Tín
- Hạnh - Nguyện
Pháp môn Tịnh độ, niệm Phật cầu vãng sinh
Cực lạc, cần phải đầy đủ ba điều kiện: Tín, Nguyện, Hạnh.
Tín là chúng ta phải tin sâu, nguyện là phải thiết tha, hạnh
là phải hành chuyên.
Đối với niềm tin là phải tin ở 6 điều: Tin
tự, tin tha, tin nhân, tin quả, tin sự, tin lý.
1. Tin tự (tin ở nơi mình): tức
là tin tất cả đều do ở nơi tâm của mình tạo ra cả “nhất thiết duy tâm
tạo”. Vì thế, nếu mình niệm Phật ắt sẽ được Phật A Di Đà tiếp dẫn không
sai.
2. Tin tha (tin ở nơi người): tức
là tin Phật Thích Ca không bao giờ nói dối. Phật A Di Đà chẳng thệ
nguyện suông. Như chúng ta thường biết, đức Phật chế giới răn dạy chúng
ta là đừng nói dối thì làm sao mà Ngài nói dối chúng ta, đây là cái điều
không có.
Kinh Dược Sư ghi: “Trăng sao còn có thể
rơi, núi cao còn có thể mòn, biển sâu còn có thể cạn, nhưng lời đức Phật
nói ra thì trăm nghìn muôn kiếp không sai chạy”.
Kinh Đại Tập có ghi: “Mãnh phong khả
thuyết tác hệ phược, Tu di khả thuyết khẩu xuy động, bất khả thuyết Phật
hữu nhị ngữ, thực ngữ như ngữ cập tịnh ngữ” (có thể bảo: buộc luồng gió
mạnh thổi lung lay hòn núi Tu di, nhưng không thể bảo Phật nói trước
sau khác nhau, bởi vì Phật bao giờ cũng nói toàn là sự thật, chân chính
và trong sạch). Như vậy, chúng ta phải tin chắc Pháp môn Tịnh độ do đức
Phật Thích Ca nói ra, tin chắc 48 lời nguyện của Phật A Di Đà là như
đinh đóng cột, cho nên, nếu như y theo Pháp môn Tịnh độ mà hành trì tất
sẽ cảm được đức Phật A Di Đà tiếp dẫn sinh về Cực lạc.
3. Tin nhân: tức là tin niệm Phật
chính là nhân vãng sinh, giải thoát.
4. Tin quả: tức là tin sự vãng sinh và thành Phật là kết quả.
5. Tin sự: tức là tin cảnh giới Tây phương Cực lạc và tất cả
các sự tướng ở nơi cõi ấy, đều là có thật.
6. Tin lý: tức là tin điều “lý tánh duy tâm” nghĩa là một tâm
của mình bao trùm khắp cả mười phương quốc độ của chư Phật.
Để phát khởi tín tâm vững chắc đối
với Pháp môn Tịnh độ, chúng tôi xin giới thiệu mười niềm tin trong cuốn
Luận Tịnh Độ Chỉ Quy.
1. Tin Phật thuyết pháp.
2. Tin hàng phàm phu trong cõi mê, thần thức không bao
giờ tiêu diệt.
3. Tin rằng nếu trong cõi này tu hành
không đắc đạo quả thì không thể tránh khỏi luân hồi.
4. Tin rằng cho dù sinh lên cõi trời
cũng không tránh khỏi bị đọa lạc (kinh Niết Bàn, quyển 38, đức Phật dạy:
“Dầu ai có làm bậc Tứ Thiên Vương, lần lên bậc Tha Hóa Tự Tại Thiên,
rồi khi mạng chung cũng có thể rơi vào loài súc sinh, mang lốt sư tử,
cọp, beo, voi, ngựa v.v…”.
5. Tin rằng chúng sinh đã về thế giới
Cực lạc thì vĩnh viễn không còn thối chuyển. Kinh A Di Đà nói rằng:
“Những người sinh về đó, đều là A-bệ-bạt-trí, bất thối chuyển, không còn
bị rơi rớt nữa”.
6. Tin rằng chúng sinh phát nguyện
sinh về thế giới Tịnh độ, thì chắc chắn sẽ vãng sinh.
7. Tin rằng chỉ cần xưng niệm một danh
hiệu Phật thì sẽ tiêu diệt được trọng tội sinh tử trong 81 kiếp (kinh
Niệm Phật Ba La Mật, đức Phật dạy: “Muốn vãng sinh Cực lạc chỉ cần xưng
niệm danh hiệu Phật là đủ. Vì danh hiệu chính là biểu tướng của Pháp
thân, cho nên niệm danh hiệu tức là niệm Pháp thân Phật vậy. Vì sao
người niệm Phật khỏi phải kiêm thêm pháp tu nào khác? Vì ngay nơi danh
hiệu Nam mô A Di Đà Phật luôn luôn chứa đựng vô lượng vô biên công đức,
vô lượng vô biên diệu dụng, vô lượng vô biên quang minh, tướng hảo, uy
lực không thể nghĩ bàn”.
8. Tin rằng người niệm Phật sẽ được
Phật A Di Đà vận dụng thần thông chiếu sáng nhiếp thủ mà không hề xả bỏ.
Trong kinh Thập Vãng Sinh giảng rất rõ
rằng: “Không những Phật A Di Đà dùng bản nguyện nhiếp thọ oai lực gia
trì, mà Ngài thật sự từ bi đến cực điểm, còn phái 25 vị Bồ tát ngày đêm
bảo hộ. Người niệm Phật là người ít có ở thế gian, người niệm Phật được
mười phương tất cả chư Phật khen ngợi, hộ niệm, 25 vị Bồ tát ngày đêm hộ
vệ, tuyệt không cho đó là lỗi”.
9. Tin rằng người niệm Phật có hằng hà
sa chư Phật trong mười phương dùng thần thông hộ niệm người ấy (kinh A
Di Đà, đức Phật dạy rằng: “Nhữ thị đẳng hằng hà sa số các ư kỳ quốc,
xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam thiên đại thiên thế giới,
thuyết thành thiệt ngôn, nhữ đẳng chúng sinh đương tín thị xưng tán bất
khả tư nghị công đức, nhất thiết chư Phật sở hộ niệm kinh”. Nghĩa là:
còn nhiều Phật khác như cát sông Hằng, cũng như thế nữa, đều ở nước
mình, và đều hiện ra tướng lưỡi rộng dài, che khắp ba nghìn, đại thiên
thế giới, nói lời thành thật, rằng chúng sinh ngươi, nên tin kinh này,
là bản kinh: tán thán công đức, chẳng xiết nghĩ bàn, và được hết thảy
chư Phật hộ niệm).
Khi đức Phật Thích Ca nói ra pháp môn
này, sợ chúng sinh đời mạt pháp không tin (nan tín chi pháp) pháp khó
tin. Cho nên chư Phật mười phương mới xuất tướng lưỡi rộng dài che khắp
tam thiên đại thiên thế giới để cùng hộ niệm với lời nói của đức Phật
Thích Ca. Các đức Phật mười phương nói rằng: “Này các chúng sinh ơi! Các
ngươi phải tin đi, những lời đức Phật Thích Ca nói ra đều là sự thật,
các ngươi nên tin chắc mà y giáo phụng hành”. Lúc này chúng sinh nghe
vậy liền tin. Chúng tôi lấy ví dụ: khi tôi nói một điều gì cho một Phật
tử, thì vị Phật tử này chưa chắc tin trọn vẹn lời nói của tôi, Phật tử
này còn nghi ngờ rằng: Không biết ông thầy này nói đúng hay sai, Phật tử
này cứ đắn đo hoài, lúc này có khoảng mười thầy đến nói rằng, này vị
Phật tử, Phật tử nên tin lời nói của thầy đó đi, thầy ấy nói toàn sự
thật, không bao giờ nói dối Phật tử đâu, lúc này người Phật tử mới tin
chắc.
Chư Phật xuất tướng lưỡi rộng dài che
khắp tam thiên đại thiên thế giới có nghĩa là gì? Tướng lưỡi rộng dài
nhằm chỉ cho biết là chư Phật mười phương ba đời quá khứ, hiện tại, vị
lai đều là nói chân thật, không bao giờ nói dối. Chúng ta không nên hiểu
sai “tướng lưỡi” là cái lưỡi bằng xương bằng thịt như của chúng ta đâu.
10. Tin rằng khi sinh về đó sẽ chứng
quả Vô thượng Bồ-đề.
Triệt Ngộ đại sư có bài kệ:
“Nhất cú Di Đà
Chứng tam bất thối
Chỉ thử nhất sinh
Tiên bổ Phật vị”.
(Một câu Di Đà
Chứng tam bất thối
Chỉ trong một kiếp
Lên ngôi vị Phật).
Trong kinh A Di Đà dạy: “Những người vãng
sinh về thế giới Cực lạc đều trở thành A-bệ-bạt-trí”. Chữ A-bệ-bạt-trí
nguyên tiếng Phạn đọc là Avaivarti, chữ Hán là dịch bất thối (chẳng lui
sụt). Có ba nghĩa:
- Vị bất thối: đã dự vào địa vị
Tứ Thánh rồi, chẳng sa đọa xuống địa vị lục phàm nữa.
- Hạnh bất thối: đã tu hạnh Bồ
tát thường hóa độ chúng sinh, chẳng sa đọa xuống địa vị Nhị thừa nữa.
- Niệm bất thối: tâm tâm, niệm
niệm, giờ phút nào cũng như dòng nước chảy vào bể Tát-bà-nhã (bể Nhất
thiết trí).
Theo Thiên Thai giáo thì khi tới Đệ nhất
trụ mới đến ngôi vị bất thối, khi chứng Thập hồi hướng mới lên ngôi hạnh
bất thối, và khi chứng ngôi Sơ địa Bồ tát mới đạt được niệm bất thối.
Theo quan niệm của Phật giáo Đại thừa, thì
khi trừ được tư hoặc và kiến hoặc mới lên ngôi vị bất thối; phá được
trần sa hoặc mới lên ngôi hạnh bất thối; và trừ được vô minh hoặc mới
lên ngôi niệm bất thối. Nghĩa là phải tu a-tăng-kỳ kiếp mới chứng được
tam bất thối, nhưng đối với Pháp môn Tịnh độ, chỉ cần vãng sinh Cực lạc
quốc là vĩnh viễn không bị thoái chuyển nữa và chắc chắn đạt được quả vị
Phật.
Qua mười niềm tin trên đây, chúng ta phải
tin chắc không có một ý nào mà ta không tin. Chỉ có tin thì chúng ta
mới đạt được tất cả, bằng không thì chúng ta sẽ mất tất cả. Vì thế trong
kinh Hoa Nghiêm nói rằng: “Lòng tin là mẹ đẻ các công đức, lòng tin hay
nuôi lớn căn lành, lòng tin hay tựu quả Bồ-đề của Phật”.
Chúng ta có tin chắc là có cảnh giới Cực
lạc không? Để trả lời câu hỏi này một cách chính xác, chúng tôi sẽ đưa
ra một vài dẫn chứng, sự kiện để chứng minh.
Trước tiên, chúng tôi xin dẫn chứng kinh A
Di Đà, đức Phật dạy: “Xá Lợi Phất! Tùng thị Tây phương quá thập vạn ức
Phật độ, hữu thế giới danh viết Cực lạc, kỳ độ hữu Phật hiệu A Di Đà,
kim hiện tại thuyết pháp”, nghĩa là: Xá Lợi Phất ơi! Từ đây đi về bên
Tây phương kia trải qua hết mười muôn ức cõi Phật, có một thế giới gọi
là Cực lạc, cõi ấy có Phật hiệu A Di Đà, hiện đang thuyết pháp.
Qua đoạn kinh trên đây cũng đủ ý cho ta
tin là có cảnh giới Cực lạc. Tại sao chúng ta tin? Tại vì cảnh giới Cực
lạc chính đức Phật Thích Ca nói ra. Ngay tựa kinh cũng đủ cho chúng ta
tin, “Phật Thuyết A Di Đà Kinh” là Phật nói kinh A Di Đà.
Xin đơn cử một ví dụ: thời vua Tự Đức, có
ông Nguyễn Trường Tộ qua Pháp để du học. Sau khi trở về nước kể lại
những văn minh của nước Pháp như là: đèn treo ngược không có dầu cũng
cháy, xe không người lái cũng chạy cho vua nghe, thì vua bác bỏ không
tin, cho ông Nguyễn Trường Tộ là nói láo, vua tức giận đòi chém đầu.
Qua câu chuyện này cho ta thấy những lời
ông Nguyễn Trường Tộ nói đều là sự thật, bởi vì ông đã trực tiếp sang
Pháp về. Vì sao vua Tự Đức bác bỏ và không tin những văn minh của nước
Pháp? Là vì vua chưa thấy cho nên không tin, nhưng thật sự là có nước
Pháp có những điều đó. Cũng vậy, đức Phật của chúng ta cũng đã từng dạo
chơi ở cõi Tây phương Cực lạc, thấy cõi Cực lạc rõ rõ ràng ràng, như
thấy trái chanh trong lòng bàn tay. Cho nên, Ngài mới thuật lại cho
chúng ta nghe. Vì thế mà chúng ta phải tin chắc là có cõi Cực lạc của
Phật A Di Đà, một lòng niệm Phật cầu vãng sinh, thì có lợi vô cùng. Ấn
Quang đại sư đã dạy rằng: “Nên để ý, đừng đem trí hiểu biết của phàm phu
suy độ, nhận lầm rằng: bao nhiêu sự mầu lạ không thể nghĩ bàn ở Tây
phương đều thuộc về ngụ ngôn để thí dụ cho tâm pháp, chớ không phải cảnh
thật”. Nếu có sự hiểu biết lầm lạc ấy, tất sẽ mất điều lợi ích vãng
sinh Tịnh độ, mối hại này lớn phải nên cẩn thận.
Tâm trí của các đức Phật thật là sáng suốt
không có gì ngăn ngại cả, cũng giống như một hồ nước trong thật trong,
khi ta nhìn vào hồ thì ta sẽ thấy rõ ràng những vật nằm trong đó. Các
đức Phật mười phương đặc biệt có được Phật nhãn, cho nên khi các Ngài
nhìn thì không có chỗ nào mà các Ngài không thấy cả. Còn con mắt phàm
phu của chúng ta thì chỉ nhìn được xa nhất là 1 cây số thôi, với cách
nhìn kém cỏi như vậy thì làm sao chúng ta thấy được những thế giới hiện
đang hiện hữu ở trong vũ trụ này.
Chúng ta tin có lục đạo (địa ngục, ngạ
quỷ, súc sinh, A-tu-la, nhân, thiên) thì tất nhiên chúng ta phải tin
chắc là có cõi Cực lạc không sai chạy.