AN TÂM PHÁP MÔN
Khi mê, người
đuổi theo pháp.
Lúc
tỉnh, pháp đuổi theo người.
Tỉnh, ấy
là tâm thức thâu nhiếp vật, sắc.
Mê, ấy
là vật, sắc thâu nhiếp tâm thức.
Chỉ một
chút phân biệt, cân nhắc của tâm là tự nơi mình, mọi hiện lượng đều là mộng cả.
Nếu nhận
biết tâm mình vốn tịch diệt, không đâu là chỗ niệm cả, đó gọi là chánh giác.
HỎI: Sao
gọi là hiện lượng của tâm mình?
ĐÁP: Khi
thấy các pháp là “có”, có nhưng chẳng phải tự nó có, mà nhân suy lường nên cho
là có.
Khi thấy các pháp là “không”, không nhưng chẳng phải tự nó không, mà nhân suy
lường nên cho là không.
Nói rộng
ra thì tất tất đều như vậy cả, toàn do tâm mình suy lường ra mà cho là có, mà
cho là không.
Còn người nào trót gây đủ thứ tội mà tự thấy vị Pháp Vương của chính mình, tức
được giải thoát.
Tự trên “sự”, vươn lên mà tỏ suốt, đó là hàng khí lực mạnh.
Tự trong
“sự”, thấy được pháp, người ấy đâu đâu cũng chẳng mất niệm.
Theo chữ
nghĩa mà thông rõ, đó là người khí lực kém.
Sự tức
là pháp, pháp tức là sự, ai rõ sâu lẽ ấy tự nhiên thuận theo mọi động tác của
thân mình. Như thế tất người ấy chẳng ra pháp giới mà cũng chẳng vào pháp giới.
(chủ nhà
thì mặc ý ra vào, nhưng rốt cuộc là chẳng ra cũng chẳng vào)
Nếu đem
pháp giới vào pháp giới, đó là người si.
Hễ thấy
có thi vi, rốt cuộc không ra được tâm pháp giới.
Tại sao
vậy? Vì thể của tâm tức là pháp giới vậy.
HỎI: Người đời học hỏi đủ thứ,
tại sao không được đạo?
ĐÁP: Vì người
ấy còn tự thấy mình nên không được đạo. “Mình” ấy tức là “Ta” vậy. Bậc chí nhân
gặp khổ chẳng lo, gặp vui chẳng mừng. Ấy vì không thấy có mình đó. Sở dĩ không
biết khổ, vui vì quên mất mình trong hư vô đó.
Chính
mình mình còn quên, thì còn cái gì mà chẳng quên được?
HỎI: Các pháp đã là không thì
dựa vào gì mà tu đạo?
ĐÁP: Nếu
có dựa vào gì thì mới cần tu đạo. Nếu không có gì để dựa thì chẳng cần tu đạo.
“Cái gì” ấy tức là “cái ta” đó vậy. Nếu không có cái ta thì đối với sự vật
chẳng sanh lòng phải quấy.
Phải,
chính là tự ta phải, mà vật thì chẳng phải vậy.
Quấy,
chính là tự ta quấy, mà vật thì chẳng quấy vậy.
Đối tâm
mà không tâm mới thông đạt đạo Phật.
Đối vật
mà không dấy lên cái thấy mới là đạt đạo.
Đứng
trước vật, người naò đạt thẳng, biết suốt đến căn nguyên, tức người ấy mở thông
mắt huệ.
Người trí tùy vật chẳng tùy mình, nên không có giữ, bỏ, thuận, nghịch
Người
ngu tùy mình chẳng tùy vật nên có giữ bỏ, thuận nghịch.
Chẳng thấy gì hết gọi là thấy đạo
Chẳng làm gì hết gọi là hành đạo.
Cho nên
bất cứ đâu đâu cũng như không đâu, bất cứ làm gì cũng như không làm. Đó tức là
thấy Phật.
Bằng
thấy tướng ở đâu tức thấy qủy ở đó.
Vì giữ tướng nên đọa địa ngục.
Vì xét pháp nên được giải thoát.
Nếu thấy
tướng, nhớ tướng rồi phân biệt, tức chịu cảnh khổ lửa phỏng, nước sôi. Thấy
hiện trước mắt tướng sinh tử.
Thấy tánh của pháp giới tức thấy tánh Niết
Bàn
Không tưởng nhớ phân biệt tức là tánh pháp giới.
Tâm chẳng phải sắc nên chẳng phải có
Dùng mấy vẫn không hết nên chẳng phải
không.
Dùng mà vẫn thường không nên chẳng phải có.
Không mà vẫn dùng hoài nên chẳng phải
không.
Kệ rằng:
Tâm, tâm, tâm
Nan khả tầm
Khoan thời biến pháp giới
Trách giã bất dung châm
Nghĩa
Tâm, tâm, tâm
Khó nỗi tầm
Tung ra trùm pháp giới
Thu lại chẳng đầy mũi kim.
Kệ II
Diệt bất đổ ác nhi sanh hiềm
Diệt bất quán thiện nhi cần thố
Diệt bất xả trí nhi cận ngu
Diệt bất phao mê nhi tựu ngộ
Đạt đại đạo hề quá lượng
Thông Phật tâm hề xuất độ
Bất dữ phàm thánh đồng triền
Siêu nhiên danh chi viết tổ.
Nghĩa
Cũng đừng thấy ác mà sanh ghét
Cũng đừng thấy thiện mà hâm mộ
Cũng đừng bỏ trí mà gần ngu
Cũng đừng buông mê mà cầu ngộ.
Được vậy thì:
Chứng đạo lớn, rộng vô lượng
Sáng tâm Phật, lớn vô biên
Chẳng cùng phàm thánh quàng xiên
Vượt hết mà lên, gọi là Tổ.