáng
đó chính là ánh sáng của ý
thức và
chánh niệm.
Hỏi: Nhưng rồi ta có bị chấp vào sự sáng tỏ
đó không?
Ðáp: Bạn có thể lắm chứ. Ta gọi đó
là
sự hư hoại của trí tuệ. Bạn phải ý thức được
tự thân của sự sáng tỏ, để khỏi phải bị vướng mắc hay chấp cho nó là
mình. Bởi vì sự sáng tỏ cũng chỉ là một phần của tiến trình. Khi
chánh
niệm và định lực mới bắt đầu phát
triển,
người ta thường tưởng rằng lúc này là mình
đã được
giác ngộ, đã đến đích rồi,
không còn
gì nữa để làm. Bởi vì lúc ấy
ta cảm
thấy thư thái, nhẹ nhàng, an lạc và hạnh phúc lắm. Lúc ấy vai trò
của vị
thầy rất là quan trọng, ông chỉ khuyên: "Hãy cứ tiếp tục ngồi
thiền".
Hỏi: Sự sáng tỏ ấy ở với ta qua mọi giai
đoạn hay là chúng cũng chỉ đến
rồi đi
như những hiện tượng khác?
Ðáp: Khi ta tu tập tiến bộ, nó ở với ta lâu hơn, mặc dù không
phải là
mãi mãi. Nó là một tâm hành phát triển mạnh theo sự thực hành của
mình.
Bạn sẽ trải qua những giai đoạn tiến
bộ của
sự sáng tỏ, cho dù ở những giai đoạn này
ta không còn cảm thấy vui thú hay hỷ lạc nữa. Trong những trạng
thái khổ
đau cũng vẫn có thể có sự sáng tỏ.
Bạn sẽ
trải qua những giai đoạn mà bạn kinh nghiệm một sự khổ
đau vô bờ cũng như niềm an lạc bất
tận. Trong
cả hai trạng thái đều có một sự sáng tỏ. Con đường, như Don Juan đã
nói, là để đạt đến một sự toàn
vẹn của
con người. Không phải chỉ để kinh
nghiệm một
khía cạnh, nhưng là để kinh
nghiệm
niềm hạnh phúc, nỗi khổ đau, sự trong sáng, tất cả. Thấy được một
cách
trọn vẹn ta là ai.
Hỏi: Có phải Từ Bi chỉ ảnh hưởng tới tâm của mình mà thôi?
Ðáp: Sức mạnh của một tâm từ khi được
trợ
lực bởi sự tập trung của tâm ý thì tất là mãnh liệt. Có một
câu
chuện về đức Phật và người em
họ của
ngài là Ðề Bà Ðạt Ða, ông này muốn giết Phật
để trở thành giáo chủ của Tăng
đoàn.
Ðề Bà Ðạt Ða biết rằng ông không thể nào giết Phật một cách
đường hoàng
được, nên ông sắp
đặt để cho một con voi điên
cuồng chạy
xuống chỗ đức Phật đi khất thức. Ông
nghĩ
rằng, một là đức Phật sẽ sợ hãi
bỏ chạy, như vầy thì uy tín của ngài sẽ bị tiêu tan; hai là nếu
ngài ở lại
thì sẽ bị con voi điên kia
giày xéo
chết. Ngày hôm sau, khi đức Phật đang
đi khất
thực trên con đường nhỏ hẹp, Ðề
Bà Ðạt Ða thả con voi điên ấy
ra. Ðức
Phật không hề hoảng sợ hay bỏ chạy. Ngài vẫn
đứng đấy điềm nhiên, với một tâm định
kiên cố, ngài phóng những tư tưởng từ bi
đến con voi điên ấy. Kinh kể
lại, tâm
của con voi bị tâm Từ của đức Phật
biến trở
thành hoàn toàn lặng lẽ, và con voi từ từ quỳ xuống khuất
phục dưới
chân ngài.
Hỏi: Tâm Từ biểu lộ ra bằng cách nào?
Ðáp: Lòng Từ Bi không nhất thiết phải theo một luật hành
động nhất định nào. Nó chỉ có
nghĩa là
cố hết sức của mình để hành
động bằng tình thương, bằng
tâm từ qua
những phương thức thích hợp với hoàn cảnh. Ðiều quan trọng là
không nên
tìm kiếm một công thức hành động nhất
định để
đem áp dụng cho mọi hoàn cảnh, vì bạn phải rất là thành
thực với
chính mình, với những gì mình đang
cảm nghĩ.
Trong giai đoạn đầu thì cách thực hành Từ Bi Quán rất là
máy móc.
Tâm Từ là một tâm hành của ta, nó không phải là một cái gì huyền
bí mà ta
nghĩ rằng mình có hay không có. Trên phương diện này, nó cũng
giống như là
chánh niệm, tâm định, trí tuệ hay là
tham, sân. Nếu ta biết trau dồi, nó sẽ phát triển, còn nếu bỏ
quên, nó sẽ
héo hon đi. Lúc đầu thì nó
không có vẻ
tự nhiên, nó đòi hỏi một sự cố
gắng,
nhưng khi luyện tập tiến bộ ta sẽ trở thành thông thạo và tâm Từ
sẽ tự nó
phát khởi lên.
-ooOoo-
Buổi tối thứ
hai mươi lăm
ÐẠO
Trong đạo Lão có một câu
chuyện về
một thân cây mọc trên rừng. Cây ấy già và cong queo, các cành
đèu cằn cội và
đầy những u bướu. Có người đi ngang
qua và
phê bình với Trang Tử rằng cây ấy thật là vô dụng, vì thân và cành
đều cong vòng, khúc khuỷu cho
nên
không thể dùng vào việc gì được hết.
Trang Tử đáp:
- Cây trên núi là tự vời người đến
đốn
phá. Mỡ chứa lửa là tự làm cho mình bị thiêu
đốt. Cây quế ăn được nên bị
chặt. Cây
sơn dùng được nên bị cắt.
Người biết
dùng cái dùng được, mà không
ai biết
dùng cái không dùng được.
Sự vô dụng của cây là yếu tố bảo vệ cho nó. Vì không ai cần nó
nên
chẳng ai đốn xuống, nhờ vậy mà
nó
được yên thân, sống thọ, hưởng
trọn
kiếp thiên nhiên của mình.
"Không mấy ai biết dùng cái không dùng
được". Vô dụng có nghĩa là gì? Nó có nghĩa là rỗng không,
không nỗ
lực để trở thành một cái gì
quan
trọng, hay bất cứ một cái gì khác, giải thoát tâm mình ra khỏi tư
tưởng
mong cầu. Trở nên vô dụng có nghĩa là ổn định
xuống và để cho tự tính của mình
được phát hiện một cách giản dị và
tự
nhiên.
Có một vị sư nổi tiếng ở Thái Lan đã
tóm tắt thái độ này, và có lẽ
trọn vẹn
cả giáo pháp trong một câu ngắn gọn. Ông ta nói: "Không có gì
để trở thành, không có gì
để làm, không có gì
để giữ". Chẳng có gì là quan
trọng
hết. Mọi vật đều vô thường và
luôn
luôn trôi chảy, chuyển hóa. Nếu chúng ta có thể tự giải thoát ra
khỏi nỗ
lực để trở thành một người nào
quan
trọng, theo một đường hướng nào
đó, hay là
để đạt được một điều gì -
không còn
ham muốn hành động, trở thành
và chiếm
hữu - chúng ta có thể an trú trong sự phô bày của giáo pháp.
Ðạo Lão thường bàn nhiều về vấn đề
trở nên
vô hình trong cuộc đời. Có câu chuyện
kể về
một vị hoàng tử đi săn khỉ.
Khi ông ta
vừa vào đến rừng, thì
những con
khỉ thấy bóng dáng ông ta là đã
chạy
tán loạn đi trốn hết. Nhưng duy có
một con
khỉ vẫn cứ ngồi yên trên cành, không có vẽ gì sợ hãi. Hoàng
tử bèn
lấp tên vào cung và bắn. Nhanh như chớp, con khỉ
đưa tay ra bắt lấy mũi tên
trong khi
nó vẫn còn đang bay tới. Thấy vậy, vị
hoàng
tử ra lệnh cho tất cả quân lính của ông lấp tên vào cung bắn một
lượt. Con
khỉ bị trúng tên ngã xuống.
Bởi vì con khỉ ấy đã phô
trương tài
năng của nó, tự kiêu một cách
vô lối,
nên tài năng ấy đã trở thành
nguyên
nhân cho sự diệt vong. Tương tự như vậy, khi chúng ta hành
động với một ý khoe khoan, muốn phô
trương
cái hay cái giỏi của mình, hay khi những hành
động phát xuất từ một sự chấp ngã,
chúng sẽ tạo ra một lực đối kháng
lại, gây
cho ta những sự xung đột và mâu thuẩn. Bước
đi trong cuộc đời một cách vô hình
có
nghĩa là không quá khích quả quyết tài năng
hay đức tính của mình. Không phô trương. Ðây chính là một
thái
độ của sự vô ngã, không có một
ý niệm
tự quan trọng hay tự nỗ lực nào. Chỉ có mặt trong giờ phút hiện
tại, sống
hòa hợp với hoàn cảnh chung quanh.
Một trong những khám phá quan trọng nhất khi tôi mới bắt
đầu tu thiền, là có biết bao
nhiêu
hành động bắt nguồn từ ý muốn tạo nên
một hình ảnh về mình: trang sức theo một lối riêng,
đối xử với người chung quanh theo một
cách nào
đó. Tất cả đều xoay chung quanh ý
niệm về một
cái Tôi, mà tôi đã bỏ
công tạo
dựng và rồi cố gắng duy trì nó. Cứ mang vác theo một hình ảnh về
mình là
một gánh nặng gây ra một sự mâu thuẩn, đối
chọi giữa con người thật của mình trong giây phút hiện tại
với hình
ảnh mà mình mong muốn. Vấn đề không
phải là
hành động một cách vô hình, mà
là hành
động với một sự vô ngã, giúp
ta an trú
trong giáo pháp, trong Ðạo lớn. Chẳng có gì
đặc biệt để ta trở thành, chẳng có gì
đặc biệt để ta làm, chẳng có gì đặc
biệt để ta giữ. Chúng ta có thể buông bỏ những hình ảnh về
mình,
buông bỏ những phóng ảnh, và mọi cố gắng nỗ lực
để duy trì chúng. Hãy an trú
trong
hiện tại và để cho nó tự hiển lộ, mà
không mảy may có một thành kiến nào về con người thật của mình
hết.
Suzuki Roshi trong quyển "Thiền Tâm, Sơ Tâm" có
đưa một thí dụ về sự thư thái và
bao
la của tâm ấy. Ông nói rằng một cách hay nhất
để kiểm soát một con bò là cho nó một
đồng cỏ thật rộng. Khó mà có thể kiểm soát
được một con bò trong một
khoảng không
gian nhỏ bé và giới hạn. Nhưng nếu bạn cho nó một bầu trời bao la,
thì
khoảng trời rộng lớn ấy sẽ giữ con bò lại. Cũng vậy, một cách
để kiểm soát tâm mình là
để cho nó được thoải mái. Không cần gì
phải nhốt hay kềm hảm nó lại trong một khoảng không gian chật hẹp.
Hãy thư
thái và để cho nó tự nhiên
hiện hữu,
thoát ra ngoài mọi cố gắng, ý niệm muốn đạt
một việc gì. Hãy cho nó một cánh đồng
cỏ bao la và nhìn nó tỏa bày. Thái độ
cố gắng để thực hiện một điều gì, để
trở thành một người nào, đôi
khi cũng
lan tràng trong lãnh vực tu hành. Ý niệm tăng
tiến, thủ đắc là một chướng ngại rất lớn cho sự tu tập. Tất
cả cũng
vì ta không hiểu được tự thể rỗng
không của
mọi vật, của Ðạo lớn.
Có một văn hào tên là Wei
Wu Wei
đã diễn tả một cách thật hàm
súc về
vấn đề an trú trong hiện tại và
không
cần nỗ lực. Ông nói: "Cái gì mà ta đang
tìm
kiếm là cái gì đang tìm kiếm".
Không
có cái gì ở bên ngoài ta để cho ta tìm
kiếm, nắm giữ hay là đạt đến. Ông
nói: "Chỉ
có một câu hỏi, và hỏi tức là trả lời". Hỏi tức là việc xảy
ra
trong giờ phút hiện tại. Và đó cũng là
câu trả lời cho câu hỏi. Câu trả lời không phải là một cái gì "ở
bên
ngoài" mà ta cần phải tìm kiếm hay khám phá. Câu trả lời cho câu
hỏi trọng
đại "ta là ai", chính là việc
nêu lên
nghi vấn ấy.
Ðiều này giúp ta hiểu được truyền
thống
thiền của Zen và việc sử dụng các công án, là những vấn
đề không thể giải quyết được. Chúng
ta bắt
tâm mình phải suy nghĩ về những câu hỏi mà không thể nào có
một sự
giải đáp hữu lý được, như là:
"Hãy nói
cho ta nghe về tiếng vỗ của một bàn tay?" Khi mà ta
đi tìm câu trả lời bằng cách
cố gắng
giải quyết vấn đề, tức là ta
đã không hiểu gì hết. Câu hỏi
mà vấn
đề đưa ra, nghi vấn của một công án,
tự chính
nó là câu trả lời. Và sự thật thì lời giải
đáp cho một công án, là không
có một
câu trả lời nhất định nào hết.
Nó
chính là khả năng ứng đối hoàn
toàn
trong giây phút hiện tại. Thì đây
cũng là
mục đích cho sự tu tập của chúng ta:
hoàn
toàn sống trong giờ phút hiện tại - trong câu hỏi và trong câu trả
lời.
Không phải đi tìm giải
đáp bằng cách mong cầu một loại trí
thức,
hiểu biết hay kiến thức nào cả, nhưng là kinh nghiệm một
cách trọn
vẹn tiến trình xảy ra trong giờ phút hiện tại.
Trở ngại to tát nhất cho sự ổn định
là
sự cố chấp vào một hình ảnh, ý niệm về mình và những mơ tưởng về
một nhân
vật mà mình muốn được trở thành.
Chúng
làm phức tạp một cách không cần thiết cái kinh nghiệm giản dị của
việc
sống trong hiện tại. Thường thường thì những người trên con
đường tu hành thường hay bị
chấp kẹt
vào một hình ảnh. Một hình ảnh về một nhà tu, một thiền sư, một
đạo sư mà họ tự tạo nên, rồi
cố gắng
bó buộc mình phải hành động, sống
theo giống
như vậy.
Trong thời gian tu tập ở Ấn Ðộ, tôi có ba vị thầy khác nhau.
Qua những
vị thầy tôi học được một bài
học vô
cùng quan trọng: tôi hiểu rằng không có một phương pháp nào là duy
nhất
hết. Sự giác ngộ không được diễn tả
qua một
cá tính, hay một tác phong duy nhất nào. Mỗi vị thầy
đều có một cá tính riêng, theo
một
cách thức hoàn toàn khác nhau. Mỗi ngưòi đều
là hiện thân của trí tuệ, tình thương và sức mạnh, nhưng
hoàn toàn
không có một ý niệm rằng hiện thân này phải
được biểu hiện bằng một cách này hay một cách khác.
Wei Wu Wei nói rằng đức khiêm
tốn
chính là sự vắng mặt của một cá nhân kiêu hảnh. Nó không phải là
một vị
thế của thân hay của cá tính. Một khiêm tốn thật sự chính là sự vô
ngã.
Những vị thầy của tôi biểu lộ sự "vắng mặt" này theo một lối riêng
tự
nhiên của họ. Thấy được giáo pháp có
thể biểu
lộ qua nhiều cách khác nhau, giúp ta hiểu rằng không có một đường
lối nhất
định bắt buộc ta phải theo cả. Trong sự tinh luyện này, ta
không
phải đảm đương hay bắt chước theo một
tác
phong nào hết. Cứ thoải mái và để
cho
những cá tính của ta hiển bày một cách tự nhiên, hãy
để giáo pháp phô bày. Không có
việc gì
để làm, không có một ai
để trở thành và cũng không có
gì
để lấy. Và với thái
độ đó ta có thể làm, ta có thể
trở
thành và ta có thể lấy, một cách vô cùng tự tại.
Có một câu chuyện thiền nói về ý niệm chấp có mình và có người
khác.
Ngài tổng đốc của Kyoto đến thăm một
vị thiền
sư. Ngài tổng đốc sai người
hầu đem
tấm thiệp vào đưa vị thiền sư.
Trên
thiệp có ghi tên ông với hàng chữ: "Tổng đốc
của Kyoto". Vị thiền sư xem xong tấm thiệp, nói với người hầu:
- Ta không biết người này là ai cả! Ngươi hãy bảo ông ấy cút
đi cho khuất mắt ta!
Người hầu ra kể lại với lời xin lỗi.
- Chết! đó là lỗi của ta.
Ngài tổng đốc nói rồi lấy bút ra
gạch bỏ hàng
chữ "Tổng đốc của Kyoto".
- Xin anh đem vào trình lại
với
thiền sư dùm tôi.
Vị thiền sư đọc xong tấm thiệp rồi
la lên:
- À! té ra là ông ấy! Mời ông vào ngay, ta
đang muốn gặp ông ta đây!
Khi ông ta tự cho mình là "Tổng đốc
của
Kyoto", ông đã xa lìa đạo
pháp. Và
khi ông tự giới thiệu mình như là trong giờ phút hiện tại, không
hình ảnh,
không chức tước, không một ý niệm, ông chỉ là ông trong giờ phút
đó thì ông
được vào gặp vị thiền sư. Một
khả năng
đối xử với người khác, không bị gìới hạn trong một hình ảnh
nào,
giúp cho ta có được sự tự tại trong
những liên
hệ với mình. Thói thường thì ta hay đem
tự
dồn nhét mình với người khác vào trong những hộp hay những
ngăn
tâm lý - "Hắn là như vậy đó,
tôi biết
quá mà!" Mối liên hệ của ta đối
với
người khác rất là cố định, qua
tấm màn
thành kiến. Mà sự vật thì thay đổi
trong mỗi
giây phút: tâm ta, thân ta, hoàn cảnh chung quanh ta. Ta
phải biết
uyển chuyển thoát ra khỏi các thành kiến về mình hay người khác,
để cho những sự thay đổi này
cùng sự
hiểu biết của ta được cởi mở và
không
bị ngăn ngại.
Cuộc đời của chúng ta phần nhiều
quay
chung quanh ý niệm về cái Tôi của mình, và nỗ lực
để bảo vệ và thỏa mãn nó. Năng
lực này, khi mang vào trong sự tu tập thì ngược lại, trở
thành một
ý định muốn chiến đấu với cái Tôi ấy,
cho
rằng nó là một cái gì cần phải bị tiêu diệt. Nhưng chiến
đấu với cái Tôi tức là ta vẫn
chưa
hiểu được tự tánh của sự vật.
Wei Wu Wei có viết một ngụ ngôn gọi là: "Con vịt trời":
Muốn diệt cái Ngã ư? Săn nó, đập
nó, đánh
hơi nó, nói cho ta nghe nó trốn ở chỗ nào? Vui thú là cái
chắc.
Nhưng, nó ở đâu? Có phải ta nên
cần
tìm thấy nó trước chăng? Hình
như
người ta có nói ta phải bắt được con
vịt trời
trước cái đã, rồi hãy nói đến
chuyện làm
thịt nó?
Mà vấn đề khó khăn ở đây là
không
có một con vịt trời nào cả.
Mọi nỗ lực, mọi công phu, cố gắng để
diệt
trừ cái ngã... nhưng nó có hề hiện hữu bao giờ
đâu nà để
cho ta tiêu diệt. Không có gì để
cho
ta ra sức đeo đuổi và cũng không có gì
để loại trừ. Chúng ta cần phải chấm dứt việc tạo dựng lên
một cái
Tôi trong mỗi giây phút. Hãy sống trong giờ phút hiện tại mà không
dùng ý
niệm, hình ảnh. Sống một cách giản dị và thư thái. Không có một
mảy may
tranh đấu hay khích động trong một
cụôc sống
vô hình, vô dụng công ấy.
Có một bài văn thật đẹp diễn tả về
một lối
sống này:
Thế nào là bậc Chân nhân? Bậc chân nhân ngày xưa không nghịch
với ai,
dù là thiểu số, không cầu công, không cầu danh. Người như vậy, mất
không
tiếc, được không mừng... Bậc chân
nhân ngày
xưa ngủ không mộng mị, thức chẳng lo âu, ăn
không cầu ngon, thở hít thì thâm sâu... Bậc chân nhân ngày
xưa
không tham sống, không sợ chết. Lúc ra không hăm
hở, lúc vào không do dự. Thản nhiên mà
đến, thản nhiên mà đi. Họ
không quên
lúc bắt đầu, không cầu lúc sau chót.
Nhậnlãnh
cuộc sống thì vui với đó, mà
quên
đi, khi cái chết đến, phải trở về. Ðó
gọi là không lấy cái "người" nơi mình mà làm trở ngại lẽ "trời"
nơi mình.
Thế gọi là chân nhân. Nhờ được thế mà
lòng của họ luôn luôn vững vàng,, cử chỉ điềm
đạm, gương mặt bình thản. Lạnh như mùa thu mà ấm như mùa
xuân. Tất
cả luân chuyển như bốn mùa nên cùng vạn vật hợp nhau, không biết
đâu là cùng.
Hỏi: Làm sao mà ta lại có thể nỗ lực mà không có một sự cố gắng
được?
Ðáp: Chính nỗ lực của ta là để
không còn
cố gắng an trú và có chánh niệm trong hiện tại. Có lẽ một vài bạn
đã có kinh nghiệm, khi chánh
niệm tăng
trưởng, không còn bị vướng mắc vào những thành kiến, mơ
tưởng của
mình. Khi tâm ta ở trong trạng thái đó,
chẳng
có gì để làm cả.Khi ta
ngồi,
chỉ có ngồi, và ta ý thức được bất cứ
một
chuyện gì xảy ra một cách không cố gắng.
Hỏi: Dường như bây giờ, tình trạng tu của tôi có thể
được diễn tả như là một người
mơ ngủ
trong thất niệm. Mặc dù kiên nhẫn, tôi vẫn mong chờ nó qua
đi, nhìn vượt qua giai
đoạn này. Dường như là tôi chỉ
có thể
làm được bấy nhiêu
đó mà thôi...
Ðáp: Có loại trí tuệ phát xuất từ việc ý thức rằng mình
đang mơ mộng viễn vông. Chỉ cần nhìn
thoáng qua được cái tâm thơ thẩn,
lang thang
đó cũng đã chứng tỏ khả năng
sống mà
không bị lệ thuộc vào những bóng dáng và ý niệm ấy.
Hỏi: Như thế thì ta chọn lựa một lối sống bằng cách nào?
Ðáp: Nó có thể được thực hiện bằng
cách ý
thức về những nhu cầu cần thiết của mình, hơn là những
phưong tiện
để phô trương cái Tôi. Thay vì
coi nó
như là sự hoàn tất của một ước vọng cán nhân nào
đó, chúng ta có thể làm những
gì thích
hợp trong giây phút hiện tại, sẵn sàng để
phục vụ và khởi sự vì lòng từ bi. Rồi nó sẽ tự trôi chảy
một cách
giản dị và thư thả. Không có gì là đạc
biệt
để làm, để trở thành
hay
để có.
Hỏi: Thế còn những dự định phải
thực hiện
thì sao?
Ðáp: Tâm suy tính, hoạch định cũng
chỉ xảy
ra trong giờ phút hiện tại. Hãy ý thức rằng tâm dự
định là một biểu hiệu của hiện
tại.
Sống với những gì đang xảy ra, sử
dụng tiến
trình tư tưởng và cả toàn thể khuôn khổ của khái niệm
để đối phó với cuộc đời, nhưng bao
giờ cũng
vẫn đứng vững bằng một nhận thức rằng tất cả là bây giờ.
Hành
động nhưng không mong cầu vào
kết quả
của chúng.
Hỏi: Khi tôi nói chuyện, tôi có rất nhiều ý kiến về những gì
tôi muốn
nói. Tôi muốn biết, khi ta thật sự biết nghe và nói trong chánh
niệm nó ra
thế nào?
Ðáp: Chỉ có mỗi một cách để biết
được.
Ðó cũng là thông điệp của
những công
án Zen. Một thiền sư trao cho người đệ tử của mình công án
về chữ
Vô. Người đệ tử, ngồi đấy trên
tọa cụ,
suy nghĩ: "Vô, Vô, Vô... Biết sẽ nói gì với thầy khi ông hỏi mình
về công
án này đây?... Vô, Vô". Hay bất cứ
một công
án nào khác cũng vậy. Và người đệ
tử
đi vào trình pháp với vị thầy, lúc nào cũng suy nghĩ: "
Biết nói gì
đây?" Khi vị thiền sư hỏi về khám phá
của anh
ta trong công án Vô, anh sẽ tìm cách trả lời loanh quanh.
Vị thầy
sẽ lấy cây mà đánh cho anh một hèo.
Anh đã không chịu sống trong
giờ phút
hiện tại. Câu trả lời cho một công án là không có một câu trả lời
nào hết,
ngoại trừ sống thật trong ngay giờ phút đó.
Một sự đáp ứng trọn vẹn, vô Ngã, là lời giải
đáp cho câu hỏi ấy. Câu hỏi tức là
câu
trả lời. Cái gì mà ta đang tìm
kiếm là
sự tìm kiếm. Tất cả là ngay bây giờ, trong lúc này. Nhưng tâm ta
thì luôn
luôn muốn đi tìm một câu trả
lời dễ
dàng của kẻ khác trao cho. Tưởng rằng khi tôi biết câu trả lời,
tức là tôi
"giác ngộ". Ðó là khi mà ta bị một hèo lên
đầu. Bị đánh một hèo lên đầu
xảy ra
trong hiện tại, nó ngay ở giờ phút này
đây.
Hỏi: Thế còn nghe nhạc thì sao?
Ðáp: Âm nhạc là một thí dụ rất hay để
thấy
rằng, nếu ta không ở trong hiện tại, ta sẽ hụt nó. Nếu bạn đang
lắng nghe
nhạc và tâm bắt đầu suy nghĩ,
âm nhạc
không dừng lại để chờ bạn. Trong thời gian bạn lo ra, bạn sẽ không
lắng
nghe. Ðây có thể là một bài thực tập rất hay khi cố gắng
giữ tâm
mình ở với dòng sông âm thanh. Sự vô thường rất rõ rệt. Âm nhạc
không phải
là một sự kiện đơn nhất, nhưng là
một
sự liên tục khởi lên và mất đi tiếp
nối nhau.
Hỏi: Hình như cái gì cũng có hai điều
rõ
rệt là sự tỉnh thức và sự chú tâm vào một vấn
đề. Tôi có thể bị thu hút vào trong âm nhạc, mà không hề có
chánh
niệm; rất là ở trong hiện tại, nhưng không ý thức
được là mình
đang sống trong hiện tại.
Ðáp: Ðó là sự khác biệt giữa Ðịnh và Quán. Ta có thể tập trung
nhất tâm
vào trong âm nhạc mà không hề có chánh niệm, mặc dù có những
chuyện
đang xảy ra để cho ta ý thức. Lúc này
tâm hành của Ðịnh đang trội lên
hơn
hết, tâm ta không bị lay động. Chỉ
cần thêm
vào đó một chánh niệm sắc bén là
đủ, bạn sẽ có được một phưong pháp tu
tập
trọn vẹn.
Hỏi: Làm thế nào để mình
được trở nên trong sạch?
Ðáp: Cái đẹp của phát tu này
là
chánh niệm tự nó sẽ thanh lọc tất cả. Ta không cần phải thiết lập
một
chương trình nào cho mình, "Tôi sẽ trở nên thanh tịnh", vì nó cũng
hơi mâu
thuẩn. Ý thức được những gì
đang xảy ra trong giờ phút này
là sự
thanh lọc, để ta thấy được rằng không
có gì
để lấy hay để trở thành, chẳng
có gì
đặc biệt để làm hay giữ lại;
chỉ cần
ngồi lại với một sự tỉnh thức.
Hỏi: Các bậc thánh nhân từ ngàn xưa đến
giờ đã bỏ công ra truyền bá, viết sách, chơi nhạc, sáng
tạo... Ðó
có phải là những sự phô trương của họ hay không?
Ðáp: Khi bạn đã là vô hình,
khi bạn
không còn một tham vọng để làm
hay
đạt được bất cứ một cái gì,
thi thật
ra bạn có thể làm, hay trở thành, hay có bất cứ một cái gì trên
đời này. Thật vậy, nhiều bậc
giác ngộ
đã diễn tả sự hiểu biết của
mình một
cách tự khởi, trình bày giáo pháp qua văn
chương, nghệ thuật, nhưng họ không làm với một thái
độ phô trương hay khoe khoang một
điều gì.
Nó chỉ là một phần của sự phô bày tự nhiên, tự khởi, phát xuất từ
một trực
nhận, chứ không phải vì một cái Tôi, cái ngã hay là "coi ta
đây". Có rất nhiều vị thầy là
các nhà
thơ, nhà nghệ sĩ, nhưng những nghệ thuật, sáng tạo ấy, phát xuất
từ một sự
trống không.
Hỏi: Có thể nào ta vẫn còn sự ham muốn thực hiện một
điều gì, giúp
đở người khác, mà không là ích
kỷ
không?
Ðáp: Trong môn Ý Nghĩa Học có một vấn đề
về việc sử dụng chữ "tham muốn", nó có hai trạng thái. Một là
cái
muốn của lòng ái dục, của lòng tham bắt giữ một cái gì; hai là cái
muốn
của sự phát động. Cái muốn của sự
phát động
có thể bắt nguồn tư một trống không, từ trí tuệ hay từ tình
thương.
Sự phát động này khác xa với
những
hành động bắt nguồn từ sự chấp ngã,
chấp thủ. Ðức Phật sau khi thành đạo,
đã
đi giảng dạy trên bốn mươi lăm
năm. Ngài đã làm biết
bao nhiêu
việc, nhưng chẳng có ai ở phía sau những hành
động ấy cả. Nó là một sự phô bày tự nhiên của giáo pháp. Và
cuộc
sống của ta cũng nên phô bày tự nhiên theo một lối riêng của nó,
để biểu lộ tác phong và tự
tính của
ta. Nếu ta có thể hành động, nhưng
không với
một ý nghĩ "Tôi phải thực hiện điều này
để trở thành một nhân vật quan
trọng,để
được danh tiếng hay giàu có", chỉ để
cho nó tự phô bày trong giây phút hiện tại, thì mọi vật
đều có thể thực hiện được. Ðây
là một
cánh cửa rộng lớn để đi vào sự
tự do.
Nếu chúng ta có thể thoát ra ngoài sự chấp ngã và thành kiến về
mình, ta
có thể trở nên tự nhiên và dễ cảm nhận đối
với hoàn cảnh thay đổi chung
quanh.
Nhưng nếu ta có bất cứ một hình ảnh nào về mình, về hành
động của mình, những ý niệm ấy
sẽ trở
thành một khăn che mắt, đưa ta vào
con
đường nhỏ hẹp, giới hạn bởi sự cố
chấp, thành
kiến về mình, mất đi khả năng ứng phó
với hoàn
cảnh thay đổi chung quanh ta. Nếu
chúng ta
biết giữ sự cởi mở và tính cảm nhận, toàn tiến trình sẽ trở
thành
một sự trao đổi có hòa
điệu. Không cần phải tự giới hạn mình
trong một khuôn khổ, hình ảnh để làm
gì. Giữ sự linh hoạt. Giữ sự cởi mở.
-ooOoo-
Buổi tối thứ hai mươi sáu
THẤT GIÁC CHI
Ðức Phật đã diễn tả rất rõ
ràng con
đường đi đến giải thoát. Con đường này
gồm có sự phát triển của bảy tâm hành hay là bảy chi nhánh của sự
giác
ngộ, còn được gọi là Thất Giác
Chi.
Khi những tâm hành này được vun
trồng, nuôi
dưỡng đến mức trưởng thành, ta sẽ được
giải thoát ra mọi sự trói buộc, mọi khổ đau. Tất cả những phương
pháp tu
tập khác nhau, cũng chỉ với mục đích là
để phát triển một vài hay tất
cả bảy
chi nhánh của sự giác ngộ này.
1.- Chi nhánh giác ngộ đầu tiên
là
Niệm. Niệm tức là khả năng
ghi
nhận, ý thức được những gì đang
xảy ra
trong giờ phút hiện tại, không để tâm rơi vào sự quên lãng.
Ðức
Phật nói rằng ngài không biết có một yếu tố nào hùng mạnh bằng
Niệm, vì
Niệm có một khả năng vun trồng những
tâm
thiện và làm suy giảm những tâm bất thiện. Chúng ta không
cần làm
một việc gì đặc biệt để diệt trừ
những tâm
xấu và phát huy những tâm tốt, ngoại trừ có ý thức trong
giờ phút
hiện tại. Chánh niệm tự nó là một năng
lực
thanh lọc.
Trong một bài pháp nổi tiếng, đức
Phật dạy
rằng chính sự tu tập bốn lãnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ) là
con
đường duy nhất để đi đến giải thoát.
Chánh
niệm, tỉnh thức được gọi bằng nhiều tên khác nhau trong
những
truyền thống khác nhau. Nhưng vấn đề
danh
xưng không quan trọng. Chính sự khai triển khả năng tỉnh thức,
chánh niệm
mới thật sự là con đường giải
thoát.
Có bốn lãnh vực để ta áp dụng
chánh niệm:
a. Lãnh vực đầu tiên là
chánh
niệm nơi Thân: Hơi thở, cảm giác, những cử
động và oai nghi khác nhau. Ý thức và cảm nhận
được mọi sự thay đổi của thân thể.
b. Lãnh vực thứ hai của chánh niệm là Cảm thọ, tức những tính
chất dễ
chịu, khó chịu hay trung hòa khởi lên trong giây phút của tâm.
Mỗi
đối tượng đều có một cảm thọ đi kèm
theo. Khi những cảm thọ này trội lên hơn hết, khi ta có một cảm
giác dễ
chịu hay khó chịu mạnh mẽ, chúng trở thành
đề mục của thiền quán. Cảm thọ vô cùng quan trọng, vì
chúng làm
điều kiện cho sự ưa thích của ta. Vì
cảm thọ dễ chịu mà ta ham muốn một sự vật gì. Vì cảm thọ khó
chịu mà ta
tức giận hay có ác cảm đối với một
việc gì.
Sự áp dụng thứ hai của chánh niệm là ghi nhận những cảm thọ này
mỗi khi
chúng sanh lên và diệt đi, không ưa
thích
những gì dể chịu, không ghét bỏ những gì khó chịu.
c. Lãnh vực thứ ba của chánh niệm là Tâm thức. Ý thức
được mọi tâm hành cùng những
thức
tùy tùng của nó. Khi ta có một sự tức giận, ý thức
được tâm nóng giận; khi ta có một
sự ái
dục, ý thức được tâm ái dục đó, hay là tâm sợ hãi khi nó
có mặt.
Ý thức được tâm của mình khi
nó bị
nhuộm màu bởi những yếu tố khác nhau, mà không thương ghét,
không phê
phán, không đánh giá, không thêm
bớt. Cái giận không phải là ta, nó chỉ là một tâm hành
đang nhuộm màu tâm thức của
ta trong
giây phút ấy. Ngồi lại và nhìn sự đến
rồi
đi của chúng. Với một thái độ quan sát không chọn lựa, ta không còn
một tâm hành nào có khả năng chi
phối tâm
của ta. Chúng chỉ là một màn của một tuồng hát qua
đường. Chẳng có gì
đáng để ta phải hớn hở hay lo buồn.
Chỉ
giản dị giữ chánh niệm, tỉnh thức.
d. Lãnh vực cuối cùng của chánh niệm là Pháp, tức là sự nhận
thức
chân lý, luật tự nhiên, ba tính chất của hiện hữu và Tứ Diệu Ðế.
Thấy
được khổ đau, nguyên nhân
của khổ
đau, sự chấm dứt khổ đau và
con
đường đi đến sự chấm dứt khổ đau.
Có chánh
niệm về những trí tuệ này khi chúng khởi lên. Chánh niệm
về Pháp.
Có nhiều phưong pháp thực hành Vipassana khác nhau, mỗi cách
thức chú
trọng vào một vài hay tất cả bốn lãnh vực vừa kể. Thực hành theo
bất cứ
cách nào cũng sẽ đạt được mục đích là
đem tâm ta đến một trạng thái sáng
suốt, quân
bình. Tùy theo tánh khí, kinh nghiệm, tánh tình và
điều kiện, mà những phương
pháp khác
nhau thích hợp cho những hạng người khác nhau. Nhưng ta không nên
chấp vào
phương pháp, điều quan trọng là
phải
phát triển chánh niệm.
2.- Chi thứ hai của giác ngộ là Trạch pháp, hay
là khảo
sát giáo pháp. Trạch pháp có nghĩa là tìm hiểu, khám phá, phân
tách một
cách sâu sắc tiến trình của thân tâm, không dùng tư tưởng, không
dùng khái
niệm, nhưng với một tâm thức yên lặng và an lạc. Sử dụng trực giác
và kinh
nghiệm, để trực tiếp tìm hiểu
coi hoạt
động của toàn thể tiến trình
xảy ra
như thế nào. Ðây cũng là một tên gọi khác của trí tuệ, ánh sáng
trong tâm
soi sáng tất cả những việc gì đang
xảy ra.
Khi Trạch pháp được trau dồi, ta sẽ thấy rằng mọi hiện tượng trong
tâm và
thân ta luôn luôn ở trong một trạng thái chuyển
động. Không có gì thưuờng
hằng, mọi
vật sanh lên và diệt đi liên
tục. Cả
hai tâm thức và đối tượng của chúng,
đến và
đi không ngừng nghỉ. Không có một nơi
nào
để nương tựa, không có chốn nào
để ta có thể ẩn náo. Mọi sự đều đang ở
trong
một trạng thái chuyển hóa không ngừng. Với chi Trạch pháp này,
kinh
nghiệm về vô thường sẽ phối hợp, ăn
sâu vào
trong nhận thức của ta. Chúng ta sẽ kinh nghiệm
được, trên một bình diện sâu
xa hơn,
tâm thức chỉ là một dòng sông trôi chảy của các hiện tượng, tư
tưởng, hình
ảnh, tình cảm, tánh khí. Thân ta chỉ là một tập hợp của sự rung
động cảm giác, không có thể đặt,
không có gì
để ta giữ lại. Từ những kinh nghiệm
về vô
thường này phát sinh ra một trực kiến rằng không có gì
trong tiến
trình thân tâm này là có thể đem lại
một hạnh
phúc vĩnh cữu hết. Không có một sự thỏa mãn nào là lâu bền.
Không
có gì là hoàn tất mãi mãi, vì tất cả đều
sẽ
tiếp tục đi qua. Nó cũng giống như đi tìm hạnh phúc an ổn
trong một
bong bóng nước. Vừa khi đụng đến là
nó
vỡ tung. Sự hủy hoại có mặt trong mỗi giây phút. Một bản chất bất
an ninh.
Cùng với sự vô thường và tính chất bất an, là một nhận thức về vô
ngã.
Không có một nơi nào trong thân và tâm mà ta có thể tìm
được một thực thể nào là
thường hằng,
để có thể gọi đó là Ta, là
ngã. Không
có một ai ở phía sau các tiến trình hành động
cả.
"Trong sự thấy chỉ có cái bị thấy; trong sự nghe chỉ có cái bị
nghe;
trong cảm giác chỉ có cái bị cảm; trong sự suy nghĩ chỉ có cái bị
suy
nghĩ". Tất cả chỉ là một dòng sông trôi chảy của tiến trình. Sự
thấy, sự
nghe, sự ngữi, sự nếm, sự đụng chạm và
sự suy nghĩ. Toàn thể vũ trụ của ta chỉ thu gồm trong sáu tiến
trình này.
Những hiện tượng rỗng không tiếp tục trôi lăn.
Không có Tôi, không có ngã. Các đặc
tính đó được trực nghiệm trên một bình diện thâm sâu, khi
chi Trạch
pháp được phát triển. Nó là
trí tuệ
soi sáng tâm thức của ta.
Một trong những trợ lực bên ngoài cho sự khai triển trí tuệ là
yếu tố
Tịnh, hay là sự sạch sẽ của thân thể, của quần áo, của ngoại cảnh.
Thí dụ
như một ngọn đèn dầu. Nếu lồng
kiếng,
tim đèn, dầu, tất cả
đền dơ bẩn, ánh sáng tỏa từ ngọn đèn
không được sáng tỏ cho lắm. Còn
nếu
như kiếng trong trẻo, tim và dầu đều
sạch thì
ánh sáng sẽ rất là tỏ, và ta có thể thấy mọi vật dễ dàng.
3.- Chi thứ ba của giác ngộ là Tinh tấn. Không có
một
việc gì thành công mà không có một cố gắng. Nếu chúng ta muốn
đạt được bất cứ một điều gì
trên cuộc
đời, tiền bạc hay là một năng
khiếu nào đó, ít nhất ta phải
bỏ ra
một chút nỗ lực. Những gì chúng ta
đang làm nơi đây là vun
trồng
một lợi ích cao thượng. Ta phải biết nỗ lực, tinh tấn. Ðức Phật
chỉ là
người chỉ đường, mỗi chúng ta phải tự
mình
đi. Không có ai có thể giác ngộ dùm
một kẻ khác được. Tham, sân, si hiện
hữu
trong tâm của ta. Không có ai đem nó vào. Không có ai có
thể lấy nó
ra. Chúng ta phải tự thanh lọc. Mỗi người chúng ta phải tự nỗ lực
để đi trên con
đường thanh tịnh. Tinh tấn là
một yếu
tố rất mãnh liệt, khi được trau dồi và
phát triển nó có thể loại trừ được
những hôn
trầm, lười biếng, dã dượi trong tâm. Khi gặp phải những khó
khăn,
trở ngại trên đường, nỗ lực
tinh tấn
sẽ nâng cao tinh thần. Ðây là một trợ lực quan trọng, một
phần ắt
có của con đường đi đến giải thoát.
4.- Chi thứ tư của giác ngộ là Phỉ. Phỉ có nghĩa
là sự
đam mê vào một
đối tượng. Nó được diễn tả như là
một
niềm vui hớn hở. Một niềm vui thú ham thích chuyện
đang xảy ra trước mặt. Ví dụ như có
người đi
lạc nhiều ngày trong sa mạc, nóng bức và mệt mỏi, dơ và
khát. Cách
đó không xa, anh thấy một hồ nước
trong vắt.
Tâm của anh lúc đó chỉ biết hồ nước trước mặt, niềm sung sướng của
anh bây
giờ cũng tương tự như là chi giác ngộ Phỉ lạc. Phỉ lạc là
khoảng
không gian thênh thanh trong tâm, vì không cố chấp, bám víu hay
nắm chặt
vào sự vật.
Một phương cách để trau dồi yếu tố
này
là quán tưởng về mười sự hoàn toàn trong sự giác ngộ của
đức Phật. Sự hoàn toàn trong
việc bố
thí. Bố thí vì muốn làm vơi đi khổ
đau của
mọi loài. Ðức Phật không hề dừng lại
để thắc mắc, người này đáng
được cho,
còn người kia thì không. Lòng độ
lượng
vô bờ bến. Sự hoàn toàn trong việc giữ giới. Không làm hại
một sinh
vật nào. Từ bỏ. tinh tấn. Trí tuệ. Kiên trì, luôn luôn gìn giữ.
Kiên nhẫn
là một đức tinh rất quí trên
con
đường tu tập. Lòng từ bi. Sự
bình an.
Ðức cương quyết. Lòng chân thật. Những đúc
tánh này đem lại sự hoàn
toàn
cho sự giác ngộ của đức Phật. Chúng
ta có thể
làm yếu tố Phỉ lạc phát huy trong ta bằng cách quán tưởng
về
đức Phật và ý thức rằng ta
cũng
đang vun trồng những dức tánh ấy.
Trong mỗi hành
động bố thí, trong mỗi sự kiên
nhẫn
hay chân thật và những đức khác,
chúng ta
đang cùng chia xẻ sự hoàn toàn của một Phật tánh. Quán
tưởng về
những việc làm tốt và sự tu tập của mình, sẽ
đem lại một niềm vui. Suy nghĩ về giáo pháp: Tứ Diệu Ðế, Vô
thường,
Vô ngã - những chân lý cho mọi thời, mọi người. Quán tưởng về sự
chân thật
của giáo pháp, qua chính kinh nghiêm của mình, và tính chất "hãy
thử rồi
sẽ thấy" hơn là "bạn phải tin" của đạo
Phật.
Sự tán dưong chân lý mang lại cho ta một niềm vui lớn và
phát huy
sự Phỉ lạc trong tâm. Niềm hạnh phúc siêu diệu khi
đi vào chân lý sẽ
đem lại cho ta một tâm vô cùng
thanh
nhẹ.
5.- Chi thứ năm của giác ngộ là
An tĩnh. Một thí dụ về sự an tĩnh này là giống như một
người
đang đi đường mệt lả, dừng chân lại
dưới một
tàng bóng mát mẻ dưới một gốc cây. Cảm giác tươi mát, dễ
chịu của
người đó giống như là yếu tố
An tĩnh.
Khi mọi tham dục đã không còn,
tâm ta
sẽ trở lại tươi mát vì không còn bị lửa sân hận, ái dục thiêu
đốt.
6.- Chi thứ sáu của giác ngộ là Ðịnh. Ðịnh có
nghĩa là
khả năng tập trung tư tưởng lại vào
một điểm duy nhất, giữ tâm yên
ở
đó mà không bị xao
động. Một tâm không có định thì
rất là
nông cạn, nó sẽ lang thang từ một đối
tượng này
sang đối tượng khác. Ðịnh
đem một sức mạnh và khả năng
quán chiếu lại cho tâm. Có hai loại định. Loại thứ nhất được tập
luyện
bằng cách đặt tâm mình vào một điểm,
và
phát triển cho đến mức nó thấm sâu vào
trong đề mục ấy. Loại định này
là căn
bản cho một số thần thông. Còn loại
định thứ hai, được phát triển trong thiền quán, được gọi là
định nhất thời. Loại định này
tập
trung tâm ý vào nhiều đối tượng khác
nhau.
cũng chính loại định thứ hai này, phối hợp với những yếu tố
giác
ngộ khác, đưa ta đến sự giải thoát.
7.- Chi cuối cùng của sự giác ngộ là Xả. Xả có
nghĩa là
một tâm không thiên vị. Khi mọi việc suông sẻ, không có sự hân
hoan quá
trớn. Khi gặp khó khăn, trở ngại,
không buồn
nản hay thất vọng. Xả có nghĩa là không thiên vị
đối với bất cứ một hiện tượng nào,
coi
mọi sự việc bình đẳng như nhau. Một
thí dụ về
yếu tố Xả là ánh sáng mặt trời chiếu xuống mặt
đất. Mặt trời không hề chọn lựa chiếu
soi một
nơi này mà từ chối một nơi khác. Nó chiếu tỏa ánh nắng một
cách
bình đẳng đến mọi vật. Yếu tố Xả tức là
chấp nhận và tiếp đải mọi vật như
nhau. Một
phưong pháp để trau dồi yếu tố Xả, nhất là trong việc
đối xử với kẻ khác, là nhớ
rằng chúng
ta chỉ là người thừa tự những nghiệp quả của mình. Thế cho nên khi
gặp
người đang hạnh phúc, ta có thể chung
vui với
họ trong một tâm Xả, vì hiểu rằng, họ dang hưởng những quả
trái của
kiếp trước. Hoặc khi thấy người đang
bị khổ
đau, ta có thể khởi lòng từ bi, làm vơi
đi nỗi khổ của họ, nhưng với một tâm
không
động, vì hiểu rằng đây chỉ là
sự bù trừ của luật nhân quả. Nhưng tâm Xả không phải là một sự
lãnh
đạm, thờ ơ, mà là một sự quân
bình của
tâm. Trong thiền quán, khi tâm ta đạt
đến một
trình độ có thể ý thức được
tiến trình
biến đổi một cách thật chi tiết và
chính xác, yếu tố Xả giữ cho mọi sự được
quân
bình, an tĩnh.
Có bảy chi nhánh của giác ngộ mà ta cần phải khai triển trong
con
đường tu tập. Ba chi thuộc về những
yếu tố làm
phát khởi, và ba chi thuộc về những yếu tố làm an tâm. Trí tuệ,
tinh tấn
và Phỉ lạc làm khích động tâm, khiến
cho nó
được tỉnh thức và mẫn tiệp. An tĩnh, Ðịnh và Xả làm cho tâm
trở nên
yên ổn, lặng lẻ. Những yếu tố ấy phải hoàn toàn hòa hợp với nhau:
nếu có
nhiều sự khích động quá ta sẽ trở nên
bồn chồn, còn nhiều sự an tĩnh quá ta lại trở nên hôn trầm. Yếu tố
Niệm
thật vô cùng quan trọng, vì nó chẳng những hỗ trợ cho những yếu tố
giác
ngộ khác mà còn giữ cho chúng ở trong một sự hòa hợp, quân bình.
Sự tiến hoá của tâm trong đoạn
đường này
có thể đem lại cho ta một niềm khích
lệ và
phấn khởi vô biên. Hãy tưởng tượng một tâm khi
đã được
khai triển đầy đủ những yếu tố Niệm, Trí tuệ, Tinh tấn, Phỉ lạc,
An tĩnh,
Ðịnh và Xả. Tâm ấy sẽ chói sáng và tràn
đầy hạnh phúc. Ðó là những gì
mà chúng
ta đang tu tập ở đây. Những chi nhánh
của
giác ngộ không những chỉ mang lại hạnh phúc trong giờ phút hiện
tại, mà
còn xuôi hướng về Niết bàn, về giác ngộ, về giải thoát.
Ngày qua ngày, đôi khi chúng ta dễ
quên
đi lý do vì sao mình lại ngồi
đối diện với những sự bức rức, đau
đớn, nhức
mỏi, lo ra. Nhưng những gì đang
xảy ra
mà ta không nhận thấy được -
một cách
chắc chắn, đều đặn và tấn tới - là sự phát triển của những
chi
nhánh giác ngộ này. Ðây là một công trình vĩ
đại. Ðây là một tiến hóa cao tột nhất của tâm.
Hỏi: Giác ngộ đến một cách dần dần
(tiệm
ngộ) hay xảy ra trong chớp nhoáng (đốn ngộ).
Ðáp: Cả hai. Giác ngộ lúc nào cũng là chớp nhoáng, theo nghĩa
nó là một
trực nhận của trí tuệ. Ðây không phải là chuyện mà ta có thể suy
nghĩ ra
được. Nó phát xuất từ một tâm, im
lặng, một
trực kiến, bất ngờ, một sự hiểu biết không thể nghĩ bàn.
Nhung trực
giác ấy không phải xảy ra một cách ngẩu nhiên. Trong tâm phải
đạt đến một sự quân bình
đáng kể nào
đó, thì sự giác ngộ này mới có
thể xảy
ra.
Hỏi: Và khi một người có được một
sự hiểu
biết nào đó, họ có hành
động theo trí tuệ ấy không. Dường như
bây giờ
tôi có được một chút nào hiểu biết, nhưng tôi thấy mình
không làm
đúng theo nó.
Ðáp: Chỉ cần sự thật là bạn có chánh niệm hơn một chút là cũng
đã thay
đổi hành động của bạn rồi.
Chánh niệm
rất có hiệu lực. Một khi bạn đã thử tập ngồi nhìn những sự
việc xảy
ra, bạn sẽ khó mà có thể bị lôi cuốn vào những phản ứng như khi
xưa, mặc
dù hoàn cảnh cũng giống hệt như vậy. Cũng giống như có một tiếng
nói trong
bạn: "Mình đang làm gì thế?"
Một chút
chánh niệm tu tập ấy sẽ trở thành một năng
lực mãnh liệt. Và dần dần, sự hiểu biết sẽ phối hợp vào với
hành
đông của ta một cách trọn vẹn hơn.
Hỏi: Tôi có một thắc mắc về sự vô thường của hạnh phúc. Tôi
biết có
những người yêu Thượng đế một cách mãnh
liệt và dường như họ lúc nào cũng phát ra một nguồn an lạc, hạnh
phúc cả?
Ðáp: Ðiều này có thể hiểu bằng hai cách: thứ nhất, mọi trạng
thái
đều vô thường trong nhất thời; có
nghĩa là,
hạnh phúc không thể thường hằng trong tâm, vì tâm tự nó sanh diệt
trong
mỗi giây phút. Trên căn bản đó, giây
phút của
tâm thức, thì nó là vô thường. Không có gì là thường hằng,
không có
gì là bất động. Theo cách hiểu thứ nhì,
thì những người yêu thượng đế, họ
muốn trở về
với thượng đế, ý thức được thượng đế qua một phương pháp thiền
định. Họ có
thể hưởng được một hạnh phúc lâu dài. Mặc dù nó ở trong một
tiến
trình thay đổi, nhưng những trạng
thái ấy liên
tục nhau. Cũng vậy, trạng thái ấy tuy dài lâu nhưng vẫn là vô
thường. Khi
mà điều kiện thương yêu thượng
đế vẫn còn
đó, và khi mà
định lực vẫn còn
đầy đủ, nó sẽ sinh ra quả hạnh phúc.
Nhưng
khi có một sự mê mờ nào khởi lên trong tâm, mà hạnh phúc
được duy trì là nhờ có
định lực thì tâm ta lại trở
nên mờ mịt
vì những tham, sân, si. Ðịnh lực có khả năng
đè nén những tâm bất thiện, khi nào
định lực còn đầy đủ, mọi vật
sẽ an
vui, hạnh phúc. Ðến chừng khi định
lực
bị suy chuyển, những tâm bất thiện bị dồn nén sẽ trở lại hoạt động
như
xưa. Bởi vậy cho nên điều quan
trọng là
ta phải biết dùng trí tuệ để nhổ tận
gốc rễ
của khổ đau, để chúng không còn khả năng
khởi lên được nữa.
Hỏi: Ðức Phật là một đấng đại từ,
đại bi,
thế tại sao ngài không ở lại cuộc đời
mà giúp chúng sanh?
Ðáp: Ðức Phật là một hóa thân của giáo pháp. Ngài không phải là
một cái
gì đứng bên ngoài sự chi phối
của luật
tự nhiên. Ðã có sanh ra thì sẽ có bệnh và có chết. Cho dù bạn có
giác ngộ
hay không giác ngộ, đây là một
phần
của luật tự nhiên. Nhưng chân lý thì bất biến, khi
đã học
được con đường của sự hiểu biết, chúng ta không cần phải dựa vào
bất cứ ai khác, ngoại trừ mình.
Hỏi: Tôi để ý rằng tình
thương
không phải là một chi nhánh của sự giác ngộ. Nếu ta trở nên quá
khô khan,
lạnh lùng, điều ấy có nguy hiểm
không?
Ðáp: Việc quan trọng là ta phải hiểu những ý nghĩa khác nhau
của tình
thương. Loại thứ nhất là loại mà ta đã
nói tới, tình thương có tính cách trao đổi.
Chúng ta thương nhưng muốn phải có một cái gì
để đáp lại. Loại thứ hai là
lòng mong
muốn mọi người đều được hạnh phúc,
một tình
thương vô bờ bến. Ðây là một loại tình thương không có giới hạn,
vô
điều kiện. Nhưng nó vẫn còn sử
dụng
khái niệm, như là đàn ông,
đàn bà, chúng sanh. Những ý
niệm này
không phải là những sự thật tuyệt đối.
Con
người thật của chúng ta chỉ là một tập hợp của những yếu tố
theo
nhau sanh và diệt trong từng giây phút. Có một loại tình thương
thứ ba cao
thượng hơn cả loại tình thương vô điều
kiện.
Tình thương này là một sự hoà hợp tự nhiên, phát sinh từ sự
phá bỏ
những biên giới tạo nên bởi ý niệm về một tự thể riêng biệt. Không
có
"Tôi", không có "người khác". Tình thương này sanh ra nhờ trí tuệ,
và trên
bình diện này thì "tình thương" và "rỗng không"
đều cùng một ý nghĩa như nhau.
Không
hề có một ý niệm "Tôi đang thương".
Hoàn
toàn không bị chi phối bởi ý niệm về Ngã, về một cái Tôi. Khi bạn
đạt đến loại tình thương cao
tột nhất
này, thì bạn cũng sẽ biểu lộ được
những loại
tình thương kia. Hãy nhìn chung quanh, quan sát những vị
thầy mà
bạn kính phục. Các ngài cũng đầy tình
thương vá ánh sáng, nhưng không hề có một ý nghĩ là họ phải làm
như vậy.
Nó là một biểu lộ tự nhiên của giáo pháp.
-ooOoo-
Buổi tối thứ hai mươi chín
CON ÐƯỜNG CỦA PHẬT
Ðức Phật không có dạy chủ nghĩa Phật giáo. Ngài dạy giáo pháp
(Dharma),
hay là luật. Ngài không hề dạy tín ngưỡng hay là giáo
điều độc đoán, hay là một hệ
thống nào
bắt buộc người ta phải tin theo. Qua sự giác ngộ của ngài,
đức Phật chỉ cho ta con đường, để
chúng ta có
thể kinh nghiệm được chân lý bên trong mỗi người chúng ta.
Trong
khoảng thời gian bốn mươi lăm năm
hoằng pháp,
ngài đã dùng rất nhiều văn
tự, ý niệm khác nhau để chỉ cho ta chân lý. Nhưng những văn tự, ý
niệm ấy,
tự nó không phải là chân lý; chúng chỉ là ngón tay chỉ cho
ta thấy
mặt trăng. Trong thời đức Phật, nhờ ở
trí tuệ
và tài giảng thuyết của ngài, không có mấy ai bị lầm lẫn
giữa ý
niệm và kinh nghiệm. Họ nghe những gì đức
Phật muốn nói, quay vào bên trong và kinh nghiệm sự thật ở
nơi
chính thân tâm của mình.
Sau một thời gian người ta bắt đầu
bớt đi
thực hành, họ bắt đầu lẫn lộn
lý
thuyết với lại kinh nghiệm. Có nhiều trường phái khác nhau xuất
hiện,
tranh luận nhau về lý thuyết, khái niệm. Ðiều này cũng
giống như vì
muốn để cho người khác thấy mặt
trăng, ta dùng
ngón tay để chỉ. Nhìn ngón tay
mà quên
đi mặt trăng là
đã quên
đi mục đích của nó. Chúng ta không nên lầm ngón tay với lại
mặt trăng,
đừng nhầm lẫn văn tự, lý thuyết với lại một kinh nghiệm thực
chứng.
Khi giáo pháp được truyền sang
Trung Hoa,
nó được phát triển theo một đường hướng đặc biệt. Phật giáo được
pha thêm
Lão giáo. Một trong những người có ảnh hưởng nhiều nhất vào
đường lối và truyền thống của
trường
phái thiền Ch'an (Zen) là lục tổ Huệ Năng.
Trong thiền sử có viết, mặc dù ngài vô học, không biết dọc,
nhưng
tâm ngài trong sạch và thẳm thấu đến
mức chỉ
nghe một lời tụng trong kinh Kim Cang, là ngài
đã giác ngộ. Thường thì người
ta phải
đọc những lời trong kinh Kim Cang cho
ngài
nghe, để nhờ ngài giảng nghĩa
lý thâm
diệu của nó.
Ngài có giảng cho nghe về ý nghĩa của các trường phái, những cổ
xe
(thừa) khác nhau trong Phật giáo:
Ðức Phật giảng dạy giáo lý của ba thừa (cổ xe) và tối thượng
thừa.
Muốn hiểu được việc này, các
ông hãy
tỉnh tâm lại và đừng chấp vào
hình
tướng hay hiện tượng. Sự khác biệt của bốn thừa này không hề có ở
trong
giáo lý của đức Phật, nhưng chỉ ở
trong tâm
phân biệt của con người. Nghe, đọc, tụng kinh sách là
Tiểu thừa.
Học và hiểu được giáo pháp là
Trung
thừa. Ðem giáo pháp ra để thực hành
là Ðại thừa. Thông suốt được giáo
pháp,
thâm nhập nó hoàn toàn, xa lìa mọi chấp nhứt và không nắm
giữ một
việc gì, là Tối thượng thừa.
Trong mọi truyền thống Phật giáo, cho dù ở Ấn Ðộ, Miến Ðiện,
Trung Hoa,
Nhật Bổn, Tây Tạng hay Hoa kỳ, có những hạng người chấp vào văn
tự, đọc tụng kinh điển. Ðó chính là tiểu thừa. Khi ta
chuyển lý
thuyết ra thành hành động, trực tiếp
kinh
nghiệm giáo pháp, chúng ta lần lần tiến lên những thừa cao
hơn. Cho
đến khi ta không còn bám víu
vào
đâu nữa, không còn trụ chấp
vào một
nơi nào, hoàn toàn sống trong đạo
pháp trong
mỗi giây phút. Ðây mới là con đường
tối thượng thừa của giáo pháp, một sự thực hành trọn vẹn.
Nó không
nằm trong truyền thống nào hết. Nó tùy thuộc vào sự hiểu biết tiến
hóa của
mỗi người.
Khi giáo pháp được biểu lộ qua
những giai
đoạn khác nhau, trong lịch sử đã có nhiều vị thiền sư sử
dụng những
phương thức thiện xảo để hướng dẫn
người ta
quay trở vào trong, kinh nghiệm giáo pháp ngay chính nơi
tâm mình.
Có những danh từ thông dụng, nhưng sau một thời gian bị trở thành
một
chướng ngại, một ý niệm, được các ngài
sử dụng theo một lối mới để tỉnh thức
con
người, bắt họ phải quay lại nhìn vào thực tại.
Thí dụ như danh từ "Phật", đã
được sử dụng trong nhiều truyền thống
đối với
những khái niệm khác nhau. Trước hết, Phật dùng
để chỉ một nhân vật lịch sử, Sĩ Ðạt
Ta
Cồ Ðàm, đã giác ngộ. Nhưng
danh từ ấy
cũng được dùng
để chỉ một tâm không còn
điều bất thiện: Phật tâm, Phật tánh,
Tâm
không còn bị ảnh hưởng bởi tham, sân và si.
Trong vòng 300 năm sau khi đức
Phật nhập
diệt, không hề có hình Phật hay tượng Phật. Thực hành giáo
pháp tức
là hình ảnh của Phật, không cần phải biểu hiện nó ra bên ngoài.
Nhưng theo
thời gian, truyền thống này bị mất, con người bắt
đầu đem đức Phật ra bên ngoài
tâm
mình, hình tướng hóa nó trong giới hạn không gian và thời gian.
Khi ý niệm
bị hình tướng hóa, hình tượng được
dựng nên,
các bậc thầy lại bắt đầu nhấn mạnh
lại ý
nghĩa ban đầu của chữ Phật. Có vị khuyên "phùng Phật sát
Phật". Có
nghĩa là gặp Phật thì hãy giết ngài đi.
Câu này
làm rúng động những ai quen dùng
nhang
đèn thờ lạy Phật. Nếu bạn có
một hình
ảnh nào về tâm Phật ở bên ngoài bạn, hãy tiêu diệt nó, buông bỏ nó
đi. Ðã có một cuộc tranh luận
kịch
liệt về việc giác ngộ, thấy Phật tánh, trở thành Phật trong kiếp
hiện tại,
một luồng sinh khí mới đã
được thổi vào sự thực hành.
Ðức Phật Cồ Ðàm đã liên tục
nhắc
nhở chúng ta rằng, muốn kinh nghiệm được
chân
lý phải biết quay vào bên trong tâm mình. Có câu chuyện về
một vị
đệ tử say mê vẻ
đẹp của thân đức Phật, tương truyền
đức Phật
có một vẻ đẹp trọn vẹn về cả thân lẫn tâm, ông ta cứ tìm
dịp
để được ngồi cạnh nhìn ngắm
những
tướng tốt trang nghiêm của ngài. Sau một thời gian,
đức Phật quở trách ông. Ngài
nói rằng,
ông ta có thể nhìn ngắm chân dung của đức
Phật một trăm năm mà cũng sẽ không thể nào thấy
được Phật. Ai thấy được giáo pháp sẽ
thấy
được Phật. Ðức Phật nằm ở bên trong ta. Nó có nghĩa là kinh
nghiệm
được chân lý. Luôn luôn lúc nào
cũng
phải trở về với hiện tại, kinh nghiệm được
ngay giờ phút này.
Tổ Huệ Năng có nói:
Chúng ta nên đi tìm Phật ở
trong
cốt tủy của tâm. Không nên phí công tìm ở bên ngoài mình. Kẻ nào
không
biết gì về tự tánh của tâm mình là chúng sanh. Còn ai thấy
được tự tánh ấy, người đó là
Phật.
Phật ở đây không phải là
một nhân
vật lịch sử, nhưng là sự tự do không còn bị chi phối bởi những sự
bất
thiện, một tâm hoàn toàn thanh tịnh. Ðó là
đức Phật mà tất cả chúng ta đều
phải
trở thành.
Một quan niệm khác, thường bị hiểu lầm là phân biệt những
truyền thống
với nhau, là quan niệm về Bồ Tát. Danh từ "Bồ Tát" có hai nghĩa.
Theo một
nghĩa chuyên môn, nó dùng để chỉ một
người
phát nguyện sẽ giác ngộ, như là Sĩ Ðạt Ta và cuộc hành
trình tiến
hóa của ngài cho đến khi đắc quả
Phật. Nhưng
danh từ Bồ Tát cũng có một nghĩa khác, dùng
để chỉ biểu tượng cho những đức tính
trong
sạch của tâm. Trong truyền thống Mahayana và Tây tạng, có
cả một hệ
thống bồ tát, mỗi vị tượng trung cho một đức
tánh của tâm. Văn Thù là bồ tát của trí tuệ. Quán Thế Âm là
bồ tát
của đức từ bi. Những biểu tượng cho
các đức
tánh thiện trong tâm. Trong mỗi giây phút của trí tuệ, ta trở thành
bồ tát Văn Thù, trong những
giây phút
của từ bi ta là đức bồ tát Quán Thế
Âm. Nếu
chúng ta hiểu danh từ Bồ tát theo nghĩa này, Bồ tát nguyện
sẽ có
một ý nghĩa bao la hơn.
Trên một phương diện, nó là lời nguyện dâng hiến thân này cho
sự giác
ngộ, giải thoát. Tương truyền rằng Sĩ Ðạt Ta trong một tiền kiếp,
thời của
một đức Phật khác, ngài có
đủ khả năng giác ngộ, nhưng vì
quá cảm
phục sự hiện diện của đức Phật ấy,
quá thương
xót mọi loài đang còn
bị
đau khổ, nên ngài quyết
định dời lại sự giác ngộ của mình
vào
một kiếp khác, để có thời gian đào
luyện một sự hoàn toàn cho Phật tánh của mình. Mặc dù tâm tự tại
của bồ
tát và Phật đều bình
đẳng như nhau, nhưng năng lực và
chiều
sâu của lòng từ bi và trí tuệ của Phật có phần hơn, vì sự tiến hóa
lâu dài
của các ngài.
Một ý nghĩa khác về Bồ tát được
lục tổ Huệ
Năng diễn tả rõ ràng như sau:
Chúng ta nguyện sẽ giải thoát vô lượng chúng sinh. Câu ấy có
nghĩa gì
chứ? Nó không có nghĩa là tôi, Huệ Năng,
sẽ
độ cho những chúng sanh ấy. Và những chúng sanh này là ai?
Chúng
chính là những ý nghĩ si mê, giả dối, gian ác, bất thiện trong tâm
ta.
Chúng là những chúng sinh đang cần
được độ.
Mỗi người chúng ta phải tự độ lấy mình bằng cách thấy
được tự tánh của tâm.
Lời nguyện độ vô lượng chúng sinh,
có thể
được hiểu như là hành động
giải thoát
cho những sinh linh bên trong tâm ta, như là tâm sân hận,
tâm si
mê, tâm tham lam, tâm ái dục. Mỗi tâm là một chúng sinh, sanh lên
rồi diệt
đi. Và ta nguyện sẽ giải thoát
hết tất
cả những chúng sinh này, giải thoát tâm ta ra khỏi mọi sự bất
thiện và
không trong sạch.
Thêm một quan niệm khác biệt giữa những trường phái với nhau là
quan
niệm về Niết bàn (Nivrana) và Vô minh (Samsara). Có trường phái
cho rằng
Niết bàn là một cái gì nằm bên ngoài tiến trình của thân tâm; có
trường
phái cho rằng Niết bàn và Vô minh chỉ là một. Làm sao ta có thể
dung hợp
hai quan niệm hoàn toàn trái ngược nhau như thế? Một cách
để hiểu là bạn hãy tưởng tượng
đến một trận bảo cuồng phong, gió
xoay vần
với một tốc độ khủng khiếp. Ở trung tâm của trận cuồng phong này,
là một khoảng không gian yên lặng, an tĩnh, "con mắt" của trận
bảo. Ðứng
trên một phưong diện, thì con mắt của trận bảo hoàn toàn khác biệt
với
ngọn cuồng phong chung quanh. Mọi vật yên tĩnh, lặng lẽ so với cơn
gió lốc
đang quay cuồng. Nhưng nếu nhìn
từ một
phưong diện khác, thì ta có thể thấy "con mắt" và ngọn cuồng phong
chỉ là
một, chúng chỉ là những phần khác nhau của nột cơn bảo. Tương tự
như vậy,
xét theo phương diện thì Vô minh và Niết bàn hoàn toàn khác biệt
nhau. Một
bên là sự thay đổi, biến chuyển liên
tục, còn một bên là yên lặng, an tĩnh. Xét theo một phưong diện
khác, thì
cả hai hợp lại với nhau thành một sự đồng
nhất, theo nghĩa đó thì chúng chỉ là một. Khi ta kinh
nghiệm
được giáo pháp thì những danh
từ sẽ
trở nên hết sức rõ ràng. Còn khi nào chúng ta vẫn còn dựa trên một
bình
diện của lý thuyết, của khái niệm, thì những danh từ dùng bởi
những trường
phái khác nhau, có vẻ như chỉ về những chân lý khác nhau. Thật ra
chúng
chỉ là những ngón tay khác nhau, cùng trỏ về một mặt trăng.
Có một đoạn văn trích từ trong một
quyển
kinh của Mật tông Tây Tạng, diễn tả về tâm như là một ngón
tay chỉ
mặt trăng. Hãy cố gắng kinh
nghiệm
những lời này thay vì dùng tư tưởng mà suy nghĩ suông:
Thật ra không có vấn đề thị phi, Ða
nguyên luận là sai với sự thật. Cho đến
khi
sự thị phi được chuyển hóa và sự bất nhị
được ý thức, giác ngộ sẽ không thể nào
đạt đến. Cả Vô minh và Niết
bàn chỉ là
một thực thể đồng nhất không phân
cách, là
tâm của ta. Chấp vào những tin tưởng của trần gian, mà mình có
hoàn toàn
tự do để chấp nhận hay bác bỏ, ta
lang thang
trong cõi Vô minh. Thế cho nên, tu tập giáo pháp, tự do ra
khỏi mọi
dính mắc, nắm được cốt tủy của bài
học
này.
Mặc dù nhất tâm ở đó, nhưng nó
không hề
hiện hữu. Khi một người đi tìm cái tâm chân thật của mình,
họ sẽ
khám phá ra rằng nó vô cùng siêu diệu, mặc dù vô hình tướng. Tự
tánh của
tâm là không che đậy, thanh tịnh,
không có
cấu tạo, vắng lặng, trong suốt, trống rỗng, bất nhị, bất tận, nguyên
chất, không màu sắc, không ngăn ngại,
không
thể nào được hiểu như là
một
vật riêng biệt mà là sự đồng nhất của
tất cả
mọi vật, nhưng không phải được tạo nên bởi những vật khác,
nó vượt
lên trên tất cả mọi phân biệt.
Nhất tâm vô cùng vắng lặng và không có một nền móng nào hết,
tâm của ta
cũng trống rỗng như một bầu trời. Muốn biết
được việc này có thật hay không, hãy nhìn vào tâm mình.
Hiện hữu
chỉ là một dòng sông của sự bất thường cũng giống như không khí
trong bầu
trời, hình tướng của sự vật chẳng có một khả năng
quyến rủ hay trói buộc. Muốn biết được việc này có thật hay
không,
hãy nhìn vào tâm mình. Mọi hình tướng chỉ là ý niệm của mình, sự
tự tưởng
tượng của mình, cũng giống như những hình bóng trong gương. Muốn
biết
được việc này có thật hay
không, hãy
nhìn vào tâm mình. Chúng tự khởi lên và tự do như mây trên trời,
mọi hình
tướng bên ngoài sẽ dần dần phai mờ đi
và
trở về nơi xưa, chốn cũ của chúng. Muốn biết
được việc này có thật hay không, hãy nhìn vào tâm mình.
Giáo pháp, chẳng hề giữ lại trong tâm, không có một nơi nào
để quán chiếu, trừ ra tâm mình.
Giáo
pháp, chẳng hề giữ lại trong tâm, không có một sự thật nào
để giữ một lời nguyện. Giáo pháp,
chẳng hề
giữ lại trong tâm, không có giáo pháp ở một nơi nào hết,
để có thể dựa vào
đó mà đi
đến giác ngộ.
Tâm của ta trong suốt, không có một đặc
tính nào. Vì trống rỗng nên nó được
ví
với lại một bầu trời không mây. Một tâm đạt được sự bất nhị đem
đến sự
giải thoát. Ta cứ nhắc đi, nhắc lại một điều, hãy nhìn vào
trong
tâm mình.
Khi giáo pháp được hiểu một cách
thông
suốt và sâu xa, ta sẽ thấy rõ rằng mọi phương tiện dẫn
đến giải thoát đều giống như nhau.
Tất cả chỉ
khuyên ta nên tu tập một tâm không chấp hay trụ vào bất cứ
một việc
gì. Không thiên vị. Không phân biệt. Không phê bình. Không bám
víu. Không
ghét bỏ. Phương pháp tu tập chỉ là một, cho dù nó phát xuất từ nơi
lục tổ
Huệ Năng ở Trung Hoa hay từ Sĩ Ðạt
Ta
Cồ Ðàm ở Ấn Ðộ.
Tipola, một vị thánh Ấn Ðộ và là người thừa kế trong dòng thiền
Mật
Tông Tây Tạng, cũng dạy một pháp tu tâm y hệt, gọi là Ðại Thủ Ấn
(Mahamudra), cho đệ tử mình là
Naropa.
Ðại Thủ Ấn vượt ra ngoài mọi văn
tự và
hình tướng, nhưng vì ngươi Naropa, siêng năng
và trung thành, ta sẽ dạy cho. Sự vắng lặng không cần một
tin cậy
nào. Ðại Thủ Ấn dựa trên sự rỗng không. Không cần một nỗ lực, chỉ
giữ cho
mình được thư thái và tự
nhiên, ta sẽ
bẻ gãy được ách nặng, đạt được sự
giác ngộ.
Nếu sử dụng tâm, ngươi hãy quán chiếu tâm ấy, tiêu trừ mọi
sự phân
biệt và đi đến quả Phật.
Những đám mây lang thang trên
bầu
trời không có gốc rễ, không có nguồn cội, cũng giống như những tư
tưởng
trôi nổi trong tâm ta. Khi thấy được
tự tánh,
sự phân biệt sẽ chấm dứt.
Trong không gian, có hình tướng và màu sắc, nhưng không gian
không bị
nhuộm màu trắng hay đen. Từ nơi tự
tánh mà
vạn vật khởi sinh. Bản chất của tâm không hề bị ô nhiểm.
Ðừng làm gì thân ta cả, hãy thoải mái. Ngậm câm miệng lại mà
giữ im
lặng. Làm cho tâm vắng lặng và đừng
suy nghĩ
gì nữa. Giống như một cây tre rỗng không, hãy
để cho thân được nghỉ ngơi. Không
cho, không
nhận, giữ cho tâm yên nghỉ. Ðại Thủ Ấn cũng giống như một
tâm không
bám víu vào nơi nào. Cứ như vậy mà thực hành rồi một ngày, ngươi
sẽ
đắc được quả bồ đề.
Kẻ nào bỏ được tham dục và
không
còn bám víu vào chỗ này hay chỗ kia, sẽ nhận thức
được ý nghĩa chân thật của lời kinh.
Vào lúc mới đầu, người hành
giả sẽ
cảm thấy tâm mình chảy ào ạt như một ngọn thác; vào khoảng giữa nó
giống
như sông Hằng, chảy lặng lờ, chậm chạp. Vào
đoạn cuối nó trở thành một đại
dương
bao la, nơi mà ánh sáng của Con và Mẹ nhập lại lành Một.
"Kẻ nào bỏ được tham dục và
không
còn bám víu vào chỗ này hay chỗ kia, sẽ nhận thức
được ý nghĩa chân thật của lời kinh".
"Phát
triển một tâm không trụ vào đâu
cả".
Buông bỏ mọi bám víu, buông bỏ những quyến luyến là con
đường đi đến giải thoát.
Truyền thống thiền phát triển ở Nhật Bản, từ dòng thiền Huệ Năng
và các tổ khác, đã sản
xuất ra
những áng văn chương tuyệt mỹ, thường
thì
rất là dí dỏm. Một câu chuyện thí dụ về sự buông bỏ và không bám
víu
được diễn tả theo một lối Zen như
sau:
Có một ông giáo sư đại học đến
thăm một vị
thiền sư. Ông ta cứ mãi mê nói về thiền. vị thầy rót trà ra
mời,
đổ đầy chén, nhưng cứ tiếp tục rót mãi.
Ông giáo sư thấy thế, bảo vị thầy ngưng rót vì chén
đã quá
đầy, không còn chỗ để chứa thêm
nữa. Vị thầy đáp: "Cũng giống như
chén trà
ấy, đầu ông bây giờ đã
đầy ấp những quan niệm và
thành kiến,
không còn chỗ cho những cái mới nữa. Nếu muốn kinh nghiệm
được chân lý, ông phải biết làn
cạn
chén trà của mình đi trước đã".
Nếu chúng ta cứ mãi mê chấp vào quan niệm và thành kiến của
mình, ta sẽ
không thể nào kinh nghiệm được sự
thật.
"Không cần phải đi tìm chân lý. Chỉ cần thôi nâng niu những
ý kiến
của mình". Bằng sự buông bỏ những thành kiến, với tâm vắng lặng
ấy, cả
giáo pháp sẽ hiển bày. Mỗi người trong chúng ta phải làm cạn chén
trà của
mình, khiến cho tâm ta không còn vướng mắc vào những ý niệm hay
tín
ngưỡng.
Mỗi biểu hiện của giáo pháp có một vẻ đẹp
và sự sáng tỏ khác nhau. Chúng ta rất may mắn không sanh ra
trong
một nền văn hóa bị ảnh hưởng bởi một
truyền
thống nào duy nhất, nếu chúng ta biết thật sự cởi mở
để lắng nghe và cảm nhận
được tất cả. Chúng đều cũng chỉ về
một chân
lý, là trực tiếp kinh nghiệm được
giáo
pháp ở trong mỗi chúng ta.
Ðức Phật có khuyên:
"Ðừng tin một điều gì vì
các ông
nghe người khác kể lại, vì truyền thống hay vì các ông tưởng
tượng ra.
Ðừng tin những điều gì các
bậc thầy
nói, chỉ vì sự kính trọng của các ông đối
với những người ấy. Nhưng chỉ tin khi nào chính các ông
đã thí nghiệm kỹ lưỡng và
thấy rằng
nó dẫn đến hạnh phúc, an lạc cho
mọi loài".
Hỏi: Tôi hơi bối rối về việc không được
có
ý kiến. Tôi muốn nói là, sống ở cuộc
đời thì dù sao vẫn có biết bao nhiêu việc bắt mình phải
chọn lựa...
Ðáp: Chúng ta vẫn dùng trí phân biệt và thiên vị khi nào thích
hợp,
nhưng vẫn hiểu rằng chúng chỉ thuộc trên một bình diện ý niệm, chứ
không
phảilà một sự thật tuyệt đối. Sử dụng
tiến trình
tư tưởng, nhưng đừng dính mắc vào
nó.
Giống như trong Áo Nghĩa Thư (Bhagavad-Gita) có nói, hành
động nhưng đừng bao giờ chấp vào
kết
quả của chúng. Tương tự như thế, tâm của ta có thể không bị dính
mắc vào
sự phân biệt và thiên vị, nhưng vẫn có thể sử dụng chúng
để đối phó với cuộc đời.
Hỏi: Còn những hoạt động khác thì
sao, như là Yoga, thái cực quyền, làm đồ
gốm,
dệt vải hay bất cứ chuyện nào khác, có thể coi như là một
phương
pháp tu tập được không?
Ðáp: Mọi việc đều có thể thực hiện
được
nếu nó được làm với chánh niệm, với một ý thức sáng tỏ,
không ham
muốn, không bám víu. Cả thế giới này, với 10 vạn nỗi vui mừng và
10 vạn
nỗi sầu khổ, đều có đủ đầy để cho ta
kinh
nghiệm. Việc làm, tự nó không nói lên sự nông cạn hay thâm
sâu.
Nhưng chính là tính chất của tâm khi làm những công việc, nói lên
điều ấy. Một vị thầy Thái cực quyền
có thể hoà
hợp trọn vẹn với giáo pháp. Một tâm vắng lặng hoàn toàn. Nhưng một
người
khác có thể tập những cử động y hệt
như vậy
với một sự vụng về, khẩn trương. Ta có thể đem ra thí dụ biết bao
nhiêu
hoạt động khác, có khả năng đem lại
một tâm hòa
hợp trọn vẹn. Biết bao nhiêu việc có thể thực hiện
được khi tâm ta được tự do.
Hỏi: Có nơi cho rằng trước hết ta phải đi
qua Tiểu thừa (Hinayana), kế đến là Ðại thừa (Mahayana) và
sau cùng
hết là Kim Cang thừa (Vajrayana). Ði từ thừa này sang thừa khác,
mỗi cái
có những sự việc khác nhau xảy ra.
Ðáp: Theo ý nghĩa mà bạn nói đó,
Tiểu
thừa, Ðại thừa và Kim Cang thừa, là những giai
đoạn của con đường giác ngộ. Dù
bạn có
chọn bất cứ một lối tu nào, bạn cũng đều
phải
trải qua những giai đoạn ấy. Con đường bạn theo có thể là
truyền
thống Miến Ðiện, Nhật Bản hay Tây Tạng, và trên mỗi con
đường, bạn đều phải đi qua những giai
đoạn
Hinayana, Mahayana và Vajrayana. Sự nhầm lẫn phát xuất vì
các danh
từ ấy cũng có liên hệ đến những
truyền thống
lịch sử khác nhau. Người ta nhận lầm những giai đoạn trên
đường tu với lại những cách diễn tả
lịch sử và
văn hóa khác nhau của giáo pháp. Vì
lý
do này nên những ý niệm về các thừa ấy, có lẽ cũng không ích lợi
gì cho
lắm. Có nhiều giai đoạn khác nhau trên
con đường tu tập. Chúng phải được
kinh
nghiệm. Ðặt tên cho chúng chẳng ích lợi gì, mà
đôi khi còn
đưa đến một sự hiểu lầm. Có sao thì
thấy vậy. Nó là một sự phô bày của giáo pháp trong tâm ta. Chúng
ta trải
qua biết bao nhiêu kinh nghiệm. Kinh nghiệm, chứ không phảilà khái
niệm
hay danh xưng, mới là điều tối quan
trọng.
Hỏi: Có nhiều truyền thống thiền khác nhau ở những quốc gia
khác nhau.
Phải chăng chúng cũng chỉ là
những lối
tiến khác nhau trên con đường tu mà
thôi?
Ðáp: Chánh niệm có thể được áp
dụng vào
bất cứ một đối tượng nào. Bạn
có thể
áp dụng chánh niệm trên tư tưởng, trên thân thể, vào những
đối tượng ngoài thân, vào
những
đối tượng trong thân, vào tất
cả hay
một số đối tượng chọn lọc nào
đó. Những kỹ thuật và phương
thức khác
nhau là những phương tiện khác nhau để
phát
triển chánh niệm. Yếu tố tỉnh thức là cốt tủy của mọi sự
thực hành.
Từ tâm quân bình đó mà giác
ngộ phát
sinh. Mọi hiện tượng đều vô thường,
cho nên
trí tuệ có thể được khai triển trên
bất cứ một đề mục nào. Bạn có
thể giác
ngộ giữa một dòng tư tưởng, giữa một cơn đau,
trong khi ăn, trong khi đang đi, bất cứ lúc nào, bởi vì nó
phát
sinh từ một tâm quân bình, chứ không phải từ sự bám víu vào một
đề mục đặc biệt nào.
Hỏi: Có nhiều vị thầy nói về sự nguy hiểm của vấn
đề thần thông trong sự tu tập. Ðiều
này có nghĩa ra sao?
Ðáp: Năng lực của tâm có thể được
phát
triển. Nó không phải là trí tuệ. Năng
lực và trí tuệ là hai chuyện hoàn toàn khác nhau. Nó có thể
nguy
hiểm, nếu ta phát triển những thần thông ấy trước khi mình
đạt đến một trình
độ giác ngộ nào
đó. Vi chúng sẽ củng cố thêm
cái Tôi,
cái ngã của mình, và đôi khi ta có
thể lạm
dụng chúng. Thần thông có thể trở thành một phương tiện
thiện xảo
nếu ta có căn bản đạo đức và
hiểu biết
vững vàng. Nhưng việc phát triển những năng
lực này hoàn toàn không cần thiết. Có những bậc giác ngộ mà
không
có chút thần thông, và cũng có rất nhiều người có thần thông mà
chẳng có
gì giác ngộ. Tuy nhiên cũng có một số người có
được cả hai.
Hỏi: Trong kinh Pháp Cú, đức Phật
thường
hay nhắc đến quả vị A La Hán. Ðây có phải là một trạng thái
giác
ngộ hay không?
Ðáp: Ðúng vậy, đây chính là
một sự
tiêu diệt hoàn toàn tham, sân, si trong tâm, nhờ vào kết quả của
một kinh
nghiệm Niết bàn. Kinh nghiệm Niết bàn đầu
tiên,
một cái thoáng nhìn được chân lý
tuyệt đối,
sẽ tẩy rửa đi được một số tâm bất thiện, tuy một số vẫn còn
ở lại.
Và khi ta tiếp tục tu tập, thêm một số tâm bất thiện nữa sẽ bị nhổ
bỏ. Một
vị A La Hán là một người mà mọi điều
bất
thiện trong tâm đều đã bị loại trừ. Cũng giống như vậy,
quan niệm
thành Phật trong kiếp này có nghĩa là tự do, không còn bị tham,
sân si chi
phối nữa. Kinh nghiệm được chân lý thì
sự đồng nhất của giáo pháp sẽ được
hiểu rõ
ràng. Phát triển một tâm không bám víu vào
đâu cả. Ðây là cốt tủy của mọi sự tu tập. Nó sẽ trở nên vô
cùng
giản dị khi ta bắt đầu thực hành.
Hỏi: Ta phải cần những gì để phát
triển
một trí tuệ thâm sâu? Nó có đòi hỏi một cái gì phi thường
không?
Ðáp: Nó chỉ đòi hỏi duy có
một
điều mà thôi, ý thức
được những gì
đang xảy ra trong giờ phút hiện tại.
Nếu
chúng ta còn bất cứ một ý niệm nào về những gì
đáng lẽ nên xảy ra, ta không
thật sự
kinh nghiệm được hiện tại. Phương
thức là
có chánh niệm đối với mọi trạng thái
thay đổi
của thân và tâm mà không đem lòng
ưa thích hay ghét bỏ, không nhận nó là mình. Ðó là trọn con
đường đi, từ đầu cho đến cuối. Rồi nó
sẽ tự
phô bày cho ta thấy hết. Người ta thường không tin rằng sự
tu tập
giản dị đến như vậy. Thường thường ta
hay có
một ý muốn làm cho nó phức tạp hơn, nghĩ rằng mình phải
kinh nghiệm
một số trạng thái xuất thần nào đó
mới đúng.
Thật ra, ta chỉ cần ngồi lại trong chánh niệm và trở thành
một với
dòng sông thực tại. Hãy giữ sự giản dị và thư thái.
Hỏi: Tôi tưởng rằng có những lối tu chú trọng về sự phục vụ
người khác
hơn là lo việc giải thoát cho mình trước?
Ðáp: Mọi con đường đều xoay quanh
vấn đề là
làm sao nhìn thấy được sự giả tạo của
cái
Tôi, cái ngã. Một biểu hiện tự nhiên và cơ bản của giáo
pháp là
lòng Từ và Bi, giúp đỡ lo lắng cho
người
khác. Ðiều này không có dính dáng gì
đến "thừa" nào hay con đường nào
mình theo, hay vì một lời nguyện nào. Nó là một sự biểu lộ tự
nhiên của
tri tuệ. Khi chúng ta không còn bám víu vào ý niệm
đây là "Tôi", còn kia là
"người khác",
ta sẽ bắt đầu kinh nghiệm được sự
đồng nhất
của mọi loài, và từ sự hiểu biết này phát sinh ra lòng từ
bi, sự
phục vụ.
Hỏi: Khi chúng ta bắt đầu thực hành,
sự thắc mắc về những thừa, cổ xe, con đường
khác nhau này có mất đi
không?
Ðáp: Tôi có một người bạn là thi sĩ, Tom Savage, có làm một bài
thi kết
thúc bằng những dòng như sau:
Xe lớn hay xe nhỏ,
Cũng chẳng khác biệt gì!
Chúng cũng bị kéo đi,
Tiền, chủ nhân phải trả.
-ooOoo-
Buổi sáng thứ ba mươi
KẾT THÚC
Bạn không thể nào ở trên đỉnh núi
cao mãi
mãi. Rồi bạn cũng phải đi xuống, như
vậy tại
sao lại phải bận tâm? Vì lý do này
đây. Ở trên cao ta có thể biết được
những gì ở phía dưới, nhưng dưới thấp thì không bao giờ
biết
được cái gì ở trên cao. Ta leo
lên, ta
chứng kiến; khi ta leo trở xuống, ta không còn thấy
được nữa, nhưng mình
đã được
thấy. Ðem những gì mình đã
thấy
được khi còn
đang ở trên cao, áp dụng vào
cách sống
dưới vùng thấp này là cả một nghệ thuật. Khi ta không còn thấy, ít
nhất ta
vẫn còn biết. Mount Analogue.
Câu hỏi bây giờ là làm cách nào để
phối
hợp sự hành thiền tích cực vào trong
đời sống hàng ngày của mình. Trên một bình diện, câu trả
lời rất là
giản dị: giữ chánh niệm. Mặc dù chung quanh ta có rất nhiều
điều làm cho mình phân tâm,
những giác
quan có trăm ngàn
đối tượng xảy đến, nhưng nếu không có
sự ưa
thích, không có sự ghét bỏ, không có một sự mong mõi nào,
thì tâm
ta sẽ vẫn giữ được sự an tĩnh và
quân
bình. Chánh niệm sẽ là một thành trì bảo vệ ta kiên cố nhất.
Có những chuyện có thể giúp ta duy trì
được sự quân bình và an tĩnh trong tâm. Chuyện quan trọng
nhất là
ngồi thiền thường xuyên mỗi ngày. Ngồi mỗi ngày hai lần trong vòng
một
tiếng đồng hồ, hay lâu hơn, sẽ duy trì
định lực và chánh niệm mà ta
đã bỏ công vun trồng trong một
tháng
này.
Mới vừa theo một khóa thiền tích cực nhiều ngày như vầy, bạn có
thể sẽ
cảm thấy rằng ngồi một hay hai tiếng mỗi ngày chẳng khó khăn
gì, nhưng khi bạn bắt đầu trở
về với
công việc làm ăn thường xuyên,
chuyện ấy sẽ không dễ dàng như bạn nghĩ đâu.
Nó đòi hỏi một kỷ luật và sự tinh tấn. Hãy cố gắng giữ cho
việc
ngồi thiền được ưu tiên nhất
trong
ngày, mỗi ngày sắp đặt những sinh
hoạt khác
chung quanh giờ ngồi thiền của bạn thay vì phải ép nó vào
giữa hai
công việc cần làm nào đó của bạn. Bạn
sẽ bắt
đầu kinh nghiệm được chuyện ngồi thiền mỗi ngày có một tầm
ảnh
hưởng rất lớn lên cuộc sống của bạn.
Nó giúp bạn rất nhiều, nếu bạn có thể sắp
đặt một thời gian nhất định nào đó
trong ngày để ngồi thiền,
trong khoảng
thời gian ấy, bạn không bị quấy rầy. Nếu bạn có được một thói quen
ngồi vào
một giờ nhất định, bạn sẽ ít có dịp
bỏ lỡ
hơn. Thời gian tốt nhất là vừa khi mới thức dậy, dùng nó
như là một
chuẩn bị cho một ngày chánh niệm, và một giờ vào buổi tối, dùng
thời gian
này như là lúc để làm cho thân
tâm ta
được nghỉ ngơi, tươi mát trở lại. Hay
có thể
bất cứ lúc nào thuận tiện cho bạn. Thí nghiệm thử. Ðiều
quan trọng
là giữ cho sự thực hành của mình được
liên
tục. Chuyện ngồi thiền đều đặn mỗi ngày
có một giá trị vô cùng.
Cũng có một số việc khác bạn có thể làm,
để phối hợp sự tu tập vào trong đời
sống hàng ngày. Hãy có chánh niệm trong một số chuyện làm
hàng ngày
nào đó của bạn, thí dụ như khi ăn
chẳng hạn.
Cố gắng ít nhất ăn một buổi cơm trong im lặng mỗi ngày. Nó
sẽ trở
thành thời gian để ta thực tập ý
thức, chánh
niệm, và làm sống dậy những khuynh hướng tốt trong tâm mà
ta
đã vun trồng trong tháng này.
Bằng sự
thực tập chánh niệm một cách thường xuyên, bạn làm giảm
đi những thói quen xấu đã tích
tụ lâu
ngày.
Trong cuộc sống hàng ngày ta đi bộ
rất
nhiều. Lợi dụng thời gian này để
hành
thiền. Khi đi, bạn không cần phải
bước thật
chậm và niệm "dở, bước, đạp",
chỉ khi
nào thuận tiện. Bạn chỉ cần chú ý đến
cử động của toàn thân, hay cảm giác
đụng chạm của mỗi bưóoc chân. Một lần nữa, hãy thí nghiệm.
Trong ngày, những lúc bị căng
thẳng, hay
mệt mỏi, hãy nhớ đến hơi thở.
Cứ mở
mắt, đừng biểu diển là mình đang
thiền, chú ý đến sự phồng xẹp của bụng hay là hơi thở ra
vào, dù
chỉ trong một vài phút. Tâm ta sẽ được
trở
lại an tĩnh và thư thái.
Sau một thời gian, bạn sẽ thấy rằng chánh niệm bắt
đầu có mặt trong bất cứ chuyện gì
mình
làm. Giáo pháp là một cuộc sống trọn vẹn. Không phải chỉ có những
khi ngồi
thiền hay là các khóa tu tập tích cực mới là thực hành giáo pháp.
Giáo
pháp có mặt trong tất cả và chúng ta phải biết sống hòa hợp với sự
hiểu
biết đó.
Hạt giống trí tuệ và từ bi mà ta đã
vun trồng, chứng tỏ có một mãnh lực rất lớn. Chúng sẽ sanh quả
trái một
cách biến thiên và bất ngờ. Những khi bạn cảm thấy mình
đang bị lôi cuốn, vướng víu vào
những
rối ren của cuộc sống, sẽ có một ý thức chánh niệm tự nhiên khởi
lên. Ánh
sáng của chánh niệm ấy sẽ giúp cho bạn tự thấy
được chính mình và cả tấn
tuồng kịch
đang xảy ra chung quanh. Hãy
giữ sự
giản dị và thoải mái. Với một tâm tĩnh lặng và an lạc, giáo pháp
sẽ tự
nhiên phô bày.
Có những điều suy nghiệm có thể
giúp ta thêm
tinh tấn, cố gắng sống trong giây phút hiện tại. Thứ nhất là suy
nghiệm về
sự thật vô thường. Hãy nhớ đến cái
chết không
thể nào tránh khỏi của mình, và tự tánh thay
đổi của mọi hiện tượng trong từng
giây, từng
phút. Giữ ý thức được dòng biến chuyển,
được sự thật là mọi vật
đều đang ở trong một trạng thái biến
đổi
không ngừng, và tâm ta sẽ được
an ổn và
quân bình trong mọi hoàn cảnh. Bạn sẽ bớt đi
tánh tự xét đoán mình, và phê bình kẻ khác, không còn có
những
thành kiến để phân loại người khác và
hoàn cảnh chung quanh. Bạn sẽ kinh nghiệm
được một lối sống mới, cởi mở và trống không hơn, phản ứng
một cách
tự nhiên và hiệu quả hơn trong hiện tại mà không cần phải vác theo
gánh
nặng của thành kiến, khái niệm đem
theo từ
quá khứ.
Suy nghiệm thứ hai là về lòng từ bi. Khi bạn
đối xử với cha mẹ, bạn bè hay
người
lạ, hãy nhớ rằng trên một bình diện sâu xa không có "Tôi" và
"Anh", không
có "Chúng ta" và "Họ"; tất cả chỉ có một, một thực thể trống rỗng.
Từ sự
trống rỗng này, phát tỏa tình thương đối
với
mọi loài. Nhiều yếu tố khổ đau
trong
sự liên hệ, tình cảm của ta đối
với
những người khác sẽ rơi rụng, khi ta thực tập phát triển lòng
từ bi
trong cuộc sống của mình.
Ðức Phật cho một hình ảnh để thí
dụ về sự
cởi mở, nhân ái của tâm có thể giữ cho ta được an lạc và
quân bình.
Nếu bạn bỏ một muổng đầy muối vào
trong một ly nước, nước trong ly sẽ có một mùi vị mặn. Nhưng nếu
bạn bỏ
bấy nhiêu muối, hay nhiều hơn thế nữa, vào một hồ nước to, mùi vị
của nước
vẫn không hề thay đổi. Tương tự như
vậy, khi
tâm ta hẹp hòi và câu nệ, bất cứ một sự
đụng chạm nào, cũng
đều có ảnh hưởng xáo trộn mạnh mẽ.
Khi tâm ta
có một khoảng không gian thênh thanh, thì những
đụng chạm tiêu cực gấp mấy lần
thế
cũng sẽ không ảnh hưởng gì được nó.
Từ bi là
một đức tính nhu thuận và trùm
khắp,
mà ta có thể đem ban bố ra trong cuộc
sống
của mình.
Sự suy nghiệm thứ ba là đức khiêm
tốn, hay là sự vô hình. Bạn không cần gì phải tự vổ ngực và xưng
mình là
ông hay bà "thiền sĩ". là một nhân vật quan trọng. Trang tử có
viết:
Thế cho nên bậc chân nhân, làm việc không gây thiệt hại cho ai,
mà cũng
không ân huệ cho ai. Không động vì
lợi
mà cũng không coi người canh cửa là hèn. Không vì tiền của mà
tranh, cũng
không lấy sự nhún nhường làm quý. Công việc không nhờ vả vào ai,
mà cũng
không lấy việc tự lập làm quý, không khinh kẻ tham lam. Ðức hạnh
khác
người thế tục, nhưng chẳng chuộng sự khác lạ. Không hùa theo
đám đông mà cũng không khinh
người
xiểm nịnh. Tước lộc của đời không đủ
để
khuyến khích, hình phạt chẳng đủ
để sỉ
nhục. Họ biết phải trái không có chỗ phần được, lợi nhỏ không có
chỗ để
định được. Cổ nhân có nói: "Người có đạo thì lặng lễ, bậc
chí
đức thì không mong gì cả, còn
người
đại nhân thì không có mình: họ
đã hợp tất cả làm Một".
Bạn sẽ khám phá ra rằng càng vô hình chừng nào, cuộc sống lại
càng giản
dị và thư thái đến chứng ấy. Một lần
nữa, tôi
lấy từ Trang Tử:
Một người đi thuyền qua sông. Một
chiếc
thuyền không người lái từ đâu trôi đến, đụng vào mạn thuyền
của
ông. Cho dù ông có là người nóng tính đến
đâu, ông cũng sẽ không giận. Nhưng nếu ông thấy bên kia
thuyền có
người, ông sẽ hét lên, bảo người kia bẻ lái. Nếu không nghe, ông
lại tiếp
tục la hét, chưởi mắng, nóng giận. Tất cả chỉ khác nhau ở chỗ
thuyền bên
kia có người. Nếu chiếc thuyền là một chiếc thuyền không, thì chắc
chắn sẽ
không có sự nóng giận, la mắng.
Nếu biết đem cái lòng trống
không
mà đối xử với đời, thì ai mà
ngăn
trở mình, ai mà lại muốn làm hại mình.
Hãy làm một chiếc thuyền không, băng
qua dòng
sống cuộc đời bằng sự cởi mở, trống
không và
thương yêu, thì "ai mà ngăn trở mình,
ai mà lại muốn làm hại mình".
Có nhiều người hỏi tôi, làm sao để
nói cho
người khác nghe về giáo pháp. Một đức tính vô cùng quan
trọng trong
việc trao đổi ý kiến là phải
biết cách
lắng nghe, biết thông cảm với hoàn cảnh và với người khác. Bằng
một tâm
thinh lặng, khi chúng ta thật sự biết chú ý, một phương tiện
truyền thông
thích hợp sẽ trở thành rõ rệt. Ðừng nắm chặt vào một khái niệm
đặc biệt nào của giáo pháp,
hay là giữ
bất cứ một thiên kiến nào. Ðừng dựa chấp vào một nơi nào. Ðôi khi
ta chỉ
cần một cuộc đối thoại tầm thường,
trao đổi
giản dị và thoải mái. Học cách lắng nghe là một nghệ thuật
rất cao.
Hãy giữ sự cởi mở và chấp nhận kẻ khác. Một thái
đô vô ngã và thu nhận có thể
đem lại cho ta một tầm hiểu biết và
chia xẻ rộng rãi.
Theo đúng nghĩa đen thì
danh từ
Vipassana có nghĩa là nhìn thấy sự vật một cách rõ ràng, không
phải chỉ có
tiến trình của thân tâm, mặc dù đây là
điều căn bản, mà là thấy mọi
sự cho
thật sáng suốt, những người chung quanh, mối quan hệ, hoàn cảnh.
Ðạo ở
đây là sống một cuộc sống
không tham,
không sân, không si; sống với chánh niệm, với tỉnh thức cùng với
một sự an
lạc và tình thương. Chúng ta là một chân lý
đang phô bày, và một tháng tu học, hay là cả một
đời người, chỉ là sự bắt
đầu của một nhiệm vụ to tát là:
thực
hiện sự tự giác.
Ðại trí thì bao trùm khắp, tiểu trí thì giới hạn. Ðại tự thì
khích lệ,
tiểu tự thì tầm phào... Khi chúng ta tỉnh thức, các giác quan rộng
mở. Ta
bị lôi cuốn vào sự sinh hoạt và thân tâm ta phân tán. Ðôi khi ta
ngập
ngừng, đôi khi ta lén lút, đôi khi ta
bí mật.
Nỗi sợ nhỏ gây nên sự ưu tư, nỗi sợ lớn gây nên sự kinh
hoảng. Lời
của ta phóng ra như những mũi tên, như là mình có thể biết
đâu là phải,
đâu là quấy. Ta bám víu vào
quan niệm
của mình, như là mọi sự đều tùy
thuộc
vào đấy. Mà rồi ý kiến của ta
cũng
không thường hằng: như thu, đông,
chúng từ từ
qua đi. Chúng ta bị mắc kẹt giữa dòng nước cuốn và không
thể
đi trở về được. Ta bị cột nút lại như
một ống
nước cũ bị nghẹt cứng; ta đang đi gần đến cái chết mà không
cách
nào để thu hồi lại tuổi trẻ của mình.
Vui mừng và giận dữ, sầu khổ và hạnh phúc, hy vọng và sợ hãi, bất
lực và
sức khỏe, khiêm nhường và cương quyết, như những tiếng nhạc trổi
lên từ
thân rỗng của những ống phi lau, hay những cây nấm mọc lên từ vùng
đất ẩm đen, luôn luôn xuất hiện trước
mắt ta
ngày đêm. Nào ai biết
chúng từ
đâu đến. Nhưng đừng lo! Cứ để mặc
chúng! Làm
sao mà ta có thể hiểu được hết tất cả
chỉ vỏn
vẹn trong một ngày?
-ooOoo-