TÂM KINH TỤNG
Kệ diễn giải tâm kinh: tổ Bồ Đề Đạt Ma
Dịch
nghĩa: Trúc Thiên
Diễn giải: giác niệm (bình)
1 – MA
HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH
Trí tuệ thanh tịnh hải
Lý mật nghĩa u thâm
Ba la đáo bỉ ngạn,
Hướng đạo kỳ do tâm,
Đa văn thiên chủng ý
Bất ly tuyến nhân châm
Kinh hoa mịch nhất đạo
Vạn kiếp thánh hiền khâm. 
Dịch
Trí tuệ biển thanh tịnh,
Lý mật nghĩa u thâm,
Ba la qua bờ ấy
Soi đường chỉ do tâm.
Nghe nhiều ngổn ngang ý,
Chẳng lìa chỉ vì kim 
Hoa kinh một mối đạo
Muôn kiếp thánh hiền vâng
Diễn
giải
Trí tuệ rộng như biển cả, nhưng thanh tịnh,
không gợn một chút sóng. 
Tâm kinh ý nghĩa sâu kín, khó thấy, khó
hiểu. 
Ba la mật nghĩa là đáo bỉ ngạn, có nghĩa:
đến bờ kia, đến bờ giác. 
Dẫn đường đến được bờ ấy chỉ do tâm mình. 
Nghe nhiều, hàng trăm, hàng ngàn loại ý
kiến khác nhau
Chẳng khỏi cho người châm chích. 
Một mối đạo tịch mịch do kinh sách ghi lại 
Vạn kiếp chư thánh hiền vâng theo. 
2 – QUÁN
TỰ TẠI BỒ - TÁT 
Bồ - Tát siêu thánh trí
Lục xứ tất giai đồng
Tâm không quán tự tại
Vô ngại đại thần thông
Thiền môn nhập chánh thọ
Tam muội nhiệm tây đông
Thập phương du lịch biến
Bật kiến Phật hành tung.
Dịch 
Bồ - Tát vượt thánh trí
Sáu xứ rốt chung đồng
Tâm không quán tự tại
Vô ngại đại thần thông
Cửa thiền vào chánh thọ
Tam muội mặc tây đông
Mười phương trải chơi khắp 
Nào thấy Phật hành tung.
Diễn
giải 
Trí Bồ Tát siêu vượt. (trên mọi nghĩ
tưởng)*
Sáu căn, sáu thức thu về một mối.(Thấy nghe
vượt khỏi căn trần,)*
Tâm trống rỗng, không vướng mắc, 
Quán sát tự tại vô ngại
Do nơi thiền định mà vào chánh thọ. (thọ
thân chân như)* 
Trải khắp mười phương 
(Nơi nào cầu cứu liền hiện đến) *
Mà không để lại dấu tích. 
Ghi chú (…)
* ghi thêm cho rõ nghĩa. 
3 – HÀNH
THÂM BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA THỜI 
Lục niên cầu đại đạo,
Hành thâm bất li thân
Trí huệ tâm giải thoát
Đạt bỉ ngạn đầu nhân
Thánh đạo không tịch tịch
Như thị ngã kim văn
Phật hành bình đẳng ý
Thời đáo tự siêu quần.
Dịch
Sáu năm cầu đạo lớn
Hành sâu chẳng lìa thân
Trí huệ tâm giải thoát 
Đến bờ kia tột cùng 
Thánh đạo không lắng lặng 
“Như thị ngã kim văn” 
Phật hành bình đẳng ý
Thời đến tự siêu quần. 
Diễn
giải
Đức Phật sáu năm tu hành khổ
hạnh, cầu đạo vô thượng. 
Thưc hành sâu xa các phương
pháp khổ hạnh (mà chưa đạt được kết quả)*
(chỉ đến khi đức Phật ngồi
thiền định trên bờ sông Ni Liên Kiền)*, Trí huệ phát khởi, ngài đắc đạo, giải
thoát hoàn toàn khỏi sinh tử luân hồi. 
Đạo giải thoát vốn không, tịch (trống
rỗng, tĩnh tịch, ngưng nghỉ)*.
“Nay, ta nghe như vậy” (như vậy
đó)*
Đức Phật thực hành hạnh bình
đẳng 
Khi thời điểm đến thì tự nhiên
khai ngộ, siêu vượt hơn mọi người. 
4 –
CHIẾU KIẾN NGŨ UẨN GIAI KHÔNG 
Tham ái thành ngũ uẩn
Giả hiệp đắc vi thân
Huyết nhục liên gân cốt
Bì lí nhất đôi trần
Mê đồ sanh lạc trước
Trí giả bất vị thân
Tứ tướng giai qui tận
Hô thậm nãi vi chân
Dịch
Tham mến thành năm uẩn 
Giả dối kết làm thân 
Máu thịt liền gân cốt,
Trong da một đống trần
Kẻ mê vui chấp dính 
Người trí chẳng vì thân 
Bốn tướng đều dứt bặt 
Mới được gọi là chân. 
Diễn
nghĩa 
Vì chấp trước, ưa thích bản ngã nên mới có
ngũ uẩn. 
Vì có ngũ uẩn giả dối kia nên mới có thân.
Thân này gồm máu thịt, gân cốt tạo thành
Ngoài trông đẹp đẽ, đâu biết trong lớp da
kia toàn do đất bụi tạo thành. 
Kẻ mê chấp trước vào thân đó cho là chính
mình
Người trí vốn biết nó chẳng phải thực.
Ngay cả tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng
sanh, tướng thọ giả còn chẳng có
Hiểu được như thế mới là chân thực. 
5 – ĐỘ
NHẤT THIẾT KHỔ ÁCH
Vọng hệ thân vi khổ
Nhân ngã tâm tự mê
Niết bàn thanh tịnh đạo
Thùy khẳng trước tâm y
Ấm giới lục trần khởi
Ách nạn nghiệp tương tùy
Nhược yếu tâm vô khổ
Văn tảo ngộ Bồ- Đề
Dịch
Vọng buộc hóa thân khổ 
Nhân ngã tâm tự mê 
Niết bàn, đường thanh tịnh 
Sao chấp được tâm y 
Ấm giới sáu trần dậy
Ách nạn nghiệp theo kề.
Ví rõ tâm không khổ 
Sớm nghe ngộ Bồ Đề 
Diễn
nghĩa
Vướng vọng nên thân khổ.
Tâm mê nên chia ra nhân, ngã.
Đạo Niết Bàn thanh tịnh
Ai nói chấp theo tâm?
Nếu lục trần theo ấm giới khởi lên 
Thì ách nạn liền theo sau.
Nếu biết rõ tâm vốn không, không vui buồn,
sướng khổ 
Nghe sớm ắt ngộ Bồ - Đề. 
6 – XÁ
LỢI TỬ 
Đạt đạo do tâm bổn
Tâm tịnh lợi hoàn đa
Như liên hoa xuất thủy
Đốn giác đạo nguyên hòa
Thường cư tịch diệt tướng
Trí huệ chúng nan qua
Độc siêu tam giới ngoại
Cánh bất luyến Ta Bà. 
Dịch
Đạt đạo tâm làm gốc
Tâm lặng lợi bao là
Như sen nhô mặt nước
Thoắt rõ gốc đạo hòa
Luôn ở nơi tịch diệt 
Trí huệ mấy ai qua 
Một mình siêu ba cõi
Hết luyến cảnh Ta Bà.
Diễn
giải
Đạt đạo, do lấy tâm làm gốc
Giữ cho tâm lặng trong, lợi ích hiện tiền.
Như hoa sen nhô lên mặt nước
Mới biết rằng đạo vốn hòa đồng. 
(Đạo) luôn ở nơi tịch diệt (tĩnh lặng,
không dấy động)
Trí huệ mấy ai qua (ít người có trí huệ)
Một mình vượt lên ba cõi (dục giới, sắc giới,
vô sắc giới)
Hết luyến cảnh Ta Bà (ra khỏi vòng sanh tử)
7 – SẮC
BẤT DỊ KHÔNG, KHÔNG BẤT DỊ SẮC 
Sắc dữ không nhất chủng
Vị đáo kiến lưỡng ban
Nhị thừa sanh phân biệt
Chấp tướng tự tâm man
Không ngoại vô biệt sắc
Phi sắc nghĩa năng khoan
Vô sanh thanh tịnh tánh
Ngộ giả tức Niết – Bàn
Dịch 
Sắc với không một giống
Chưa rõ thấy hai đàng
Hai thừa đâm phân biệt 
Chấp tướng tự dối gian 
Ngoài không chẳng sắc khác
Chẳng sắc mới dung khoan 
Vô sanh, tánh thanh tịnh 
Ngộ ấy tức Niết Bàn.
Diễn
giải 
Sắc với không cùng một nòi
(chủng) 
Chưa đạt đến (giác ngộ) thì
thấy có hai loại
Nhị thừa sanh tâm phân biệt (cho
là hai loại)
Chấp tướng (có, không) tự dối
lòng.
Ngoài không chẳng có sắc nào
khác
(sắc) Chẳng phải sắc, nghĩa gồm
như vậy. 
Tánh thanh tịnh là vô sanh
(Nếu) ngộ ra thì đó là Niết
Bàn. 
8 – SẮC
TỨC THỊ KHÔNG, KHÔNG TỨC THỊ SẮC 
Phi không, không bất hữu
Phi sắc, sắc vô hình
Sắc không đồng qui nhất
Tĩnh thổ đắc an ninh
Phi không, không vi diệu
Phi sắc, sắc phân minh
Sắc không giai phi tướng
Thậm xứ lập thân hình. 
Dịch
Chẳng không, không chẳng có
Chẳng sắc, sắc vô hình 
Sắc không về một mối 
Đất tịnh được yên bình
Chẳng không là không diệu
Chẳng sắc, sắc phân minh
Sắc không đều chẳng tướng.
Nơi đâu dụng thân hình.
Diễn
giải
Nói “ sắc tức thị không “ thì
(cái đó) chẳng phải là không mà cũng chẳng phải là sắc. Nói nó chẳng không, vì
ở đó không cũng chẳng có. Nói nó chẳng sắc, vì nó vốn vô hình. 
Sắc và không cùng từ đó mà ra,
không phân biệt, nên không loạn động. Nước nhà tự bình an.
Nó chẳng không nghĩa là chẳng phải
như hư không trống rỗng, mà trong cái không đó có ẩn chứa một khả năng (nhận
biết)
Nó chẳng phải sắc, nhưng nhờ nó
mà mọi sắc tướng mới hiện rõ, phân minh. 
Vì nó chẳng phải không mà cũng
chẳng phải sắc thì làm sao có thể hình dung ra được. 
9 – THỌ
TƯỞNG HÀNH THỨC DIỆT PHỤC NHƯ THỊ 
Thọ tưởng nạp chư duyên
Hành thức lượng năng khoan
Biến kế tâm tu diệt
Ngã bệnh bất tương can
Giải thoát tâm vô ngại
Phá chấp ngộ tâm nguyên
Cô vân diệt như thị
Tánh tướng nhất ban ban.
Dịch 
Thọ tưởng nạp muôn duyên
Hành thức rộng dung khoan 
Biến kế tâm nên dứt 
Bệnh “ta” chẳng tương can 
Giải thoát tâm vô ngại 
Phá chấp ngộ tâm nguyên 
Nên nói cũng như vậy 
Tánh tướng chẳng hai ban. 
Diễn
giải
Các ấm thọ, tưởng thâu nhập mọi cảnh duyên
bên ngoài
Các ấm hành, thức dung chứa chủng tử của
các duyên ấy
Nếu dứt được tâm biến kế (từ các trần cảnh)
Thì ta và vọng tưởng chẳng liên quan đến nhau
nữa 
Tâm giải thoát vô ngại
Phá chấp ngã, nhân, trở lại nguồn tâm 
Vì trở lại nguồn tâm nên nói “như thị”
Tánh và tướng chẳng phải hai. 
10 – XÁ
LỢI TỬ 
Thuyết xá luận thân tướng
Lợi ngôn nhất chủng tâm
Bồ tát kim cương lực
Tứ tướng vật linh xâm
Đạt đạo ly nhân chấp
Kiến tánh pháp vô âm
Chư lậu giai tổng tận
Biến thể thị chân câm.
Dịch
Nói “xá” nhằm thân tướng
Còn “lợi” nhắm một tâm 
Bồ Tát vận trí lực 
Bốn tướng chắn đường xâm 
Đạt đạo lìa nhân chấp 
Thấy tánh pháp không âm 
Chư lậu đều dứt trọn
Toàn thể ấy vàng ròng 
Diễn
giải 
Xá lợi là gì? Là những gì thân tướng để lại
làm lợi ích cho tâm tánh người sau. 
Bồ Tát vận dụng trí kim cương (để thấu
thoát)
Bốn tướng ngăn trở đường vào đạo
Đạt đạo lìa bỏ các chấp của con người
Thấy tánh, pháp không thể dùng lời nói diễn
tả được.
Các hoặc lậu đều dứt hết 
Pháp giới thành vàng ròng. (câm = kim)
11 – THỊ
CHƯ PHÁP KHÔNG TƯỚNG 
Chư Phật thuyết không pháp
Thanh văn hữu tướng cầu
Tầm kinh mịch đạo lý
Hà nhật học tâm hưu
Viên thành chân thực tướng
Đốn kiến bãi tâm tu
Quýnh nhiên siêu pháp giới
Tự tại cánh hà ưu
Dịch
Chư Phật nói pháp không
Thanh văn chấp tướng cầu
Tìm kinh kiếm lẽ đạo 
Bao giờ học tâm thôi 
Viên thành tướng chân thực
Chợt rõ bỏ tâm tu 
Thênh thang vượt pháp giới
Tự tại hết âu lo.
Diễn
giải
Chư Phật nói “pháp không”
Thanh văn chấp tướng cầu pháp.
Tìm tòi trong kinh sách kiếm ý nghĩa của
đạo là “hướng ngoại cầu, tầm”
Không biết rằng chỉ cần thôi tìm cầu, tâm
ngừng nghỉ, thì đại đạo hiện tiền. 
Thực tướng vô tướng tự viên thành.
Nếu đã thấy thì chẳng cần tu nữa.
Thênh thang vượt pháp giới
Tự tại hết âu lo.
12 – BẤT
SANH BẤT DIỆT 
Lô Xá thanh tịnh thể
Vô tướng bổn lai chân
Như không giai tổng biến
Vạn kiếp thể trường tồn
Bất cộng giai bất trước
Vô cựu diêt vô tân
Hòa quang trần bất nhiễm
Tam giới độc vi tôn.
Dịch 
Lô Xá thể thanh tịnh 
Không tướng tự nhiên chân 
Như hư không rộng khắp 
Muôn kiếp vẫn trường tồn 
Chẳng chung, chẳng riêng rẽ
Không cựu cũng không tân
Hòa đục trong chẳng nhiễm
Ba cõi một mình tôn
Diễn giải
Báo thân thể thanh tịnh
Vô tướng vốn là chân 
Như hư không rộng khắp
Muôn kiếp vẫn trường tồn.
Không chung cùng, không dính dáng
Không cũ cũng không mới
Hòa sáng, chẳng nhiễm trần.
Ba cõi chỉ mình ta. 
13 – BẤT
CẤU BẤT TỊNH 
Chân như việt tam giới
Cấu tịnh bổn lai vô
Năng nhân khởi phương tiện
Thuyết tế cập ngôn thô
Không giới vô hữu pháp
Thị hiện nhất luân cô
Bổn lai vô nhất vật
Khởi hiệp lưỡng ban hô.
Dịch
Chân như vượt ba cõi
Dơ sạch vốn không ngơ
Vì thương phương tiện mở 
Nói nhặt cùng nói thưa 
Cõi không chẳng có pháp 
Hiện xuống bánh xe đưa 
Xưa nay không một vật
Huống hai thứ lọc lừa. 
Diễn
giải
Chân như vượt trên ba cõi
Xưa nay vốn không nhơ, sạch
Như Lai mở phương tiện
Nói gần, nói xa, nói thô, nói tế.
Chân như không pháp có.
Thị hiện bằng một vòng tròn.
Xưa nay không một vật 
Huống là có hai ban. 
14 – BẤT
TĂNG BẤT GIẢM 
Như Lai thể vô tướng
Mãn túc thập phương không
Không thượng nan lập hữu
Hữu nội bất kiến không
Khán tự thủy trung nguyệt
Văn như nhĩ bạn phong
Pháp thân hà tăng giảm
Tam giới hiệu chân dung.
Dịch
Như Lai thể không tướng 
Đầy dẫy mười phương không
Trên “không” khôn lập “có”
Trong “có” chẳng thấy “không”
Nghe như tai gió thoảng
Xem như nguyệt trên sông 
Pháp thân nào thêm bớt
Ba cõi gọi chân dung.
Diễn
giải 
Thể của chơn như vốn vô tướng
Đầy dẫy khắp cả mười phương 
Trên cái “không”, khó mà làm ra cái “có”
Trong cái “có” chẳng thấy cái “không”
(sắc) Xem thì như trăng trong
nước, thấy hình tướng đó, mà thực chất thì không có.
(thanh) Nghe thì như gió thoảng
bên tai. Mới nghe ào một cái đã mất rồi. Không trường tồn. 
Pháp thân vốn không thêm, không
bớt. 
Pháp giới là chân dung của pháp
thân.
15 – THỊ
CỐ KHÔNG TRUNG 
Bồ Đề bất tại ngoại
Trung văn mịch giã nan
Phi tướng phi phi tướng
Lượng trắc thất cơ quan
Thế giới phi thế giới
Tam quang chiếu tứ thiên
Bổn lai vô chướng ngại
Thậm xứ hữu già lan.
Dịch
Bồ Đề ngoài chẳng có
Cũng chẳng ở trung gian 
Chẳng tướng, chẳng chẳng tướng 
Cân nhắc mất cơ quan 
Thế giới chẳng thế giới 
Bốn trời sáng ba quang 
Bổn lai không chướng ngại
Đâu là chỗ chắn ngang. 
Diễn
giải 
Bồ Đề ngoài chẳng có 
Trong nghe cũng khó tìm
Chẳng phải tướng. chẳng phải chẳng tướng
Vừa khởi suy nghĩ, cân nhắc liền sai.
Thế giới hay chẳng thế giới
Tam minh làm sáng tứ thiền
Mới biết xưa nay không chướng ngại
Chỗ nào có chắn ngang?
16 – VÔ
SẮC VÔ THỌ TƯỞNG HÀNH THỨC
Vô sắc bổn lai không
Vô thọ ý hoàn đồng
Hành thức vô trung hữu
Hữu tận khước qui không
Chấp hữu thực bất hữu
Y không hựu lạc không
Sắc không tâm câu li
Phương thỉ đắc thần thông
Dịch
Không, sắc bổn lai không 
Không thọ ý vẫn đồng
Hành, thức, không trong có 
Có hết lại về không
Chấp có đâu thực có
Theo không lại lạc không
Sắc không tâm lìa hết
Chừng ấy mới thần thông. 
17 – VÔ
NHÃN NHĨ TỊ THIỆT THÂN Ý 
Lục căn vô tự tánh
Tùy tướng dữ an bài
Sắc phân, duyên thanh hưởng
Nhân ngã thiệt khôi hài
Tị hoặc phân hương khứu
Thân, ý dục tình quai
Lục xứ tham ái đoạn
Vạn kiếp bất luân hồi.
Dịch 
Sáu căn không tự tánh 
Theo tướng đặt bày thôi
Sắc duyên theo tiếng vọng 
Nhơn ngã lưỡi đùa chơi 
Mũi dối phân mùi ngửi 
Thân ý đắm tình đời 
Sáu nơi tham mến dứt 
Muôn kiếp chẳng luân hồi.
Diễn
giải 
Sáu căn
của chúng ta không có tự tánh, nó duyên theo trần cảnh. 
Sắc phân ra thì chẳng còn gì,
Âm thanh chỉ là tiếng vọng, có đó, mất đó, không thực. Lưỡi phân biệt vị, và để
nói những lời phân biệt nhân ngã. Nếu không có vị thì lưỡi chẳng biết phân biệt
gì. Còn Nhân ngã là những thứ giả dối, do chấp mà có. Mũi phân biệt mùi hương,
là những thứ do duyên hợp mà có, nên giả có. 
Thân và ý thì ưa những vuốt ve,
trìu mến v v…
Nếu sáu căn không tham muốn
những thứ cám dỗ đó thì đã chẳng đọa luân hồi. 
18 – VÔ
SẮC THANH HƯƠNG VỊ XÚC PHÁP 
Chứng trí vô thanh sắc
Hương vị xúc tha thùy
Lục trần tòng vọng khởi
Phàm tâm tự hoặc nghi
Sanh tử hưu sanh tử
Bồ Đề chứng thử thì
Pháp tánh không, vô trụ
Chỉ khủng ngộ tha trì
Dịch
Chứng trí không thanh, sắc 
Hương, vị, xúc khác gì 
Sáu trần theo vọng dấy 
Tâm phàm tự dối nghi 
Sanh tử, thôi sanh tử 
Bồ Đề chứng một khi 
Pháp tánh không, vô trụ 
Chỉ sợ ngộ chầy chầy. 
Diễn
giải 
Chứng ngộ thì thanh sắc, hương, vị, xúc đều
không 
Lúc trần vọng động, dấy lên. Tâm phàm theo
đó mà vọng khởi. 
Sanh tử hay không sanh tử, do đã chứng Bồ
Đề hay chưa
Pháp tánh vốn không, vốn vô trụ. Chỉ sợ ngộ
chậm mà thôi. 
19 – VÔ
NHÃN GIỚI NẢI CHÍ VÔ Ý THỨC GIỚI 
Lục thức tòng vọng khởi
Y tha tánh tự khai
Nhãn nhĩ khiêm thân ý
Thùy khẳng tự lượng tài
Thiệt tị hành điên đảo
Tâm vương khước khiển hồi
Lục thức trung bất cửu
Đốn ngộ hướng Như Lai
Dịch
Sáu thức theo vọng dậy
“Y tha” mở dối sai 
Mắt tai luôn thân ý 
So tính được sao ai 
Lưỡi mũi gây điên đảo 
Tâm vương lạc hướng quay 
Đợi gì trong sáu thức 
Đốn ngộ hướng Như Lai.
Diễn
giải
Sáu thức theo vọng khởi 
Tánh mở chạy theo ngoài 
Mắt tai và thân ý 
Ai cũng tự khoe tài
Lưỡi, mũi làm điên đảo 
Tâm vương chẳng quay đầu 
Sáu thức không trường cửu 
Muốn ngộ đợi Như Lai. 
20 – VÔ
VÔ MINH, DIỆT VÔ VÔ MINH TẬN, NẢI CHÍ VÔ LÃO TỬ, DIỆT VÔ LÃO TỬ TẬN
Thập nhị nhân duyên hữu
Sanh hạ lão tương tùy
Hữu thân vô minh chí
Nhị tướng đẳng đầu tề
Thân tận vô minh tận
Thọ báo khước lai kỳ
Tri thân như huyễn hóa
Cấp cấp ngộ vô vi
Dịch
Vì mười hai duyên có 
Sanh, lão mới tương tùy
Thân có, vô minh đến
Hai tướng hiện liền khi
Thân hết vô minh hết 
Thọ báo hết hẹn kỳ
Rõ thân như mộng mị 
Gấp gấp ngộ vô vi 
Diễn
giải 
Có mười
hai nhân duyên thì mới có sanh lão bệnh tử. 
Nếu có thân người là đã vô minh
(vì sao? nếu ngộ thì tâm còn chẳng có, huống gì là thân). 
Vì vô minh nên thấy 2 tướng: có
– không, tốt – xấu, phải – trái, dài – ngắn, cao – thấp v v…
Nếu không chấp thân là có, nếu
ta là không thì lấy ai thọ báo. 
Nếu biết thân này chỉ là huyễn
ảo, thì chẳng cần làm gì cả. Không gây phước, không tạo nghiệp. 
21 – VÔ
KHỔ TẬP DIỆT ĐẠO
Tứ đế hưng tam giới
Đốn giáo nghĩa phân minh
Khổ đoạn tập dĩ diệt
Thánh đạo tự nhiên thành
Thanh văn hưu vọng tưởng
Duyên giác ý an ninh
Dục tri thành Phật xứ
Tâm thượng mạc lưu đình
Dịch 
Bốn đế hưng ba cõi 
Đốn giáo nghĩa phân minh 
Khổ dứt, tập đã diệt 
Đạo thánh tự nhiên thành
Thanh văn thôi tưởng dối
Duyên giác ý an ninh 
Muốn biết nơi thành Phật 
Trên tâm đừng trệ quanh. 
Diễn
giải
Pháp Tứ Đế chấn hưng ba cõi 
Giáo pháp nhanh chóng, phân minh
Chỉ cần dứt các nguyên nhân gây khổ, diệt
các tập khí, thói quen tạo khổ 
Thì đạo thánh tự nhiên thành. 
Bậc thanh văn không còn vọng tưởng nữa. 
Bâc duyên giác tâm ý được an định.
Muốn biết khi thành Phật ở cõi nào 
Thì tâm không lưu chuyển cũng không ngừng
trệ.
(tâm không khởi, không diệt) 
22 – VÔ
TRÍ DIỆT VÔ ĐẮC 
Pháp bổn phi vô, hữu
Trí huệ nan trắc lường
Hoan hỷ tâm ly cấu
Phát quang mãn thập phương
Nan thắng ư tiền hiện
Viễn hành đại đạo trường
Bất động siêu bỉ ngạn
Thiện huệ pháp trung vương. 
Dịch 
Pháp vốn không vô, hữu 
Trí huệ đâu dễ lường 
Hoan hỉ tâm lìa bợn
Phát sáng ngập mười phương
Có gì hơn trước mắt 
Tìm đâu xa đạo trường 
Chẳng động qua bờ giác 
Cõi thiện huệ pháp vương. 
Diễn
giải 
Pháp vốn chẳng có, không 
Khó có thể suy lường bằng trí huệ
Tâm vui mừng, lìa trần cấu 
Thì sẽ phát sáng cả mười phương. 
Pháp tối thắng ở ngay trước mắt
Đi đâu xa tìm cầu.
(Chỉ cần) tâm bất động là đến bờ kia
Trí huệ thiện xảo, vua các pháp.
23 – DĨ
VÔ SỞ ĐẮC CỐ 
Tịch diệt thể vô đắc
Chân không tuyệt thủ phan
Bổn lai vô tướng mạo
Quyền thả lập tam đàn
Tứ trí khai pháp dụ
Lục độ hiệu đô quan
Thập địa tam thừa pháp
Chúng thánh trắc tha nan.
Dịch
Niết bàn có gì chứng 
Chân không đặt níu quàng 
Xưa nay không tướng mạo 
Quyền biến dựng ba đàn 
Bốn trí mở pháp dụ 
Sáu độ ví ải quan 
Mười địa, ba thừa pháp 
Hàng thánh khó luận bàn. 
Diễn
giải 
Thể tánh vốn tịch diệt, không thể chứng đắc
Chân không, không thể nắm bắt
Xưa nay không tướng mạo
Quyền biến dựng lên tam thân.
Dùng tứ trí mở pháp dạy người.
Lục độ là ải quan, người tu phải vượt qua.
Phật pháp giảng dậy thập địa, tam thừa 
Hàng thánh khó luận bàn. 
24 – BỒ
ĐỀ TÁT ĐỎA 
Phật đạo chân nan thức
Tát đỏa thị phàm phu
Chúng sanh yếu kiến tánh
Kính Phật mạc tâm cô
Thế gian thiện tri thức
Ngôn luận pháp tế thô
Đốn ngộ tâm bình đẳng
Trung gian hữu tương trừ
Dịch 
Phật đạo thật khó thấu 
Tát đỏa là phàm nhân 
Chúng sanh cầu thấy tánh 
Kính Phật chớ phụ tâm 
Trong đời thiện tri thức 
Luận pháp nói sâu nông
Đốn ngộ tâm bình đẳng 
Dứt hết hai bên lầm.
Diễn
giải 
Phật đạo thật khó hiểu 
Bồ Tát còn phàm phu 
Chúng sanh muốn thấy tánh 
kính Phật chớ phụ tâm.
Thiện tri thức trong đời 
Bàn nói pháp sâu, nông.
Ngộ được tâm bình đẳng 
Trung đạo hết có không.
25 – Y
BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA CỐ
Bát nhã ngôn trí huệ
Ba la vô sở y
Tâm không tánh quảng đại
Nội ngoại tận vô vi
Tánh không vô ngại biện
Tam giới đạt nhân hi
Đại kiến minh đại pháp
Giai tán bất tư nghì
Dịch 
Bát nhã ấy trí huệ 
Ba la không sở y 
Tâm không, rộng lớn khắp 
Trong ngoài, thảy vô vi 
Tánh không, không ngại biện 
Đạt giả có bao người?
Thấy lớn, sáng pháp lớn 
Tán tụng biết bàn chi.
Diễn
giải 
Bát nhã là trí huệ
Đến bờ, không nơi chốn 
Tâm không, tánh rộng lớn
Trong ngoài đều vô vi 
Tánh không, bàn vô ngại
Tam giới, mấy người hay
Thấy sâu, sáng đại pháp 
Tán thán bất tư nghì.
26 – TÂM
VÔ QUẢI NGẠI 
Giải thoát tâm vô ngại
Ý nhược thái hư không
Tứ duy vô nhất vật
Thượng hạ tất giai đồng
Lai vãng tâm tự tại
Nhân pháp bất tương phùng
Phỏng đạo bất kiến vật
Nhiệm vận xuất phiền lung.
Dịch
Giải thoát tâm vô ngại 
Ý tợ thái hư không 
Bốn phương không một vật 
Trên dưới rốt chung đồng 
Tới lui tâm tự tại 
Nhân pháp chẳng chung cùng 
Hỏi đạo chẳng thấy vật 
Thong dong thoát chậu lồng. 
27 – VÔ
QUẢI NGẠI CỐ, VÔ HỮU KHỦNG BỐ 
Sanh tử tâm khủng bố
Vô vi tánh tự an
Cảnh vong tâm diệt diệt
Tánh hải trạm nhiên khoan
Tam thân qui tĩnh thổ
Bát thức li nhân duyên
Lục thông tùy thực tướng
Phục bổn khước hoàn nguyên
Dịch 
Sanh tử tâm lo sợ
Vô vi tánh tự an 
Cảnh quên tâm cũng diệt 
Biển tánh lặng dung khoan
Ba thân về đất tịnh 
Tám thức lìa nhân duyên 
Sáu thông theo tướng thực 
Quày đầu lại bổn nguyên.
Diễn
giải 
Sanh tử
làm tâm lo sợ
Vô vi, chẳng làm, chẳng khởi
chẳng diệt thì tánh tự an, không lo sợ nữa
Quên trần cảnh bên ngoài, tâm
diệt các vọng niệm cũng chẳng còn 
Tánh rộng lớn trạm nhiên, tĩnh
lặng, dung chứa. 
Lúc đó tam thân trở về bổn tánh
thanh tịnh 
Tám thức lìa khỏi nhân duyên
thì cũng chẳng còn nữa. (trở thành tứ trí)
Lục thông bấy giờ không để đối
phó với trần cảnh nữa, mà trở về theo thực tướng. Mà thực tướng là “xưa nay
không một vật”, là chơn tánh, là nguồn tâm. 
Do đó nói rằng “quày đầu lại
bổn nguyên“. 
28 –
VIỄN LY NHẤT THIẾT ĐIÊN ĐẢO MỘNG TƯỞNG 
Nhị biên thuần mạc lập
Trung đạo vật tâm tu
Kiến tánh sanh tử tận
Bồ đề vô sở cầu
Thân ngoại mịch chân Phật
Điên đảo nhất sanh hưu
Tĩnh tọa thân an lạc
Vô vi quả tự châu
Dịch 
Hai bên toàn chớ lập
Ở giữa chớ lầm tu 
Thấy tánh, sanh tử hết
Bồ đề, chẳng phải cầu
Ngoài thân tìm Phật thực 
Điên đảo bỏ đi thôi
Ngồi tịnh, thân vui lặng 
Vô vi trái đến hồi. 
Diễn
giải 
Chẳng lạc vào nhị biên (có-không, phải-trái
…)
Cũng chẳng theo trung đạo
(Chỉ cần) kiến tánh thì hết sanh tử
Bồ Đề (thành đạo) chẳng phải cầu.
Tìm Phật ngoài thân này là điên đảo 
(Nhưng xem thân này là Phật thì sớm xuống
địa ngục) 
(Chỉ cần) Ngồi tịnh, thân tâm đều an lạc. 
Quả vô vi sẽ có ngày thành. 
29 – CỨU
CÁNH NIẾT BÀN 
Cứu cánh vô sanh tánh
Thanh tịnh thị Niết Bàn
Phàm phu mạc trắc thánh
Vị đáo tức ưng nan
Hữu học khước vô học
Phật trí chuyển thâm huyền
Yếu hội vô tâm lý
Mạc trước tức tâm nguyên.
Dịch
Không sanh tức cứu cánh
Thanh tịnh ấy Niết Bàn 
Phàm phu đừng luận thánh
Chưa đến biết chi bàn 
Có học cùng không học 
Trí Phật chuyển sâu huyền 
Lý vô tâm cốt rõ 
Đừng chấp lặng tâm nguyên. 
Diễn
giải 
Cứu cánh là tánh vô sanh
Thanh tịnh là Niết Bàn 
Phàm phu đừng luận việc thánh
Chưa đến đó thì khó bàn 
Hữu học cùng vô học 
Trí Phật chuyển sâu xa, vi diệu
Nếu hiểu được lý “Vô Tâm”
(thì) đừng chấp trước, tức nguồn tâm. 
30 – TAM
THẾ CHƯ PHẬT 
Quá khứ phi ngôn thực
Vị lai bất vi chân
Hiện tại Bồ Đề tử
Vô pháp hiệu huyền môn
Tam thân đồng qui nhất
Nhất tánh biến hàm thân
Đạt lý phi tam thế
Nhất pháp đắc vô nhân
Dịch 
Quá khứ lời chẳng thực 
Vị lai cũng chẳng chân 
Hiện tại Bồ Đề tử 
Không pháp gọi huyền môn 
Ba thân cùng về một 
Một tánh gội nhuần thân 
Đạt lý ba đời mất 
Một pháp được không nhân 
Diễn
giải 
Quá khứ thì đã qua, nên nó chẳng thực
Vị lai thì chưa đến nên cũng chẳng phải
chân.
Hiên tại mới là hột giống Bồ Đề
Pháp “Vô pháp” này gọi là huyền môn 
Tam thân từ một bổn tánh mà ra 
Tánh này gồm chứa các thân 
Đạt được lý này thì ba đời cùng mất 
Đắc pháp này thì không ngã, pháp, không
nhân quả. 
31 – Y
BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA CỐ ĐẮC A NẬU ĐA LA TAM MUỘI TAM BỒ ĐỀ
Phật trí thâm nan trắc
Huệ giải quảng vô biên
Vô thượng tâm chánh biến
Từ quang mãn đại thiên
Tịch diệt tâm trung xảo
Kiến lập vạn dư ban
Bồ Tát đa phương tiện
Phổ cứu vị nhân thiên
Dịch
Trí Phật sâu khôn lượng 
Huệ giải rộng vô biên 
Vô thượng tâm chánh biến 
Ánh từ ngập đại thiên 
Tịch diệt tâm thiện xảo 
Dựng lên vạn pháp thiền
Bồ Tát nhiều phương tiện 
Cứu khắp vì nhân thiên 
Diễn
giải 
Trí Phật khó nghĩ bàn 
Trí huệ sâu rộng không giới hạn 
Tâm vô thượng biết khắp 
Cả đại thiên thế giới. 
Trong tâm tĩnh lặng, hay khéo
Lập nên hàng vạn phương cách khác nhau 
Bồ Tát nhiều phương tiện 
Cứu độ khắp trời người. 
32 – CỐ
TRI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA 
THỊ ĐẠI THẦN CHÚ, THỊ ĐẠI MINH
CHÚ 
Bát nhã vi thần chú
Năng trừ ngũ uẩn nghi
Phiền não giai đoạn tận
Thanh tịnh tự phân ly
Tứ trí ba vô tận
Bát thức hữu thần uy
Tâm đăng minh pháp giới
Tức thử thị Bồ Đề
Dịch 
Bát nhã là thần chú 
Trừ dứt năm uẩn nghi 
Phiền não cũng mất trọn
Thanh tịnh tự phân ly 
Bốn trí cuồn cuộn sóng 
Tám thức lộ thần uy 
Đèn tâm soi pháp giới 
Đó tức là Bồ Đề 
Diễn
giải 
Bát nhã là thần chú
Trừ hết mọi nghi ngờ của năm uẩn (thân tâm)
(Nếu ngũ uẩn đã không) thì Phiền não cũng
dứt hết 
Nếu pháp phân ly ra thì chẳng còn gì cả nên
thanh tịnh. 
Tứ trí dồi dào sung mãn như sóng cuộn
Bát thức bây giờ là tứ trí, hiển lộ thần uy
Tâm chiếu pháp giới ngời sáng 
Đó tức là Bồ Đề. 
33 – THỊ VÔ THƯƠNG CHÚ 
Vô thương xưng tối thắng
Bạt tế vị quần mê
Ma ha tam giới chủ
Nguyện quảng khởi từ bi
Năng thuận chúng sanh ý
Tùy lưu dẫn hóa mê
Nhân nhân khởi bỉ ngạn
Do ngã bất do y.
Dịch 
Vô thượng xưng tối thắng
Bạt tế ấy quần mê
Giáo chủ ba ngàn cõi 
Rộng mở nguyện từ bi 
Thuận lòng chúng sanh muốn 
Tùy cảnh dẫn qua mê
Người người lên bờ giác 
Do mình chẳng do ai.
Diễn
giải 
Không ai cao hơn, nên gọi là tối thắng
Nhiều vi tế hoặc nên là chúng sanh 
Chủ tể của đại thiên gồm 3 cõi (dục giới,
sắc giới, vô sắc giới) 
Nguyện khởi lòng từ bi rộng lớn
Hay thuận theo ý chúng sanh
Tùy hoàn cảnh mà dẫn dắt, hóa độ khỏi cõi
mê
Người người lên bờ giác 
Do mình chẳng do ai. 
34 – THỊ VÔ ĐẲNG ĐẲNG CHÚ 
Phật đạo thành thiên thánh
Pháp lực cánh vô qua
Chân không diệt chư hữu
Thị hiện hóa thân đa
Lai vị chúng sanh khổ
Khứ vị thế gian ma
Kiếp thạch giai qui tận
Duy ngã tại Ta Bà
Dịch 
Phật đạo bao người chứng 
Pháp lực chẳng gì qua 
Chân không dứt mọi có 
Hóa thân hiện hằng sa 
Đến vì chúng sanh khổ
Đi vì thế gian ma 
Kiếp thạch thẩy về hết 
Mình ta tại Ta Bà.
Diễn
giải 
Phật đạo thành ngàn thánh 
Pháp lực chẳng gì qua 
Chân không diệt mọi có (Qui vạn pháp về
chơn không) 
Hóa thân hiện hằng sa (Vì chơn không nên
mới có thể hiện hằng sa hóa thân)
Đến vì chúng sanh khổ (Phật ra đời để cứu
vớt chúng sanh khỏi bể khổ)
Đi vì thế gian ma (Thế gian xảo quyệt gian
trá thì Phật pháp diệt)
Kiếp đá dù có hết (Thế giới dù có tận) 
(vẫn còn) mình ta tại Ta Bà 
35 –
NĂNG TRỪ NHẤT THIẾT KHỔ, CHÂN THỰC BẤT HƯ 
Phật nguyện từ tâm quảng
Thế thế độ chúng sinh
Hoằng pháp đàm chân lý
Phổ cần cấp tu hành
Hồi tâm kiến thực tướng
Khổ tận kiến vô sanh
Vĩnh tức tam ác đạo
Thản đãng lạc li li
Dịch 
Phật từ tâm rộng lớn 
Đời đời nguyện độ sanh 
Hoằng pháp nêu lẽ thực 
Khắp khuyên gấp tu hành 
Quày đầu thấy tướng thực.
Khổ hết thấy vô sanh 
Dứt hẳn ba đường ác 
Thanh thản lòng vui thành 
Diễn
giải 
Đức Phật, từ tâm rộng lớn, nguyện rằng
Đời đời độ chúng sanh 
Nêu chân lý để hoằng pháp 
Mọi người nên gấp tu hành 
Hồi tâm lại thấy thực tướng nơi mình 
Ngộ vô sanh thì hết khổ 
Dứt hăn ba đường ác 
Thanh thản lòng vui vẻ. 
36 – CỐ
THUYẾT BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA CHÚ 
Cố thuyết chân như lý
Vị ngộ tốc tâm hồi
Lục tặc thập ác diệt
Ma sơn hiệp để tồi
Thần chú trừ tam độc
Tâm hoa ngũ diệp khai
Quả thục căn bàn kết
Bộ bộ kiến Như Lai
Dịch 
Nên nói lý chân như 
Chưa ngộ gấp tâm hồi 
Sáu giặc thôi gieo ác 
Thùng sơn lủng đáy rồi 
Thần chú trừ ba độc 
Hoa tâm nảy năm chồi
Trái chín căn nguồn dứt 
Bước bước thấy Như Lai 
Diễn
giải 
Nói về lý chân như 
Chưa ngộ gấp hồi tâm 
Diệt lục tặc, thập ác 
Thùng sơn lủng đáy rồi
Thần chú trừ ba độc (tham, sân, si)
Tâm hoa năm cánh nở (Diệt ba độc thì dùng
ngũ lực)
Trái chín căn nguồn hết (ngôi vị kết) 
Bước bước thấy Như Lai 
37 – TỨC
THUYẾT CHÚ VIẾT: YẾT ĐẾ YẾT ĐẾ, BA LA YẾT ĐẾ, BA LA TĂNG YẾT ĐẾ, BỒ ĐỀ TÁT BÀ
HA 
Yết đế bổn tông cương
Phò cơ kiến pháp chường
Như Lai tối tôn thắng
Phàm tâm mạc đẳng lường
Vô biên vô trung tế
Vô đoản diệt vô trường
Bát nhã ba la mật
Vạn đại cổ kim thường
Dịch
Yết đế giềng mối đạo 
Đưa duyên phướn nêu đường 
Như Lai tối tôn thắng 
Phàm tâm biết đâu lường 
Không bên, không ở giữa 
Dài ngắn cũng không luôn 
Bát nhã ba la mật 
Suốt kim cổ hằng thường. 
Diễn
giải 
Yết đế vốn là giềng mối 
Tùy duyên để cho thấy pháp 
Như Lai bậc tôn quí, tối thắng
Tâm phàm chẳng thể đo lường 
Không ngoài cũng không trong
Không ngắn cũng không dài 
Bát nhã ba la mật 
Thường hằng từ xưa đến nay.