Chương
III Triết thuyết Yoga (Du Già)
I. YOGA TRONG UPANISHAD
Yoga gồm đủ hai phương diện. Về mặt triết lý, nó phối hợp với hệ phái
Sàmïkhya, và có những tư tưởng căn bản như một hệ thống triết
hay một hệ phái hẳn hoi, xứng đáng liệt ngang hàng với các hệ
phái khác. Về phương diện thực hành, nó là một pháp môn tu dưỡng
mà các hệ phái khác, ngoại trừ Nyàya, đều phải có. Cũng như Nyàya
cống hiến căn bản lý luận cho các hệ phái, Yoga cống hiến đường
lối thực hiện những tư tưởng triết lý của chúng.
Nếu
tư tưởng của Sàmïkhya chỉ được coi như là có mầm mống, hay có
những dấu hiệu hàm ngụ trong các Upanishads, thì trái lại Yoga
không những được định nghĩa mà còn được hướng dẫn bằng các đường
lối hành trì trong đó. Katïha Upanishad định nghĩa Yoga1: Những
kiểm soát các giác quan năng (indriya) một cách chặt chẽ, chúng
được gọi là yoga”. Đây là định nghĩa khá sít sao về yoga, nếu
chúng ta biết rằng từ ngữ này có động từ là yuj, có nghĩa là cột,
trói. Nghĩa rộng của động từ này là phối hợp, thích hợp, như chúng ta
thấy trong động từ yujyate, vừa có nghĩa xứng hợp, thích hợp, mà
cũng có nghĩa rộng rãi nữa là thành tựu. Một luận chứng hợp lý,
nó là yujyate.
Những danh từ xuất phát từ động từ căn này thảy đều
có nghĩa là thích hợp, tương quan, liên hệ. Thí dụ, samyoga, với
tiếp đầu ngữ nhấn mạnh, chỉ cho sự giao tiếp, giao thiệp, hiệp
nhất hay hiệp tác, mà chúng ta gặp trong Sàmïkhya, về sự giao
tiếp hay hiệp nhất giữa purusïa và prakrïti. Các nhà Phật học
Trung Hoa thường dịch nghĩa chữ này là tương ưng. Ý nghĩa của
tương ưng có thể hiểu theo sự kiện thông thường nơi một nhà tu thiền, đó
là sự tương ưng giữa tâm và cảnh. Nó cũng mang một ý nghĩa thần
bí, như sự tương ưng giữa cá thể và tuyệt đối.
Maitrì Upanishad2 đưa ra một định nghĩa có tính
cách thần bí: “Người đó tương ưng với hơi thở, với chữ aum và với
tất cả thế giới sai biệt này, đó là yoga. Sự nhất thông
(ekatvam) của hơi thở, tâm ý, và, cũng vậy, các căn (indriyas),
và sự xả trừ tất cả những điều kiện của sự hữu, đó là yoga”.
Theo những định nghĩa dẫn chứng đó, yoga là sự
tương ưng và hiệp nhất giữa chủ thể và đối tượng, mà thuật ngữ
của các nhà Phật học Trung Hoa gọi là “tâm nhất tánh cảnh”, tâm
và cảnh trở thành một. Sự tương ưng này đòi hỏi phải thu thúc các
quan năng, bởi vì hoạt động của các quan năng thường phân tán,
không bao giờ chuyên chú trên một đối tượng. Người yêu nhớ tưởng
tình nhân, thấy trọn tất cả sinh thể của mình nằm trong lòng của tình
nhân. Tín đồ cầu nguyện, thấy tất cả tâm trí, tất cả đời sống của
mình dâng hiến trọn vẹn cho đấng Tối cao. Những sự kiện đó đều có
ý nghĩa trong từ ngữ yoga.
Các Upanishads, như đã nói, không những định nghĩa
yoga là gì, mà còn chỉ thị các phương pháp tu luyện để đạt đến
trạng thái tuyệt đối tương ưng của nó. SÙvetasùvatàra Upanishad3
trình bày khá chi tiết các phương pháp làm thế nào để có thể
chiêm nghiệm và khám phá hiện hữu của đấng tuyệt đối. Trước hết,
phải giữ vững tư thế của thân thể, các bộ phận trên, gồm ngực, vai và
đầu phải thẳng tắp, rồi hướng các giác quan (indriyas) và tâm ý
(manas) vào trái tim (hrïdi); và nhờ đó mà nương con thuyền của
Brahman mà vượt qua những dòng sông gieo rắc sợ hãi. Con thuyền
của Brahman tức là chữ aum. Kế đó là sự kiểm soát hơi thở
(prànàyàma); thực tập cho đến khi nào các hơi thở thành trầm
tĩnh, nhẹ nhàng, qua các lỗ mũi. Nhờ đó mà thu thúc tâm ý, như
buộc chặt con ngựa chứng vào cỗ xe.
Hành giả được khuyến cáo là nên thực tập yoga trong
một hang đá cản được gió cao, hay tại một nơi cao ráo, trong
sạch, không bị gây trở ngại bởi các tiếng động, của nước chẳng
hạn, và nơi mà tâm trí có thể dễ dàng thơ thới, con mắt không bị
gây khó chịu. Sương mù, khói, mặt trời, gió, lửa, ánh sáng, ánh
trăng, đấy là những hình thái sơ khởi tạo ra sự biểu hiện của
Brahman trong yoga. Khi năm đặc tính của yoga được tạo ra, như đất,
nước, lửa, gió và không khí, bấy giờ không còn tật bệnh, không còn
tuổi già, không còn sự chết, bởi vì người đó đã đạt được một thân
thể làm bằng lửa của yoga. Kết quả đầu tiên của tiến bộ của yoga
là sự khinh an và sảng khoái, tráng kiện của thân thể, vắng bặt
ham muốn, da tươi nhuận, âm thanh êm tai, hương vị dịu ngọt.
Maitrì Upanishad4 chỉ thị phương pháp yoga gồm có sáu phần: điều hòa
hơi thở (prànàyàma), chế ngự cảm quan (pratyàhàra), tĩnh lự hay
tư duy (dhyàna), tập trung tư tưởng hay chấp trì (dhàranïà), suy
lý hay quán huệ (tarka), và đẳng trì (samàdhi). Bằng phương pháp
yoga này, người ta có thể bắt được nguồn mạch của Brahman, tống
khứ mọi tội lỗi, xấu ác. Cũng như thú vật và chim chóc không lai
vãng nơi hòn núi đang bốc cháy, cũng vậy, tội cấu không lay động
nổi những ai biết Brahman.
Nếu
xét từ thời đại Veda trở xuống cho đến Upanishad, chúng ta thấy
phương pháp tu luyện yoga đã đạt đến mức chi tiết. Ngay trong
thời đại Veda, tư tưởng khổ tu thường có giá trị khá nổi bật.
Tapas hay khổ hạnh, và brahmacarya, tịnh hạnh hay đời sống ly
dục, là những đức lý được tán thưởng, không những chỉ giới hạn
trong thời Veda sơ khởi với Rïg Veda, mà mãi về sau này, vẫn là
những đức lý được ca ngợi nhất trong đời sống tôn giáo và đạo đức
của Ấn Độ.
II. PATANÕJALI
Patanõjali là người đầu tiên hệ thống hóa tư tưởng về Yoga rải rác
trong các Upanishads và những nơi khác, soạn thành tác phẩm
Yoga-sùtra. Niên đại của Patanõjali không được rõ. Vả lại có hai
người cùng tên, một là tác giả của Yoga-sùtra, và một nữa là nhà
văn pháp, chú giải tác phẩm của Pànïini. Phần lớn các tác giả
phương Tây ngày nay đồng hóa cả hai Patanõjali. Nhưng chưa thấy
một giải pháp nào được hoàn toàn chấp nhận. Người ta vẫn tạm thời
chấp nhận niên đại tác giả Yoga-sùtra vào khoảng thế kỷ thứ II trước
tây lịch.
Yoga-sùtra không được coi như một tác phẩm đặc
sáng, mà chỉ là tập đại thành những gì liên hệ đến Yoga đương
thời. Căn bản triết lý siêu hình trong đó dựa trên hệ pháp
Sàmïkhya. Nội dung Yoga-sùtra gồm 149 sùtras, chia thành 4 phẩm.
Phẩm I: Tam muội (samàdhi-pàda) gồm 51 sùtras, nói về bản chất
của samàdhi; phẩm II: Phương pháp (sàdhana), 55 sùtras, trình bày
các phương pháp thiền định; phẩm III: Thần thông (vibhùti-pàda), 55
sùtras, về các loại thần thông; phẩm IV: Độc tồn (kaivalya-pàda), 33
sùtras, sự giải thoát cuối cùng, trạng thái độc lập của purusïa
như được nói trong Sàmïkhya.
Pàtanõjala-bhàsïya là tác phẩm xưa nhất của Vyàsa,
chú giải Yoga-sùtra, cũng được gọi là Yoga-bhàsïya, và có lẽ được
viết trong khoảng thế kỷ VII. Khoảng thế kỷ X, một bản chú giải
khác, Ràjàmàtranïdïa của Bhojaràja được tập thành. Về sau nữa,
xuất hiện những bản chú giải khác, căn cứ trên tác phẩm của
Vyàsa, đáng kể là của Vàcaspati và Vijnõànabhiksïu. Các tác giả
này nguyên là những triết gia của Sàmïkhya, và cũng có những tác phẩm về
hệ phái đó. Tuy nhiên, sự liên hệ giữa Sàmïkhya và Yoga không
phải từ họ mới có. Ngay nơi tác phẩm của Patanõjali, căn bản siêu
hình học đã là của Sàmïkhya. Xưa hơn nữa, người ta có thể tìm
thấy nơi các Upanishads trong đó những yếu tố của hệ phái
Sàmïkhya và Yoga xen lẫn nhau, như thuyết ngũ tạng được nói trong
Maitrì Upanishad chẳng hạn; hay đề cập của SÙvetasùvàtara
Upanishad về Sàmïkhya và Yoga, phân biệt và tư duy, như là hai
phương tiện hỗ tương dẫn đến nhận thức về nguyên nhân cứu cánh; đấy là
những chứng cứ cho thấy mối liên hệ sâu xa của hai hệ phái này
trong lịch sử tư tưởng Ấn Độ.
III. QUAN HỆ SÀMÏKHYA - YOGA (Triết lý và Pháp môn Yoga)
Cuối chương lịch sử của triết học phái Yoga, chúng ta sẽ nói vắn tắt
về quan hệ giữa Sàmïkhya và Yoga. Ở đây, ta chỉ nói thêm một vài
chi tiết về quan hệ tư tưởng của chúng.
Định nghĩa về Yoga, Patanõjali trong Yoga-sùtra I.2 nói: “Yogasù
citta-vrïtti-nirodhahï”, yoga là sự diệt trừ cơ năng của tâm. Vyàsa
chú giải sùtra này nói: “tâm (citta) có ba gunïa, với bản chất
sáng, động và trì trệ.” Ngay trong định nghĩa này, và chú giải
của nó, đã cho thấy điểm tương đồng và dị biệt giữa Sàmïkhya và
Yoga. Nơi chú giải của Vyàsa, những gì mà chúng ta đã biết về
mahat trong bộ thuật ngữ của Sàmïkhya, thì nó trở thành citta
trong bộ thuật ngữ của Yoga. Điểm dị biệt ở đây là citta bao gồm
ba cơ năng nội tại của Sàmïkhya: buddhi, ahamïkàra và manas. Nó là
biến thái đầu tiên của prakrïti với sự thắng thế của sattva. Mặc dù có
tính chất vô tri, nhưng là yếu tố tế nhị và gần gũi purusïa
nhất, và do phản ảnh của purusïa, nên nó hoạt động như một yếu tố
có tri thức. Tất cả mọi hiện tượng tinh thần đều bắt nguồn từ
đó.
Yoga được hiểu như là sự ức chế hay diệt tận các tác dụng (vrïtti)
của citta. Những tác dụng này gồm hai loại. Thứ nhất là những tác
dụng trực tiếp, là những sinh hoạt của tri thức, và được gọi là
tâm tác dụng (citta-vrïtti). Từ sùtra I.5 đến sùtra I.11, chúng
ta có tất cả 5 citta-vrïttis: chánh trí (pramanïa), tợ trí
(viparyaya), phân biệt (vikalpa), thụy miên (nidrà) và ký ức
(smrïti). Chánh trí là những nhận thức chơn chính, từ ba nguồn
mạch của tri thức: hiện lượng, tỉ lượng và chánh giáo lượng. Tợ
trí là nhận thức không chơn chánh, hiểu biết sai lầm về chân
tướng của sự vật, như thấy sợi dây mà cho là con rắn. Phân biệt
hay tưởng tượng, là tri thức có được do truyền thuyết, như sự hiểu biết
về sừng thỏ, chỉ có trên ngôn ngữ chứ không có trong thực tế.
Thụy miên là tâm tác dụng lấy căn nguyên của phi hữu hay vô thể
(abhàva) làm đối tượng; nó là sự vắng mặt của tri thức, nhưng dù
vậy, sau một giấc ngủ, người ta vẫn có thể nói rằng: “Tôi ngủ say
không biết gì hết” và như vậy phải có một citta-vrïtti để duy
trì sự vắng mặt này của tri thức. Ký ức là nhớ lại những ấn tượng
quá khứ chưa bị giải trừ, tiêu hủy.
Loại thứ hai, do sự phản chiếu của purusïa trong
citta hay citta phản chiếu trong purusïa, tạo cho citta mang một
hình ảnh của ngã tương đối, tiểu ngã (jìva), chịu những đau khổ
của sanh tử luân hồi. Đây được gọi là tác dụng phiền não
(klesùa), là những tác dụng tình ý, cũng có 5 (sùtra II.3-9): vô
minh (avidyà), ngã kiến (asmità), tham (ràga), sân (dvesïa) và
hữu ái (abhinivesùa). Vô minh là đối với những gì vốn vô thường, bất
tịnh, khổ và vô ngã mà cho là thường, tịnh, lạc và ngã. Ngã kiến
là sự đồng nhất sai lầm giữa năng lực kiến giải (drïksùakti) và
năng lực tri kiến (darsùanasùakti). Tham là sự chấp trước và
khoái lạc. Sân là sự bất mãn đối với những nơi không thích ý. Hữu
ái là sự ham muốn, chấp trước vào sự tồn tại của nhục thể.
Đối tượng của Yoga là khuất phục và diệt tận hai
loại citta-vrïtti trên đây. Chú giải sùtra I.12, về sự diệt tận
của loại citta-vrïtti thứ nhất, biểu dương cho những tác dụng tri
thức, Vyàsa nói rằng: Dòng citta trôi chảy theo hai hướng, hoặc
chảy về hướng thiện, hoặc về hướng bất thiện. Nếu sự trôi chảy
của citta dẫn đến độc tồn (kaivalya) hay giải thoát và đến lãnh
vực của tri thức phân biệt, nó được gọi là dòng hạnh phúc. Nếu dẫn vào
tái sanh và chảy xuống lãnh vực vô minh, nó được gọi là dòng đau
khổ. Giải thích này trên đại thể không mấy khác xa với chủ thuyết
về lịch trình hiện tượng hóa của Sàmïkhya.
Dị biệt lớn nhất giữa Sàmïkhya và Yoga là một bên
vô thần và một bên hữu thần. Nỗ lực thiết lập một quan niệm hữu
thần cho Yoga được thấy rõ trong Sùtra I.23-29 và các chú giải
liên hệ.
Sùtra I.23 và 24 nói: “Hoặc do niệm tưởng đấng toàn
thiện Ìsùvara mà đạt đến samàdhi. Isùvara là một purusïa tối
thắng (Purusïa-visùesa), không bị xúc nhiễm bởi phiền não
(klesùa), nghiệp (karman), quả dị thục (vipàka) hay dư nghiệp
(àsùaya)”.
Vàcaspati Misùra trong Tattva-vaisùàradì, khi chú
giải các sùtras này, từ đó thiết lập các chứng cứ hữu thần, đã
phân biệt giữa các purusïas, mà Sàmïkhya quan niệm là phức thể,
với một purusïa thù thắng tối thượng, Isùvara. Thế giới gồm có
hai nguyên lý căn bản, và chỉ có hai: purusïa hữu thức và
prakrïti vô thức. Như Isùvara không phải là nguyên lý vô thức để
làm nguyên nhân tối sơ cho vạn hữu trong lịch trình hiện tượng hóa hay
sáng hóa của vũ trụ. Vì nếu Isùvara là nguyên lý vô thức, nhất
định ngài phải là mùlaprakrïti, căn bản tự tánh hay bản tánh, vật
chất căn nguyên, và như vậy không có gì khác với những tác dụng
vô tri. Isùvara cũng không phải như các purusïa trong lịch trình
hiện tượng hóa, vì ngài không liên hệ gì đến những phiền não, ngã
kiến.
Đằng khác, với chú giải của Vyàsa, khi một người
giải thoát, người đó không phải là Isùvara, không bao giờ trở
thành là Isùvara, vì Isùvara không liên hệ gì đến các phiền não
trói buộc.
Sàmïkhya không quan niệm sự hiện hữu của một tuyệt
đối hay thần ngã hay Isùvara nào ngoài hai nguyên lý căn bản và
tối sơ, purusïa và prakrïti. Nếu muốn nói đến toàn trí, thì đấng
toàn trí hay nhất thiết trí đó là purusïa. Nếu muốn nói đến toàn
năng, thì đấng toàn năng đó là prakrïti. Thế nhưng, mỗi chúng
sanh đều có riêng một purusïa và những phẩm tính của prakrïti.
Trái lại, Yoga-sùtra I.25 và các đoạn tiếp theo xác chứng rằng có
một Isùvara như vậy. Sùtra I.25-29 nói: “Hạt giống của nhất thiết trí
nảy mầm trong Ngài. Ngài là bậc thầy của các tiên thánh, không lệ
thuộc thời gian. Mật ngữ biểu thị Ngài. Càng tụng đọc mật ngữ đó
càng thấu hiểu ý nghĩa của nó. Nhờ đó mà thấu hiểu Ngã cá biệt và
dứt trừ các chướng ngại”.
Sự giải thoát chỉ có nghĩa là trở thành một purusïa
thanh tịnh, tịch tĩnh, cùng bản chất như Isùvara, khi hành giả
(yogin) lặp lại nhiều lần mật ngôn aum cho đến lúc tâm hoàn toàn
chuyên chú vào một điểm trên đó. Giải thoát tuyệt đối được mô tả ở
Sùtra IV.34 như là lúc mà các phẩm tính trở lại trạng thái vi tế
tiềm ẩn của chúng, sau khi vắng bặt ý tưởng của purusïa; năng
lực tâm linh an trụ trong bản chất của chính nó.
IV. BÁT PHẦN DU GIÀ
Như ta đã thấy, Yoga được định nghĩa như là sự diệt
trừ các tác dụng của tâm (citta-vrïtti), cho đến khi các phẩm
tính, hay gunïa, được thu hồi trở lại trạng thái nguyên sơ, và
purusïa trở thành độc lập, không bị chi phối và ràng buộc bởi thế
giới vật chất. Các tác dụng của tâm trên bình diện tri thức gồm
cả hai khía cạnh, hoặc đau khổ hoặc không đau khổ. Tu tập là nỗ
lực đưa các tác dụng tâm này xuôi theo dòng thiện. Ở trong chiều đó, nhờ
phân biệt chánh trí mà ta diệt trừ các tác dụng từng ý vốn là
bất thiện, gây đau khổ. Sùtra II.28 nói: “Khi diệt trừ bất tịnh
bằng sự tu tập kiên trì về tám phần Du Già (asïtïàgïa-yoga), thì
ánh sáng của trí tuệ soi đến chánh trí phân biệt”.
Trong tám phần Yoga, có đến 6 chi đã được thiết lập
từ Maitrì-Upanishad. Patanõjali bỏ quán huệ (tarka), thêm vào 3
chi: cấm chế (yama), khuyến chế (niyama), tọa pháp (àsana) và đặt
chúng lên hàng đầu.
Tám
phần Du Già được trình bày từ Sùtra 30 đến 55, hết chương II, và
từ Sùtra 1 đến 3, chương III.
1. Cấm chế (yama), những điều răn cấm không được vi
phạm, có 5: không sát sanh (ahimsà), không nói dối (asatya),
không trộm cướp (asteya), không tà dâm (arahmacarya) và không
tham (aparigraha). Những răn cấm này được coi là có giá trị phổ
biến, không hạn cuộc không gian, thời gian hay hoàn cảnh.
2. Khuyến chế (niyama), tiến thêm một bước, hành
giả thực hiện các khuyến cáo: thanh tịnh (sùauca), tri túc
(samtosïa), khổ hạnh (tapas), học tập (svàdhyàya) và tưởng niệm
Thượng đế (Isùvara pranïidhàna).
3. Tọa pháp (àsana), ngồi đúng tư thế, vững vàng và
thoải mái. Tư thế ngồi được coi là hoàn hảo khi nào không cần có
cố gắng, khiến cho thân thể không bị dao động. Hoặc khi tâm trí
mở rộng vô hạn. Nhờ tư thế ngồi hợp cách mà khỏi bị gây phiền
nhiễu bởi nóng và lạnh.
4. Điều tức (prànïàyàma), kiểm soát và điều hòa hơi
thở sau khi thân thể đã ngồi vững. Thở có ba việc: thở ra, thở
vào và ngưng thở, và điều khiển tùy theo vị trí, thời gian và số.
Về nơi chốn, chú ý quan sát hơi thở khi vào thì đến vị trí nào
trong ngực và bụng, khi ra thì đến đâu trong vũ trụ. Về thời
gian, hơi thở đều đặn theo sự dài, ngắn, nhất định. Về số, tức đếm
hơi thở, theo một con số với giới hạn nào đó. Như vậy, cho đến khi hơi
thở dài và tế nhị. Cuối cùng là tâm và cảnh hợp nhất; tâm được
tập trung trên một điểm duy nhất của đối tượng, không còn tán
loạn (dhàranïa).
5. Chế cảnh (pratyàhàra), chế ngự các cảm quan và
tách chúng ra khỏi những đối tượng ngoại giới, không buông thả
chúng theo bản chất của citta vốn luôn luôn hướng đến các đối
tượng. Sự chế cảm là hướng chúng đến mục tiêu nội tại.
Năm phần Du Già trên là những bộ môn tu tập về tâm,
thuộc ngoại phần tu tập (bahir-anïga sàdhana), cũng gọi là hữu
đức Du Già (sagunïa-Yoga), tác pháp Du Già (kriyà-Yoga), nỗ lực
Du Già (hatïha-Yoga). Ba chi còn lại thuộc nội phần tu tập
(antaranïga-Sùdhana).
6. Chấp trì (dhàranïà), sau khi đã chế ngự được các
cảm quan, tâm không còn tán loạn theo ngoại giới, bấy giờ chuyên
chú trên một đối tượng của tu tập, như chóp mũi, giao điểm hai
chân mày, hoa sen của trái tim, đan điền, hay hình ảnh của thần
linh. Tâm phải an trụ vững vàng không dao động, như ngọn lửa
không lung lay của một ngọn đèn.
7. Đẳng trì (samàdhi: tam ma địa, tam muội), trạng
thái hoàn toàn tập trung tư tưởng. Đây là giai đoạn cuối cùng của
Yoga. Trong giai đoạn tĩnh lự (dhyàna), vẫn còn có sự phân biệt
giữa năng và sở, nhưng đến đây sự phân biệt ấy biến mất, tâm hoàn
toàn thể nhập làm một với đối tượng (arthamàtra-nibhàsa).
Tất cả 7 chi trước đều có mục đích đưa đến sự thành
tựu của đẳng trì (samàdhi). Vàcaspati, khi chú giải Sùtra III.1,
phân loại tính chất và nhiệm vụ của chúng, và nói rằng: Samàdhi
và phương tiện thành tựu của nó đã diễn tả nơi chương I (samàdhi)
và chương II (sàdhanà). Chương III (Vibhùti) diễn tả các thành
tựu tiếp theo trong sự phát khởi của chúng và đó là những phương
tiện làm khơi dậy tín tâm. Các thành tựu này được thành tựu bởi
samïyama (tổng chế). Samïyama gồm chấp trì (dhàranïà), tĩnh lự
(dhyàna) và đẳng trì (samàdhi), ba bộ phận này sâu xa hơn 5 ngoại phần
tu tập. Chấp trì, tĩnh lự và đẳng trì liên hệ nhau như nhân quả
tiếp nối.
Samàdhi gồm có hai loại: hữu tâm tam muội
(samïprajnõàta-samàdhi) và vô tâm tam muội
(asamïprajnõàta-samàdhi). Hữu tâm tam muội do tâm niệm duyên vào
đối tượng mà tu tập. Vyàsa nói rằng những tam muội thuộc loại này “có
một cái gì để duyên” (àlambana: sở duyên). Vô tâm tam muội là trạng
thái hủy diệt mọi tác dụng của tâm, gồm có 2:
a. Hữu tầm tam muội (savitarka-samàdhi), duyên với
những đối tượng thô phù như 5 đại (bhùtas), 5 tác căn
(karmendriyas).
b. Hữu tứ tam muội (savicàra-samàdhi), duyên với
những đối tượng tế nhị như 5 duy (tanmàtras), 5 trì căn
(jnõànendriyas).
Tầm (vitarka) và tứ (vicàra) là hai trạng thái một
thô và một tế trong những tác dụng của tâm. Tầm là săn đuổi, tìm
bắt đối tượng, và chỉ mới bắt gặp như con bướm tìm thấy một đóa
hoa, và tứ là bắt đầu đứng yên trên đối tượng như con bướm sau
khi đã tìm thấy đóa hoa thì bắt đầu đáp xuống. Theo giải thích
của Vyàsa, cả hai đều là hai nỗ lực thô và tế của tâm, để tìm bắt
đối tượng.
c. Hỉ lạc tam muội (ànanda-samàdhi), tâm nỗ lực
chuyên chú trên đối tượng cho đến khi đối tượng trở thành vi tế,
xuất hiện với ba gunïa của nó; tâm niệm tương ứng với hỉ chất hay
sattva, nhưng vẫn còn hiện diện của ưu chất hay rajas và ám chất
hay tamas. Vì tương ứng với hỉ chất của đối tượng, cho nên trạng
thái hỉ lạc khởi lên.
d. Tồn ngã tam muội (sàsmità-samàdhi), bấy giờ ưu
chất và ám chất bị loại trừ, chỉ còn thuần túy hỉ chất, và tâm
niệm cảm giác vô cùng hoan lạc kia cũng chấm dứt, chỉ còn một tâm
niệm duy nhất là cảm giác về sự hiện hữu của mình: tôi là hay
tôi đang hiện hữu (asmi).
Vô tâm tam muội (asamï prajnõàta-samàdhi) vượt lên
mọi tác dụng của tâm tưởng. Nó là trạng thái siêu thức. Trong các
giai đoạn của hữu tâm, sự diễn tiến như một ngọn lửa đốt cháy
củi lần hồi khi kết hợp làm một với củi; cũng vậy, ở đây các hành
nghiệp (samïskara) được huân tập trong quá khứ, do đó tâm vẫn
còn tác dụng. Khi củi đã hết, lửa cũng tắt; cũng vậy, khi các
hành nghiệp quá khứ đã bị tiêu diệt, tác dụng của tâm cũng chấm
dứt; đó là trạng thái của vô tâm tam muội. Hữu tâm và vô tâm như thế
cũng được gọi là hữu chủng (sabìja) và vô chủng tam muội
(nirbìja-samàdhi). Nói là hữu chủng, có hạt giống, bởi vì bốn
trạng thái của samàpatti đều có mầm giống (bìja) trong các đối
tượng ngoại tại.
Samàpatti hay đẳng chí được mô tả là khi tâm trong
suốt như pha lê, hình ảnh của đối tượng hiện lên và phản chiếu
trong đó toàn vẹn và trung thực. Có 4 đẳng chí: 1 và 2. hữu tầm
và hữu tứ, như ở hữu tâm tam muội. 3. Vô tầm đẳng chí
(nirvatarka) là trạng thái trong đó tâm tỏa sáng như chỉ có đối
tượng duy nhất (arthamàtra-nibhàsa: phát quang duy cảnh), tách khỏi
những ức niệm. Trường hợp này, Vyàsa thí dụ như một người nhìn thấy
một con bò mà các ức niệm quá khứ vẫn còn chi phối ý niệm thì
không thể nhận định nó một cách minh bạch, chính xác; cũng vậy,
khi bản chất của đối tượng phản ảnh nơi tâm, nếu bản chất tác
dụng của tâm biến mất, thì đối tượng đó sẽ xuất hiện như chính là
tâm ở trong tâm, hay ngược lại, hình ảnh của tâm bấy giờ là toàn
thể hình ảnh trung thực của đối tượng. Trạng thái này được mô tả
để chỉ cho giai đoạn tu tập của đẳng trì (samàdhi). 4. Sau hết,
vô tứ đẳng chí (nirvicàra-samàpatti), trạng thái trở về nguyên ủy
của tự tánh; bởi vì bản chất của tâm chính là tự tánh (prakrïti), do
đó, không có sự sai biệt giữa tâm và cảnh.
Ngoài ra, Yoga-sùtra cũng dự liệu 14 trường hợp gây
trở ngại cho việc tu tập (Sùtra I.30-31): bệnh (vyàdhi), trì độn
(styàna), nghi hoặc (samùsùaya), buông lung (pramàda), biếng
nhác (àlasya), say đắm (avirati), thấy sai (bhrànti-darsùana),
không chủ đích (alabdhabhùmikatva), không xác lập
(anavasthitatva), thống khổ (duhïkha), loạn động (daurmanasya), lo sợ
(anïgamejavatva), thở ra và hít vào không trúng cách
(prasùvàsùa-sùvàsa).
Về phương diện tích cực, Sùtra I.20 cũng đề nghị 5
yếu tố hỗ trợ cho sự tu tập: tín (sùradhà), tấn (vìrya), niệm
(smrïti), định (samàdhi) và huệ (prajnõà). Vyàsa giải thích: tín,
như một người mẹ hỗ trợ cho hành giả giữ vững mục tiêu và theo
đuổi mục tiêu của mình. Niềm tin này sẽ thúc đẩy hành giả không
ngừng tiến tới, tấn. Khi hành giả tinh tiến không ngừng, sự
chuyên niệm sẽ hỗ trợ để không bao giờ xao lãng mục tiêu. Nhờ chuyên
niệm mà tâm không bị dao động và đi đến chánh định. Do định, tư
duy quyết trạch phát khởi, và nhờ đó phát huệ.
Các
đề nghị này của Patanõjali hình như chịu ảnh hưởng của Phật giáo,
vì chúng là 5 căn và 5 lực trong 37 phẩm trợ đạo (bhodyanïga).
V. THÀNH TỰU VÀ GIẢI THOÁT
Chương III của Yoga-sùtra, gồm 54 sùtras, nói về những thành tựu của
tu tập hay thần thông: vibhùti. Ở Sùtra I.1, chú giải của
Vàcaspati nói rằng những vibhùtis được thành tựu bằng nguyên lý
tổng chế, hay samïyama. Sùtra II.9-15 trình bày sự diễn tiến của
samïyama qua thứ tự chứng đắc ba giai đoạn cuối của bát phần Du
Già.
Samïyama, nguyên nghĩa là “kỷ luật nội tại” được kể chung cho ba giai
đoạn cuối, vì các bộ phận Yoga này không còn lấy ngoại giới làm
đối tượng nữa. Vyàsa, chú giải Sùtra III.6, nói rằng: khi một tâm
địa (citta-bhùmi) được chinh phục bởi samïyama, nó được áp dụng
ngay cho giai đoạn tiếp theo sau. Nếu chưa chinh phục được tâm
địa thấp không thể nhảy ngay lên một tâm địa cao hơn. Theo giải
thích này, samïyama hay nguyên lý tổng chế là kỷ luật nội tại mà
sự tiến bộ trong lúc tu tập tùy theo mức độ kiên cố của nó và khả
năng chinh phục một tâm địa thấp để nhảy lên một tâm địa cao hơn. Ở
đây, chúng ta cũng nên biết là có 5 cấp bực, hay trình độ của tâm,
hay tâm địa (citta-bhùmi): ksïipta, tán loạn; mùdha, hay quên;
viksïipta, vừa tán vừa định, nghĩa là chỉ có thể chú tâm trong
khoảng thời gian ngắn; ekàgra, nhất tâm; và nirudha, tĩnh chỉ.
Các tu tập đều có mục đích là hướng đến hai tâm địa sau cùng này.
Do khả năng đạt được bằng nguyên lý tổng chế, khi
chinh phục được một tâm địa, thì mở ra một tâm địa khác, cao hơn,
và tâm địa cũng sẽ bị chinh phục do khả năng đạt được bằng tổng
chế. Sự diễn biến này có ba giai đoạn, coi như là ba giai đoạn
khai triển (parinïàma) của tâm.
Trước hết, nơi giai đoạn tu tập chấp trì
(dhàranïà), tác dụng của tâm bây giờ diễn ra theo hai chiều
hướng: chiều hướng động, khuynh hướng đi ra ngoài (vyuthàna) bị
chế ngự, khuất phục bằng tổng chế (samïyama) và khuynh hướng tĩnh
chỉ (niroddha) xuất hiện. Giai đoạn này được gọi là khai triển
tĩnh chỉ (niroddha-parinïàma).
Giai đoạn thứ hai là khai triển đẳng trì
(samàdhi-parinïàma). Sau khi đã khai triển được khuynh hướng tĩnh
chỉ, thành tựu dhàranà tức thì tiến lên dhyàna. Trong dhyàna,
tâm cũng có hai phương diện, một tán (sarvàthatà) và một định
(ekàgratà). Bằng tổng chế, khuất phục sarvàthatà và khai triển
ekàgratà.
Sau cùng là khai triển tâm nhất cảnh
(ekàgratà-parinïàma). Ở đây, cũng đối với hai phương diện của tâm
mà tổng chế là điều hòa sự quân bình của chúng: phương diện tịch
tĩnh (sùànta) và phương diện hoạt động (udita).
Từ giai đoạn này bước sang một giai đoạn khác, mỗi
nơi đều xảy ra sự biến đổi và phát huy năng lực cao hơn về tính
chất (dharma), đặc tướng (laksïanïa) và trạng thái (avasthà) của
nhục thể (bhùta) và quan năng (indriya).
Về những biến đổi này, nói một cách đơn giản, khi
tác dụng của tâm càng vi tế, thì đối tượng càng xuất hiện tế nhị;
cho đến khi tâm cảnh hiệp nhất, và sự biến đổi càng lúc càng tế
nhị của tâm làm thay đổi cơ cấu vật lý và sinh lý. Các năng lực
được phát huy và cuối cùng hành giả đạt được thần thông bất tư
nghị. Mức độ của thần thông tùy mức độ của tổng chế đối với đối
tượng mà nó phải chế ngự. Thí dụ, Sùtra III.16 nói: bằng sự tổng chế
trên ba khai triển mà đạt được tri thức về quá khứ, hiện tại và vị
lai. Hoặc Sùtra III.17: ngôn từ, đối tượng và ý niệm xuất hiện
như là một, bởi vì mỗi cái một liên hệ nhau; bằng sự tổng chế về
sai biệt này mà đạt được thắng trí hay thần thông nghe đủ âm
thanh của các loại hữu tình. Hoặc Sùtra III.25: bằng tổng chế đối
với mặt trời, thắng trí về các phương hướng v.v... Cứ như vậy,
bằng tổng chế trên một đối tượng, sẽ đạt được thắng trí hay thần
thông tương ứng.
Cũng bằng tổng chế ấy, khi phân biệt rõ sự khu biệt
giữa tự tánh và thần ngã, bấy giờ hành giả sẽ đạt được nhất
thiết trí, và cuối cùng đạt đến trạng thái độc tồn (kaivalya) hay
giải thoát. Tuy nhiên, đối với các năng lực thần thông đạt được
bằng sự tổng chế về một đối tượng đó, Yoga-sùtra cảnh giác rằng
chúng có thể là những trở ngại cho samàdhi, mà mục tiêu cuối cùng
phải là kaivalya.
Chương IV, gồm 34 sùtras, nói về kaivalya hay độc
tồn, hay giải thoát. Khái niệm về giải thoát cũng được đề cập rải
rác trong các chương trước. Thí dụ, Sùtra 19, chương I, trình
bày hai trường hợp giải thoát đạt được sau khi thành tựu vô tâm
tam muội (asamprajnõà-samàdhi). Trường hợp thứ nhất là vô thân
(videha) mà hành giả đạt được, hưởng thụ khoái lạc không có thân
thể. Trường hợp thứ hai, xúc tánh (prakrïtilaya) khi tâm (citta)
thu hồi về nguyên ủy prakrïti.
Sùtra 27, chương II, trình bày bảy giai đoạn mà
phân biệt trí trải qua để đạt được hai loại giải thoát là thân
giải thoát (kàya-vimukti) và tâm giải thoát (citta-vimukti).
Trong diễn tiến của thân giải thoát, phân biệt trí lướt qua bốn
bậc: (1) biết rằng sự khổ đã bị trừ, không còn gì cần phải biết
thêm nữa; (2) biết rằng căn nguyên dẫn đến sự khổ đã bị hủy diệt,
luân hồi đãi bị bứng trốc gốc rễ; (3) sự đoạn trừ được kinh nghiệm trực
tiếp như một sự kiện hiển nhiên; (4) thấu triệt phương tiện của
tri thức do phân biệt tự tánh và thần ngã.
Bốn trí (prajnõà) trên thành tựu do phân tích hiện
tượng ngoại giới. Chúng được trình bày như có nhiều liên hệ với
Tứ diệu đế của Phật giáo, và như vậy cũng cho thấy tương quan ảnh
hưởng như thế nào giữa Phật giáo và Yoga. Ta nên nhớ là Yoga chỉ
được hệ thống hóa sau Phật.
Ba trí còn lại diễn tiến trong tâm giải thoát là:
5. trực nhận hai mục tiêu của buddhi, hoặc hưởng thụ (bhoga) hoặc
giải thoát (apavarga); 6. ba gunïa có khuynh hướng trở lại
nguyên ủy prakrïti của chúng như những tảng đá nặng từ đỉnh cao
phải rơi xuống đất; 7. bấy giờ, purusïa độc lập, vì buddhi bị thu
nhiếp vào ba gunïa và các gunïa đã trở về với prakrïti.
Sau
khi đạt đến trí (prajnõà) thứ bảy, purusïa độc lập trong trạng
thái của một samàdhi được mô tả như là đám mây giữa hư không vì
purusïa không còn ham muốn, các hạt giống ngã chấp, ngã kiến,
v.v... đã hoàn toàn bị hủy diệt. Đây là trạng thái samàdhi mà
Sùtra IV.29 mệnh danh là pháp vân tam muội
(dharma-megha-samàdhi). Từ đó, hành giả diệt trừ tất cả nghiệp và
phiền não, giải thoát ngay trong đời hiện tại: hữu thân giải thoát
(jìvan-mukta).
Chú
thích:
1
II.3.11: tàm yogam iti manyante sthiràm indriya-dhàranïàm...
2
VI.25: evamï prànïam athamïkàram yasmàt sarvam anekadhà… ekatvam
pràpnïa-manasar indriyànïàmï tathaiva ca sarva-bhàva-parityàgo yoga
ity abhidhìyate.
3
II.8.13.
4
VI.18-19... sïadïànïgà ity ucyate yogahï, sáu bộ phận này được gọi
là yoga.