NGỘ TÁNH LUẬN
(GHI CHÚ: phần màu xanh do tôi
thêm vào để thích nghĩa cho rõ)
Phàm là đạo, phải lấy sự tịch diệt làm thể
Là tu, lấy sự lìa hình tướng làm tông.
Nên kinh
nói:
Tịch diệt là Bồ-Đề. Diệt hết hình tướng,
Là Phật, nghĩa là Giác vậy.
Người có giác tâm, được đạo Bồ-Đề, nên gọi
là Phật.
Kinh nói:
Lìa tất cả hình tướng tức gọi là chư Phật.
Nên biết
tướng Phật là có tướng mà không tướng. Không thể thấy bằng mắt, chỉ biết được
bằng trí.
Ai nghe
pháp ấy mà chợt phát lòng tin là người ấy đang nương pháp đại thừa siêu lên ba
cõi.
Ba cõi
ấy là tham, sân, si vậy.
Chuyển
ngược tham, sân, si làm giới, định, huệ tức gọi siêu lên ba cõi. Tuy nhiên
tham, sân, si chẳng có thực tính, chỉ bằng vào chúng sanh mà đặt tên. Nếu có
thể soi ngược trở lại thì sẽ thấy rõ:
Tánh của
tham, sân, si là tánh Phật. Ngoài tham, sân, si tuyệt không có tánh Phật nào
khác.
Kinh nói:
Từ vô
thỉ đến nay chư Phật luôn cư xử ở nơi ba độc, nuôi lớn ở trong bạch pháp, mà
thành tựu quả Thế Tôn.
Ba độc
ấy là tham, sân, si vậy.
Nói Đại
thừa, Tối thượng thừa là nói chỗ sở hành của hàng Bồ-Tát.
Không gì
là chẳng thừa, mà cũng không gì gọi được là thừa, suốt ngày thừa mà chưa hề
thừa, đó là Phật thừa.
Kinh nói:
Lấy vô thừa làm Phật thừa vậy.
Thừa tức
là cưỡi. Bồ Tát cưỡi xe lớn, thuyền lớn vào bể lớn sinh tử để cứu độ chúng
sinh. Các ngài dùng mọi phương tiện thích hợp để độ sinh cho nên nói không gì
là chẳng thừa. Tuy nhiên việc độ sinh đó chỉ là hình tướng. Còn nơi các ngài an
trụ là ở Niết Bàn, chưa hề động một cái móng tay. Cho nên nói: không gì gọi
được là thừa. Cũng gọi là: suốt ngày thừa mà chưa hề thừa. Đó là Phật
thừa.
Nếu người
biết sáu căn vốn không thực, năm uẩn chỉ giả danh, không thể dựa vào đâu mà cầu
cạnh gì được, người ấy quả thông suốt lời Phật.
Kinh nói:
Hang ổ của năm uẩn là tên gọi của thiền viện.
Chiếu
sáng bên trong mà mở thông suốt, tức là cửa đại thừa.
Chẳng
nhớ tưởng một pháp nào mới gọi là thiền định.
Ví hiểu
rõ lời ấy thì đi đứng, ngồi, nằm thảy đều là thiền định cả.
Tại sao
nói “Hang ổ của năm uẩn là tên gọi của thiền viện “? nói vậy tức xem thân này
là nơi để thiền định
“Chiếu
sáng bên trong mà mở thông suốt, tức là cửa đại thừa” có nghĩa trong tâm sáng
suốt, thông với pháp giới.
“Chẳng
nhớ tưởng một pháp nào mới gọi là thiền định” Chẳng nhớ một pháp nào, tức trong
tâm không một niệm. Có tâm quá khứ tức tưởng nhớ. có tâm vị lai tức tưởng tượng.
Nếu để tâm ở hiện tại tức có tác ý. Cũng chưa thích hợp với Phật tánh, vốn tịch
diệt, lặng lẽ. Chỉ cần bỏ quách đi cả là xong. Và như vậy tức là trong tâm
không một niệm.
Biết tâm
vốn là không, đó gọi là thấy Phật.
Vì sao
vậy? Vì mười phương chư Phật đều nhân vì vô tâm, chẳng thấy ở tâm, đó là thấy
Phật.
Xả tâm
không nuối tiếc gọi là đại bố thí.
Lìa hết
động và tịnh gọi là đại tọa thiền.
Tại sao
vậy?
Kẻ phàm
mỗi mỗi đều hướng về động.
Hàng
tiểu thừa mỗi mỗi đều hướng về định.
Vượt lên
cả cái lầm hiếu động của phàm phu và hiếu định ngồi thiền của tiểu thừa mới gọi
là đại tọa thiền.
Nếu có
được sức lãnh hội ấy thì chẳng cần lìa mà tướng tướng tự cởi bỏ, chẳng cần trị
mà bệnh bệnh tự trừ, ấy đều là định lực của phép đại tọa thiền.
Phàm đem tâm cầu pháp ấy là mê.
Chẳng đem tâm cầu pháp ấy là ngộ.
Chẳng mắc vào chữ nghĩa gọi là giải thoát.
Chẳng nhiễm sáu trần gọi là hộ pháp.
Xuất lìa sanh tử gọi là xuất gia.
Chẳng chịu hậu hữu gọi là được đạo.
Chẳng nổi vọng tưởng gọi là Niết – Bàn.
Chẳng đối xử với vô minh gọi là trí huệ
lớn.
Chỗ không phiền não gọi là Bát Niết Bàn.
Chỗ không tướng gọi là bờ bên kia.
Người mê thì còn cầu pháp
Người ngộ thì không mong cầu.
Còn tìm tòi trong kinh sách là chưa được
giải thoát.
Chẳng nhiễm sáu trần tức chẳng sa vào dục
lạc, nên gọi là hộ pháp.
Xuất lìa sanh tử gọi là xuất tam giới gia.
Chẳng
chịu quả báo, sạch hết mọi nghiệp, thân này là thân sau cùng nên gọi là được
đạo.
Ở Niết –
Bàn mọi thứ đều “Như” nên không có vọng tưởng.
Vô minh chẳng khởi nên chẳng cần đối xử.
Không phiền não gọi là Bát Niết Bàn.
Không tướng là thực tướng, tức bờ bên kia.
Khi mê thì có bờ bên này
Khi ngộ thì không có bờ bên này
Tại sao
vậy?
Vì kẻ
phàm phu mỗi mỗi đều xu hướng trụ ở bờ bên này.
Ví giác
được pháp tối thượng thừa thì tâm chẳng trụ bên này cũng chẳng trụ bên kia, nên
lìa được cả hai, bờ bên này và bờ bên kia vậy.
Nếu thấy
bờ bên kia khác với bờ bên này, ắt người ấy tâm chưa có thiền định.
Phiền não gọi là chúng sanh,
Tỏ ngộ gọi là Bồ - Đề
Đó chẳng
phải khác nhau mà cũng chẳng phải giống nhau, chỉ nhân vì mê với ngộ mà cách
biệt nhau.
Khi mê thì thấy có thế gian cần thoát ra.
Khi ngộ thì không có thế gian nào để mà
thoát ra cả.
Trong
pháp bình đẳng chẳng thấy phàm khác với thánh.
Kinh
nói: Pháp bình đẳng ấy, người phàm không thể vào, mà bậc thánh cũng không thể
hành được.
Pháp bình đẳng ấy, chỉ có hàng đại Bồ -Tát cùng chư Phật Như Lai mới hành được
vậy.
Nếu thấy
sống khác với chết, động khác với tịnh, đó gọi là chẳng bình đẳng.
Tại sao
vậy?
Vì phiền
não với Niết - Bàn đều chung đồng một tánh không vậy.
Do đó
hàng tiểu thừa vọng dứt phiền não, vọng vào Niết- Bàn nên trệ ở Niết – Bàn
Hàng Bồ
- Tát, trái lại biết rõ tánh không của Phiền não, tức chẳng lìa bỏ cái không,
nên lúc nào cũng ở tại Niết – Bàn.
Phàm nói
Niết – Bàn: Niết là không sanh, Bàn là không tử.
Lìa
ngoài sanh tử gọi là bát niết bàn.
Tâm
không qua lại tức vào niết bàn.
Nên biết
niết bàn tức là tâm không.
Chư Phật
vào niết bàn ấy, tức vào cõi không vọng tưởng.
Bồ-Tát
vào đạo tràng ấy, tức vào cõi không phiền não.
Cõi vắng
không ấy, tức cõi không tham, sân, si vậy.
Tham là
cõi dục,
Sân là
cõi sắc,
Si là
cõi vô sắc.
Nếu bỗng
chốc thoắt sanh tâm, tức đi vào ba cõi.
Bỗng
chốc thoắt diệt tâm, tức ra ngoài ba cõi.
Mới hay
ba cõi sanh diệt, muôn pháp có không, đều do một tâm.
Hễ nói
một tâm tựa hồ như phá vào cái thế giới vật chất vô tình của ngói, cây, gỗ, đá.
Nếu biết tâm chỉ là một tiếng gọi suông, không thực thể, tức biết cái tâm tự
tịch ấy chẳng phải có mà cũng chẳng phải không.
Tại sao
vậy?
Vì phàm
phu mỗi mỗi đều có xu hướng sanh tâm nên gọi là “có”.
Hàng
tiểu thừa mỗi mỗi đều có xu hướng diệt tâm nên gọi là “không”.
Hàng
Bồ-Tát và Phật chưa từng sanh tâm, chưa từng diệt tâm nên gọi là “chẳng phải có
tâm, chẳng phải không tâm”.
Cái tâm
chẳng có, chẳng không ấy gọi là trung đạo.
Bởi vậy
dụng tâm học pháp thì tâm, pháp thảy đều mê
Chẳng
dụng tâm học pháp ắt tâm, pháp thảy đều ngộ.
Nói ba
cõi sinh diệt, muôn pháp đều do một tâm sanh. Nhưng cái tâm ấy nó không có thực
thể, chỉ là danh từ suông, không chỉ vào cái gì. Vì vậy cái tâm ấy chẳng phải có
mà cũng chẳng phải không.
Phàm phu
thì trong tâm lúc nào cũng ngổn ngang trăm mối, lo lắng đủ đường nên thấy tâm
là có. (Nhưng đó là vọng tâm)
Tiểu
thừa diệt hết vọng tâm, trong tâm trống rỗng, nên gọi là không tâm.
Duy Phật
và Bồ-Tát thường trụ trong “Thanh Tịnh Pháp Thân” nên thấy chưa từng sanh, chưa
từng diệt.
Cái tâm
ấy chỉ có “dụng” mà không có “thể” cho nên nó chẳng phải có mà cũng chẳng phải
không.
Phàm mê
là mê ở ngộ, còn ngộ là ngộ ở mê.
Bậc
chánh kiến hiểu tâm vốn “Không vô” tức vượt lên mê, ngộ.
Không có
mê, ngộ mới gọi là chánh giác, chánh kiến.
Có mê
mới có ngộ. Có ngộ mới biết mình mê. Thảy đều là đối đãi.
Người mê
thì thấy có mê, có ngộ.
Người
ngộ rồi thì biết tất cả đều là không. Chẳng mê cũng chẳng ngộ.
Sắc
không thể tự nó là sắc, do tâm nên có sắc.
Tâm
không thể tự nó là tâm, do sắc nên có tâm.
Cho nên
hai tướng tâm và sắc đều có sanh, diệt.
Nhờ tâm
nhận biết nên mới có vật.
Có vật
lưu lại hình bóng trong tâm, nên mới có tâm.
Hai thứ
đó đối đãi với nhau mà có.
Nếu
không còn hình bóng trong tâm nữa thì thành tâm không.
Nói “có”
là có do ở “Không”
Nói
“không” là không do ở “có”.
Đó mới
là thấy chân thực.
Phàm
thấy thực thì không gì là chẳng thấy, mà cũng không gì mà không chẳng thấy.
Thấy khắp mười phương mà vẫn là chưa từng có thấy.
Tại sao
vậy?
Vì không
có gì để thấy vậy, vì thấy cái không thấy vậy, vì thấy cái chẳng phải là thấy
vậy.
Cái thấy
của kẻ phàm đều là vọng tưởng.
Nếu tịch
diệt, không có thấy mới là thấy thực.
“Có” và
“không” là hai phạm trù đối đãi, phân biệt. Chúng nương nhau mà có. Cho nên nếu
không có cái này thì không có cái kia. Biết như vậy mới hợp chân lý.
Bởi vì
pháp giới hiện hữu đều là vọng tưởng. Cho nên thấy thực tướng của chúng là
không thấy gì cả. Vì thực tướng của chúng vốn rỗng không.
Thực
tướng của các pháp vốn không mà ta lại thấy chúng tức là ta thấy cái không
thấy, thấy cái chẳng phải là thấy vậy.
Tâm và
cảnh đối đãi nhau, cái thấy phát sinh từ cái thế đối đãi ấy.
Nếu
trong chẳng khởi tâm thì ngoài chẳng sanh cảnh.
Cho nên
tâm và cảnh, nếu lắng hết cả hai thì mới gọi là chân kiến.
Và cái
hiểu trong lúc ấy mới gọi là chánh kiến.
Cảnh tức
là sắc hay vật. Như trên đã nói, cảnh do tâm nhận biết mà có. Tâm do cảnh lưu
lại hình bóng mà thành. Do đó chúng là một cặp phạm trù đối đãi, nương nhau mà
có. Căn và thức do sự đối đãi này mà thành để liên hệ giữa tâm và vật. Do đó
mắt có thể thấy vật, tai có thể nghe tiếng. Vì vậy nên ta biết thấy, nghe, hay,
biết chưa phải là chơn. Nếu từ đầu tâm không vọng niệm thì cảnh đã chẳng sanh.
Cho nên muốn ngộ vào chơn tánh thì tâm và cảnh cả hai đều phải đồng thời buông
bỏ.
Chứng
đạo ca nói
Tâm là căn, pháp là trần
Thảy đều ngấn bụi ám gương trong
Bao giờ ngấn hết gương trong lại,
Tâm pháp cùng quên rõ tánh chơn.
Trong
kinh Lăng Nghiêm, lúc Phật hỏi Bồ-Tát Quán Thế Âm về quá trình tu chứng. Bồ-Tát
nói rằng:
1/ Sơ
văn trung,nhập lưu vong sở. Sở nhập ký tịch
Ban đầu,
ở trong tính-nghe, vào được dòng viên-thông, không còn tướng sở-văn Trần-tướng
vẳng-lặng
2/ Động tỉnh nhị tướng liễu nhiên bất sanh hai tướng động, tĩnh rõ thật không
sinh
3/ Như
thị tiệm văn. Văn - Sở Văn, tận.Tận văn bất trụ
Cứ như
thế mà nghe, các tướng năng-văn, sở-văn đều hết. Không dừng lại nơi chỗ dứt hết
năng-văn, sở-văn mà tiến lên nữa,
4/ Giác,
sở giác không. Không giác tịch nhiên thì năng-giác, sở-giác, đều không. Không-giác
tột bậc viên-mãn,
5/ Không,sở
không diệt.
các
tướng năng-không, sở-không đều diệt
6/ Sanh
diệt ký diệt,tịch diệt hiện tiền
Sinh-diệt
đã diệt, thì bản-tính tịch-diệt hiện-tiền.
Chẳng
thấy một pháp mới gọi là đắc đạo
Chẳng
hiểu một pháp mới gọi là hiểu pháp.
Tại sao
vậy?
Vì thấy
cùng chẳng thấy đều là chẳng thấy vậy.
Hiểu
cùng chẳng hiểu đều là chẳng hiểu vậy.
Thấy cái
chẳng thấy mới là thấy thực
Hiểu cái
chẳng hiểu mới là hiểu thực.
Phàm có
cái hiểu đều là chẳng hiểu.
Không có
cái hiểu mới là thực hiểu.
Hiểu
cùng chẳng hiểu đều chẳng phải là hiểu vậy.
Kinh
nói: chẳng xả trí tuệ gọi là ngu si.
Lấy tâm
làm không thì hiểu cùng chẳng hiểu đều là chân cả.
Chấp tâm
là có thì hiểu cùng chẳng hiểu đều là vọng cả.
Vì thực
tướng không tướng, nên chẳng thấy một pháp tức là thấy thực tướng, nên gọi là
đắc đạo.
Vì các pháp vốn không, nếu tìm hiểu đến thực thể của nó thì sẽ thấy chẳng có
pháp nào, nên nói chẳng hiểu một pháp mới gọi là hiểu pháp.
Vì sao?
Vì các
pháp vốn không, thấy cùng chẳng thấy là hai cái đối đãi nhau, đều là vọng lập,
cho nên nói rằng thấy hay chẳng thấy đều là chẳng thấy sự thực vậy.
Cũng thế
Hiểu cùng chẳng hiểu là hai thứ đối đãi, đều là vọng lập, cho nên nói rằng hiểu
hay chẳng hiểu đều là chẳng hiểu sự thực vậy.
Cái hiểu
là do nhận thức, mà nhận thức thuộc về vọng, thuộc về ý. Chính vì vậy nó không
thực.
Không có
cái hiểu bằng nhận thức ấy, mà biết trực tiếp mới là thực hiểu.
Trí tuệ
để soi xét các pháp, phân biệt các pháp. Nay các pháp vốn không mà không chịu
xả trí tuệ thì gọi là ngu si.
Nếu
trong tâm không một niệm, không chấp trược, thì hiểu cùng chẳng hiểu đều là
chơn.Vì sao, vì hiểu cái không cũng như không cái hiểu.
Nếu
trong tâm có vướng mắc thì hiểu cùng chẳng hiểu đều là vọng cả. Vì sao? vì chấp
trước vậy.
Khi hiểu
rồi thì pháp đuổi theo người,
Khi chưa
hiểu thì người đuổi theo pháp.
Nếu pháp
đuổi theo người ắt cái chẳng phải là pháp hóa thành pháp.
Nếu người
đuổi theo pháp, pháp hóa thành cái chẳng phải là pháp.
Nếu người
đuổi theo pháp thì pháp pháp đều là vọng.
Nếu pháp
đuổi theo người thì pháp pháp đều là chơn.
Nếu ngộ
mọi pháp đều không thì pháp pháp đều tùy thuận theo người
Nếu chấp
mọi pháp là thực có thì người người đuổi theo pháp.
Nếu ngộ
thì tâm cũng chỉ là pháp.
Nếu chưa
ngộ thì vọng niệm hóa thành tâm.
Vì thế
Nếu chưa
tỏ ngộ thì mọi pháp đều là vọng.
Nếu đã
tỏ ngộ thì mọi pháp đều chơn.
Cho nên
bậc thánh
- Cũng chẳng đem tâm cầu pháp,
- Cũng chẳng đem pháp cầu tâm.
- Cũng chẳng đem pháp cầu pháp.
Vì sao?
vì pháp tức là tâm vậy.
Vì thế
tâm chẳng sanh pháp, pháp chẳng sanh tâm. Tâm và pháp tịch cả hai nên lúc nào
cũng ở trong định.
Vì sao?
vì tâm vốn không mà pháp cũng vốn không.
Tâm
chúng sanh sanh, ắt Phật pháp diệt
Tâm
chúng sanh diệt ắt Phật pháp sanh.
Tâm sanh
ắt chân pháp diệt
Tâm diệt
ắt chân pháp sanh.
Khi mê
thì có tội, khi hiểu thì không có tội
Tại sao
vậy?
Vì tội
tánh vốn không vậy.
Khi mê
thì không tội thấy có tội, Kki hiểu rồi thì đối tội thấy không tội.
Tại sao
vậy?
Vì tội
không có gốc gác đâu cả.
Kinh nói:
Muôn pháp đều không tự tánh, cứ dùng nó đừng ngờ, ngờ tức thành tội.
Tại sao
vậy?
Vì tội
do nghi ngờ mà sinh ra.
Nếu thấu
suốt được lẽ ấy thì bao nhiêu tội nghiệp đời trước đều tiêu tan hết.
Tại sao
khi mê thì có tội, khi hiểu lại không tội?
Vì mê
nên chấp có, vạn pháp là có mới gây nên tội. Nếu hiểu vạn pháp là không thì tội
ở đâu ra?
Nếu còn nghi tức chưa hiểu vạn pháp tức không.
Khi mê
thì sáu thức, năm ấm đều là pháp phiền não sinh tử.
Khi ngộ
thì sáu thức, năm ấm đều là pháp niết bàn, không sanh tử.
Người
dốc lòng tu chớ cầu đạo ở bên ngoài
Vì sao
vậy?
Vì tâm
tức là đạo vậy.
Khi được
tâm rồi mới hay không tâm nào có thể có.
Khi được
đạo rồi mới hay không đạo nào có thể được.
Nếu nói
đem tâm ra mà cầu được đạo, đó gọi là tà kiến.
Tại sao
nói “đem tâm ra mà cầu được đạo, đó gọi là tà kiến“?
Vì tâm
tức là đạo, đem tâm cầu đạo tức sai tâm đi bắt tâm.
Vả lại
Vì tâm
không thể có, làm sao đem tâm cầu đạo được
Vì đạo
không thể được làm sao cầu?
Khi mê
thì có Phật, có pháp. Ngộ rồi thì không Phật, không pháp.
Tại sao
vậy?
Vì ngộ
tức là Phật pháp.
Ngộ rồi
thì không người không ta, không tâm không pháp, không năng không sở, tất cả đều
là Phật pháp
Khi mắt
thấy sắc chẳng nhiễm nơi sắc
Khi tai
nghe tiếng chẳng nhiễm nơi tiếng,
Như thế
đều là giải thoát cả.
Mắt
không dính sắc thì mắt là cửa thiền
Tai
không dính tiếng thì tai là cửa thiền.
Nói gom
lại:
Thấy
được tánh của sắc thì lúc nào cũng là giải thoát
Thấy
tướng của sắc thì lúc nào cũng là trói buộc.
Không bị
phiền não mà trói buộc, tức là giải thoát, ngoài ra không có sự giải thoát nào
khác.
Khéo quán xét sắc thì rõ ràng sắc chẳng sanh nơi tâm, tâm chẳng sanh nơi sắc,
tức cả sắc và tâm đều thanh tịnh cả hai.
Thấy sắc
tức là không thì không bị sắc trói buộc, nên lúc nào cũng được giải thoát.
Khéo
quán sát thì tâm chẳng khởi vọng tưởng nên nói sắc chẳng sanh nơi tâm. Vì tâm
chẳng khởi vọng tưởng nên thường trong định, chẳng nhiễm sắc trần, nên cả hai
đều được thanh tịnh. Tức được giải thoát.
Khi
không vọng tưởng thì một tâm là một nước Phật
Khi có
vọng tưởng thì một tâm là một địa ngục
Chúng
sanh xây dựng vọng tưởng, đem tâm sanh tâm, nên lúc nào cũng ở địa ngục.
Bồ-Tát
quán xét vọng tưởng, không đem tâm sanh tâm, nên lúc nào cũng ở nước Phật.
Nếu
không đem tâm sanh tâm thì tâm tâm quay về không, niêm niêm trở về tịnh, vào đủ
nước Phật, đến đủ nước Phật.
Nếu đem
tâm sanh tâm thì tâm tâm chẳng tịnh, niêm niệm hướng động, vào đủ địa ngục, qua
đủ địa ngục.
Nếu một
thoáng tâm dấy lên ắt có thiện ác hai nghiệp, có thiên đường, địa ngục.
Nếu một
thoáng tâm không dấy lên, ắt không thiện ác hai nghiệp, cũng không thiên đường
địa ngục.
Thế nào gọi là đem tâm sanh tâm? Là đối cảnh sinh tình, khởi vọng niệm.
Thế nào
là một thoáng tâm dấy lên? Một thoáng tức là trong nháy mắt, tâm dấy lên tức là
động tâm, khởi niệm. Tóm lại là khởi vọng niệm.
Thánh
nhân vốn không tâm, nên trong thì trống rỗng bao la, cùng với hư không chẳng
khác.
Khi tâm được niết bàn tức chẳng thấy có niết bàn.
Tại sao
vậy? Vì tâm là niết bàn.
Nếu
ngoài tâm lại thấy có niết bàn, đó là mắc phải tà kiến vậy.
Vì tâm
là niết bàn nên khi được niết bàn thì chẳng thấy niết bàn. Cho nên kinh nói
“Không có niết bàn để đạt“
Nếu thấy
mình đạt niết bàn thì chắc chắn là niết bàn ngoại đạo.
Tất cả
phiền não là hạt giống Như Lai, vì nhân có phiền não mới được trí huệ.
Chỉ nên
nói phiền não “sanh” Như Lai, không thể nói phiền não “là“ Như Lai.
Cho nên
cần lấy thân tâm làm ruộng rẫy, phiền não làm hột giống, trí huệ làm mầm mộng,
còn Như Lai thì ví như lúa, thóc vậy.
Nếu
không mê thì đâu có ngộ. Nếu không phiền não thì đâu có niết bàn. Nhưng không
thể nói “mê” tức là “ngộ”, “chúng sanh” là “Phật” được.
Thân tâm
là nơi nảy sanh phiền não. Nhưng do tu hành (giống như canh tác) mà từ trong
phiền não phát sanh trí huệ, từ trong trí huệ mà đạt chính đẳng chính giác.
Phật
trong tâm như trầm trong cây.
Vỏ mục
hết thì trầm hiện ra.
Phiền
não hết thì Phật hiện ra
Nếu
ngoài cây có trầm, trầm ấy tức của cây khác.
Nếu
ngoài tâm có Phật, ấy tức Phật của ai khác.
Trong
tâm có ba độc, gọi đó là quốc độ dơ xấu.
Trong
tâm không có ba độc, gọi đó là quốc độ thanh tịnh.
Kinh nói:
Nếu khiến cho quốc độ vẩn đục, dơ xấu cứ đầy dẫy lên, rồi Phật sẽ từ trong đó
xuất hiện, điều đó không đâu có được.
Cái vẩn
đục dơ xấu ấy tức là ba độc vô minh vậy.
Chư Phật
tức là tâm thanh tịnh giác ngộ vậy.
Tất cả
sự nói năng, không gì chẳng là Phật pháp.
Nếu tự
mình không có lời nói thì nói suốt ngày vẫn là đạo
Nếu tự
mình có lời nói thì im suốt ngày vẫn chẳng là đạo.
Cho nên
ở Như Lai, lời nói không nương theo im lặng, im lặng không nương theo lời nói, lời
nói không lìa im lặng. Nói và im đều ở nơi tam muội cả.
Nếu biết
mà nói thì lời nói cũng giải thoát.
Nếu
không biết mà im lặng thì im lặng cũng trói buộc.
Cho nên
nói mà lìa tướng thì lời nói cũng gọi là giải thoát.
Còn im
lặng mà dính tướng thì in lặng cũng là trói buộc.
Nếu tự
mình không có lời nói, tức nhiên chẳng phải mình tạo tác, hay nói cách khác là
chẳng có tự ngã vậy. Hai câu này sẽ đổi thành:
Nếu vô
ngã thì nói suốt ngày vẫn là đạo
Nếu chấp
ngã thì im suốt ngày vẫn chẳng là đạo.
Cho nên
chư Phật dù im hay nói, vẫn diễn tả được ý đạo, vì ý không ở trong lời nói vậy.
Vì vậy nói và im đều ở nơi tam muội cả.
Lìa tâm
không Phật,
Lìa Phật
không tâm.
Cũng như
lìa nước không băng,
Cũng như
lìa băng không nước.
Nói “Lìa
tâm không Phật” chẳng phải xa lìa cái tâm, mà chỉ khiến đừng chấp vào hình
tướng của tâm.
Kinh
nói: “không thấy tướng gọi là thấy Phật”, tức là lìa hình tướng của tâm vậy.
“Lìa Phật không tâm” là nói Phật từ tâm ra. Tâm có thể sanh Phật, nên Phật theo
tâm mà sanh, nhưng Phật chưa hề sanh tâm bao giờ.
Vì tâm
tức Phật, nên “lìa tâm không Phật“.
Tâm vốn
không có hình tướng. Thể của nó trống rỗng như hư không, mà hư không thì không
có hình tướng. Tùy theo vật mà có hình. (Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài) Cũng
thế, tâm không có hình tướng, theo vật mà hiển. cho nên kinh nói “không thấy
tướng gọi là thấy Phật”.
Vì tâm
tức là Phật nên nói “lìa Phật không tâm”. Chỉ có điều tâm này là cái chân tâm
vô tướng, chứ không phải cái vọng tâm mà ta hằng tưởng. Chơn tâm thì thường
hằng, bất biến cho nên chưa từng sanh diệt bao giờ, Bởi thế cho nên Phật chưa
từng sanh tâm (khởi vọng tưởng)
Cũng như
cá ở trong nước, nhưng nước không thể sanh cá.
Cho nên
muốn xem cá, cá chưa thấy mà trước hết đã thấy nước.
Cũng
vậy, muốn xem Phật, Phật chưa thấy mà trước hết đã thấy tâm.
Mới biết
cá thấy rồi cần quên nước.
Phật
thấy rồi cần quên tâm.
Nếu không
quên được tâm thì sẽ vì tâm mà lầm nữa.
Nếu
không quên được nước thì vì nước mà mê nữa.
Chơn tâm
tức Phật, Ví đã biết chơn tâm rồi mà còn chưa quên tâm, tức là chấp tâm. Có
chấp bèn có mê, có mê bèn có sinh tử luân hồi. Cho nên kinh nói “được cá quên
nơm”. Hay “không xả trí huệ là người ngu” vì trí huệ thường nhận ra chơn tâm.
Qua cửa
ấy rồi thì cứ thỏng tay mà đi. Lúc đó ta tức là tâm, tâm tức là ta. Vừa khởi ý
nghĩ “ta đã đạt chơn tâm”, bèn sinh hai, trở về sinh tử.
Chúng sanh với Bồ - Đề cũng như nước với
băng
Vì ba độc nung đốt nên gọi là chúng sanh
Vì ba giải thoát gột sạch nên gọi là Bồ -
Đề
Vì đóng lạnh trong tiết đông nên gọi là
băng
Vì tan chảy trong lửa hè nên gọi là nước.
Nếu bỏ băng đi, tức không có nước nào khác
Nếu bỏ chúng sanh đi, ắt không có Bồ - Đề
nào khác.
Đủ rõ tánh của băng tức là tánh của nước.
Tánh của nước tức là tánh của băng.
Cũng
vậy, tánh của chúng sanh tức là tánh của Bồ - Đề vậy.
Chúng
sanh cùng với Bồ - Đề đều chung nhau một tánh.
Cũng như
hai vị thuốc Ô đầu và phụ tử đều cung một gốc, chỉ vì thời tiết mà khác nhau.
Cũng vậy, vì mê ngộ hai cảnh khác nhau nên có hai tên gọi: chúng sanh và Bồ -
Đề.
Rắn hóa
thành rồng vẫn không đổi vảy
Phàm
biến thành thánh vẫn không đổi mặt.
Mới hay
tâm ấy, trong trí huệ chiếu, thân ấy ngoài giới luật vững.
Chúng
sanh độ Phật
Phật độ
chúng sanh
Vậy gọi
là bình đẳng.
Chúng
sanh độ Phật ấy: trong phiền não nảy sanh tỏ ngộ.
Phật độ
chúng sanh: Tỏ ngộ phá trừ phiền não.
Khi mê
thì Phật độ chúng sanh
Khi ngộ
thì chúng sanh độ Phật.
Tại sao
vậy?
Vì Phật
không thể tự thành mà đều do chúng sanh độ nên vậy.
Chư Phật
lấy vô minh làm cha, lấy tham ái làm mẹ
Vô minh
và tham ái là tên gọi khác của chúng sanh vậy.
Chúng
sanh với vô minh cũng như tay trái với tay mặt, rốt cuộc chẳng khác nhau vậy.
Trong
Phiền não nảy sanh tỏ ngộ, mà phiền não là vô minh, tham ái, cho nên nói “chư
Phật lấy vô minh làm cha, tham ái làm mẹ”.
“Chúng
sanh với vô minh cũng như tay trái với tay mặt, rốt cuộc chẳng khác nhau” chẳng
khác nhau cũng chẳng giống nhau. Cũng như tay mặt với tay trái, chồng khít với
nhau được, nhưng rốt cuộc lại chẳng phải một. Bởi vì nếu chúng sinh là một với
tham ái thì làm sao thành Phật được.
Khi mê thì ở bờ bên này
Khi ngộ
thì ở bờ bên kia.
Ví biết
tâm vốn là không thì chẳng thấy tướng, ắt lìa cả mê và ngộ.
Mê ngộ
đã lìa, ắt không ở bờ bên kia.
Như Lai
không ở bờ bên này cũng không ở bờ bên kia, không ở giữa giòng.
Ở giữa
giòng:hàng tiểu thừa vậy
Ở bờ bên
này: Phàm phu vậy
Ở bờ bên
kia: Bồ-Tát vậy.
Như Lai
ở ngoài cả mê lẫn ngộ. Mê – ngộ. Mê ngộ đều là việc trong mộng. Người chưa ngủ
đâu nói mới thức, người chưa từng mê, đâu nói chuyện ngộ.
Phật có
ba thân: hóa thân, báo thân và pháp thân.
Nếu
chúng sinh luôn luôn làm theo căn lành: tức hóa thân hiện.
Tu trí
huệ: tức báo thân hiện.
Giác vô
vi: tức pháp thân hiện.
Thế nào
là căn lành?
Là tín,
tấn, niệm, định, huệ. Nếu ta thường tin tưởng nơi Phật pháp, ra sức tu hành,
giữ gìn chính niệm, không khởi vọng tưởng, sáng suốt phân minh tức là đã có các
đức tính của Phật nên gọi là hóa thân Phật hiện
Tu trí
huệ, nhận rõ các pháp vốn không, tâm không, nhân không, ngã không đó là do tác
dụng của tự tánh nên gọi là báo thân Phật hiện.
Khi đã
giác ngộ pháp vô vi, tâm không tạo tác, không vọng tưởng, như như bất động, đó
chính là Pháp thân Phật hiện.
Bay lướt
mười phương, tùy nghi mà cứu độ: là Phật hóa thân vậy.
Dứt mê
hoặc, tu thiện pháp, thành đạo trên núi tuyết:Phật báo thân vậy.
Không lời,
không nói, vắng lặng, thường trụ: Phật pháp thân vậy.
Bằng
luận cho cùng thì một Phật còn chẳng có nữa là ba.
Nói ba
thân là dựa theo căn trí con người có thượng, trung, hạ
Người hạ
trí bôn chôn, vọng cầu phước, vọng thấy hóa thân Phật.
Người
trung trí vọng dứt phiền não, vọng thấy báo thân Phật.
Người
thượng trí vọng chừng Bồ- Đề, vọng thấy pháp thân Phật.
Người
thượng thượng trí vắng lặng tròn đầy, soi chiếu bên trong, sáng tâm tức là Phật,
chẳng đợi mà được Phật.
Thế mới
biết ba thân cùng muôn pháp đều không giữ được, không nói được, đó tức là: tâm
tự nhiên giải thoát, thành tựu đạo lớn.
Kinh nói
“Phật chẳng nói pháp, chẳng độ chúng sanh, chẳng chứng Bồ-Đề “ là như vậy.
Thí dụ có người được vãng sanh, thấy Phật đến rước, đó là Hóa thân của Phật đến
độ sinh.
Phật
Thích Ca Mâu Ni Khổ nhọc tu hành, thành đạo trên núi tuyết, đó là báo thân Phật
ở cõi Sa Bà này vậy.
Pháp giới
mênh mông, không lời, không nói, thường vận hành, thường độ sinh, mà vẫn vắng
lặng, thường trụ, đó là Pháp thân Phật vậy.
Tam thân
Phật suy cho cùng từ một chơn như mà ra. Mà nơi chơn như thì pháp giới, tam thế
cũng còn là trong vọng, thì một còn chẳng có, do đâu mà có ba?
Chúng
sanh tạo nghiệp
Nghiệp
tạo chúng sanh
Đời nay
tạo nghiệp
Đời sau
chịu báo, thuở nào thoát khỏi?
Chỉ bậc
chí nhân, ở trong thân này, không tạo các nghiệp nên chẳng chịu báo.
Kinh
nói:”các nghiệp chẳng tạo, tự nhiên được đạo” há lời nói suông ru?
Người
tạo ra nghiệp
Nghiệp
không thể tạo ra người.
Nếu người
tạo ra nghiệp thì nghiệp với người cùng sanh.
Nếu người
không tạo nghiệp thì nghiệp với người cùng diệt.
Mới biết
nghiệp do người tạo, người do nghiệp sanh.
Nếu người
không tạo nghiệp, tức nghiệp chẳng do người sanh vậy.
Cũng như
người có thể nâng đạo, đạo không thể nâng người.
Kẻ phàm
phu ngày nay luôn luôn tạo nghiệp, lại nói bừa là không có quả báo, há chẳng
khó nghe sao?
Luận cho
cùng lẽ: tâm trước tạo, tâm sau báo, đời nào thoát được.
Nếu tâm
trước không tạo, tức tâm sau không báo, vậy còn vọng thấy nghiệp báo được sao?
Kinh nói:
Tuy tin có Phật, lại nói Phật khổ hạnh, đó là tà kiến.
Kinh nói:
Tuy tin có Phật lại nói Phật bị quả báo, đói ăn lúa ngựa, gươm vàng đâm chân,
đó gọi là lòng tin chưa trọn đủ, là nhất xiển đề.
Con người
chúng ta tạo đủ các nghiệp nên phải chịu báo là chuyện đương nhiên. Nhưng có
một người ở trong ta, giúp đỡ ta đủ thứ, trong mọi việc mà ta làm, ta quyết
định, một cách vô tư. Ta không thể nói người đó đã tạo nghiệp.
Do cái
tâm vọng tưởng của ta tạo đủ mọi nghiệp, nên cũng cái tâm vọng tưởng đó sẽ phải
chịu báo. Vì thế nó lưu chuyển từ kiếp này sang kiếp khác để thọ nghiệp. Nếu
tâm trước không tạo nghiệp thì không phải chịu báo, thì làm gì có thân sau, cho
nên nói người tạo ra nghiệp, nghiệp tạo ra người.
Mỗi người
có một vị Phật thường ở chung với ta, vô tư giúp đỡ ta. Dù ta có vào địa ngục,
vị Phật đó cũng theo vào. Cùng vào nhưng không cùng chịu báo, vì chưa từng tạo
nghiệp. Cho nên đừng thấy hình tướng Phật xưa đói ăn lúa ngựa, gươm vàng đâm
chân mà nói rằng Phật bị quả báo. Nói vậy là chưa biết Phật.
Người
hiểu pháp thánh gọi là thánh nhân
Người
hiểu pháp phàm gọi là phàm phu
Chỉ cần
xả pháp phàm là thành pháp thánh, tức phàm phu thành thánh nhân vậy.
Kẻ ngu
trong đời mong cầu thánh viễn vông, chẳng tin rằng chính cái tâm huệ giải là
thánh nhân vậy.
Kinh nói:
đối với người vô trí đừng nói kinh này.
Kinh này
là tâm vậy. là pháp vậy.
Người vô
trí không tin chính cái tâm sáng tỏ được pháp này làm thành bậc thánh. Họ chỉ mảng
cầu xa, học ngoài, mến chuộng hình tượng Phật ngoài trời cùng ánh sáng, hương
sắc đủ thứ. Toàn là việc làm đọa tà kiến, mất tâm, cùn chí.
Kinh nói:
Nếu thấy các tướng chẳng phải tướng tức thấy Như Lai.
Tám vạn
bốn ngàn pháp môn thảy do một tâm mà mống dạy.
Nếu
trong lắng hết tâm tướng, giống như hư không, tức tự trong thân tâm xa lìa hết
tám vạn, bốn ngàn căn bênh phiền não vậy.
Phàm phu
đang sống sợ chết, vừa no lo đói, thật quá đỗi mê hoặc. Cho nên bậc chí nhân
chẳng tính việc đã qua, chẳng lo việc chưa đến, không xáo động việc bây giờ,
niệm niệm trở về đạo.
Kệ ngồi
tịnh ban đêm
Nhất canh đoan tọa kết gìa phu
Di thần tịch chiếu, chung đồng hư
Khoáng kiếp do lai bất sanh diệt
Hà tu sanh diệt, diệt sanh cừ?
Nhất thiết chư pháp giai như huyễn.
Bổn tánh tự không na dụng trừ!
Nhược thức tâm tánh phi hình tượng
Trạm nhiên bất động tự như như.
Nghĩa
Đoan trang canh một tịnh ngồi tu
Tịch chiếu tinh thần tợ thái hư
Muôn kiếp vốn không sanh với diệt
Học đòi sanh diệt, diệt gì ư?
Gẫm xem các pháp trò ma ảo
Tánh vốn là không uổng sức trừ!
Ví biết tâm mình không tướng mạo
Lặng im chẳng động tự như như.
Tâm vốn không sanh diệt, không
hình tướng, lặng im, rộng lớn như thái hư. Các pháp biến đổi, sanh diệt chỉ là
trò hư ảo. Không cần phải ra sức trừ, chỉ cần lặng im, chẳng động là phù hợp
với chân như
Nhị canh ngưng thần chuyển minh tịnh
Bất khởi ức tưởng chân như tính
Sum la vạn tượng tịnh qui không
Cánh chấp hữu không hoàn thị bệnh
Chư pháp bổn tự phi không hữu
Phàm phu vọng tưởng luận tà chánh
Nhược năng bất nhị kỳ cư hoài
Thùy đạo tức phàm phi thị thánh.
Nghĩa
Canh hai ngưng thần cho sáng sạch.
Chẳng khởi nhớ tưởng tính chân như.
Muôn ngàn hình tượng trở về không
Chấp có, chấp không lại vẫn bệnh
Các pháp vốn tự chẳng có, không
Phàm phu khởi vọng, bàn tà chánh
Nếu hay giữ được lẽ “chẳng hai”
Ai bảo rằng phàm chẳng phải thánh?
Tâm không một niệm, sạch trong, sáng láng
Chẳng nhớ nghĩ về chân như
Thì hết thảy đều không.
Cũng chẳng chấp có, chấp không
Thì phàm, thánh chẳng khác nhau.
Tam canh tâm tịnh đẳng hư không
Biến mãn thập phương vô bất thông
Sơn hà, thạch bích vô năng chướng
Hằng sa thế giới tại kỳ trung.
Thế giới bổn tánh, chân như tánh
Diệt vô, bổn tánh tức hàm dung
Phi đản chư Phật năng như thử
Hữu tình chi loại phổ giai đồng.
Nghĩa
Canh ba tâm tịnh sánh hư không
Rộng khắp mười phương đâu chẳng thông
Tường vách, núi sông không ngăn ngại
Bao la vũ trụ ở nơi lòng.
Tánh của đất trời là Phật tánh
Cũng không, bổn tánh tức hàm dung
Phải đâu chư Phật hay như thế.
Hữu tình muôn loại vẫn chung đồng.
Chân như
Phật tánh tức pháp giới tánh. Tánh đó rỗng không nên dung chứa muôn loài. Mỗi
mỗi chúng hữu tình đều có tánh đó, không riêng gì Phật.
Canh tư vô diệt, diệt vô sinh
Lượng dữ hư không, pháp giới bình
Vô lai, vô khứ, vô khởi diệt
Phi hữu, phi vô, phi ám minh
Vô khởi chư kiến, Như Lai kiến
Vô danh khả danh, chân Phật danh
Duy hữu ngộ giả ưng năng thức
Vị hội chúng sanh do nhược manh.
Nghĩa
Canh tư không diệt, cũng không sinh
Rộng ví hư không, pháp giới bình
Không qua không lại, không còn mất.
Chẳng có, chẳng không, chẳng ám minh.
Không khởi mọi thấy, Như Lai thấy.
Không tên để gọi, là Phật danh.
Ai có ngộ qua rồi mới hiểu.
Chúng sanh chưa rõ bởi thong manh.
Ngồi thiền đến canh tư, tâm không sanh
diệt.
Rộng lớn
như hư không. Toàn thể bình lặng, (không khởi một niệm)
Không xao
động, không khởi, không diệt.
Chẳng
còn chấp “hữu, vô” nữa, cũng chắng sáng tối nữa.
Không
khởi mọi thứ “kiến hoặc”, là cái thấy của Như Lai
Trạng
thái lúc đó, không có tên nào để gọi, đó mới chính là Phật danh.
Ai trải
qua rồi mới hiểu
Chúng
sanh chưa hiểu được bởi mắt bịnh. (thong manh)
Ngũ canh bát nhã chiếu vô biên
Bất khởi nhất niệm lịch tam thiên
Dục kiến chân như bình đẳng tánh
Thận vật sanh tâm tức mục tiền
Diệu lý ảo huyền phi tâm trắc
Bất dụng tâm trục linh bì cực
Nhược năng vô niệm tức chân cầu
Cánh nhược hữu cầu hoàn bất thức.
Canh năm bát nhã chiếu vô biên.
Chẳng khởi một niệm trải tam thiên
Muốn thấy chân như bình đẳng tánh
Khéo chớ sanh tâm, trước mắt liền.
Lẽ ấy diệu huyền không lường được
Dụng tâm đuổi bắt thêm nhọc sức
Nếu không một niệm tức chân cầu
Còn có tâm cầu, chưa tỉnh thức.
Chỉ cần
trong tâm không một niệm liền thấy chân như bình đẳng tánh. Nếu còn ý mong cầu
thì còn mê, chưa thấy tánh.