Chương
I: Triết thuyết Mìmàmïsà (Pùramìmàmïsa) (Di Man Tác)
I. KHỞI
NGUYÊN
Tất cả sáu
phái triết học Ấn Độ, theo Vàcaspati Misùra, đều lấy Veda làm thẩm
quyền. Nhưng riêng có hai bộ phận của Mìmàmïsà được coi như là trực
tiếp thừa kế tư tưởng Veda. Một bộ phận nhấn mạnh trên thánh điển
Brahmanïa chú trọng về các nghi tiết tế tự thần linh, lập thành
bộ phận hành nghiệp (karma-kanïdïa), gọi là phần trước hay Tiền
Mìmàmïsà (Pùrva-Mìmàmïsà). Bộ phận khác, chú trọng về tri thức và
lập thành trí nghiệp (jnõàna-kanïdïa), và được gọi là Hậu
Mìmàmïsà (Uttara-Mìmàmïsà).
Từ ngữ
Mìmàmïsà có ngữ căn là “man”, nghĩa là tư duy. Sự phát triển của nó
song song với sự phát triển về ngữ pháp Sanskrit. Nguồn gốc của nó
khởi từ thời đại của nền văn học Brahmanïa. Các tác phẩm trong
thời đại này chuyên chú về các nghi thức tế tự. Theo thời gian,
nhiều nghi vấn được đặt cho các lễ nghi đó. Bằng phương pháp và
theo ý nghĩa nào mà một cuộc lễ như thế mang lại nhiều hiệu quả
tốt đẹp cho người tế tự, đây có lẽ là những hoài nghi đương
nhiên, khi con người phản tỉnh về ý nghĩa nơi những hành động của
mình. Tiến xa hơn nữa, con người nỗ lực để tìm thấy một nền tảng
triết lý, hay một vũ trụ luận nào đó của một cuộc lễ.
Cùng lúc, con
người cũng phản tỉnh, tư duy về ý nghĩa của ngôn ngữ; với những
lời cầu nguyện như thế, chúng được kết hợp như thế nào để có thể
chuyển đạt nguyện vọng của người cầu nguyện đến các thần linh. Ngay
trong đời sống thường nhật, bất cứ là dân tộc nào và nói thứ
tiếng nào, khi mà những tương quan xã hội càng ngày càng trở nên
phức tạp, thì các quy tắc trở thành mối bận tâm của loài người.
Trật tự của các tiếng, nội dung của một mệnh đề, và sự liên hệ
giữa các mệnh đề diễn tả một ý tưởng; tất cả những điều này đều
bao hàm một mối tương quan xã hội vô cùng mật thiết. Nếu thấy
được tính chất của quan hệ ấy, ta có thể thấy được quy ước cộng
đồng của một xã hội trong từng thời đại.
Trên phương
diện tôn giáo, sự giao tiếp giữa người và thần linh trở thành mối
quan tâm không phải là nhỏ. Trước những hiện tượng bí mật của thiên
nhiên, con người lúc nào cũng chỉ là một sinh vật bé bỏng. Đời sống
của họ tùy theo những biến chuyển của thiên nhiên. Con người muốn
tìm thấy, muốn nghe được những lời phán của các thần linh ngự
trị trong thiên nhiên, để thỏa mãn những hành động mà mình phải
có, và như vậy mới mong đạt đến một cuộc đời yên ổn, hạnh phúc
trong sự bảo bọc của thần linh và thiên nhiên. Trên thế giới,
không có một tôn giáo nào lại quên lãng không dạy tín đồ của mình
những phương tiện, những quy tắc, để lắng lòng nghe được tiếng
nói phán truyền của thần linh.
Trên đây chỉ
là những suy luận về sự phát triển tất nhiên của ngôn ngữ. Nhưng
chúng không phải không có căn cứ. Các tập Veda nguyên thủy đã cho
thấy rõ: các bài ca về Vàk, ngôn ngữ nhân cách hóa, hay về rïta, điều
lý vũ trụ, tất cả đều hàm ngụ ý nghĩa bí mật của ngôn ngữ.
Thể của ngôn
ngữ tất nhiên là âm thanh. Một tiếng nói, một âm tiết được phản
tỉnh về sự chi phối của một âm thanh được phát ra, cố nhiên là vô nghĩa.
Nhưng sự kết hợp của một chuỗi âm thanh thành một lời hay một
câu nói, là sự bộc lộ những gì ẩn kín sâu xa trong lòng người. Và
hơn thế nữa, đấy cũng là sự phát hiện từ những năng lực bí nhiệm
của thiên nhiên. Phản tỉnh về sự chi phối của âm thanh đối với
năng lực mầu nhiệm đôi khi dẫn đến khuynh hướng coi âm thanh như
là bản thể thường tại. Và điều này đã xảy ra nơi các nhà Mìmàmïsà
trước kỷ nguyên Tây lịch, và trở thành những tranh luận sôi nổi
giữa các nhà Mìmàmïsà và các giáo phái khác sau kỷ nguyên Tây
lịch, nhất là với các nhà luận lý học Phật giáo. Đối với các nhà luận lý
học này, phái Mìmàmïsà thường được gọi dưới danh hiệu Thanh
thường trú luận. Bởi vì, mẫu tiền đề luận lý mà họ thường dẫn
chứng để trình bày thế nào là một luận chứng sai lầm, thường
thường là chủ trương “âm thanh thường trụ”, sábdahï nityahï.
Chúng ta cũng
biết rằng sau sự phát triển của nền văn học Brahmanïa, là tiếp
đến nền văn học Àranïayaka, Sâm lâm thư, mà sau này nới rộng thành
các tập Upanishad. Trong khi, Brahmanïa chú trọng về tế lễ, thuộc bộ
phận Karmakanïdïa, thì trái lại Àranïyaka chú trọng về triết lý
thuộc bộ phận Jnõànakanïdïa. Bộ phận trước trở thành hệ phái
Purva-Mìmàmïsà hay nói tắt là Mìmàmïsà. Bộ phận sau trở thành hệ
phái Uttara-Mìmàmïsà, hay Vedànta. Các nghi tiết phụng thờ và tế
tự thần linh của Brahmanïa đầu tiên được tập thành và hệ thống
hóa bởi Jaimini, trong tác phẩm Mìmàmïsà-sùtra, khoảng 200 trước
Tây lịch. Tác phẩm này về sau trở thành nền tảng của triết phái
Mìmàmïsà.
Mìmàmïsà-sùtra
cũng bắt đầu như Brahma-sùtra của triết phái Vedànta. Một bên
chỉ định karmakanïdïa và một bên chỉ định jnõànakanïdïa.
Mìmàmïsà-sùtra bắt đầu nói: “athàto dharma-jijnõàsà”: bấy giờ, khởi sự
nghiên cứu về dharma. Từ ngữ này có một lịch sử phức tạp trong tư
tưởng triết học Ấn Độ. Nhưng ở đây nó muốn nói đến “bổn phận” và
có nguồn gốc trong thánh thư Veda. Sùtra I.i.2 nói:
“codanàlaksïano’rtho dharmahï”, pháp là mục đích của nhân gian mà
thánh thư Veda khải thị đặc tướng. Trong khi đó, Brahma-sùtra
I.i.1 nói: “athàto brahma-jijnõàsà”, rồi bấy giờ khởi sự khảo
nghiệm về Brahman như là Tuyệt đối thể. Trong cả hai, từ ngữ
“jijnõàsà” đều có nghĩa là “muốn biết”. Người ta cũng tìm thấy từ ngữ
này trong Sàmïkhya-sùtra, theo đó, sự “muốn biết” là động cơ cho
nỗ lực diệt trừ đau khổ.
Toàn bộ
Mìmàmïsà-sùtra chia làm 12 chương (adyàya), 60 tiết (pàda), 915 đề
mục (adhikaranïa); mỗi đề mục được trình bày bằng một số sùtra và tất
cả có 2.742 sùtras. Trong số các bản chú giải hiện còn, xưa nhất
có lẽ là bản của SÙabara, được gọi là SÙabarabhàsïya; thời đại
không rõ, nhưng được phỏng định khoảng 57 trước Tây lịch bởi Dr.
Ganïgànàtha Jhà, người đầu tiên, và cũng gần như duy nhất, viết
nhiều về triết phái này. Chú giải của SÙabara lại được chú giải
thêm bởi hai quan điểm khác nhau, do Kumàrila viết Slokavartika,
và Prabhàkara viết Brïhati. Cả hai đều sống trong khoảng thế kỷ
thứ VII.
Kumàrila gọi
đầy đủ là Kumàrila Bhatïtïa, cùng một thời đại với SÙanïkara
nhưng lớn tuổi hơn SÙanïkara. Đó là thời đại hưng thịnh của Phật giáo.
Cả hai, theo quan điểm của hệ phái mình, cùng kịch liệt công kích
Phật giáo, cổ xúy phục hưng tư tưởng chính thống của Veda.
Prabhàkara được tôn xưng là Guru. Sự bất đồng giữa hai nhà chú
giải này tạo thành hai ngành Mìmàmïsà, được gọi là ngành Bhatïtïa
và ngành Guru. Có lẽ ngành Guru của Prabhàkara có trước
Kumàrila, nhưng trước bao lâu thì chưa được xác định.
Mỗi ngành
Mìmàmïsà cũng có tác phẩm riêng, dựa vào bản chú giải của mỗi vị Tổ
của mình. Nhưng Dasgupta cho rằng những chú giải của họ không quan
trọng, vì không có ý tưởng mới mẻ nào ngoài Bhatïtïa và Guru.
II. CHÁNH
TRÍ: HIỆU LỰC CỦA TRI THỨC (Tri thức luận)
Tri thức luận,
hay Pramànïa, là sự khảo sát về nguồn gốc và giá trị của tri
thức. Về phương diện này, Mìmàmïsà phần lớn chịu ảnh hưởng của Nyàya, dĩ
nhiên với một vài chi tiết dị biệt. Ở đây chỉ nói những chi tiết
đó.
Chúng ta biết
rằng một nhận thức gồm có năng tri (pramàtà), sở tri (prameya);
do tác động nhận thức (pramà), chúng đưa đến một hậu quả, và hậu
quả này hoặc đúng hoặc sai. Trong trường hợp đúng, nhận thức được nói
là có giá trị, hay chánh trí (pramànïya). Chúng ta cũng giả thiết
rằng giá trị đúng của tri thức có thể được khảo sát dưới hai tiêu
chuẩn. Thứ nhất, theo tiêu chuẩn phù hợp; nghĩa là sự phù hợp
giữa năng tri và sở tri. Khi năng tri hướng ra ngoại giới, nó
tiếp nhận đúng sự biểu hiện của sở tri, và giá trị sẽ được khảo
sát như một phóng ảnh hay một bản sao. Những người theo chủ
thuyết duy nhiên hay thực tại luận theo tiêu chuẩn này.
Tiêu chuẩn thứ
hai trái lại. Nhận thức đúng phải là sự nhất trí giữa những gì
đã từng kinh nghiệm và cái đang được kinh nghiệm. Bởi vì, nhận thức bao
hàm một phán đoán, và một phán đoán là một toàn thể nhất trí nội
tại. Tiêu chuẩn thứ nhất gần giống với các nhà Nyàya, theo đó giá
trị đúng của nhận thức là tha chánh tri lượng
(paratahï-pramànya). Với thuyết này, hiệu lực hay chân lý của
nhận thức phải được khảo nghiệm bằng tác dụng hữu hiệu
(samïvàdi-pravrïtti). Như vậy, nhận thức chỉ có giá trị đúng khi nào nó
cung cấp một hiểu biết thỏa mãn chủ đích, đưa đến hữu hiệu trí
(arthakiryàjnõana). Tự thân của nhận thức không có vấn đề giá trị
hay không giá trị. Hiệu lực của nó tùy thuộc các điều kiện ngoại
tại. Các nhà Mìmàmïsà chỉ đồng ý với tiêu chuẩn của Nyàya trên
phương diện nhận thức không có giá trị, phi chánh tri lượng
(apramànya), vì cả hai phái cùng coi nhận thức này như là tùy
thuộc các điều kiện ngoại tại.
Trên phương
diện nhận thức có giá trị, chánh tri lượng (pramànïya), Mìmàmïsà
chủ trương thuyết tự chánh tri lượng (svatahï-prapamànïya-vàda).
Tất cả nhận thức, ngoại trừ tác dụng ký ức, (smrïti), đều tự chúng có
giá trị, tự xác chứng chân lý, không lệ thuộc bất cứ điều kiện
ngoại tại nào. Nhận thức không có giá trị, sai lầm, là do các
nguyên nhân của nó bị thiếu sót, bất xác (dosïa). Sợi dây bị
tưởng lầm là con rắn, ấy là do các nguyên nhân ngoại tại không
cung cấp cho nhận thức những phương tiện chính xác. Hoặc khi nhìn
vỏ sò mà thấy là vàng, không thấy đúng đó là vỏ sò, nguyên nhân
có thể do con mắt kém. Như vậy, hiểu biết sai lầm chỉ xảy ra khi nào
có sự can thiệp của trí năng suy luận. Nhận thức thuần túy, tri
giác, luôn luôn đúng, kể từ khởi điểm của nhận thức (utpatti) cho
đến thành tựu quyết trí (jnõàpti). Khi nhận thức phát khởi, đối
tượng của nó tức thì trình diện, không có một trung gian gián
cách nào giữa sự phát khởi và trình diện này.
Như vậy, nhận
thức không tùy thuộc bất cứ điều kiện ngoại tại nào khác, mà chỉ
khởi lên tùy thuộc vào chính tác dụng của nó: svakàryakaranïe svatahï
pràmànyamï jnõànasya, trong điều kiện nhân quả nội tại, giá trị
đúng của sự hiểu biết là do chính nó. Nói cách khác, giá trị đúng
của sự hiểu biết (jnõanasya pràmànïyam) là do điều kiện nội tại,
do chính nó (svatahï), và giá trị sai của sự hiểu biết
(jnõànasya pràmànïyam) là do điều kiện ngoại tại, do cái khác
(paratahï). Tác dụng ký ức không được kể là một tác dụng nhận
thức, bởi vì ký ức chỉ khởi lên từ ấn tượng của một nhận thức quá
khứ.
Giữa Mìmàmïsà
và Nyàya có những bất đồng về giá trị của nhận thức là do thái độ
của mỗi bên về thực tại luận. Trong các cú nghĩa (padàrtha) của
Nyàya, và Mìmàmïsà chấp nhận, có hai cú nghĩa bị loại trừ: dị cú nghĩa
(visùesïa) và hòa hiệp cú nghĩa (samavàya). Bởi vì, như Kumàrila
đã nói, không phải có khái niệm về hai mà người ta có quyền xác
nhận một sự dị biệt triệt để, và cũng không phải khi có khái niệm
về một độc nhất mà người ta có quyền xác nhận một độc nhất tuyệt
đối. Luôn luôn, đồng nhất tính có nghĩa là nhất thể của dị biệt
(bhedàbheda). Nếu một sự vật được nhìn như một toàn thể, thì đó
là toàn thể bao gồm các phần tử. Hay ngược lại, nhìn như một cá
thể, thì đó là những phần tử rời của một toàn thể. Trong tác dụng
của nhận thức, không phải người ta nhìn thấy những phần tử trước
rồi mới nhận ra toàn thể của chúng. Toàn thể và thành phần cùng hiện
hữu trong tương quan đồng nhất. Cả hai cùng nhìn nhận rằng nhận
thức tri nhận đối tượng ngoại tại. Nhưng thực tại của Nyàya có
thể là một dị biệt thể (visùesïa) mà cũng có thể là một nhất thể
vô phân biệt (samavàya), trong khi đó Mìmàmïsà không chịu như
vậy.
Do đó, với
Mìmàmïsà, tính cách nhất trí của đối tượng nhận thức chỉ là một
nhất trí giả, vì đó là nhất thể của dị biệt; nghĩa là, hoặc toàn thể của
những thành phần, hay thành phần của một toàn thể. Trước một đối
tượng nhất trí theo quan niệm đó, nhận thức không đòi hỏi sự
khảo nghiệm nào ngoài tác dụng của chính nó. Nói cách khác, tiêu
chuẩn hay chân lý nơi Mìmàmïsà là sự phi mâu thuẫn. Nói như vậy
không có nghĩa rằng khi năng tri tiếp nhận đối tượng thì cùng lúc
giải trừ mâu thuẫn nơi nó, nhưng thăng hoa và tổng hợp mâu thuẫn
ấy thành một nhất trí giả.
Quan điểm thực
tại luận của Niyàya và Mìmàmïsà đã không đưa cả hai đến một tiêu
chuẩn chung về chân lý, nhưng lại đưa đến một phần tương đồng về tiêu
chuẩn của nhận thức sai lầm. Nói là một phần tương đồng, vì đối
với tiêu chuẩn này, hai nhà Mìmàmïsà là Kumàrila và Prabhàkara
khảo sát nó dưới chiều hướng khác nhau. Khảo sát của Kumàrila gần
với các nhà Naiyayika hơn. Cả hai, Kumàrila và các nhà Naiyayika
cũng quan niệm như nhau rằng sự sai lầm nơi nhận thức chính là
do tổng hợp sai lầm giữa đối tượng đang trình diện và một sự thể
từ ký ức tái trình diện. Quan điểm của các nhà Naiyayika được gọi
là anyathà-khyàti, biệt hiện. Anyàtha có nghĩa là “một cách
khác”. Tức đối tượng trình diện được nhìn thấy “một cách khác”. Nói
rõ hơn, vỏ sò và khối bạc là hai thực thể dị biệt. Khi vỏ sò trình
diện cho nhận thức, thay vì nó được tiếp nhận đúng y bản thân của
nó, nhận thức lại thấy “một cách khác”: đó là một thỏi bạc. Thế
là vì, thỏi bạc như đã từng được kinh nghiệm trong quá khứ nào
đó, bây giờ được hồi tưởng và tái trình diện như một đối tượng
của nhận thức, mà kỳ thực chính nó lại hiện diện ở một nơi khác.
Nhận thức dù
sai lầm như vậy, nhưng thực tại tính của đối tượng không hề bị
ảnh hưởng. Vỏ sò vẫn là một thực tại ở ngoài tri thức. Cũng như một chú
bé đang ngồi trên xe lửa, nhìn qua cửa sổ thấy cây cối đang chạy
lùi lại; trong thực tế, cây vẫn đứng yên một chỗ. Nyàya giải
thích sự sai lầm này, nói đó là do trí tướng hiện lượng
(jnõanalaksïanïa), trí tướng (jnõànalaksïanïa) và định sinh tướng
(yogajalaksïanïa). Kumàrila không nhận có một tri giác bất
thường nào như vậy. Quan điểm của Kumàrila được gọi là
Viparìta-khyàti, tợ hiện, không mấy khác Nyàya.
Prabhàkara bác
bỏ cả hai tiêu chuẩn có tính cách tích cực về nhận thức sai lầm
ấy. Tiêu chuẩn của ông mang danh là akhyàti, phi hiện. Kumàrila và
Prabhàkara cùng đồng ý với nhau rằng trong tri giác sai lầm, thấy “đây
là thỏi bạc”, thay vì vỏ sò, cả hai sự thể đều hiện diện. Nhưng
tính chất “đây tương tợ ” đáng lẽ phải là tính chất của vỏ sò,
lại không được nhận ra, và tính chất “kia” của thỏi bạc cũng
không được nhận ra nốt. Sở dĩ như thế là vì vỏ sò và thỏi bạc
cùng có tính chất trắng, tính chất sáng tương tợ nhau. Nhưng họ
khác nhau ở chỗ, với Kumàrila, tính chất tương tợ của vỏ sò và
thỏi bạc khiến chúng tạo thành một nhận thức đơn nhất; cho nên sai
lầm không phải duy chỉ là sự vắng mặt của vỏ sò trong nhận thức mà còn
là sự cộng tác của cả hai; trong khi đó, với Prabhàkara, sai lầm
do sự vắng mặt của vỏ sò trong nhận thức, phi hiện, akhyàti.
Trong thực tế,
có hai đối tượng riêng biệt và hai nhận thức về chúng cũng riêng
biệt, không liên hệ nhau; thực tế này không được biết đến cho nên
mới thành ra sai lầm. Ở đây Prabhàkara phân tích ba trường hợp sai
lầm. Một lọ thủy tinh màu trắng lại được thấy là đỏ vì đặt sát
cạnh hoa hồng. Trong trường hợp này, nhận thức về lọ thủy tinh bị
thiếu mất màu trắng và nhận thức về màu đỏ bị thiếu mất hoa
hồng. Cả hai đối tượng, mặc dù đều được nhận thức đúng, nhưng
thảy đều thiếu sót một phần. Như vậy, sai lầm là do thiếu phân
biệt giữa tri giác với tri giác, vivekàkhyàti.
Trường hợp thứ
hai, khi một người ngồi nhớ lại rằng hôm qua y nhìn thấy một con
rắn giữa đường mà thực tế lại chính là sợi dây. Ở đây cũng có hai
nhận thức khiếm khuyết, và sai lầm như vậy là do thiếu phân biệt về
các ảnh tượng ký ức, bhedàgraha. Sau hết, một người tưởng lầm vỏ
sò là thỏi bạc, cũng có hai nhận thức khiếm khuyết. Tính chất
trắng bạc của vỏ sò được nhận ra, nhưng bản thân của vỏ sò không
được n hận ra; đó là một khiếm khuyết trong nhận thức. Thỏi bạc
trong ký ức thay vì ở nơi khác, lại bị tước mất tính chất “nơi
khác” của nó, và cũng là một nhận thức khiếm khuyết nữa. Đây là
sự sai lầm do thiếu phân biệt giữa tri giác với ký ức,
asamïsargàgraha.
Tóm tắt về giá
trị của nhận thức, chúng ta cũng nên biết thêm rằng,
Pàrthasàrathi, tác giả của Sùàstradipikà,Tantearatna và Nyàyaratna,
khoảng thế kỷ IX sau Tây lịch, đề nghị có bốn điều kiện cần thỏa
mãn cho một chánh tri lượng: thứ nhất, kàranïadosïarahita, nhận
thức không khởi lên từ những nguyên nhân bất xác; thứ hai,
badhakajnõànarahota, nó phải là nhất trí, không mâu thuẫn; thứ
ba, agrïhìtagràhi, nó phải tiếp nhận mới mẻ chưa từng tiếp nhận,
và vì vậy ký ức không được coi là chánh tri lượng; thứ tư,
yathàrtha, như nghĩa, nó phải trình bày trung thực đối tượng.
III. NGUỒN GỐC CỦA TRI THỨC
Pramànïya là
hiệu quả của nhận thức. Pramànïa, lượng, là nguồn gốc của tri
thức. Nơi Jaimini, có ba lượng: hiện lượng (pratyaksïa), tỉ lượng
(anumàna) và thánh giáo lượng (sùabda). Prabhàkara thêm hai lượng: thí
dụ lượng (upamàna) và nghĩa chuẩn lượng (arthàpatti). Kumàrila
thêm lượng thứ sáu: vô thể lượng (abhàva) hay bất khả đắc
(anupalabdhi).
Hiện lượng
(pratyaksa) là tri giác sơ khởi khi nội căn và ngoại cảnh tiếp
xúc với nhau mà cả Prabhàkara và Kumàrila đều thừa nhận là, như các nhà
Naiyayika, tri giác này có hai: hiện lượng vô phân biệt
(nirvikalpa-pratyaksïa) và hiện lượng có phân biệt
(savikalpa-pratyaksïa). Giải thích của họ đại khái cũng giống của
Nyàya. Tuy nhiên, vì không nhận có hai cú nghĩa, dị (visùesïa)
và hòa hiệp (samavàya), nên theo họ, hiện lượng vô phân biệt thâu
nhận được cả tổng tướng và biệt tướng của đối tượng; nói cách
khác, nó vừa thâu nhận đối tượng như một toàn thể của những thành
phần và vừa ngược lại.
Tỉ lượng
(anumàna) là nhận thức bằng suy luận, khởi lên sau hai giai đoạn sơ
khởi của tri giác hiện lượng. Một suy luận chỉ có thể có khi hai sự
vật cùng hiện diện nơi một vật thứ ba. Thí dụ, lửa và khói cùng
hiện diện trên núi. Sự hiện diện của khói với tư cách là một sở
biến (gamaka hay vyàpya) trên núi tạo ra một khái niệm biến thông
(vyàpti) cho phép người ta suy luận có sự hiện diện của lửa,
năng biến (gamya hay vyàpaka) trên núi. Suy luận không khởi đầu
từ một mệnh đề tổng quát, từ sự cộng tồn phổ biến giữa một sở
biến (gamaka) và một năng biến (gamya): nơi nào có khói nơi ấy có
lửa. Nó do ký ức về sự quan hệ thường trực giữa hai sự kiện: khói và
lửa, cùng hiện diện nơi một sự kiện thứ ba: bếp lửa trước đây.
Như vậy, suy luận mang lại một nhận thức mới mẻ, chưa từng thấy:
núi có lửa. Nói là mới mẻ, vì nhận thức về một hòn núi có lửa
xuất hiện trong tri giác trực tiếp, chứ không phải là ký ức quá
khứ được nhắc lại từ một mệnh đề tổng quát đã biết như liên hệ
khói và lửa.
Tỉ dụ lượng
(upamàna) là nhận thức về tính chất tương tợ giữa hai sự vật. Một
người trước kia đã có lần thấy một con bò đi trong rừng, nay thấy một
con bò rừng, tính chất tương tợ giữa con bò thường và bò rừng
khởi lên trong nhận thức. Loại nhận thức này bao gồm một đối
tượng trong ký ức và một đối tượng đang tri giác. Nó không phải
là một nhận thức bằng suy luận, tỉ lượng (anumàsa), bởi vì quan
hệ biến sung, hay biến thống (vyàpti) giữa hai con vật không cần
thiết phải có. Nó cũng không phải là một hiện lượng (pratyaksïa),
bởi vì ở đây nhận thức đạt được không phải là con bò, hay bò
rừng, mà là tính tương tợ của nó.
Nghĩa chuẩn
lượng (arthàpatti) là nhận thức hàm ngụ. Giữa hai sự kiện tương
phản, không nhất trí, người ta rút ra một hàm ngụ. Đến thăm một
người bạn, biết chắc rằng y đang sống, nhưng không có mặt trong nhà;
“đang sống” và “vắng mặt” là hai nhận thức tương phản, không nhất
trí, đã được biết, chúng dẫn đến một hàm ngụ rằng y đang “ở đâu
đó”. Nyàya đặt loại nhận thức này vào tỉ lượng (anumàna).
Mìmàmïsà cho rằng trong tỉ lượng không thể có sự không nhất trí
như vậy. Bằng vào nghĩa chuẩn lượng, các nhà Mìmàmïsà chứng tỏ
rằng tự ngã tồn tại sau khi chết. Veda hứa hẹn phước báo cho tế
tự, nhưng không phải hưởng thụ ngay sau khi vừa thực hiện xong
một tế tự, mà là sẽ hưởng thụ trong một đời sống tương lai. Chính tác
giả của một hành vi thiện hay ác sẽ hưởng thụ kết quả của hành vi
ấy; do đó, tự ngã vẫn tồn tại sau khi chết để hưởng thụ những gì
đã làm trong đời sống này.
Prabhàkara
không coi vô thể, vô thể lượng (abhàva) là nhận thức về một đối
tượng vắng mặt. Nó cũng được gọi là bất khả đắc (anupalabdhi). Khi một
người bước ra sau hè rửa chân, nhận ra rằng lu nước không có ở đó,
không hiện hữu; như vậy, vô thể của lu nước được nhận thức.
Prabhàkara không coi vô thể như là một phạm trù độc lập, một cú
nghĩa (pàdàrtha). Vô thể của lu nước chỉ là sự vắng mặt của nó.
Sự vắng mặt này dựa trên một không gian trống. Với các nhà
Naiyayika, và Kumàrila, vô thể thực sự là một phạm trù riêng
biệt, một cú nghĩa. Kumàrila không cho rằng vô thể chỉ là sự vắng
mặt, là một không gian trống. Một không gian có thể trống đối với lu
nước, nhưng lại không phải là trống với một vật khác, hòn đá
chẳng hạn, có thể hiện diện nơi đó. Nhưng khác với các nhà
Naiyayika, họ không thừa nhận có một nhận thức riêng biệt về vô
thể, ngoài hiện lượng và tỉ lượng. Với Kumàrila, các giác quan
không thể thâu nhận được một đối tượng vắng mặt, vô thể. Còn tỉ
lượng lại là nhận thức bằng suy luận căn cứ trên hiện lượng. Sự
vắng mặt của lu nước, vô thể của nó, là một loại nhận thức khác
hẳn với năm loại nhận thức mà đối tượng có tính cách tích cực kia. Do
đó, Kumàrila lập thêm lượng thứ sáu, vô thể lượng
(abhàva-pramànïa) hay bất khả đắc lượng (anupalaodhi) cho nó.
Thánh giáo
lượng (ábsdha) là nhận thức xuất phát từ thẩm quyền của ngôn ngữ.
Kumàrila chia nó thành hai loại: nhân tạo (purusïeya), đó là chứng
ngôn của những nhân cách đáng tin (àptavàkya), và phi nhân tạo
(apurusïeyo), chứng ngôn của Veda (Vedavàkya). Một người anh sai người
em dẫn đến một con ngựa, và cột lại một con bò, trong lúc đó, một
chú bé nghe được lời sai bảo giữa hai anh em ấy mà nhận ra được
thế nào là một con ngựa và thế nào là một con bò. Loại nhận thức
như vậy không phải là hiện lượng, cũng không phải là tỉ lượng, mà
là nhận thức bằng chứng ngôn. Chứng ngôn hay thánh giáo lượng là
một khía cạnh tối quan trọng trong hệ phái Mìmàmïsà, bởi vì nó
xét đến bản chất của ngôn ngữ, và nhờ đó để có thể hiểu hiệu lực
từ những chứng ngôn của Veda.